Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Phối hợp các lực lượng xã hội trong phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh trường THCS tiền an, thành phố bắc ninh, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN VŨ PHƯƠNG ANH

PHỐI HỢP GIỮA CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI TRONG PHÒNG
CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ
SỞ TIỀN AN, THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Kim Dung

Năm 2017

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vai trò quan trọng của sự phối hợp giữa nhà trường và xã hội
trong giáo dục học sinh
Quá trình giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và năng lực nhằm
giúp học sinh phát triển nhân cách một cách toàn diện là một quá trình lâu dài liên
tục, diễn ra ở nhiều môi trường khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan hệ
xã hội phức tạp. Vì thế, việc giáo dục nói chung và giáo dục học sinh nói riêng luôn
luôn đòi hỏi sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ của của nhà trường với các lực lượng xã
hội.
Ý nghĩa sâu sắc của việc phối hợp các lực lượng giáo dục đã được Bác Hồ


chỉ ra từ lâu: "Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo
dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường
được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục
trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn” (Trích bài nói
tại Hội nghị cán bộ Đảng trong ngành giáo dục tháng 6/ 1957). Sự phối hợp giữa
nhà trường với gia đình và các lực lượng giáo dục đã trở thành một trong những
nguyên lý giáo dục quan trọng mà trong các tài liệu về lí luận giáo dục đã khẳng
định.
Nhận thức được điều đó, trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước đều
thấy rằng sự phối hợp của nhà trường với các lực lượng xã hội vừa là nguyên lý
vừa là giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh. Tầm quan trọng của sự
phối hợp này được trở thành một nguyên lý giáo dục đã được nêu trong Luật
Giáo dục năm 2009 đó là: “Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên
lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền
với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã
hội” [25]. Và từ năm 2008, Bộ GD&ĐT đã ban hành Chỉ thị số 71 về việc “Tăng
cường phối hợp gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác giáo dục trẻ em,
học sinh sinh viên”.
2


Trong xu thế đổi mới hiện nay, yêu cầu cấp bách là nâng cao chất lượng
người lao động, đào tạo con người có nhân cách, có kỷ luật lao động. Để làm
được điều đó cần có sự kết hợp nhịp nhàng đồng bộ và sự hỗ trợ của ba lực
lượng giáo dục: gia đình - nhà trường và xã hội. Quan điểm chỉ đạo của Nghị
quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã tiếp tục
khẳng định “giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội”. Nhà
trường sẽ là vai trò trung tâm, tổ chức phối hợp dẫn dắt nội dung, phương pháp
giáo dục của gia đình và các lực lượng trong xã hội.
1.2. Thực trạng sự phối hợp giữa nhà trường và các lực lượng xã hội

hiện nay còn manh mún, mang tính sự vụ, chưa hiệu quả
Từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thì bên cạnh những mặt tích cực và những thành quả mà chúng ta đạt
được thì cũng có không ít những tiêu cực, ảnh hưởng không tốt đến việc giáo
dục học sinh, thanh thiếu niên. Nhiều người, nhiều gia đình do mải lo kiếm sống
mà chưa chú trọng đúng mức đến giáo dục con em, đến việc phối hợp với nhà
trường một cách chủ động, tích cực, thường xuyên. Thực tế hiện nay cho thấy,
sự phối hợp giữa nhà trường với các lực lượng xã hội trong việc giáo dục học
sinh không còn chặt chẽ như trước đây. Sự lỏng lẻo của mối quan hệ này bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân chủ quan từ nhà trường lẫn khách quan của xã hội.
Đặc biệt là sự phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh. Việc cha mẹ (CM)
học sinh chỉ gặp gỡ giáo viên trong hai buổi họp phụ huynh, thậm chí không trò
chuyện với cô giáo của con, không phải hiếm. Giáo viên đến thăm nhà học sinh
lại càng hiếm hơn. Trong thực tế, có không ít CM mải lo kiếm sống, thuê người
chăm sóc, thuê gia sư kèm dạy. Theo số liệu điều tra xã hội học ở Hà Nội, Vĩnh
Phúc, TP Hồ Chí Minh cho thấy 70% CM không có hoặc có rất ít thời gian để
chăm sóc và GD con, 72% CM nói: GD con là điều hết sức khó đối với họ.
1.3. Thực trạng tệ nạn xã hội nói chung và học sinh phức tạp và có
chiều hướng gia tăng
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang hội nhập với xu thế của thế giới,
và khu vực, nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã
3


hội chủ nghĩa. Việc gia nhập các tổ chức thế giới như trở thành thành viên
của WTO (2007), ASEAN (1995), ký kết AFTA, tham gia APEC…. đã giúp cho
nền kinh tế phát triển nhanh, năng động, vị thế và uy tín của Việt Nam được
nâng cao trên trường quốc tế…Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế đó cũng kéo
theo nhiều hệ lụy, trong đó có các tệ nạn xã hội. Tình hình tệ nạn xã hội ở nước
ta đang có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, đối tượng là học sinh và

thanh niên chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Chúng ta chỉ cần vào google đánh cụm từ
“tệ nạn trong học đường” thì chỉ cần 0.48 giây đã cho ra kết quả là 1,750,000 để
cho thấy tình hình tệ nạn xã hội trong giới trẻ đáng báo động ở mức độ nào. Còn
theo số liệu được Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD- ĐT) đưa ra, trong một năm học,
toàn quốc xảy ra gần 1.600 vụ việc học sinh đánh nhau ở trong và ngoài trường
học (khoảng 5 vụ/ngày). Và cứ khoảng trên 5.200 học sinh (HS) thì có một vụ
đánh nhau; cứ hơn 11.000 HS thì có một em bị buộc thôi học vì đánh nhau; cứ 9
trường thì có một trường có học sinh đánh nhau [42]... Điều này cũng được
nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận đánh giá: “…Tình
trạng bạo lực học đường có những diễn biến phức tạp, vấn đề đạo đức học sinh
cũng có những diễn biến mới”. [48]
Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ tới an ninh trật tự và cuộc sống bình
yên của mọi người trong xã hội. Tệ nạn xã hội là một vấn đề nhức nhối làm suy
thoái đạo đức, nhân cách, gây khó khăn, cản trở sự phát triển kinh tế xã hội; trái
pháp luật và thuần phong mỹ tục và chúng ta cần phải ngăn chặn, loại bỏ ra khỏi
đời sống xã hội. Có thể khẳng định rằng phòng, chống tệ nạn xã hội đặc biệt là
với giới trẻ là hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an ninh quốc gia, phát triển
đất nước ta hiện nay. Đảm bảo an toàn trật tự nói chung phòng chống tệ nạn xã
hội nói riêng là góp phần tạo nền móng vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.4.Thực trạng TNXH ở phường Tiền An và ở học sinh trường THCS
Tiền An
Hiện nay, trên địa bàn phường Tiền An, tình hình đời sống nhân dân
tương đối ổn định, song vẫn còn tồn tại một số tệ nạn xã hội đang diễn biết hết
4


sức phức tạp như cờ bạc, lô đề diễn ra tương đối phổ biến và đặc biệt là vẫn còn
những hiện tượng nghiện hút,… Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo
dục học sinh. Đối với trường THCS Tiền An cũng có những tình trạng xảy ra

như học sinh bỏ học chơi điện tử, đánh nhau, đạo đức bị suy thoái,…
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên
cứu của mình là “Phối hợp các lực lượng xã hội trong phòng chống tệ nạn xã
hội cho học sinh trường THCS Tiền An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh”
làm luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về sự phối hợp giữa nhà trường
và các lực lượng xã hội trong cộng đồng, đưa ra các biện pháp phối hợp phòng
chống tệ nạn xã hội cho học sinh trường THCS Tiền An, thành phố Bắc Ninh,
tỉnh Bắc Ninh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Sự phối hợp giữa nhà trường và các lực lượng xã hội trong phòng chống
tệ nạn xã hội cho học sinh trường THCS Tiền An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc
Ninh
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phối hợp giữa nhà trường và các lực lượng xã hội trong phòng
chống tệ nạn xã hội cho học sinh trường THCS Tiền An, thành phố Bắc Ninh,
tỉnh Bắc Ninh
4. Giả thuyết khoa học
Sự phối hợp giữa nhà trường và các lực lượng xã hội trong phòng chống
tệ nạn xã hội cho học sinh trường THCS Tiền An còn gặp nhiều khó khăn, bất
cập như hoạt động phối hợp giữa nhà trường với các lực lượng công an, dân
phòng và các tổ chức đoàn thể tại địa phương trong giáo dục học sinh còn lỏng
lẻo, chưa thường xuyên nên các em dễ sa vào đua đòi, hư hỏng…; nhận thức
cũng như cách thức phối hợp chưa linh hoạt, thiếu sự chủ động,…

5



Nếu đề xuất được các biện pháp phối hợp giữa nhà trường với các lực lượng
xã hội theo hướng phát huy thế mạnh của từng lực lượng xã hội, phù hợp với thực
tiễn giáo dục địa phương trên cơ sở các mối quan hệ cộng tác chặt chẽ, chủ động,
có kế hoạch thì sẽ ngăn chặn được các tệ nạn xã hội tác động đến học sinh của
trường THCS Tiền An và nâng cao chất lượng giáo dục học sinh trên địa bàn
phường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về phối hợp giữa nhà trường và các lực
lượng xã hội trong phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh.
5.2. Khảo sát thực trạng phối hợp giữa nhà trường và các lực lượng xã hội
trong phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh trường THCS Tiền An, thành phố
Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
5.3. Đề xuất các biện pháp phối hợp giữa nhà trường và các lực lượng xã
hội trong phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh trường THCS Tiền An, thành
phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh; từ đó khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của
các biện pháp.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nội dung:
Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp dành cho hiệu trưởng trong việc
phối hợp giữa nhà trường và các lực lượng xã hội trong phòng chống tệ nạn xã
hội cho học sinh
- Giới hạn về địa bàn:
Đề tài triển khai nghiên cứu trên địa bàn phường Tiền An thành phố Bắc
Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các tài liệu lý luận, hệ thống hoá các khái niệm, các lý thuyết
có liên quan đến biện pháp, lực lượng xã hội, phối hợp các lực lượng xã hội, tệ
nạn xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội,… để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài


6


phối hợp giữa nhà trường và các lực lượng xã hội trong phòng chống tệ nạn xã
hội cho học sinh trường THCS Tiền An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi (An két)
Xây dựng hệ thống câu hỏi để điều tra CBQL nhà trường, giáo viên, cán
bộ các đoàn thể, tổ chức xã hội, chính quyền địa phương, học sinh, cha mẹ học
sinh, nhằm tìm hiểu:
- Thực trạng tệ nạn xã hội trên địa bàn và trong học sinh;
- Thực trạng phối hợp giữa nhà trường với các lực lượng xã hội trong
phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh trường THCS Tiền An hiện nay
- Thực trạng những yếu tố ảnh hưởng đến sự phối hợp giữa nhà trường
với các lực lượng xã hội trong phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh trường
THCS Tiền An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành phỏng vấn, trao đổi với một số CBQL, học sinh, giáo viên, tổ
chức đoàn thể xã hội, chính quyền, cha mẹ học sinh nhằm làm rõ hơn những kết
quả thu được qua phiếu hỏi, đồng thời bổ sung thêm những thông tin cần thiết
phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài.
7.2.2.3. Phương pháp chuyên gia
Thu thập các thông tin từ các chuyên gia về tính cấp thiết và khả thi của
các biện pháp đề xuất.
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, Danh mục tài liệu tham
khảo, Phụ lục, Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về phối hợp giữa nhà trường và các lực lượng xã
hội trong phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh
Chương 2. Thực trạng phối hợp giữa nhà trường và các lực lượng xã hội

trong phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh trường THCS Tiền An, thành phố
Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh

7


Chương 3. Biện pháp phối hợp giữa nhà trường và các lực lượng xã hội
trong phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh trường THCS Tiền An, thành phố
Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỐI HỢP GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ CÁC
LỰC LƯỢNG XÃ HỘI TRONG PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI CHO
HỌC SINH
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến sự phối hợp giữa nhà trường và
các lực lượng xã hội trong giáo dục học sinh
Với quan niệm “Giáo dục phải được thực hiện trên từng mét vuông” tức là
phải thực hiện ở cả trong nhà trường và ngoài xã hội. Chính vì vậy, rất cần sự
phối hợp của các lực lượng giáo dục là nhà trường – gia đình và xã hội trong
giáo dục học sinh. Ý thức được tầm quan trọng đó, nên có rất nhiều nghiên cứu
liên quan đến vấn đề này được tiến hành ở trong và ngoài nước.
Một số tài liệu, công trình tiêu biểu đã đề cập đến vai trò quan trọng của
các lực lượng xã hội trong việc tham gia vào sự nghiệp phát triển nhà trường,
cũng như các hoạt động giáo dục của nhà trường một cách có hiệu quả nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường và kết quả học tập của học sinh.
Tác giả Tangri, S. và Moles trong cuốn sách “Cha mẹ và cộng đồng” đã

nghiên cứu và chỉ ra những ảnh hưởng khi cha mẹ học sinh có những hình thức
tham gia vào quá trình học tập của học sinh. Các thành tích, kết quả đạt được và
hành vi, thái độ của học sinh có liên quan đến việc như: cha mẹ tham gia với tư
cách là trợ lý lớp học, cha mẹ làm tình nguyện viên, hỗ trợ làm bài tập ở nhà và
tạo môi trường giáo dục ở nhà [53].
Tác giả Laura Brannelly và Joan Sullivan-Owomoyela trong cuốn sách
“Thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng đóng góp cho giáo dục trong các điều
kiện xung đột” đề cập đến sự tham gia của cộng đồng và phát triển mô hình
cộng đồng tham gia vào giáo dục ở các nước Jordan, Afghanistan, Iraq, Liberia,
Uganda và vùng lãnh thổ Palestine. Các tác giả đã nghiên cứu sự tham gia của
cộng đồng vào giáo dục trong các hoàn cảnh chính trị của mỗi quốc gia, mỗi
vùng lãnh thổ khác nhau. Các tác giả đã đưa ra tầm quan trọng và vai trò của
9


cộng đồng trong việc tham gia vào bối cảnh tái thiết đất nước sau xung đột và
xây dựng lại giáo dục [51].
Tác giả Anne Henderson và Karen Mapp đã nghiên cứu hơn 50 công trình
được công bố từ năm 1995 để biên dịch cuốn sách: “Minh chứng mới về những
tác động của nhà trường, gia đình và cộng đồng đến kết quả học tập của học
sinh”. Kết quả cho thấy, để có được sự tham gia tích cực của cha mẹ học sinh
thì nhà trường phải liên kết các hoạt động của cha mẹ học sinh với mục tiêu học
tập của học sinh và phải quan tâm đến hoàn cảnh khác nhau của mỗi gia đình
học sinh [50].
Luận án của Cynthia V.Crites “Sự tham gia của cha mẹ học sinh và cộng
đồng: một nghiên cứu điển hình”. Luận án nghiên cứu dựa trên phân tích điển
hình, mô tả những cách thức để tăng cường sự tham gia của cha mẹ học sinh và
cộng đồng vào giáo dục. Nghiên cứu chỉ ra rằng để tăng cường sự tham gia của
CMHS và cộng đồng thì nhà trường phải để họ tham gia vào quá trình ra quyết
định, lập kế hoạch hoạt động của nhà trường [49].

Luận án của Marie DeLuci, với đề tài “Nghiên cứu điển hình về sự tham
gia của xã hội vào các trường tiểu học ở ba trường của Ethiopia” đã nêu tầm
quan trọng của cộng đồng tham gia phát triển nhà trường. Đồng thời tác giả đã
chứng minh rằng để huy động được sự tham gia của CMHS và cộng đồng cần có
một tổ chức hay một uỷ ban nào đó đại diện cho cộng đồng hay CMHS để cải
tiến nhà trường, đặc biệt rất cần sự nỗ lực phối hợp giữa Nhà nước – CMHS và
các tổ chức phi chính phủ trong việc cùng quan tâm đến nhà trường cũng như
con em họ [52].
Qua nghiên cứu các nghiên cứu về sự tham gia của các lực lượng xã hội
vào giáo dục nhà trường trên thế giới, có thể thấy, các công trình đều khẳng định
cần huy động sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động giáo dục của nhà
trường. Đồng thời có thể rút ra một số kinh nghiệm tổ chức các hoạt động có sự
tham gia của các lực lượng xã hội, cộng đồng vào hoạt động giáo dục của nhà
trường. Trong đó nhà trường vẫn phải giữ vai trò chủ trì, phát huy mạnh mẽ vai
trò là đầu mối huy động CMHS và các lực lượng xã hội tham gia quá trình GD,
10


lập kế hoạch hoạt động, ra quyết định và kiểm tra đánh giá…
Tại Việt Nam, sự tham gia của các lực lượng xã hội với giáo dục nhà
trường đã được Đảng và Nhà nước quy định trong các văn kiện, nghị quyết….
Trong các tư liệu nghiên cứu đề cập rất nhiều sự cần thiết phối hợp giữa các
lực lượng trong cộng đồng với sự nghiệp giáo dục. Nhiều hội thảo tập trung bàn
về các vấn đề lý luận và các quan điểm mới và sự phối hợp của các tổ chức xã
hội, cộng đồng trong giáo dục nhà trường. Một số hội thảo đi sâu vào phân tích
các yếu tố quan trọng để thực hiện thành công sự phối hợp các lực lượng trong
giáo dục.
Bên cạnh đó là các công trình nghiên cứu về sự tham gia của cha mẹ học
sinh, cộng đồng của các tác giả khác đã tổng hợp những quan điểm lý luận và
thực tiễn về vai trò và nhiệm vụ của cộng đồng, sự phối hợp của Nhà trường Gia đình – cộng đồng trong giáo dục học sinh:

Trong cuốn “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỉ XXI” tác
giả Phạm Minh Hạc khẳng định sự nghiệp giáo dục của Việt Nam không phải
chỉ do Nhà nước gánh vác, mà phải có sự chung sức của các lực lượng xã hội
cùng tham gia vào sự nghiệp giáo dục nước nhà, tạo nên một xã hội học tập [20].
Võ Tấn Quang, trong cuốn sách “Những nhân tố mới về giáo dục trong
công cuộc đổi mới” đã nhấn mạnh tầm quan trọng của quần chúng trong công
tác giáo dục, theo tác giả: xã hội hóa trong giáo dục là phải phát động phong trào
quần chúng làm giáo dục, huy động toàn xã hội tham gia sự nghiệp GD&ĐT,
hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ [ 30]. Ngoài ra còn các các nghiên
cứu như “Về tính thống nhất, liên tục và toàn vẹn trong quan hệ giáo dục nhà
trường, gia đình, xã hội” [29], nghiên cứu của Nguyễn Thị Kỷ, Hà Nhật Thăng
về “Những quan điểm phương pháp luận của việc liên kết giáo dục giữa nhà
trường, gia đình và xã hội cho học sinh hiện nay” [23],…
Qua các công trình nghiên cứu liên quan đến việc sự phối hợp giữa nahf
trường với các lực lượng xã hội trong giáo dục HS có thể rút ra những vấn đề
cốt yếu sau:

11


Sự phối hợp của các lực lượng xã hội với nhà trường là vô cùng quan
trọng trong sự nghiệp phát triển giáo dục. Sự tham gia của các lực lượng xã hội
vào nhà trường là một trong giải pháp quan trọng để giúp cho học sinh đạt được
kết quả cao nhất trong học tập và giảm tỉ lệ bỏ học cũng như có ảnh hưởng tốt
đến hành vi và tính tích cực của học sinh.
Tùy vào tình hình thực tế và điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước, mỗi
địa phương mà sự tham gia của cha mẹ học sinh, sự phối hợp của các lực lượng
xã hội mà có những phương thức khác nhau, có biện pháp phối hợp khác nhau.
Sự tham gia của các lực lượng xã hội sẽ hiệu quả và bền vững khi có sự phối
hợp đồng bộ. Trong đó nhà trường giữ vai trò chính trong tổ chức, điều phối các

hoạt động tham gia của các lực lượng xã hội.
1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến sự phối hợp giữa nhà trường và
các lực lượng xã hội trong phòng chống tệ nạn xã hội
Tệ nạn xã hội là một căn bệnh làm cản bước tiến của xã hội loài người.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia, tệ nạn xã hội không ít thì nhiều đã gây
ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Đặc biêt, vào những năm cuối thế kỷ XX và
đầu thế kỷ XXI, khi nền kinh tế thị trường phát triển, CNTT bùng nổ cùng xu thế
hội nhập và toàn cầu hóa thì TNXH càng có cơ hội phát sinh, phát triển và gây tác
hại không nhỏ về kinh tế, chính trị, an ninh, sức khỏe, đạo đức, lối sống đối với xã
hội.
Mỗi loại TNXH đều có quy mô và mức độ ảnh hưởng khác nhau đến xã
hội. Một số TNXH có xu hướng giảm dần và bị loại trừ khỏi đời sống xã hội.
Song bên cạnh đó, một số TNXH khác trước đây ít xuất hiện, đã được khống
chế, kiểm soát nay lại phát triển mạnh mẽ và ngày càng phổ biến như Ma túy, cờ
bạc, trộm cắp, bạo lực học đường, hút thuốc lá, quan hệ tình dụng tuổi vị thành
niên,…
Do đó, vấn đề phòng chống tệ nạn xã hội đã trở thành mối quan tâm của
các quốc gia trên thế giới. Liên hiệp quốc, Tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế
INTERPOL, Tổ chức Y tế thế giới WHO, Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc
UNICEF, nhà xã hội người Pháp Edukheim, A. I. Đôngôva và các tổ chức quốc
12


tế đã tổ chức nhiều hội nghị quốc tế và xuất bản nhiều ấn phẩm về phòng chống
tội phạm trong đó có nêu vấn đề về phối hợp các lực lượng xã hội trong phòng
chống tội phạm.
Ở Việt Nam, các cơ quan Nhà nước, các nhà nghiên cứu của Bộ Công an,
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân
văn quốc gia,… đã nghiên cứu về TNXH, tội phạm dưới nhiều góc độ, khía
cạnh khác nhau. Trong số này nổi bật là các công trình nghiên cứu như Đề tài

cấp Nhà nước “Luận cứ khoa học đổi mới chính sách xã hội đảm bảo an ninh
xã hội và khắc phục các tệ nạn xã hội” mã số KX 04.14 của Tổng cục Cảnh sát,
Bộ Công an (1992-1995) [43]. Đề tài này đã tập trung đi sâu phân tích nguyên
nhân, điều kiện, đặc biệt là những nguyên nhân, điều kiện về các chính sách xã
hội làm phát sinh, phát triển và tồn tại của các tệ nạn xã hội trong đó có tệ nạn
ma túy, từ đó đề ra những giải pháp, kiến nghị đổi mới, ban hành một số chính
sách xã hội nhằm khắc phục các tệ nạn xã hội; Sách chuyên khảo “Phát hiện và
điều tra các tội phạm về ma túy” của TS Trần Văn Luyện, PGS.TS Nguyễn
Xuân Yêm, Nhà xuất bản CAND, năm 2001 [46]. Luận án tiến sĩ Luật học
“Tăng cường đấu tranh phòng chống TNXH bằng pháp luật trong giai đoạn
hiện nay” của tác giả Phan Đình Khánh [22]; “Mại dâm, ma túy, cơ bạc, tội
phạm hiện đại” của các tác giả Nguyễn Xuân Yêm, Phan Văn Khánh, Nguyễn
Thị Kim Liên [47], Đề tài “Thử nghiệm các giải pháp phòng ngừ tệ nạn xã hội
trong sinh viên hiện nay” của tác giả Trần Quốc Thành,…
Qua trình bày trên, nhìn chung các công trình nghiên cứu mới chỉ tập
trung đề cập tới phần lý luận chung, cách tiếp cận về tội phạm và xã hội học
hiện đại về phòng chống TNXH trong điều kiện kinh tế thị trường từ đó đề ra
các giải pháp phòng ngừa TNXH nói chung và ngăn chặn, hạn chế TNXH xâm
nhập vào nhà trường nói riêng. Tuy nhiên rất ít đề tài nghiên cứu về phối hợp
giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc phòng chống tội phạm
cho học sinh THCS. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài “Phối hợp giữa nhà
trường và các lực lượng xã hội trong phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh
trường THCS Tiền An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh” nhằm góp phần
13


thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục địa phương.
1.2. Phòng chống tệ nạn xã hội
1.2.1. Tệ nạn xã hội
1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tệ nạn xã hội

* Khái niệm:
Khái niệm tệ nạn xã hội (TNXH) cho đến nay có nhiều định nghĩa khác
nhau, nhưng tựu chung các tác giá đều cho rằng: Tệ nạn xã hội là hiện tượng xã
hội tiêu cực, có tính phổ biến, biểu hiện bằng những hành vi sai lệch chuẩn mực
xã hội, vi phạm đạo đức, pháp luật hiện hành, phá vỡ thuần phong mỹ tục, lối
sống lành mạnh, tiến bộ trong xã hội và gây hậu quả nghiêm trọng cho các cá
nhân, gia đình và xã hội.
Dưới góc độ Khoa học Quản lí, nhóm tác giả Nguyễn Xuân Yêm, Phan
Đình Khánh, Nguyễn Thị Kim Liên cho rằng: “TNXH là một hiện tượng xã hội
tiêu cực, có tính chất lịch sử cụ thể biểu hiện bằng những hành vi vi phạm pháp
luật và sai lệch các chuẩn mực xã hội, có tính lây lan, phổ biến gây nguy hiểm
cho xã hội và được quy định trong pháp luật hình sự, pháp luật hành chính và
các chuẩn mực đạo đức xã hội [47]. Cũng dưới góc độ này, tác giả Đảm Hữu
Đắc trong báo cáo chuyên đề: “Vấn đề tệ nạn xã hội trong thời kỳ đổi mới” cho
rằng “TNXH là một hiện tượng xã hội, thể hiện ra những hành vi sai lệch chuẩn
mực xã hội có tính phổ biến bao gồm các hành vi có tính nguyên tắc về lối sống,
truyền thống văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục và những quy tắc được thể
chế hóa bằng pháp luật, gây ra hậu quả nghiệm trọng cho đời sống kinh tế, văn
hóa, đạo đức và xã hội của nhân dân”.
Dưới góc độ đạo đức và giáo dục học, trong tài liệu hướng dẫn chương
trình phòng chống TNXH của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhóm tác giả Mai Huy
Bổng, Nguyễn Văn Sơn, Lê Trung Hiếu cho rằng: “TNXH là một hiện tượng xã
hội tiêu cực, nó liên quan tới các đặc điểm của xã hội, tâm lý, sinh lý, đạo đức,
kinh tế, văn hóa của mỗi cá nhân và gia đình”.
Nhóm tác giả Lê Ngọc Hùng, Ngô Thị Ngọc Anh cho rằng TNXH bao
gồm tất cả những hành vi vi phạm pháp luật, kể cả pháp luật hình sự, những hiện
14


tượng xã hội tiêu cực, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc, gây ảnh hưởng

xấu cho xã hội. [21].
Trong báo cáo khoa học của tác giả Nguyễn Mạnh Tề - Cục Cảnh sát hình
sự - Bộ Công an cho rằng: Tệ nạn xã hội là những hành vị vi phạm pháp luật
nhưng chưa phải là tội phạm, là những thói hư tật xấu trái với thuần phong mỹ
tục, đạo đức dân tộc do nhiều người mắc phải, gây tác hại đến đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân ta. TNXH rất đa dạng, gồm cả văn hóa phẩm đồi trụy,
cao bồi càn quấy, bói toán, mại dâm, nghiện hút, cờ bạc...”.
Nói tóm lại bản chất của tệ nạn xã hội là xấu xa, trái với nếp sống văn
minh, trái với đạo đức, bản chất của chế độ xã hội. Tệ nạn xã hội là biểu hiện cụ
thể của lối sống thực dụng, coi thường các chuẩn mực đạo đức, xã hội và pháp
luật, làm xói mòn các giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân
tộc, phá vỡ tình cảm, hạnh phúc gia đình, phá hoại nhân cách, phẩm giá con
người, ảnh hưởng đến kinh tế, sức khoẻ, năng suất lao động, làm băng hoại
giống nòi dân tộc... là con đường dẫn đến tội phạm.
Tệ nạn xã hội phong phú và đa dạng về thể loại, phức tạp về bản chất.
Có nhiều loại tệ nạn xã hội gây nhức nhối hiện nay, đặc biệt là các tệ nạn ma
túy, cờ bạc, mại dâm, mê tín dị đoan…gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tinh
thần và đạo đức con người, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, gây rối loạn trật tự
xã hội, suy đồi về mặt văn hóa và làm mất tư cách của một công dân. Gây
ảnh hưởng sâu sắc tới nguồn lao động trẻ khi mà đất nước đang cần một nguồn
trí thức mới có chất lượng trong công cuộc hội nhập thế giới hiện nay.
* Đặc điểm của tệ nạn xã hội:
+ Có tính lây lan nhanh trong xã hội.
+ Tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức; đối tượng tham gia rất đa
dạng và phức tạp về thành phần.
+ Các đối tượng hoạt động có nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi để đối
phó với lực lượng chức năng và che mắt quần chúng nhân dân thường cấu kết
với nhau thành đường dây, ổ nhóm.

15



+ Tệ nạn xã hội thường có quan hệ chặt chẽ với tội phạm hình sự, các hiện
tượng tiêu cực xã hội khác và có sự chuyển hoá lẫn nhau.
+ Địa bàn tập trung hoạt động thường là những nơi tập trung đông người,
các khu công nghiệp, du lịch những nơi trình độ của quần chúng nhân dân còn
lạc hậu thấp kém, và công tác quản lí xã hội còn nhiều sơ hở thiếu sót.
1.2.1.2. Các loại tệ nạn xã hội
- Tệ nạn ma túy: là khái niệm dùng để chỉ tình trạng nghiện lệ thuộc vào
ma túy, các tội phạm về ma túy và các hành vi trái phép khác về ma túy.
Là một loại tệ nạn xã hội mà nạn nhân có thói quen sử dụng chất ma tuý
dẫn đến tình trạng lệ thuộc vào ma tuý khó có thể bỏ được. Nghiện ma tuý gây
hậu quả lớn cho bản thân người nghiện, gia đình và cho xã hội. Hình thức sử
dụng ma tuý chủ yếu là hút, hít, tiêm chích thuốc phiện, hêrôin. Hiện nay, hình
thức sử dụng ma tuý tổng hợp, thuốc lắc đang có xu hướng phát triển mạnh
trong thanh niên và học sinh, sinh viên.
Nguyên nhân của tình trạng nghiện ma túy rất đa dạng: do hậu quả của lối
sống đua đòi, lười lao động, ăn chơi với nhu cầu khoái cảm cao chọn ma tuý để
mua vui; do gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, bị lôi kéo, rủ rê, hoặc bị khống
chế…
- Tệ nạn mại dâm: là một hiện tượng xã hội tiêu cực, biểu hiện tình trạng
các cá nhân dùng các dịch vụ tình dục ngoài hôn nhân và tiền bạc, lợi ích vật
chất hay các lợi ích khác để trao đổi với nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục
(đối với người mua dâm) hoặc nhu cầu về tiền bạc, lợi ích vật chất (đối với
người bán dâm).
Tệ nạn mại dâm bao gồm các hành vi: bán dâm, mua dâm, chứa mại dâm,
tổ chức hoạt động mại dâm, cưỡng bức bán dâm, môi giới mại dâm, bảo kê mại
dâm và các hành vi khác liên quan đến tệ nạn mại dâm. Căn cứ vào tính chất của
các hành vi, đối tượng tham gia tệ nạn mại dâm bao gồm các loại đối tượng chủ
yếu: người bán dâm, người mua dâm, người chứa mại dâm, người môi giới mại

dâm

16


- Tệ nạn cờ bạc: là hiện tượng xã hội trái pháp luật, biểu hiện tình trạng
các cá nhân tổ chức và tham gia các trò chơi cờ bạc dưới mọi hình thức, gây ra
những hậu quả xấu, tác động tiêu cực tới trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội.
Tệ nạn cờ bạc là một loại tệ nạn xã hội bao gồm các hành vi lợi dụng các
hình thức vui chơi giải trí để cá cược, sát phạt nhau bằng tiền hoặc vật chất.
Tệ nạn cờ bạc bao gồm các hành vi:
Đánh bạc: là hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để sát phạt được
thua thông qua các trò chơi.
Tổ chức đánh bạc: là hành vi rủ rê, lôi kéo, tập hợp người khác cùng đánh
bạc, người tổ chức cũng có thể cùng tham gia đánh bạc.
Gá bạc: là hành vi dùng nhà ở của mình hoặc địa điểm khác để chứa các
đám bạc từ đó trục lợi cho mình qua những người đánh bạc.
Đối tượng tham gia tệ nạn cờ bạc bao gồm: đối tượng tổ chức đánh bạc,
đối tượng gá bạc và đối tượng đánh bạc
Tệ nạn cờ bạc được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: tổ
tôm, chắn cạ, xóc đĩa, tam cúc, xì tố, xập xám, tú lơ khơ, tá lả...và các hình thức
cá cược khác. Tệ nạn cờ bạc có nhiều người mắc phải và có tính lây lan phát
triển nhanh, rất đa dạng bao gồm nhiều thành phần có nghề nghiệp, độ tuổi, trình
độ văn hoá khác nhau (cán bộ công nhân viên chức nhà nước, học sinh, sinh
viên, đối tượng không nghề, nghề nghiệp không ổn định, lưu manh...).
Các đối tượng đánh bạc, tổ chức đánh bạc, chứa bạc có nhiều thủ đoạn
hoạt động tinh vi xảo quyệt để đối phó lại sự phát hiện của quần chúng nhân dân
và hoạt động điều tra của cơ quan công an. Chúng hình thành các ổ nhóm,
đường dây để hoạt động, thường xuyên thay đổi địa bàn, nhiều tổ chức đường
dây hoạt động liên địa bàn, xuyên quốc gia.

Tệ nạn cờ bạc có quan hệ chặt chẽ với tội phạm hình sự và các hiện tượng
tiêu cực khác như mại dâm, ma tuý; gây ra hậu quả tác hại lớn cho đời sống xã
hội và gây khó khăn cho công tác giữ gìn trật tự xã hội
- Tệ nạn mê tín dị đoan

17


Mê tín dị đoan là tệ nạn xã hội bao gồm các hành vi biểu hiện thái quá
lòng tin mù quáng vào những điều huyền bí không có thật, từ đó có những suy
đoán khác thường, dẫn đến cách ứng xử mang tính chất cuồng tín, hành động
trái với những chuẩn mực của xã hội, gây hậu quả xấu đến sức khoẻ, đời sống
vật chất, tinh thần của người dân, đến an ninh trật tự.
Đặc điểm của tệ nạn mê tín dị đoan:
Là một biểu hiện của các hủ tục lạc hậu, tàn dư của xã hội cũ còn sót lại
trong xã hội hiện nay; nó kích thích và phù hợp với tâm lí của một bộ phận
người trong xã hội có trình độ nhận thức thấp kém.
Tệ nạn mê tín dị đoan được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng và có
xu hướng lây lan phát triển nhanh nhất là ở những vùng sâu, nhận thức của quần
chúng còn lạc hậu. Đối tượng tham gia tệ nạn mê tín dị đoan phần lớn là phụ nữ,
những người có trình độ nhận thức thấp kém, hoàn cảnh gia đình gặp nhiều trắc
trở, cuộc sống éo le...ngoài ra còn có một số cán bộ công nhân viên chức, một số
có học thức cao và một bộ phận nhỏ học sinh, sinh viên cũng mắc phải tệ nạn
này.
Tệ nạn mê tín dị đoan hiện đang được các đối tượng phản động và các thế
lực phản cách mạng triệt để lợi dụng để chống phá cách mạng Việt nam, nhất là
ở vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc ít người trình độ nhận thức còn lạc hậu, thấp
kém.
Tệ nạn mê tín dị đoan gây nên những hậu quả xấu cho xã hội như làm tan
vỡ hạnh phúc nhiều gia đình, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khoẻ con người,

gây thiệt hại đến tài sản của quần chúng, ảnh hưởng xấu tới an ninh trật tự.
- Các tệ nạn xã hội khác
+ Say rượu và nghiện rượu
+ Đua xe trái phép
+ Bạo lực gia đình
+ Buôn bán phụ nữ, trẻ em
+ Nghiện chơi game online….

18


Các tệ nạn xã hội có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gây thêm những
vấn đề khó khăn khác cho xã hội. Như ma túy, mại dâm gây nên HIV/AIDS.
Vấn đề thất nghiệp, nghèo, lười lao động, thích hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, tính
hiếu kỳ, hiếu thắng, thiếu sự giáo dục tốt từ gia đình, nhà trường, xã hội là một
trong những nguyên nhân gây nên tình trạng tệ nạn xã hội gia tăng như hiện nay.
Tệ nạn xã hội không chỉ là những thói xấu, những hủ tục rơi rớt lại mà còn
là những tệ nạn mới phát sinh từ chính trong lòng xã hội hiện nay gây ảnh
hưởng lớn tới đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân.
1.2.1.3. Những ảnh hưởng của tệ nạn xã hội và nguyên nhân
Tệ nạn xã hội đang tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống, kinh tế,
xã hội/ TNXH là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây tác hại đến đến sức
khỏe, tinh thần và đạo đức con người, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, rối
loạn trật tự xã hội, suy thoái giống nòi, dân tộc, văn hóa suy đồi. Làm mất tư
cách của một người công dân, gây ảnh hưởng sâu sắc đến nguồn lao động trẻ khi
đất nước Việt Nam đang trong đà đi tới hội nhập và phát triển. Người mắc tệ nạn
xã hội cũng ít nhiều nêu gương xấu cho thế hệ sau, làm họ đi theo vết xe đổ. Các
tệ nạn xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ma túy, mại dâm là những con
đường ngắn nhất làm lây truyền HIV/AIDS, đại dịch thế kỷ. Từ những hệ quả đó
kéo theo hệ lụy là làm gia tăng đói nghèo, phân tầng xã hội, mất cân đối các

nguồn lực, làm biến động ổn định trật tự xã hội, chi phí xã hội tăng do phải giải
quyết các vấn đề xã hội phức tạp do TNXH gây ra [21].
Cụ thể:
Tác hại đối với chính bản thân người tham gia các tệ nạn xã hội đó: Các tệ
nạn xã hội có thể gây những tổn thương nghiêm trọng đối với sức khỏe của
chính bản thân người tham gia (gây các bệnh về hệ hô hấp, hệ tim mạch, hệ thần
kinh đối với người nghiện ma túy, các bệnh nội ngoại khoa đặv biệt là
HIV/AIDS …); làm tha hóa về nhân cách, rối loạn về hành vi, rơi vào lối sống
buông thả, dễ vi phạm pháp luật và phạm tội.
Tác hại đối với gia đình: Đối với các gia đình có người thân tham gia các
tệ nạn xã hội sẽ có thể bị khủng hoảng về mặt tài chính cũng như tinh thần. Ví
19


dụ như tệ nạn cờ bạc sẽ làm phát sinh các mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân –
gia đình của những người nghiện cờ bạc, gây sứt mẻ tình cảm, đổ vỡ niềm tin
giữa vợ chồng và có thể dẫn tới tình trạng bạo lực gia đình.
Tác hại đối với cộng đồng xã hội: các tệ nạn xã hội là những hiện tượng
gây bức xúc, bất bình trong dư luận xã hội, ảnh hưởng tới trật tự, an toàn xã hội;
gây tâm lý hoang mang, lo lắng, sợ hãi cho những người dân lương thiện.
Nguyên nhân chủ yếu gây ra tệ nạn xã hội:
Theo các nhà nghiên cứu của Việt Nam về tệ nạn xã hội thuộc các Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội, Bộ Công An, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng
sự phát triển nhanh của các loại hình TNXH là do một số nguyên nhân chủ yếu
sau:
- Sự biến động sâu sắc trong đời sống kinh tế xã hội khi nước ta chuyền từ
nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường thì bên cạnh những thành tựu,
những kết quả tích cực cũng kéo theo những mặt trái của nó như tạo ra sự phân
hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội. Cơ chế kinh tế thị trường đã tạo ra những mức
thu nhập khác nhau trong dân cư, xuất hiện những nhu cầu mới trong tất cả đời

sống vật chất và tinh thần của xã hội. Nhóm người có thu nhập cao xuất hiện
những nhu cầu mới cao hơn về hưởng thụ và giải trí, mà nhu cầu hưởng thụ
thường không có giới hạn. Chính sự bất cập này đã làm xuất hiện những lệch
chuẩn trong vấn đề hưởng thụ, xuất hiện những quan niệm sống gấp, sống để tận
hưởng. Mặt khác, kết quả của sự phân tầng xã hội cũng tạo ra nhóm người vì
nhiều lí do khác nhau mà gặp khó khăn trong cuộc sống, thất nghiệp, việc làm
không phù hợp, thu nhập thấp…Đứng trước sự biến động xã hội, họ hoang
mang, bi quan, mất phương hướng nên xuất hiện tư tưởng bất cần đời. Họ dễ bị
lợi dụng, dễ bị sa ngã vào con đường ma túy, mại dâm…
- Trong quá trình mở cửa, hội nhập, cùng với sự tiếp thu những điều mới
mẻ, tiến bộ thì những vấn đề tiêu cực cũng thâm nhập vào nước ta, từ đó làm
lệch lạc cách nghĩ, lối sống cảu không ít người dân, đặc biệt là lứa tuổi thanh,
thiếu niên. Một bộ phận thanh thiếu niên lười học tập, rèn luyện và lao động,
không muốn cống hiến nhưng thích hưởng thụ, sống thực dụng….
20


- Sự thông thoáng giao lưu giữa các nước cũng là môi trường thuận lợi
cho các dòng văn hóa phẩm đồi trụy, văn hóa lai căng, tội phạm, buôn bán ma
túy xâm nhập vào nước ta trong khi đó chúng ta lại thiếu sự kiểm soát chặt chẽ
cần thiết
- Sự di dân tự do, di chuyển lao động, tìm kiếm công ăn việc làm trên
khắp địa bàn trong cả nước cũng tác động không nhỏ đển sự lan nhanh của
TNXH
- Do các hoạt động mại dâm, buôn bán ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ
em… mang lại siêu lợi nhuận cho bọn tội phạm mà không cần đầu tư tốn kém
- Do nền kinh tế phát triển nhanh chóng trong khi đó khả năng trình độ
quản lý xã hội của hệ thống các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền chưa
đáp ứng kịp, hệ thống pháp luật liên quan đến phòng chống TNXH chưa hoàn
chỉnh, thực thi pháp luật chưa nghiêm…

- Do sự phát triển của internet cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
tới sự phát triển của các tệ nạn xã hội với những mặt trái của nó như: web đen,
game bạo lực... Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần học sinh, qua đó
dẫn đến tình trạng học sinh dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội.
1.2.2. Phòng chống tệ nạn xã hội
1.2.2.1. Chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước và các quy định của
pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội
Công tác phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội được Đảng và nhà nước
ta xác định phải kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, các tổ chức Đảng, chính
quyền, các ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương phải xem đây
là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách hàng đầu. Tính kiên quyết thể hiện ở
chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết, nghị định, pháp lệnh… và các văn
bản pháp luật khác về giải quyết các vấn đề tệ nạn xã hội, ví dụ như:
- Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “tập trung
giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã
hội, trật tự kỷ cương xã hội)”.

21


- Chỉ thị số 48 ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới”.
Các nghị quyết, chỉ thị đều nhấn mạnh các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến cơ
sở phải đặt công tác lãnh đạo, chỉ đạo phòng chống tệ nạn xã hội là một nhiệm
vụ cần thiết, cấp bách, thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để phòng ngừa và khắc
phục hậu quả tệ nạn xã hội, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn xã hội, xử lý
nghiêm khắc cán bộ, Đảng viên vi phạm.
Những năm qua Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản
pháp quy về phòng chống tệ nạn xã hội; chỉ đạo liên ngành với những biện
pháp mạnh mẽ trong công tác phòng, chống tệ nạn xã hội nhằm mục tiêu “ngăn

chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn mại dâm, ma túy và HIV/AIDS;
xây dựng lối sống văn minh, lành mạnh”. Cụ thể:
- Quyết định 1203/QĐ-TTg ngày 31/08/2012 phê duyệt Chương trình
mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy 2012-2015.
- Chỉ thị số 22/2013/CT-TTg ngày 15/10/2013 của Thủ tướng chính phủ
về tăng cường thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp phòng chống mại dâm
trong tình hình hiện nay [40].
- Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 của Thủ tướng chính
phủ về việc phê duyệt đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam
đến năm 2020 [41].
1.2.2.2. Mục đích, ý nghĩa của phòng chống tệ nạn xã hội
Công tác phòng chống tệ nạn xã hội là quá trình Nhà nước cùng các
ngành, các cấp các đoàn thể tổ chức xã hội và mọi công dân ( trong đó lực lượng
công an là nòng cốt) tiến hành đồng bộ các biện pháp nhằm phát hiện, ngăn
chặn, loại trừ các TNXH.
Đấu tranh loại trừ tệ nạn ra khỏi đời sống xã đòi hỏi phải có sự tham gia
của các cấp, các ngành, của toàn thể xã hội. Trong đó, lực lượng cơ sở có một
vai trò, vị trí rất quan trọng. Đây là lực lượng chủ công, nòng cốt tuyên truyền,
hướng dẫn quần chúng nhân dân và trực tiếp thực hiện các chủ trương, chính

22


sách của Đảng và Nhà nước, các biện pháp theo chức năng, nhiệm vụ của mình
để phòng chống tệ nạn xã hội trên địa bàn.
- Mục đích công tác phòng chống tệ nạn xã hội
+ Ngăn ngừa chặn đứng không để cho tệ nạn xã hội phát sinh, phát triển,
lan rộng trên địa bàn,
+ Từng bước xoá bỏ dần những nguyên nhân điều kiện của tệ nạn xã hội,
góp phần xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh, bảo vệ thuần phong mỹ tục của

dân tộc.
+ Phát hiện, đấu tranh, xử lý nghiêm minh những hành vi hoạt đông tệ nạn
xã hội góp phần giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
1.2.2.3. Đặc điểm của phòng chống tệ nạn xã hội
- Phòng ngừa là cơ bản, lồng ghép và kết hợp chặt chẽ công tác phòng
chống tệ nạn xã hội với các chương trình phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội ở
địa phương.
Đây là phương hướng cơ bản nhất, vừa thể hiện tính ưu việt của chế độ xã
hội chủ nghĩa, mang ý nghĩa kinh tế, vừa phù hợp với đạo đức, phong tục tập
quán của dân tộc.
Để có thể giải quyết, bài trừ triệt để tệ nạn xã hội đòi hỏi phải khắc phục
từng bước những yếu kém, tồn tại của nền kinh tế xã hội, phải thực hiện đồng bộ
các chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, lồng ghép, gắn kết công tác
phòng chống tệ nạn xã hội với các chương trình phát triển kinh tế - văn hoá - xã
hội ở địa phương như chính sách về lao động, việc làm, nâng cao đời sống vật
chất cho nhân dân, các chính sách về văn hoá, giáo dục nhằm điều chỉnh việc
xây dựng các chuẩn mực xã hội và định hướng giá trị xã hội lành mạnh, phát
huy và kế thừa các phẩm chất đạo đức truyền thống tốt đẹp,... Đẩy mạnh chương
trình “xoá đói giảm nghèo”, “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở
khu dân cư” nhằm từng bước ngăn chặn, loại trừ, xoá bỏ tệ nạn xã hội trên địa
bàn.

23


- Công tác phòng chống tệ nạn xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội,
phải được triển khai đồng bộ ở các cấp, các ngành, trong đó lấy phòng chống từ
gia đình, cơ quan, đơn vị, trường học làm cơ sở.
Trong công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội thì Chính quyền, các
cơ quan, tổ chức, đoàn thể ở cơ sở và gia đình giữ một vai trò rất quan trọng.

Đây là lực lượng trực tiếp thực hiện, biến những chủ trương, chính sách, quy
định của Đảng và Nhà nước về phòng chống tệ nạn xã hội thành hiện thực. Là
nơi thực hiện các cuộc vận động của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống
văn hoá mới ở khu dân cư, góp phần đẩy lùi và bài trừ tệ nạn xã hội. Do đó cần
xác định đúng vai trò của nhà trường trong đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội.
- Kết hợp chặt chẽ giữa việc xử lý nghiêm khắc với việc cảm hoá, giáo
dục, cải tạo đối với những đối tượng hoạt động tệ nạn xã hội.
Xử lý nghiêm minh những đối tượng hoạt động tệ nạn xã hội chuyên
nghiệp, những đối tượng chủ chứa, tổ chức, môi giới, cầm đầu trong các đường
dây, ổ nhóm hoạt động tệ nạn xã hội, cần tích cực, kiên trì cũng như quan tâm
tạo các điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần để động viên, giáo dục, cảm
hoá đối tượng là nạn nhân của tệ nạn xã hội để họ yên tâm rèn luyện để trở thành
công dân có ích cho xã hội.
Tóm lại: Từ những phân tích ở trên về khái niệm, những đặc điểm cũng
như nguyên nhân của TNXH, công tác phòng, chống TNXH cần lưu ý:
- Thứ nhất, phòng chống TNXH là yêu cầu cấp thiết, là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của quá trình phát triển kinh tế - xã họi, là tất yếu khách
quan đảm bảo cho sự phát triển bền vững của xã hội. Phòng, chống TNXH là
nhiệm vụ của mọi người của của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước. Đây là một công việc khó khăn, gian khổ, vừa cấp bách, nhưng vừa lâu dài,
quan điểm này xuất phát tự thực tế rằng TNXH đã tồn tại trong lịch sử là khách
quan và ở xã hội cũng có, vấn đề giải quyết nó là phải thực hiện hài hóa giữa mục
tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội, hạn chế thấp nhất ảnh hưởng xấu của nó tới phát
triển kinh tế xã hội.

24


- Thứ hai, TNXH là vấn đề phức tạp do nhiều nguyên nhân từ kinh tế - xã
hội khác nhau, do đó để hạn chế tối thiểu các TNXH cần tiến hành đồng bộ các

biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức, văn hóa…
- Thứ ba, phòng ngừa xã hội là phương hướng quan trọng hàng đầu trong
phòng chống TNXH. Phòng, chống TNXH phải giải quyết tốt hai mặt: phòng và
chống, phòng ngừa không để TNXH xảy ra và chống là đấu tranh xử lý TNXH
theo quy định của pháp luật. Phòng ngừa cần giáo dục nâng cao trình độ dân trí
và nhận thức cho người dân đi đôi với tuyên truyền sâu rộng và nâng cao chất
lượng hệ thống giáo dục. Hướng cho mọi người có nếp sống văn minh, lịch sự,
hành vi giao tiếp cho văn hóa, hướng tới những giá trị cao cả của cuộc sống. Chỉ
khi nào người dẫn hướng tới các giá trị Chân – Thiện – Mỹ, nhận thức được
đúng giá trị chân thực của cuộc sống, của truyền thống văn hóa tốt đẹp thì lúc đó
TNXH sẽ giảm.
- Thứ tư, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống
TNXH và tổ chức thực hiện nghiêm minh theo pháp luật.
1.3. Học sinh trường trung học cơ sở
1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trung học cơ sở
Về tâm lí:
Lứa tuổi học sinh THCS bao gồm những trẻ có độ tuổi từ 12 đến 15, đang
học từ lớp 6 đến lớp 9. Đây là lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em lên người lớn với
những biến đổi sinh lí lớn nhất trong cuộc đời của mỗi con người, từ đó kéo theo
những thay đổi nhất định trong sự phát triển tâm lí. Thuật ngữ tâm lí học gọi lứa
tuổi này là “tuổi thiếu niên”, còn từ góc độ sinh lí học, đây là giai đoạn trẻ bước
vào lứa tuổi dậy thì, mà cụ thể là giai đoạn tiền dậy thì và dậy thì chính thức.
Nội dung cơ bản của sự khác biệt ở lứa tuổi học sinh THCS với các học sinh ở
lứa tuổi khác là sự phát triển mạnh mẽ, thiếu cân đối về cơ thể, sự phát dục và sự
hình thành những phẩm chất mới về các mặt trí tuệ, đạo đức, đồng thời xuất hiện
những yếu tố mới của sự trưởng thành. Lứa tuổi này được đặc trưng bởi tính
chất đối lập, mâu thuẫn, đối cực của các yếu tố phát triển. Đó là lứa tuổi mà sự
cân bằng cơ thể của một đứa trẻ bị phá vỡ trong khi chưa tìm thấy sự cân bằng
25



×