Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ tác ĐỘNG của đầu tư TRỰC TIẾP nước NGOÀI đến bảo đảm AN NINH QUỐC GIA ở THÀNH PHỐ hải PHÒNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.6 KB, 85 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA
ĐẦU TƯ

3

TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN ĐẢM

BẢO AN NINH QUỐC GIA
1.1. Những vấn đề chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và đảm
bảo an ninh quốc gia
1.2. Quan niệm, nội dung tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến đảm bảo an ninh Quốc gia
Chương 2 THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC

11
11
26

TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN ĐẢM BẢO AN NINH
2.1
2.2.
2.3.
Chương 3

QUỐC GIA
Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngồi ở Hải phịng
Đánh giá tác động tích cực và tiêu cực của FDI đến đảm
bảo an ninh quốc gia ở Hải Phòng


Nguyên nhân của những tác động tiêu cực và những vấn đề
đặt ra cần quan tâm giải quyết
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

39
39
50
56

NHẰM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC, HẠN
CHẾ TIÊU CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI ĐẾN ĐẢM BẢO AN NINH QUỐC GIA Ở
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Những quan điểm cơ bản
3.2. Một số giải pháp chủ yếu phát huy những tác động tích
cực, hạn chế tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến đảm bảo an ninh quốc gia ở Thành phố Hải
phòng trong thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

61
61

68
80
82


MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Đầu tư quốc tế nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngồi( FDI) nói riêng
là xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia trong quá trình phát triển. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài làm xuất hiện một thực thể kinh tế mới trong nền kinh tế, là
một bộ phận hữu cơ của mỗi quốc gia. Trên thực tế khu vực có vồn đầu tư
nước ngồi ln có những lợi thế về tiềm năng vốn lớn, công nghệ tiên tiến,
hiện đại, kinh nghiệm và trình độ quản lý, quản trị tiên tiến…Khu vực này
ln có điều kiện để trở thành “ đầu tàu”trong phát triển và thúc đẩy sự phát
triển các vùng, các địa phương khác trong nước tiếp nhận; đồng thời thúc đẩy
sự hội nhập của các vùng trong nước và tăng cường quan hệ kinh tế của quốc
gia với các nước trong khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, khi xuất hiện khu vực có vốn đầu tư nước ngồi, hàng loạt
quan hệ mới xuất hiện và do đó có nhiều vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh đòi
hỏi phải giải quyết. Để FDI thực sự đóng vai trị khơng thể thiếu trong q
trình Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa (XHCN) thì vấn đề đảm bảo an ninh quốc gia trong lĩnh vực

đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đặt ra nhiều thách thức. Đầu tư trực tiếp
nước ngồi ln có tính hai mặt, tích cực và tiêu cực. Một trong những
tiêu cực là việc các thế lực thù địch lợi dụng lĩnh vực này để thực hiện các
hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia (ANQG) như cài cắm gián điệp,
thu thập tin tức tình báo, lấy cắp bí mật nhà nước; tổ chức các hoạt động
chống, phá chính quyền nhân dân; tuyên truyền phá hoại tư tưởng; phá
hoại các chính sách kinh tế quan trọng của Đảng và Nhà nước, xâm
phạm lợi ích, chủ quyền quốc gia, dân tộc, dùng kinh tế để chuyển hố
chính trị với âm mưu xố bỏ chế độ Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hải Phòng là một trong những địa phương trong cả nước thu hút đầu tư

3



trực tiếp nước ngồi có hiệu quả. Tính đến tháng 6/2015 trên địa bàn Thành

phố Hải phịng có 425 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký
là 10.293,45 triệu USD
Thời gian tới, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi của Thành phố Hải
Phịng sẽ có bước phát triển mới. Âm mưu của các thế lực thù địch khơng
thay đổi. Vì vậy, cơng tác đảm bảo an ninh lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước
ngoài sẽ có những diễn biến phức tạp khó lường. Tình hình đó đặt ra cho
Thành ủy, UBND, Cơng an thành phố Hải Phịng và các cơ quan chức năng
phải có những giải pháp đồng bộ, có tính chiến lược hơn để nâng cao hiệu quả
cơng tác phịng ngừa và đấu tranh cũng như phát huy tác động tích cực hạn
chế tác động tiêu cực của FDI đến đảm bảo an ninh quốc gia trên địa bàn
Thành phố.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy việc nghiên cứu đề tài “Tác động
của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến đảm bảo an ninh quốc gia ở thành phố
Hải Phòng hiện nay” là rất cần thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
FDI và tác động của nó đến an ninh quốc gia hiện nay là một vấn đề lớn và
phức tạp, đã có rất nhiều cơng trình khoa học, nhiều bài báo đề cập đến vấn đề này,
trong đó liên quan trực tiếp đến đề tài có các cơng trình đáng chú ý sau:
Đầu tư trực tiếp nước ngồi với cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Việt Nam của tiến sĩ Nguyễn Trọng Xuân, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà
Nội 2002. Cơng trình đã tập trung làm rõ bản chất của FDI, thực trạng thu hút sử
dụng FDI ở Việt Nam và vai trò của FDI đối với sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt
Nam. Trong đó, tác giả khẳng định vai trò to lớn của FDI trong việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu CNH,HĐH ở nước ta. Trên cơ sở
đó, tác giả đưa ra một số quan điểm và giải pháp về thu hút FDI nhằm phục vụ
cho công cuộc CNH, HĐH ở nước ta trong thời gian tới.

Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi trong nền kinh tế thị trường
4


định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam do PGS.TSKH Nguyễn Bích Đạt chủ
biên. Cơng trình này đã phân tích rõ bản chất, vai trị của khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi, các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động của khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài, kinh nghiệm của một số nước trong thu hút, sử dụng đầu
tư nước ngoài. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu, hạn chế, tác động của khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi đối với nền kinh tế nước ta, cơng trình đã
đưa ra những quan điểm cơ bản về sử dụng khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi và các định hướng, giải pháp đối với khu vực này trong những năm tới.
Các hình thức Đầu tư trực tiếp nước ngồi ở Việt Nam - Chính sách và
thực tiễn của PGS.TS. Phùng Xuân Nhạ chủ biên, xuất bản năm 2007. Cơng
trình được xây dựng trên cơ sở kết quả đề tài khoa học“Các hình thức Đầu tư
trực tiếp nước ngồi ở Việt Nam” của Đại học quốc gia Hà Nội. Nội dung cơ
bản của cuốn sách bao hàm cơ sở lý luận và thực tiễn của việc lựa chọn các
hình thức của FDI ở Việt Nam, các hình thức FDI theo Luật đầu tư ở Việt
Nam. Đồng thời, đánh giá thực trạng các hình thức FDI ở Việt Nam và các đề
xuất, khuyến nghị chính sách đối với từng hình thức FDI ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp của
Trần Xuân Tùng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
Cơng trình này đã phân tích được bản chất, xu thế vận động của đầu tư
trực tiếp nước ngồi cũng như vai trị của nó đối với q trình phát triển kinh
tế nước ta trong quá trình đổi mới, nêu được những thành tựu và hạn chế của
việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam; đồng thời đưa ra được
một số giải pháp cơ bản nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Báo cáo tổng hợp “Hỗ trợ nghiên cứu cơ chế chính sách thu hút vốn

FDI vào đầu tư bảo vệ mơi trường góp phần thay thế vốn ODA sau này” của
Vụ Khoa học - Giáo dục Tài nguyên và Môi trường - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
5


công bố năm 2011. Báo cáo nêu lên sự cần thiết thu hút vốn FDI vào đầu tư
bảo vệ môi trường góp phần thay thế vốn ODA, đồng thời đề xuất một số gợi
ý về cơ chế chính sách nhằm tăng cường thu hút vốn FDI vào đầu tư bảo vệ
mơi trường, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho lĩnh vực này trong bối
cảnh mới của dòng vốn ODA vào Việt Nam từ sau năm 2010.
Dưới dạng luận văn, luận án có các cơng trình:
Sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước với sự nghiệp phát triển kinh tế và
củng cố quốc phòng ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, của
tác giả Đặng Đức Quy, luận án Tiến sĩ quân sự, bảo vệ tại Học viện Chính trị
năm 2000. Cơng trình này đã phân tích những tác động của việc sử dụng các
hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước (trong đó đặc biệt là hình thức đầu tư
trực tiếp nước ngồi) đối với cơng cuộc phát triển kinh tế và củng cố quốc
phòng, cũng như những vấn đề nảy sinh cần khắc phục. Qua đó, đề xuất những
giải pháp phù hợp nhằm phát huy tác dụng của những hình thức này trong phát
triển kinh tế và củng cố quốc phòng ở nước ta.
Mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, tác giả Nguyễn
Thị Thoa, luận văn Thạc sĩ kinh tế Chính trị, bảo vệ tại trường Đại học Kinh tế
- Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2008. Luận văn đã trình bày những mặt trái
của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện nay đồng thời tác giả đã đưa
ra các giải pháp cơ bản khắc phục, nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài trong thời gian tới.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài và ảnh hưởng của nó với củng cố quốc
phịng ở Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào hiện nay của tác giả Vi Nít San
Say, luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị - 2002 / Học viện chính trị Bộ quốc
phịng. Luận văn đã nêu nên những ảnh hưởng của FDI đến quốc phòng ở

CHDCND Lào và đề xuất những quan điểm giải pháp phù hợp nhằm củng cố
quốc phòng ở CHDCND Lào trong thời gian tới.

6


Phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế ở Việt Nam của tác giả Phí Thị Lan Phương, luận văn thạc sĩ
kinh tế, bảo vệ tại trường Đại học Kinh tế quốc dân năm 2007. Cơng trình này
đã khái qt hóa một số vấn đề lý luận về thành phần kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi, phân tích tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển
kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi và thực trạng phát triển thành phần kinh tế
này trong thời gian qua ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất một số quan điểm,
giải pháp nhằm phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi ở nước ta trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thời gian tới.
Tác động của tồn cầu hóa đối với dịng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam của tác giả Đỗ Hoàng Long, luận án tiến sĩ kinh tế, bảo
vệ tại trường Đại học Kinh tế quốc dân năm 2008. Cơng trình đã khái qt
lịch sử, cơ sở lý luận hình thành hoạt động đầu tư nước ngồi trên quy mơ
tồn thế giới. Nêu rõ vai trị, ý nghĩa của đầu tư nước ngồi đối với q trình
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, đánh giá hiệu quả nguồn vốn FDI ở nước
ta trong những năm qua. Đồng thời, chỉ rõ xu hướng của sự phát triển về đầu
tư trên thế giới ảnh hưởng tới nước ta và đề xuất những giải pháp nhằm thu
hút FDI vào Việt Nam trong điều kiện tồn cầu hóa thời gian tới.
Kỷ yếu hội nghị 25 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, công bố tháng 3 năm 2013. Cơng trình tổng hợp bài
viết của các Bộ, Ngành, địa phương và các chuyên gia nước ngoài đánh giá
khái quát chặng đường 25 năm thu hút FDI ở Việt Nam. Cơng trình đã chỉ rõ
những thay đổi về cơ chế, chính sách nhằm thu hút FDI, những thành tựu, hạn
chế trong thu hút, sử dụng FDI ở nước ta nói chung và từng địa phương nói riêng

trong những năm qua. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp đẩy mạnh thu hút
và sử dụng có hiệu quả FDI ở nước ta trong thời gian tới.
Dưới dạng báo, tham luận khoa học có nhiều bài viết tiêu biểu như:

7


Phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi - Vấn đề đặt ra và một số
giải pháp của tác giả Trần Văn Lợi, đăng trên tạp chí Cộng sản số 14/2006 đã
phân tích ảnh hưởng tích cực của vốn đầu tư nước ngoài đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, thực hiện CNH, HĐH phát triển lực lượng sản xuất và những mặt
trái của nó như mất cân đối vốn đầu tư giữa các vùng, lãnh thổ, ngành kinh tế,
gây ô nhiễm môi trường và nguy cơ tiếp cận cơng nghệ lạc hậu, từ đó kiến
nghị một số giải pháp phát huy tác động tích cực, hạn chế tiêu cực trong q
trình phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta.
Tổng kết 20 năm Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam của tác giả Phan
Hữu Thắng, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 1/2008, đã khái quát kết quả thu hút
FDI ở Việt Nam trong 20 năm (1988 - 2008). Từ đó đánh giá tác động của đầu tư
nước ngoài trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, đồng thời nêu lên những
vấn đề có tính định hướng thu hút đầu tư nước ngoài ở nước ta trong thời gian tới.
Ngoài ra, có thể tìm thấy nhiều bài viết đăng tải những ý kiến, nhận
định của các chuyên gia, các lãnh đạo, những số liệu thực tế, những chính
sách về FDI trên những trang web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban
nhân dân, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Lao động và Thương binh Xã hội
thành phố Hải Phòng với những tiêu đề phong phú, đa dạng. Đây thực sự
là những tài liệu quan trọng cung cấp lượng thơng tin lớn, tính cập nhật
cao và ý tưởng mới cho tác giả trong q trình nghiên cứu.
Các cơng trình trên đây đã tiếp cận, nghiên cứu vấn đề dưới nhiều góc
độ khác nhau, cung cấp cho tác giả những nhận thức chung, toàn diện lý luận
về FDI cũng như những tác động của hoạt động này đến đảm bảo an ninh

quốc gia ở Việt Nam, nhiều tài liệu cần thiết được kế thừa trực tiếp trong quá
trình viết luận văn. Tuy nhiên, vấn đề tác động của FDI đến đảm bảo an ninh
quốc gia ở thành phố Hải Phòng hiện nay thì chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu tồn diện, hệ thống, nhất là trên góc độ một luận văn thạc sĩ kinh
tế chính trị.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
8


* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến đảm bảo an ninh quốc gia ở thành phố Hải Phịng, trên cơ sở đó đề
xuất quan điểm và giải pháp phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu
cực của FDI đến đảm bảo an ninh quốc gia trên địa bàn thành phố Hải Phòng
trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến
đảm bảo an ninh quốc gia ở thành phố Hải Phịng.
- Phân tích thực trạng tác động của FDI đến đảm bảo an ninh quốc gia
ở Hải Phòng.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế tác
động tiêu cực đến đảm bảo an ninh quốc gia trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến đảm bảo an ninh quốc gia
dưới góc nhìn của khoa học kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu FDI trên phương diện những tác động của nó
đến đảm bảo an ninh quốc gia.

- Về không gian: Thành phố Hải Phòng.
- Về thời gian: Từ tháng 11/2005 đến nay ( khi Quốc hội thông qua luật đầu tư)
5. Phương pháp luận và nghiên cứu đề tài
* Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
* Phương pháp nghiên cứu

9


Đề tài sử dụng tổng hợp hệ thống phương pháp nghiên cứu, bao gồm:
Hệ phương pháp nghiên cứu nền tảng là phương pháp duy vật biện
chứng và phương pháp duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị cùng các phương
pháp phân tích, thống kê, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa...
Phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến đảm bảo an ninh quốc gia ở
thành phố Hải phòng , cung cấp những luận cứ khoa học giúp cho việc xác
định chủ trương, biện pháp phù hợp đảm bảo an ninh quốc gia trong lĩnh vực
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
* Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy mơn kinh tế chính trị liên quan đến vấn đề đầu
tư trực tiếp nước ngoài và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài

liệu tham khảo.

10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN ĐẢM BẢO AN NINH QUỐC GIA

1.1. Những vấn đề chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và đảm bảo
an ninh quốc gia
1.1.1.Những vấn đề chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
* Quan niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tiếp cận vấn đề từ cấp độ khái quát nhất, có thể hiểu đầu tư trực tiếp
nước ngồi là hình thức đầu tư do cơng dân của một nước nào đó trực tiếp
đem vốn vào đầu tư kinh doanh ở một nước khác thơng qua các hình thức
khác nhau nhằm thu lợi nhuận bằng việc tận dụng các lợi thế sẵn có về nguồn
nguyên liệu, nhân công, thị trường tiêu thụ,… của nước nhận đầu tư, trong
khuôn khổ luật pháp nước sở tại và thông lệ quốc tế.
Về mặt lịch sử, đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất hiện khá sớm và đạt tới
mức phát triển rất lớn vào nửa đầu thế kỷ XX gắn với những điều kiện kinh tế
quốc tế đã chín muồi tạo cơ sở kinh tế cho loại hình này phát triển, nó phản
ánh các mối quan hệ kinh tế quốc tế khá phong phú. Chính vì vậy, hình thức
đầu tư này đã được các tổ chức quốc tế và thể chế kinh tế toàn cầu đề cập đến
như: Theo Ủy ban thương mại và phát triển của Liên hiệp quốc (UNCTAD):
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư bao gồm mối quan
hệ dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm sốt lâu dài của thực thể thường
trú ở một nền kinh tế(nhà đầu tư nước ngồi hoặc cơng ty mẹ nước ngồi)đối
với một doanh nghiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của
nhà đầu tư nước ngoài(doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, doanh

nghiệp liên doanh hoặc các chi nhánh nước ngoài )”[5, tr. 80].
Với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), đầu tư trực tiếp nước ngoài, được quan
niệm là:“Đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước
khác(nước nhận đầu tư - hosting country) không phải tại nước mà doanh
11


nghiệp hoạt động(nước đi đầu tư -source country )với mục đích quản lý có
hiệu quả doanh nghiệp ”[17, tr. 235]
Tại Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất hiện từ sau khi Đảng và
Nhà nước có chủ trương đổi mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế năm
1986. Quan niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện rõ ràng và đầy
đủ trong Luật đầu tư nước ngoài: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu
tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được
chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
hoặc thành lập liên doanh, hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài(Khoản
3, điều 2, Luật đầu tư 1987, khoản 1 điều 2 Luật đầu tư 1996).
Luật Đầu Tư năm 2005 của Việt Nam không đưa ra khái niệm “đầu tư
trực tiếp nước ngoài” mà chỉ đưa ra các khái niệm “đầu tư”, “đầu tư trực
tiếp”, “đầu tư nước ngoài”:
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vơ
hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của
Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. [28, tr.1]
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư. [28, tr.1]
Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn
bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư. [28, tr.2]
Từ các khái niệm này có thể hiểu: Đầu tư trực tiếp nước ngồi là một
hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư góp tồn bộ hay phần vốn đủ lớn
đầu tư cho một dự án ở nước khác, nhằm giành quyền kiểm sốt hoặc tham

gia kiểm sốt dự án đó.
Dưới góc độ tiếp cận của kinh tế học chính trị, đầu tư trực tiếp nước
ngồi khơng gì khác hơn là sự di chuyển vốn, tài sản (nguồn lực tài
chính),khoa học, công nghệ, cách thức quản lý từ nước đi đầu tư sang nước
tiếp nhận đầu tư nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc thành lập
12


hoặc kiểm soát doanh nghiệp tại nước nhận đầu tư. Việc khai thác các nguồn
lực đó được vận hành bởi các quy luật của kinh tế thị trường, chúng tác động
vào nền kinh tế ở nước nhận đầu tư trên cả hai chiều thuận và nghịch.
* Bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngồi
Dưới góc độ lý luận, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa đề cập đến vấn đề
đầu tư nước ngồi nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngồi nói riêng. Phải
đến thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, việc đầu tư
tư bản ra nước ngồi mới xuất hiện dưới hình thức xuất khẩu tư bản và trở
thành một trong những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
Nghiên cứu về hiện tượng kinh tế này, V.I.Lênin cho rằng xuất khẩu tư bản:
là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư
và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu. Thông qua xuất khẩu giá
trị, chủ nghĩa tư bản áp đặt những vấn đề chính trị xã hội, lơi cuốn nước nhập
khẩu vào guồng máy kinh tế, chính trị của mình. Thực chất của xuất khẩu tư
bản là xuất khẩu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài nhằm mục
đích bóc lột giá trị thặng dư ở nước nhập khẩu. Nguồn gốc sâu xa hay nguyên
nhân của hiện tượng kinh tế này là ở một số nước phát triển đã tích lũy được
một khối lượng tư bản kếch xù và một bộ phận đã trở thành “tư bản thừa”.
Hiện tượng tư bản thừa được Lênin luận giải là sự thừa tương đối, theo đó số tư
bản thừa được dùng không phải là để nâng cao mức sống của quần chúng trong
nước mà là để tăng thêm lợi nhuận bằng cách xuất khẩu tư bản ra nước ngoài,
vào những nước lạc hậu”[6, tr. 456 ]. Do vậy, ở các nước tư bản xuất hiện nhu

cầu tìm nơi đầu tư mới ở nước ngồi - nơi có tỷ suất lợi nhuận cao hơn.
Trong khi đó, tại nhiều nước khác, đặc biệt là các nước đang hoặc kém
phát triển, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, lại xuất hiện nhu cầu cao về vốn
công nghệ, kinh nghiệm quản lý… để khai thác và sử dụng các nguồn lực trong
nước và các tài nguyên của mình để phát triển. Sự gặp gỡ giữa hai loại nhu cầu
này đã làm xuất hiện hình thức vận động mới của các dịng vốn, trong đời sống
kinh tế quốc tế, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một dạng cụ thể.
13


Có thể coi vấn đề trình bày ở trên là nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện
xu hướng vận động ngày càng mạnh mẽ của đầu tư trực tiếp nước ngồi vào
nước khác. Từ hai ngun nhân đó, theo ngun tắc thị trường vốn từ nơi thừa
sẽ chảy sang nơi thiếu tạo thành dòng xuất khẩu tư bản diễn ra ngày càng mạnh
mẽ trên phạm vi toàn thế giới. Thực tiễn cho thấy, hình thức kinh tế này ln
chứa đựng trong lịng nó sự tác động hai chiều đối với cả nước đưa vốn ra nước
ngoài đầu tư, cũng như nước tiếp nhận dịng vốn đó.
* Các hình thức cơ bản của FDI
Có nhiều tiêu thức để xác định hình thức FDI, về cơ bản là:
Thứ nhất, theo “cách thức xâm nhập”, FDI được chia thành 2 hình thức:
Đầu tư mới (greenfield investment): Chủ đầu tư nước ngồi góp vốn để
xây dựng một cơ sở sản xuất, kinh doanh mới tại nước nhận đầu tư.
Sáp nhập và mua lại (merger & acquisition): đầu tư nước ngoài mua lại
hoặc sáp nhập một cơ sở sản xuất kinh doanh sẵn có ở nước nhận đầu tư.
Thứ hai, theo “quan hệ về ngành nghề, lĩnh vực giữa chủ đầu tư và đối
tượng tiếp nhận đầu tư”, FDI được chia thành 3 hình thức: FDI theo chiều
ngang, FDI theo chiều dọc và FDI hỗn hợp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang: là việc một công ty tiến
hành đầu tư trực tiếp nước ngồi, vào chính ngành sản xuất mà họ đang có lợi
thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế sẵn có họ muốn tìm

kiếm lợi nhuận cao hơn, nên muốn mở rộng và thơn tính thị trường nước
ngồi. Hình thức này phổ biến trong hoạt động FDI tại các nước phát triển và
thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc: Đây là hình thức khá phổ biến
của hoạt động FDI tại các nước đang phát triển. Các nhà đầu tư tập trung khai thác
các lợi thế cạnh tranh về nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào giá rẻ
như lao động, đất đai của nước nhận đầu tư để lắp ráp, hồn thiện sản phẩm của
mình, sau đó bán sản phẩm trên thị trường quốc tế thu lợi nhuận cao.
14


Đầu tư trực tiếp nước ngoài hỗn hợp: Là sự kếp hợp giữa FDI theo
chiều ngang và FDI theo chiều dọc.
Thứ ba, theo “định hướng của nước nhận đầu tư”, FDI được chia thành
ba hình thức:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thay thế nhập khẩu: Là hoạt động FDI
được tiến hành nhằm sản xuất và cung ứng cho thị trường nước nhận đầu tư
các sản phẩm mà trước đây nước này phải nhập khẩu. Các yếu tố ảnh hưởng
nhiều đến hình thức FDI này là dung lượng thị trường, các rào cản thương
mại của nước nhận đầu tư và chi phí vận chuyển.
Đầu tư trực tiếp nước ngồi tăng cường xuất khẩu: Thị trường mà hoạt
động đầu tư này nhắm tới không phải hoặc không chỉ dừng lại ở nước nhận
đầu tư mà là các thị trường rộng lớn hơn trên toàn thế giới. Các yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến dịng vốn FDI theo hình thức này là khả năng cung ứng
các yếu tố đầu vào với giá rẻ của các nước nhận đầu tư như nguyên, nhiên vật
liệu, bán thành phẩm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo các định hướng khác của Chính phủ:
Chính phủ nước nhận đầu tư có thể áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu
tư để điều chỉnh dòng vốn FDI theo đúng ý định của mình. Ví dụ tại Việt
Nam, Chính phủ có thể thực hiện các chính sách nhằm tăng cường thu hút

FDI vào lĩnh vực bảo vệ môi trường thay thế cho vốn ODA sau này.
Thứ tư, theo “hình thức pháp lý”, FDI thường có các hình thức sau:
Tùy theo qui định của luật pháp nước nhận đầu tư, FDI có thể được tiến
hành dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau như:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng BCC): là hình thức
đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi
nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân.
Doanh nghiệp liên doanh: là một công ty trách nhiệm hữu hạn được
thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh được ký kết giữa các bên đối tác.
15


Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Loại doanh nghiệp này thường trú
đóng trong khu chế xuất hoặc các cơng ty, xí nghiệp ở các khu cơng nghiệp, khu
cơng nghệ cao. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi có tư cách pháp nhân tại
nước sở tại, thời gian hoạt động thường kéo dài (có thể tới 50 - 70 năm).
Hợp tác liên danh: Doanh nghiệp nước sở tại và doanh nghiệp nước ngoài
hợp tác liên danh theo phương thức: Thời gian đầu khai thác sản phẩm và dịch vụ
dựa trên nhãn hiệu, thương hiệu của bên đã nổi tiếng trước. Sau một khoảng thời
gian nhất định, việc khai thác sản phẩm và dịch vụ sẽ tiếp tục với nhãn hiệu,
thương hiệu của đối tác bên kia. Các bên khơng góp vốn kinh doanh, không thành
lập pháp nhân mới, phân chia lợi nhuận theo thỏa thuận giữa các bên.
Ngồi ra, FDI cũng cịn được tiến hành bằng các hình thức: xây dựng kinh doanh - chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao - kinh doanh
(BTO), xây dựng - chuyển giao (BT). Ngày nay, cùng với sự gia tăng của
dòng vốn FDI, đã xuất hiện nhiều hình thức đầu tư mới, đa dạng nhằm đưa lại
hiệu quả cao cho nhà đầu tư và nước nhận đầu tư.
* Vai trò của FDI.
Trên thực tế, FDI được xem như một động lực quan trọng thúc đẩy sự
phát triển kinh tế của chủ đầu tư và bên nhận đầu tư.
Đối với chủ đầu tư

Từ những phân tích trên có thể hiểu, FDI là một trong những hình thức
“xuất khẩu tư bản”. Trong cuốn sách Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng
của chủ nghĩa tư bản V.I.Lênin chỉ rõ xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị
hay đưa “tư bản thừa” của các tổ chức độc quyền hay của nhà nước tư sản ra
nước ngoài nhằm mục đích bóc lột giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác ở
nước nhập khẩu tư bản. Đây là hiện tượng kinh tế tất yếu, khách quan, xuất
hiện khi q trình tích tụ và tập trung tư bản ở các nước phát triển đạt đến một
mức độ nhất định, dẫn đến việc đầu tư ở trong nước không mang lại nhiều lợi
nhuận như mong muốn của các nhà tư bản. Để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn,
16


các nhà tư bản ở các nước tiên tiến đã thực hiện xuất khẩu tư bản ra nước
ngồi, vì ở đó họ khai thác những lợi thế của nước chủ nhà về tài nguyên, lao
động, thị trường để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Hoạt động này góp
phần làm cho CNTB phát triển sâu và rộng trên phạm vi toàn thế giới.
Đối với các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài giúp thực hiện việc bành trướng, mở rộng thị phần trên phạm vi thế
giới. Đồng thời, giảm được chi phí khi đặt cơ sở sản xuất gần vùng nguyên
liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ và tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch
ngày càng chặt chẽ của các nước, từ đó tăng lợi nhuận tối đa. FDI cho phép
các chủ đầu tư có thể kiểm sốt và điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh
theo hướng có lợi nhất. Thông qua hoạt động này, các nhà đầu tư nước ngồi
có thể tham dự vào q trình giám sát việc thực thi chính sách mở cửa kinh tế
theo cam kết thương mại và đầu tư song phương, đa phương của nước nhận
đầu tư.
Đối với nước tiếp nhận đầu tư.
FDI có vai trò quan trọng trong tạo nguồn vốn đầu tư ban đầu, từ đó tạo
tác động lan tỏa, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đối với các
nước đang phát triển. Cụ thể:

Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài bổ sung vốn cho nền kinh tế. Đối
với mỗi quốc gia, muốn phát triển kinh tế cần đảm bảo bốn yếu tố cơ bản là
nguồn lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và công nghệ. Tuy nhiên trên
thực tế, đa số các nước đang phát triển đều thiếu vốn, khả năng tích luỹ vốn
hạn chế do trình độ lực lượng sản xuất thấp, năng suất lao động thấp. Hơn
nữa, phần nhiều trong khoản tích lũy đó phải dùng để đảm bảo điều kiện vật
chất tối thiểu cho số dân đang tăng lên. Để phát triển, các nước này phải có
“cú hch” từ bên ngồi nhằm phá vỡ “cái vịng luẩn quẩn”, tức là cần có đầu
tư vốn của nước ngoài để tạo động lực phát triển. Do đó, việc tiếp nhận FDI
sẽ nguồn bổ sung vốn đầu tư phát triển quan trọng.
17


Thứ hai, đầu tư trực tiếp nước ngoài cung cấp cơng nghệ mới cho sự
phát triển. FDI có vai trị đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển khoa
học - công nghệ, nâng cao năng suất lao động tại nước tiếp nhận đầu tư. Cùng
với việc thu hút, sử dụng FDI nước nhận đầu tư tiếp nhận được công nghệ
hiện đại và phương pháp quản lý tiên tiến của nước đầu tư, từ đó nội địa hóa
và phát triển cơng nghệ của mình. Một mặt, thơng qua FDI công nghệ hiện
đại được nước đầu tư trực tiếp đưa vào sử dụng trong nước nhận đầu tư.
Mặt khác, trong q trình sử dụng các cơng nghệ nước ngồi (nhất là ở
các doanh nghiệp liên doanh) các doanh nghiệp tại nước nhận đầu tư nắm
bắt được phương pháp sử dụng, thiết kế, chế tạo của công nghệ mới phù
hợp với điều kiện sử dụng của mình. Quá trình chuyển giao công nghệ thông
qua FDI đã làm cho “khoảng cách công nghệ” giữa nước đi đầu tư và nước
nhận đầu tư được thu hẹp lại.
Thứ ba, đầu tư trực tiếp nước ngồi giúp phát triển nguồn nhân lực. Để
tối đa hóa lợi nhuận, các nhà đầu tư nước ngoài thường đặc biệt quan tâm
đến việc tận dụng nguồn lao động giá rẻ ở nước nhận đầu tư. Do đó, sự có
mặt và hoạt động của các doanh nghiệp FDI đã tạo ra nhiều cơ hội việc

làm cho nguồn lao động dư thừa ở nước sở tại. FDI không chỉ tạo cơ hội
việc làm cho người lao động mà cịn góp phần nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Bởi lẽ, để người lao động có thể sử dụng thành thạo cơng nghệ tiên
tiến buộc các doanh nghiệp FDI phải đào tạo họ, nhờ vậy trình độ lao động ở
nước nhận đầu tư ngày càng được nâng lên. Việc đào tạo lao động không chỉ
dừng lại đối với người sản xuất trực tiếp mà cịn đào tạo cả kỹ năng, trình độ
cho các đối tượng lao động quản lý. Do đó, nước nhận đầu tư khơng chỉ nâng
cao được trình độ người lao động nói chung mà quan trọng hơn là cịn tiếp thu
được kinh nghiệm tổ chức và quản lý sản xuất. Mặt khác, để đáp ứng yêu cầu
của các doanh nghiệp FDI cơng nhân phải có trình độ chun mơn kỹ thuật
cao, buộc người lao động phải tự đào tạo để đáp ứng yêu cầu đó. Điều này
cũng góp phần nâng cao trình độ nguồn nhân lực tại các nước nhận đầu tư.
18


Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp mở rộng thị trường và thúc
đẩy xuất khẩu. Thông qua việc tiếp nhận FDI các nước đang phát triển có
thể tiếp cận, mở rộng thị trường xuất khẩu, vì hầu hết các hoạt động FDI
đều do các công ty xuyên quốc gia thực hiện. Với vị thế và uy tín sẵn có
trong hệ thống sản xuất và thương mại quốc tế, các cơng ty xun quốc gia
đóng vai trị quan trọng trong việc sản xuất hàng xuất khẩu và mở rộng thị
truờng cho nước nhận đầu tư. Ngược lại, đối với các công ty xuyên quốc
gia, hoạt động xuất khẩu đem lại nhiều lợi nhuận cho họ do sử dụng được
các yếu tố đầu vào rẻ và được hưởng nhiều ưu đãi từ nước chủ nhà.
Thứ năm, đầu tư trực tiếp nước ngồi thúc đẩy q trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại là đòi hỏi
khách quan của mỗi quốc gia trong xu hướng tồn cầu hóa kinh tế hiện
nay. FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước tiếp nhận đầu tư làm
cho cơ cấu ngành, vùng ở nước nhận đầu tư thay đổi theo hướng hiện đại
hơn. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế được thể hiện ở việc chuyển đổi năng suất

lao động từ thấp đến cao, đa dạng về mẫu mã và chủng loại sản phẩm, cơng
nghệ hiện đại và sử dụng ít lao động trực tiếp, tính chun sâu cao và dịch vụ
hồn hảo. Đồng thời, thay đổi cơ cấu các ngành, vùng bên trong của một lĩnh
vực sản xuất thông qua việc thay đổi cơng nghệ sản xuất. Ngược lại, chính
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với xu thế chung
của thế giới lại tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động FDI.
1.1.2. An ninh Quốc gia , đảm bảo an ninh Quốc gia.
*Quan niệm về an ninh quốc gia
An ninh là n ổn, khơng có rối loạn. Nói đến an ninh quốc gia là nói
đến sự yên ổn của một quốc gia, ở bên trong thì khơng có rối loạn, khơng bị
chia cắt, ở bên ngồi thì khơng bị các quốc gia khác quấy nhiễu, xâm phạm,
không bị lệ thuộc vào quốc gia khác và các tổ chức quốc tế. An ninh quốc gia
là một khái niệm mang tính chính trị - pháp lý, thể hiện bản chất chế độ xã hội
của một quốc gia.
19


An ninh quốc gia là sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã
hội; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quan
trọng khác của một quốc gia.
Ở nước ta, an ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế
độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất
khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
(Điều 3 Luật An ninh quốc gia được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 6 thơng qua ngày 03 tháng 12 năm
2004). An ninh quốc gia bao gồm an ninh trên các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế,
tư tưởng - văn hố, xã hội, quốc phịng, đối ngoại... trong đó an ninh chính trị
là cốt lõi, xun suốt.
* Quan niệm về đảm bảo an ninh quốc gia.
Đảm bảo an ninh quốc gia là đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển bền

vững của một chế độ xã hội, của nhà nước. Đảm bảo an ninh quốc gia được
thực hiện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm cả hoạt động đối nội
và đối ngoại.
Những hành vi xâm phạm đến chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, an ninh, quốc phịng , đối ngoại, độc lập, chủ quyền, thống nhất , toàn
vẹn lãnh thổ của một quốc gia, dân tộc hay nhà nước đều là những hành vi vi
phạm đến an ninh quốc gia của dân tộc hay quốc gia, nhà nước.
Hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia là những hành vi xâm phạm chế
độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, an ninh, quốc phịng, đối ngoại, độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia là những đối tượng, địa điểm,
cơng trình, cơ sở về chính trị, an ninh, quốc phịng, kinh tế, khoa học - kĩ
thuật, văn hố, xã hội thuộc danh mục cần được bảo vệ theo quy định của
pháp luật.
20


Chủ thể đảm bảo an ninh quốc gia: Là toàn bộ hệ thống chính trị, các
cơ quan, tổ chức và toàn dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của
Nhà nước, nhân dân làm chủ, cơng an là lực lượng nòng cốt.
Nội dung đảm bảo an ninh quốc gia:
Đảm bảo an ninh chính trị nội bộ. Đó là các hoạt động đảm bảo chế độ
chính trị và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ Đảng
Cộng sản Việt Nam ; giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt của tổ
chức Đảng, Nhà nước ; bảo vệ các cơ quan đại diện, cán bộ, lưu học sinh và
người lao động Việt Nam đang công tác, học tập và lao động ở nước ngồi.
Phịng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và
hành động chống phá hệ thống chính trị, gây chia rẽ mất đồn kết, làm tha hoá
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảm bảo an ninh chính trị nội bộ ln là nhiệm vụ

trọng yếu hàng đầu, thường xuyên và cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, của
các ngành, các cấp.
Đảm bảo an ninh kinh tế. Đó là bảo vệ sự ổn định, phát triển vững
mạnh của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chống các biểu hiện chệch hướng và các hoạt động phá hoại cơ sở vật
chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, phá hoại nền kinh tế, gây ảnh hưởng tác
hại đến lợi ích của quốc gia. Bảo vệ đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế, các nhà
khoa học, các nhà kinh doanh giỏi khơng để nước ngồi lơi kéo mua chuộc
gây tổn thất hoặc làm chuyển hướng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đảm bảo an ninh văn hoá, tư tưởng. An ninh văn hoá, tư tưởng là sự ổn
định và phát triển bền vững của văn hoá, tư tưởng trên nền tảng của chủ nghĩa
Mác - lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảm bảo an ninh văn hố, tư tưởng là
bảo vệ sự đúng đắn, vai trị chủ đạo của chủ nghĩa Mác - lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong đời sống tinh thần của xã hội ; bảo vệ những giá trị đạo đức
truyền thống, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc ; bảo vệ đội ngũ văn nghệ sĩ,
những người làm công tác văn hố, văn nghệ. Đấu tranh chống lại sự cơng
21


kích, bơi nhọ, nói xấu của các thế lực thù địch đối với chủ nghĩa Mác - lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngăn chặn các hoạt động truyền bá văn hố phẩm
phản động, đồi trụy, thiếu lành mạnh, khơng phù hợp với thuần phong mĩ tục
của dân tộc Việt Nam.
Đảm bảo an ninh dân tộc. Đó là đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân
tộc, đảm bảo cho tất cả các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam cùng phát triển theo đúng Hiến pháp, pháp luật của nhà nước ; ngăn
ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng dân tộc ít người để làm
việc trái pháp luật, kích động gây chia rẽ giữa các dân tộc, xâm hại đến an
ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội.
Đảm bảo an ninh tơn giáo. Đảm bảo an ninh tôn giáo là đảm bảo chính

sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân nhưng đồng thời
cũng kiên quyết đấu tranh với các đối tượng, thế lực lợi dụng vấn đề tơn giáo để
chống phá cách mạng. Thực hiện đồn kết, bình đẳng giúp đỡ nhau cùng phát
triển giữa các tôn giáo, giữa cộng đồng dân cư theo tôn giáo với những người
không theo tôn giáo, đảm bảo tốt đời đẹp đạo, phụng sự Tổ quốc.
Đảm bảo an ninh biên giới. Biên giới quốc gia là hàng rào pháp lí ngăn
cách chủ quyền quốc gia và không gian hợp tác phát triển với các nước mà
trước hết là với các nước láng giềng. Vấn đề bảo vệ vững chắc chủ quyền
biên giới quốc gia đang được Đảng, Nhà nước đặt ra như là một nhiệm vụ
chiến lược cực kì quan trọng. Đảm bảo an ninh biên giới là đảm bảo nền an
ninh, trật tự của Tổ quốc ở khu vực Biên giới quốc gia, cả trên đất liền và trên
biển, chống các hành vi xâm phạm chủ quyền biên giới từ phía nước ngồi,
góp phần xây dựng đường biên giới hồ bình, hữu nghị với các nước láng
giềng theo tinh thần “giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là vùng
biển, đảo”. Chống các thế lực thù địch lợi dụng việc xuất, nhập cảnh, quá
cảnh Việt Nam để tiến hành các hoạt động chống phá Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
22


Đảm bảo an ninh thông tin. An ninh thông tin là sự an tồn, nhanh
chóng, chính xác và bí mật của thơng tin trong q trình xác lập, chuyển tải,
thu nhận, xử lí và lưu giữ tin. Đảm bảo an ninh thông tin là một bộ phận quan
trọng của công tác đảm bảo an ninh quốc gia nhằm chủ động phịng ngừa,
phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động của các thế lực thù
địch, bọn tội phạm khác nhằm khai thác, sử dụng hệ thống thông tin liên lạc
hoặc tiến hành các hoạt động phá huỷ cơng trình, phương tiện thơng tin liên
lạc gây thiệt hại cho an ninh quốc gia của nước ta ; chống lộ lọt những thơng
tin bí mật của nhà nước ; ngăn chặn các hoạt động khai thác thông tin trái
phép, dị tìm mật mã, mật khẩu để đánh cắp thơng tin trên mạng...

Tóm lại : Tình hình về ANQG trong những năm qua nổi lên những vấn
đề khá phức tạp và nhạy cảm. Đó chính là những yếu tố có thể gây ra tình
hình mất ổn định, ảnh hưởng đến sự an nguy của quốc gia, vì vậy Đảng và
Nhà nước ta đã xác định đảm bảo ANQG là nhiệm vụ cực kì quan trọng của
tồn Đảng, tồn dân ta.
Phương thức đảm bảo an ninh quốc gia.
Huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sức
mạnh của toàn dân, nhân dân làm chủ, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lí của Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc gia trong đó
lực lượng Cơng an nhân dân đóng vai trị nịng cốt, xung kích, tiếp tục xây
dựng lực lượng Cơng an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại,
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc với Đảng và gắn bó mật thiệt với nhân dân,
đấu tranh ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù
địch, ngăn chặn các loại tội phạm.
Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt là nhân tố quyết định
thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, trong đó có cơng tác đảm bảo an ninh quốc gia. Chỉ có Đảng
23


lãnh đạo mới có thể huy động được sức mạnh tổng hợp của tồn bộ hệ thống
chính trị, của tồn xã hội, bảo đảm thắng lợi trọn vẹn và triệt để trong cuộc
đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia. Đảng lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi
mặt thể hiện : Đảng đề ra đường lối chính sách và phương pháp đấu tranh bảo
vệ an ninh quốc gia một cách đúng đắn, đồng thời lãnh đạo chặt chẽ bộ máy
Nhà nước và các đoàn thể quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối chính
sách đó.
Đảm bảo an ninh quốc gia là sự nghiệp của nhân dân, là nghĩa vụ đồng
thời cũng là lợi ích thiết thân của nhân dân. An ninh quốc gia có được đảm

bảo tốt hay khơng thì vấn đề rất quan trọng là do sự giác ngộ của nhân dân về
quyền làm chủ của mình trên lĩnh vực đó. Phát huy quyền làm chủ của nhân
dân thực chất đó là cuộc vận động phong trào cách mạng của quần chúng
nhằm xây dựng trật tự an ninh, trật tự nhân dân từ cơ sở. Nhân dân có điều
kiện và khả năng để thực hiện quyền làm chủ đó.
Nội dung phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động thể hiện :
Quán triệt sâu sắc và tự giác chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chế độ thể lệ nội quy về bảo vệ
an ninh trật tự. Đấu tranh kiên quyết với các thế lực thù địch, bọn phản cách
mạng và bọn phạm tội khác, với mọi hành vi vi phạm pháp luật và những hiện
tượng tiêu cực trong đời sống xã hội ; kiên quyết giữ vững an ninh trật tự ở
mọi nơi mọi lúc. Tự giác tham gia các tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh
quốc gia, tích cực giúp đỡ các cơ quan chuyên trách nhất là lực lượng Công
an nhân dân, các lực lượng bảo vệ ở địa phương hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tự
giác tổ chức, tham gia xây dựng và quản lí cuộc sống mới văn minh trật tự,
yên vui lành mạnh ở địa phương, đơn vị công tác, sản xuất, chiến đấu.
Tăng cường hiệu lực quản lí của Nhà nước trên lĩnh vực bảo vệ an ninh
quốc gia.

24


Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước là công cụ sắc bén để nhân
dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực, trong đó
có cơng tác bảo vệ an ninh quốc gia. Nhà nước có mạnh (hiệu lực) thì quyền
làm chủ của nhân dân mới được đảm bảo vững chắc.
Nội dung tăng cường hiệu lực quản của Nhà nước : Phát huy mạnh mẽ
tác dụng của pháp chế xã hội chủ nghĩa làm cho nó trở thành vũ khí sắc bén
để xây dựng và quản lí nền trật tự xã hội xã hội chủ nghĩa. Phải thường xuyên
quan tâm xây dựng các cơ quan chuyên trách trong công tác bảo vệ an ninh

quốc gia. Phát huy vai trò tác dụng của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân
các cấp trong việc ban hành và đôn đốc tổ chức thực hiện những quy định về
công tác bảo vệ ở địa phương. Phối kết hợp chức năng quản lí của các cơ
quan Nhà nước vào việc bảo vệ an ninh quốc gia.
Công an là lực lượng nịng cốt.
Lực lượng Cơng an là chỗ dựa trực tiếp và thường xuyên cho các
ngành, các cấp và quần chúng trong công tác đảm bảo an ninh quốc gia. Lực
lượng Công an phải tập trung giải quyết những khâu cơ bản nhất ; tổ chức hướng dẫn các lực lượng khác thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Qua
thực tiễn tiến hành cuộc đấu tranh, lực lượng Công an phải làm tham mưu cho
Đảng, Nhà nước về những vấn đề có liên quan đến công tác bảo vệ an ninh
quốc gia.
Cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia có liên quan đến nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội. Do đó để đảm bảo thắng lợi hoàn toàn và
triệt để trong cuộc đấu tranh, lực lượng Công an phải biết kết hợp tính tích
cực cách mạng của quần chúng với cơng tác nghiệp vụ của các cơ quan
chuyên môn. Sự kết hợp đó thể hiện : Quần chúng phát hiện cung cấp tình
hình, cơ quan chun mơn thu thập ý kiến đó. Những ý kiến đó phải được
tổng hợp, kết hợp với nghiệp vụ chun mơn của các ngành để tìm ra bản chất
của vấn đề và biện pháp xử lí. Phải coi trọng cả hai mặt đó, khơng được coi
nhẹ mặt nào.
25


1.2. Quan niệm, nội dung tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
đến đảm bảo an ninh Quốc gia
1.2.1. Cơ sở lý luận để tìm hiểu tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến đảm bảo an ninh quốc gia.
Một là, xuất phát từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi
nghiên cứu CNTB trong giai đoạn tự do cạnh tranh, C.Mác và Ph.Ăng ghen
đã dự báo: Tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập

trung sản xuất phát triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền. Kế
thừa và phát triển lý luận của C. Mác, bằng những cứ liệu lịch sử về sự phát
triển của độc quyền đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã chỉ rõ bản chất kinh tế của
CNTB độc quyền là sự thống trị của các tổ chức độc quyền, được biểu hiện ở
năm đặc điểm kinh tế cơ bản trong đó “xuất khẩu tư bản” là một đặc điểm
điển hình. V.I.Lênin viết: “Điển hình của chủ nghĩa tư bản cũ, trong đó sự
cạnh tranh tự do cịn hồn tồn thống trị, là việc xuất khẩu hàng hố. Điểm
điển hình của chủ nghĩa tư bản mới nhất, trong đó các tổ chức độc quyền
thống trị, là việc xuất khẩu tư bản” [20, tr.455].
Thực tế cho thấy, q trình tích tụ và tập trung tư bản diễn ra mạnh mẽ
ở một số nước tư bản phát triển đã tạo ra một khối lượng tư bản kếch sù và
một bộ phận đã trở thành “tư bản thừa” do chưa tìm ra nơi đầu tư có lợi hơn
đầu tư trong nước. “Tư bản thừa” ở đây là có tính chất tương đối, có nghĩa là
thừa so với nơi đầu tư có lợi nhuận thấp ở trong nước, nếu đầu tư ra nước
ngoài sẽ thu được lợi nhuận cao hơn. Số “tư bản thừa” này, các nước tư bản
phát triển đang tìm nơi đầu tư có lợi nhất.
Trong khi đó, các nước đang phát triển có lợi thế về nguồn nguyên liệu,
tài nguyên dồi dào chưa được khai thác, giá nhân công rẻ, giá thuê đất thấp
nhưng thiếu vốn và công nghệ để phát triển kinh tế. Đầu tư vào những nước này
sẽ có lợi nhuận cao. Như vậy, một bên có nhu cầu xuất khẩu tư bản, cịn một bên
có nhu cầu nhập khẩu đã tạo nên sự vận động của các luồng tư bản, trong đó có
26


×