Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Triết lý giáo dục của karl jaspers và sự ảnh hưởng của nó đến nền giáo dục viện nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.8 KB, 95 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong dòng chảy triết học phương Tây hiện đại, một trong những nhà
triết học có tầm ảnh hưởng lớn tới tư tưởng đương thời, đó là Karl Jasper.
Vấn đề con người là vấn đề trung tâm trong triết học hiện sinh của Jaspers.
Những nghiên cứu của ông không chỉ nghiên cứu về con người, thân phận
con người mà còn chỉ ra việc giải phóng con người ở bình diện tự do cao nhất,
đó là giáo dục. Triết học của Jaspers cố gắng tìm ra bản chất đích thực của sự
tha hóa con người và tìm con đường giải phóng con người khỏi sự tha hóa đó.
Nhà triết học hiện sinh Karl Jaspers cho rằng giáo dục cần thực hiện
được ba nhiệm vụ cơ bản là nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo. Ba nhiệm vụ
này cần thực hiện một cách đồng bộ để tạo nên một nền giáo dục thống nhất
bởi chính sự thống nhất của ba nhiệm vụ nói trên sẽ giúp tạo ra đời sống tinh
thần sống động và sức sống cho mọi chuyên ngành. Tư tưởng giáo dục của
Karl Jaspers luôn đề cao vai trò của người học, theo ông trong quá trình hoạt
động giảng dạy cần phải đặt người học ở vị trí trung tâm, cần xây dựng một
môi trường giáo dục thân thiện. Những tư tưởng triết học giáo dục của Karl
Jaspers được hình thành trong bối cảnh của nước Phổ sau thế chiến thứ 2
nhưng đến nay những tư tưởng giáo dục của ông chứa đựng những giá trị triết
lý sâu sắc, có tác dụng tham khảo, tham chiếu, suy ngẫm và giải quyết những
vấn đề giáo dục hiện nay. Việc nghiên cứu triết học giáo dục của Karl Jaspers
là cần thiết để nhận diện, nắm bắt bản chất của triết học giáo dục này nhằm
rút ra những bài học tham khảo cho công tác giáo dục ở nước ta hiện nay.
Việt Nam là nước đang chủ động hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh như
vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá, lựa chọn, tiếp thu những giá trị văn
hóa của các dân tộc, khu vực, nền văn minh trên thế giới là việc làm quan


trọng. Và đương nhiên, việc tìm hiểu những giá trị văn hóa, con người mà cụ
thể là con người triết học phương Tây không nằm ngoài nhu cầu tất yếu đó.
Tuy nhiên, hiện nay trong quá trình hội nhập cũng cần tránh các khuynh


hướng cực đoan, sùng bái, sưng tụng phương Tây, thậm chí còn là sự tuyệt
đối hóa những giá trị tư tưởng phương Tây và hơn thế nữa là định hướng
“phương Tây hóa” để từ bỏ những chuẩn mực tốt đẹp của truyền thống, bản
sắc văn hóa Việt Nam. Chúng ta cần giữ gìn những giá trị truyền thống của
dân tộc, mặt khác không ngừng mở rộng và tiếp biến những tinh hoa văn hóa
thế giới, để làm phong phú cho những giá trị văn hóa dân tộc, làm cho đất
nước ngày càng văn minh. Nghiên cứu triết học giáo dục của Karl Jaspers
không những nâng cao hiệu quả trao đổi, sinh hoạt học thuật mà còn góp phần
tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa các nước
phương Tây.
Việc nghiên cứu triết học phương Tây hiện đại nói chung, triết học giáo
dục của Karl Jaspers nói riêng là cần thiết để làm phong phú hóa tư duy lý
luận trong bối cảnh hội nhập, đồng thời nâng cao năng lực để chống “diễn
biến hòa bình” và “tự diễn biến” trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, góp phần bảo
vệ, khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “Triết học giáo dục
của Karl Jaspers và sự ảnh hưởng của nó đến nền giáo dục Việt Nam” để
làm luận văn Thạc sĩ Triết học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề tư tưởng triết học giáo dục trong chủ nghĩa hiện sinh được
nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập trong các công trình nghiên cứu của
mình. Có thể khái quát một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:


Một là, nhóm công trình nghiên cứu về triết học giáo dục trong chủ
nghĩa hiện sinh của các tác giả trong nước.
Công trình Triết học hiện sinh của tác giả Trần Thái Đỉnh (nhà xuất bản
Văn học, 2005) đã đề cập một số tư tưởng giáo dục của các nhà triết học hiện
sinh. Ông đã chỉ ra được các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giáo dục, đó là
sự giới hạn trong khả năng của con người, sự ham muốn của người học và

mối quan hệ thầy trò. Tuy nhiên, tác giả chỉ dừng lại ở mức độ đề cập mà
chưa đi sâu phân tích các tư tưởng giáo dục trong chủ nghĩa hiện sinh.
Công trình Chủ nghĩa hiện sinh lịch sử, sự hiện diện ở Việt Nam của tác
giả Nguyễn Tiến Dũng (nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh,
2006) đề cập điều kiện ra đời của tư tưởng giáo dục trong chủ nghĩa hiện sinh
sau khi đã phân tích tính đối lập của chủ nghĩa phi duy lý đối với chủ nghĩa
duy lý trong việc chống lại sự độc quyền của nhà nước, chống lại yếu tố quan
liêu hóa và sự đàn áp dân chủ. Bên cạnh đó, tác giả trình bày một số quan
điểm của các nhà hiện sinh trong việc hình thành một phương pháp giáo dục
mới nhằm đề cao tính sáng tạo trong lao động.
Trong tác phẩm Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam của tác giả Phạm
Minh Hạc (nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2011) đã đề cập khía cạnh của
giáo dục hiện sinh khi nhấn mạnh “giá trị của bản thân” trong việc đề xuất
xây dựng triết lý giáo dục.
Bài viết Thuyết hiện sinh: “Tiến lên để sống” của tác giả Bùi Văn Nam
Sơn, đăng trên Tạp chí Tia sáng, chủ nghĩa hiện sinh mà ông nói đến là tính
chủ thể cụ thể của con người, chứ không phải khái niệm trừu tượng về chủ
thể. Ông đã nói lên những băn khoăn, thao thức, đau khổ và lựa chọn trong
thân phận làm người.


Một trong những cuốn sách đáng chú ý nữa là Triết học hiện sinh của
nhà nghiên cứu Đỗ Minh Hợp (chủ biên, 2010). Cuốn sách được chia làm bốn
chương. Đây là công trình nghiên cứu công phu của nhóm tác giả về chủ
nghĩa hiện sinh. Tác phẩm đã cho người đọc thấy được bức tranh cơ bản về
chủ nghĩa hiện sinh dưới cách tiếp cận độc đáo của nhân học văn hóa, cũng
như bản thể luận, cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh.
Qua cách tiếp cận độc đáo đó, nhóm tác giả đã phân tích các triết gia tiền bối
cũng như các đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh. Phần cuối của cuốn
sách nhóm tác giả đã đưa ra những hệ thống khái niệm cũng như chủ đề cơ

bản của triết học hiện sinh. Đọc tác phẩm này trong phần các tác gia tiêu biểu
của chủ nghĩa hiện sinh, tác giả Đỗ Minh Hợp và các cộng sự cũng dẫn
chứng, phân tích về triết gia hiện sinh Karl Jaspers.
Công trình Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa của Đỗ Đức Hiểu
(nhà xuất bản Văn học, 1978) đã đặt ra cho mình nhiệm vụ là: phê phán triết
học hịên sinh và văn học hiện sinh chủ nghĩa, kịch phi lí. Đồng thời, đề cao
vai trò, nhiệm vụ của văn học xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới. Ở một góc
độ và phương diện lịch sử nào đó, công trình ra đời trong bối cảnh lịch sử như
vậy có tác dụng vô cùng to lớn đối với đời sống tinh thần của đất nước, dân
tộc lúc bấy giờ.
Trong cuốn sách Giới thiệu vài nét về các chủ nghĩa: cấu trúc, hiện
sinh, phân tâm, thực dụng trong văn học của nhóm tác giả Nguyễn Đức Nam,
Phong Hiền, Hoàng Ngọc Hiến, Hoàng Trinh, Hoàng Việt (xuất bản trước
năm 1975) đề cập bốn trào lưu chủ yếu trong văn học nghệ thuật tư sản hiện
đại: chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa phân tâm và chủ nghĩa
thực dụng. Những nội dung trình bày trong cuốn sách có ý nghĩa rất lớn về
mặt tư liệu cho tác giả luận văn tham khảo.


Hai là, nhóm công trình nghiên cứu về triết học giáo dục trong chủ
nghĩa hiện sinh của các tác giả nước ngoài.
Công trình Schopenhauer nhà giáo dục của Friedrich Nietzsche, bản
dịch Mạnh Tường và Tố Liên (nhà xuất bản Văn học, 2006) đề cập vấn đề
hiện sinh trong định hướng giáo dục tương lai và cách đánh giá một nhà triết
học theo các gương mẫu mà họ đưa ra.
Trong tác phẩm Triết học thế kỷ XX của Remo Bodei đã cho thấy, triết
học của nền văn hóa phương Tây với xuất phát điểm từ triết học Khai sáng và
có thể truy nguyên sâu xa hơn tới văn hóa triết học Hy Lạp cổ đại; ảnh hưởng
của những tư tưởng triết học hiện sinh với những chủ đề về đời sống hoạt
động, nhìn về phía trước, với những cơn mê cuồng khách quan, v.v… để từ

đó triết học trong thế kỷ ấy được xây dựng trên nền những biến cố và khoa
học lớn lao của thời đại, đồng thời, nhấn mạnh tới những khát vọng làm sáng
tỏ các vấn đề trọng đại, thiết thân đối với tất cả chúng ta. Có thể thấy, cuốn
sách không trực tiếp nói về triết học hiện sinh Jaspers, những triết thuyết cũng
như chủ đề của nó có ảnh hưởng bởi tư tưởng hiện sinh phương Tây.
Công trình Nietzsche và triết học của Gilles Deleuze, bản dịch của
Nguyễn Thị Từ Huy, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính (nhà xuất bản Tri thức,
2010) với những phân tích thấu đáo và mang tính phê phán về triết học của
Nietzsche, Deleuzes soi sáng tác phẩm của triết gia này, người vốn thường
xuyên được quy giản về chủ nghĩa hư vô, về ý chí quyền lực về hình ảnh siêu
nhân. Ông đã đề cập vấn đề hiện sinh ở chổ nhìn thấy rằng dự án triết học của
Nietzsch trong việc vượt qua siêu hình học có hiệu lực ở chổ nó “tố cáo mọi
huyễn hoặc từng tìm thấy trong biện chứng pháp nơi ẩn náo cuối cùng”.


Ba là, công trình các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về
các đề tài có liên quan đến vấn đề con người trong triết học hiện sinh Karl
Jaspers.
Luận án Phó Tiến sĩ Triết học của tác giả Lê Kim Châu, với nhan đề:
Chủ nghĩa hiện sinh và một vài ảnh hưởng của nó ở miền Nam Việt
Nam,(1996, tại Viện Triết học) là công trình chuyên sâu, đã làm rõ một số nội
dung cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh, bước đầu tìm hiểu quá trình du nhập
cùng một số biểu hiện của nó ở miền Nam nước ta trong những năm dưới chế
độ Sài Gòn.
Luận án của tác giả Nguyễn Tiến Dũng với đề tài Tiếp cận chủ nghĩa
hiện sinh: lịch sử, sự hiện diện ở Việt Nam, (1996, tại Trường đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn Hà Nội) đã trình bày sự ra đời và phát triển chủ nghĩa
hiện sinh; triết học của chủ nghĩa hiện sinh; chủ nghĩa Hiện sinh ở Việt Nam
trong những năm 60-70 ở miền Nam Việt Nam và trong văn học Việt Nam
hiện nay.

Luận văn thạc sĩ Quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa Hiện sinh
của Nguyễn Thị Như Huế (2007, tại Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn Hà Nội) đã phân tích bối cảnh, nguồn gốc ra đời quan niệm đạo đức
học trong chủ nghĩa hiện sinh như thiện và ác, trách nhiệm, sự không trung
thực và hèn nhát, về lương tâm và tội lỗi qua một số triết gia tiêu biểu: làm rõ
giá trị và hạn chế của quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh. Tác
giả đã đưa ra những nhận xét, đánh giá về những quan niệm đạo đức trong
chủ nghĩa hiện sinh trong luận văn của mình.
Những công trình nghiên cứu trên đề cập rất nhiều đến tư tưởng giáo
dục của các nhà triết học hiện sinh như Schopenhauer, Nietzsche, Karl
Jaspers… Tuy nhiên, đối với triết học giáo dục của Karl Jaspers, các tác giả


chỉ dừng lại ở mức độ đề cập một vài khía cạnh trong tư tưởng giáo dục của
ông mà không đi sâu phân tích những giá trị của triết học giáo dục Karl
Jaspers. Trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp, trên cơ sở kế thừa kết quả
nghiên cứu của những tác giả đi trước, bằng kiến thức và tìm hiểu sâu hơn,
luận văn này tập trung phân tích những giá trị về triết học giáo dục của Karl
Jaspers đối với nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích chủ nghĩa hiện sinh với tư cách là cơ sở triết học
giáo dục của Karl Jaspers, luận văn chỉ ra những giá trị, hạn chế và ảnh hưởng
của tư tưởng triết học giáo dục Karl Jaspers đối với nền giáo dục Việt Nam
hiện nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nghiên cứu nói trên luận văn có nhiệm vụ:
- Trình bày những nội dung cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh của Karl
Jaspers với tư cách là cơ sở triết học giáo dục của ông.
- Phân tích những nội dung cơ bản trong triết học giáo dục của Karl
Jaspers.

- Chỉ ra những giá trị, hạn chế và những ảnh hưởng của tư tưởng triết
học giáo dục của Karl Jaspers đối với nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
5.1. Khách thể nghiên cứu:
Triết học của Karl Jaspers và nền giáo dục Việt Nam
5.2. Đối tượng nghiên cứu:
Tư tưởng triết học giáo dục của Karl Jaspers và sự ảnh hưởng của nó
đến giáo dục Việt Nam hiện nay.


6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài là những tư tưởng triết học giáo
dục của Karl Jaspers được thể hiện trong hai tác phẩm nổi tiếng của ông là
Triết học nhập môn và Ý niệm đại học.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên học thuyết của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm của ngành Giáo dục Việt
Nam hiện nay.
Để thực hiện đề tài, tác giả dựa trên những quan điểm của Đảng và Nhà
nước về giáo dục và sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử
và chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời, tác giả còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khác như: phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch.
8. Giả thuyết khoa học
Tư tưởng triết học giáo dục của Karl Jaspers được thể hiện cụ thể qua
mục đích, phương pháp và chủ thể giáo dục. Karl Jaspers luôn chủ trương một
phương pháp giáo dục toàn diện, người học luôn đứng ở vị trí trung tâm,
giảng viên được xem là người “đỡ đẻ” cho sinh viên khai phá khả năng tiềm
tàng của họ. Đồng thời, trong quá trình giáo dục sinh viên và giảng viên phải
thường xuyên trao đổi, thảo luận và tranh luận với nhau để tạo một không khí
học tập thân thiện giữa người dạy và người học.

Triết học giáo dục Karl Jaspers là hướng đến sự tự do và sáng tạo của
người học, ông coi nhẹ vấn đề thi cử trong giáo dục nhằm hướng đến một nền
giáo dục dân chủ với sự phát triển của một cá nhân cụ thể trong một cộng
đồng xã hội. Điều này cho thấy, Karl Jaspers đề cao vị trí trung tâm của người
học và vai trò định hướng của người thầy, những tư tưởng trong triết học giáo
dục của ông có những điểm phù hợp với quan điểm cải cách giáo dục hiện


nay ở Việt Nam, mà trước hết là phương pháp giáo dục Karl Jaspers luôn
hướng đến phát huy sự tự do, khả năng sáng tạo của người học và luôn đặt
người học ở vị trí trung tâm trong hoạt động dạy học. Tư tưởng này phù hợp
với quan điểm đổi mới phương pháp giảng dạy hiện nay ở các cấp học trong
nền giáo dục Việt Nam.
Trong triết học giáo dục Karl Jaspers, ông luôn hướng đến cái thống
nhất giữa mục đích, chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục. Điều
này giáo dục Việt Nam chưa thực hiện được bởi trong nội dung giáo dục Việt
Nam vẫn còn nặng về lý thuyết ít thực hành và xem nhẹ việc đào tạo phẩm
chất và kỹ năng. Trong khi đó, mục tiêu giáo dục là đào tạo những con người
phát triển toàn diện về tri thức, kỹ năng và phẩm chất như vậy giữa mục tiêu
và nội dung giáo dục đã có sự không thống nhất với nhau.
Một vấn đề trong quan điểm triết học giáo dục của Karl Jaspers có ảnh
hưởng lớn đến giáo dục Việt Nam là việc thi cử. Từ kinh nghiệm thực tiễn
của nền giáo dục nước Phổ, Karl Jaspers cho rằng, trong suốt quá trình học
tập của người học, chỉ cần một kì thi duy nhất là đủ, không cần chuỗi dài các
kì thi. Nếu Karl Jaspers xem nhẹ việc thi cử thì đối với nền giáo dục Việt
Nam hiện nay vẫn còn đặt nặng vấn đề này.
Như vậy, những quan điểm triết học giáo dục của Karl có những giá trị
quan trọng về lý luận và thực tiễn đối với nền giáo dục Việt Nam, nó là cơ sở
để các nhà giáo dục Việt Nam hoạch định các giải pháp, phương hướng giải
quyết các vấn đề bất cập của giáo dục hiện nay. Vì vậy, nếu đề tài này được

ứng dụng sẽ góp phần làm cơ sở cho việc hình thành con đường giáo dục toàn
diện của các thế hệ trẻ người Việt Nam.

9. Cấu trúc luận văn


Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần
nội dung luận văn gồm 2 chương 6 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản của luận văn:
- Chủ nghĩa hiện sinh được hình thành trên do sự khủng hoảng, sự bại
hoại tinh thần của chủ nghĩa duy lí gây nên trong xã hội phong kiến phương
Tây hiện đại. Trước sự phát triển ưu thế của kinh tế, khoa học kĩ thuật đã làm
xáo trộn những giá trị văn hóa, ngừng trệ cuộc sống con người; con người
thực sự khủng hoảng mất niềm tin vào cuộc sống.
- Triết học hiện sinh Karl Jaspers được hình thành trên cơ sở kế thừa
những tiền đề tư tưởng của Kierkegaard, triết gia Nietzsche, triết gia
Husserl… Jaspers đã khai thác, nói lên tiếng nói và sử dụng phương pháp một
cách uyên thâm của các nhà triết học trước đó một cách hữu hiệu trong học
thuyết triết học của mình.
-Triết học giáo dục Karl Jaspers được thể hiện ở nhiều nội dung như
mục đích giáo dục, bản chất giáo dục, chương trình giáo dục, nội dung giáo
dục và chủ thể giáo dục…Ông luôn hướng đến sự tự do cá nhân của con
người, phát huy tối đa tính sáng tạo và khả năng của người học.
-Triết học giáo dục của Karl Jaspers có những giá trị quan trọng về lí
luận và thực tiễn đối với nền giáo dục Việt Nam, nó là cơ sở để các nhà giáo
dục Việt Nam hoạch định các giải pháp, phương hướng giải quyết các vấn đề
bất cập của nền giáo dục hiện nay.

10.2. Đóng góp mới của luận văn:



- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ những vấn đề căn bản
về con người trong triết học hiện sinh của Jaspers, về vai trò của người học
trong giáo dục.
- Cung cấp cơ sở lí luận cho những nhà quản lí xã hội, quản trị nhân
lực, quản lí giáo dục… có cách nhìn cụ thể khách quan, đúng đắn trong việc
hoạch định chính sách về con người, về giáo dục trong giai đoạn hiện nay và
tương lai.
- Là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập triết học
và hoạt động giáo dục.


Chương 1
CHỦ NGHĨA HIỆN SINH - CƠ SỞ TRIẾT HỌC GIÁO DỤC
CỦA KARL JASPERS
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm hiện sinh
Hiện sinh là việc con người vươn lên trên mức sống của sinh vật, vì nó
là cuộc sống tinh thần; hiện sinh là nghĩa của đời sống, người ta chỉ vươn tới
hiện sinh khi người ta đã ý thức được mình sống để làm gì, sống để thể hiện
cái định mệnh cao quý và độc đáo của mình chứ không phải sống để mà sống.
Hiện sinh bắt đầu xuất hiện khi con người ý thức sâu xa rằng mình là
một chủ thể, tức là chủ động tạo lấy nhân cách và bản lĩnh của mình. Ở đây,
khoa học thực nghiệm hoàn toàn bất lực, vì hiện sinh là một thực tại tinh thần
nên không một máy móc, một công thức nào có thể diễn tả được.
1.1.2. Khái niệm chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học chủ yếu trong trào lưu
chủ nghĩa nhân bản phi duy lý. Triết học hiện sinh đặt lên vị trí hàng đầu tính
đặc thù độc đáo của tồn tại con người. Tính độc đáo này không thể nhận thức

bằng khái niệm và cũng không thể diễn đạt qua ngôn ngữ.
Chủ nghĩa hiện sinh là từ dùng để nói về nghiên cứu của một nhóm các
triết gia cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, những người mà tuy khác nhau về học
thuyết nhưng có chung niềm tin rằng tư duy triết học xuất phát từ chủ thể con
người không chỉ là chủ thể tư duy, mà là cá thể sống, cảm xúc, và hoạt động.
Trong chủ nghĩa hiện sinh, xuất phát điểm của cá nhân được đặc tả bởi cái


từng được gọi là "thái độ hiện sinh" (the existential attitude), hay một tình
trạng mất định hướng và bối rối khi đứng trước một thế giới có vẻ như vô
nghĩa và phi lý. Nhiều nhà hiện sinh cũng đã coi triết học hàn lâm hoặc triết
học hệ thống truyền thống, ở cả phong cách cũng như nội dung, là quá trừu
tượng và tách biệt khỏi trải nghiệm cụ thể của con người.
1.1.3. Khái niệm triết học
“Triết” theo nguyên chữ Hán có nghĩa là “trí” (bao gồm sự hiểu biết
sâu rộng về vũ trụ và nhân sinh), theo chữ Hy Lạp (philosophie) là “yêu mến
sự thông thái”. Khái niệm “triết học” có những biến đổi nhất định trong lịch
sử, nhưng lúc nào cũng bao hàm: yếu tố nhận thức (sự hiểu biết về vũ trụ, về
con người và sự giải thích bằng hệ thống tư duy) và yếu tố nhận định (đánh
giá về đạo lý để con người có thái độ và hành động).
Theo quan điểm mácxít, triết học là một trong những hình thái ý thức
xã hội; là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận
thức và của thái độ con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.1.4. Khái niệm giáo dục
Giáo dục (tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập
theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay
nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác,
nhưng cũng có thể thông qua tự học.

Giáo dục, theo nghĩa rộng là sự hình thành nhân cách được tổ chức một
cách có mục đích, có tổ chức thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa


nhà Giáo dục với người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm
lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
Giáo dục, theo nghĩa hẹp đó là một bộ phận của quá trình sư phạm, là
quá trình hình thành những cơ sở khoa học của thế giới quan, niềm tin, lý
tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những tính cách, những hành vi, thói quen
cư xử đúng đắn trong xã hội, kể cả việc phát triển và nâng cao thể lực.
1.1.5. Khái niệm triết học giáo dục
Triết học giáo dục là ngành triết học về giáo dục và những vấn đề của
nó, chủ đề trung tâm của triết học giáo dục là giáo dục, còn những phương
pháp của nó là những phương pháp của triết học. Triết học giáo dục có thể là
triết học về quá trình giáo dục hay triết học về lĩnh vực giáo dục. Nghĩa là, nó
có thể là một phần của giáo dục theo nghĩa quan tâm đến những mục tiêu,
dạng thức, phương pháp, hay kết quả của quá trình giáo dục hay quá trình
được giáo dục; hay nó có thể là một dạng metadiscipline theo nghĩa quan tâm
đến những khái niệm, mục tiêu, và phương pháp của giáo dục. Như vậy, triết
học giáo dục vừa là một phần của lĩnh vực giáo dục vừa là một phần của lĩnh
vực triết học ứng dụng, bao gồm các lĩnh vực siêu hình học, nhận thức luận,
giá trị học (axiology) và những cách tiếp cận triết học nhằm giải quyết những
vấn đề trong và về các chủ đề như phương pháp giáo dục, chính sách giáo
dục, và chương trình học, cũng như quá trình học, và những chủ đề
khác. Chẳng hạn, triết học giáo dục có thể nghiên cứu bản chất của sự nuôi
dưỡng và giáo dục, những giá trị và chuẩn mực được thể hiện qua việc nuôi
dưỡng và giáo dục, những giới hạn và việc hợp pháp hóa giáo dục với tư cách
là một ngành học thuật, và mối quan hệ giữa lý thuyết giáo dục và thực hành
giáo dục.



1.2. Điều kiện, tiền đề ra đời và nội dung cơ bản của triết học hiện
sinh Karl Jaspers
1.2.1. Karl Jaspers cuộc đời và sự nghiệp
Karl Jaspers sinh ngày 23 tháng 12 năm 1883 tại Oldenburg, nước Đức
và mất ngày 26 tháng 02 năm 1969. Ông là một triết gia, nhưng cũng đồng
thời là nhà phân tâm học tiêu biểu hàng đầu thế kỷ XX. Những tư tưởng của
ông có ảnh hưởng mạnh mẽ tới thần học, phân tâm học và triết học hiện đại.
Ông sinh tại Oldenburg có mẹ làm việc cho một nông trại địa phương, cha
làm luật gia. Ông sớm quan tâm đến triết học nhưng chọn ngành luật khi vào
đại học bởi những ảnh hưởng của người cha. Jaspers đã chọn học luật tại
Trường đại học Heidelberg, sau đó học tại Muyschen từ 1901 – 1902. Ông lại
theo học trường y tại Berlin và tốt nghiệp trường này năm 1909 với đề tài
luận án tiến sĩ là: Heimweh und Verberchen ( Nostalgie et Criminalite ) bước
đầu làm việc tại bệnh viện Tâm thần Heidelberg (nơi mà Emil Kraepelin đã
từng làm việc trước đó). Ông được đề cử làm phụ khảo Y khoa, ngành Tâm
trị học ở Heidelberg. Chính tại đây, ông nhận thấy và thất vọng về phương
pháp mà giới y học bấy giờ nghiên cứu tiếp cận bệnh tâm thần, ông tự đặt cho
mình nhiệm vụ nâng cao phương pháp Phân tâm học. Năm 1913, ông được
đưa lên làm giảng viên về môn tâm lý học. Về sau trở thành giảng viên chính
thức cũng như không bao giờ quay lại với công việc điều trị lâm sàng nữa.
Nhưng sau chính con đường Y khoa và Tâm lý học đã dẫn đà để ông khám
phá những u uẩn trong cuộc sống của con người, năm 1916 ông được mời làm
Giáo sư ngoại lệ, Giáo sư thực thụ về Triết học tại Heidenberg đúng năm
1921. Nhưng vào năm 1937 vì lý do chính trị, ông đã bị phong trào Đức quốc
xã cách chức. Trong thời ấy ông đã không được phép xuất bản gì cả. Mãi tới


năm 1945 ông mới được phục chức và năm 1946 ông được tặng chức "Kỳ lão
danh dự" (Ehrensenator) ở Đại học Heidelberg. Ở tuổi 40 Jaspers đã có bước

chuyển từ tâm lý học sang triết học, với việc mở rộng những đề tài mà ông
từng nghiên cứu trong các công trình y học của ông. Jaspers là một triết gia
lừng danh ở Đức và châu Âu, tư tưởng của ông có ảnh hưởng sâu rộng trong
phong trào hiện sinh trên thế giới. Năm 1948, Jaspers nhận chức giáo sư triết
học tại đại học Basel ở Thụy sĩ. Và tiếp tục hoạt động triết học cho tới khi qua
đời tại đây vào năm 1969.
Như vậy ta thấy, Jaspers không chỉ là một triết gia mà còn là một nhà
Tâm lý học. Quyển Allgemeine Psychopathologie: Tâm lý học (được xuất bản
năm 1913) là một yếu luận quan trọng mà ngày nay vẫn được coi là một căn
bản trong các vấn đề về tâm lý học. Tiếp theo là quyển Psychologie der
Weltanschaungen: Tâm lý học về Vũ trụ quan được xuất bản năm 1919.
Quyển này chiếm một vị trí quan trọng trong việc hình thành tý tưởng triết lý
hiện sinh của ông. Ở đây, chúng ta thấy rõ ảnh hưởng của tư tưởng
Kierkegaard lên tư tưởng của ông, nên khi đọc triết học của Jaspers người ta
có cảm giác như đọc một bài chú giải sâu sắc về triết học Kierkegaard. Mặt
khác, ngoài ảnh hưởng của tư tưởng Kierkegaard, còn nhiều triết gia khác đã
có ảnh hưởng không ít trên sự hình thành và phát triển tư tưởng của Jaspers
như: Kant, Fichte, Schelling hay Nicolas de Cuse, Giordano Bruno và
Spinoza, v.v… Hầu hết các triết gia thiên về khuynh hướng Phiếm thần
(Pantheisme) và Huyền nhiệm (Mystique). Mặt khác, Jaspers còn đối chiếu tư
tưởng của ông với tư tưởng của Nietzche và của Descartes. Theo ông,
Nietzsche là một Hiện sinh ngoại lệ (Ausanhme) như Kierkegaard và cũng là
một “khích lệ mở đầu” cho triết lý hiện sinh. Với Descartes, Jaspers nhận
thấy, ông khám phá ra được những chân lý tuyệt vời khi “hoài nghi” và “suy
tưởng”, nhưng vì Descartes đã không trung thành với chính “nguồn suối” ấy


nên những chân lý kia trở thành võ đoán chật hẹp. Tóm lại, Jaspers đã tổng
hợp được những khuynh hướng triết lý rất khác nhau để tiến dần về hướng
triết học hiện sinh. Với việc cho xuất bản bộ sách lớn gồm 3 quyển nhan đề

Philosophie Jaspers đã cho thấy, lập trường căn bản về hiện sinh và những
vấn đề liên quan đến truyền thống triết lý Hy Lạp và Tây phương đã được
vạch ra trong triết học của ông. Nghĩa là, 15 năm sau khi biên soạn quyển Von
der Wahreit (bàn về sự thực) và bộ Philosophische (triết học), ông vẫn còn
trung thành với những lập trường của bộ triết học đó. Ngoài ra, chúng ta còn
phải kể đến một số tác phẩm nhỏ hơn xem ra hơi xa với viễn tượng hiện sinh,
nhưng thực sự cũng giúp hiểu thêm về triết học hiện sinh của ông chẳng hạn
cuốn Die geistige Situation der Zeit (Hiện trạng tinh thần thời đại) và cuốn
Vom Ursprung und Ziel der Geschichte (Nguồn gốc và Ý hướng lịch sử). Sau
khi đã được trình bày thêm một phần ngắn gọn trong bài viết này, ông còn
phát triển thêm tư tưởng trong những bài văn như: Verunft und Exitenz (Lý
tính và hiện sinh); Existenzphilosophie (Triết lý hiện sinh); Der
philosophische Glaube (Niềm tin triết lý) và Einfiihrung in die Philosophie
(Triết học nhập môn). Trong cuộc đời nghiên cứu lý luận của mình, Jaspers
đã nhiều lần được phong tặng bằng tiến sĩ danh dự, được tặng giải thưởng
Goethe năm 1947 và giải thưởng hoà bình của Hiệp hội Kinh doanh sách Tây
Đức năm 1958. Sau nhiều năm cống hiến và hoạt động trên lĩnh vực triết học,
y học, nhà hiện sinh người Đức đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm có giá
trị, như Triết học, gồm 3 tập (1932); Ý tưởng đại học (1946); Câu hỏi về tội
lỗi của nước Đức (1946); Đức tin triết học (1948); Nguồn gốc và mục tiêu
của lịch sử (1949); Tương lai nhân loại (1961); Đức tin triết học đối với sự
mặc khải (1962),… Cho đến trước khi qua đời, Jaspers đã xuất bản 30 tác
phẩm và ngoài ra, ông còn để lại hàng nghìn trang bản thảo viết tay chưa
được công bố cũng như rất nhiều thư từ quan trọng trao đổi với nhà triết học


Mỹ gốc Đức - Hannah Arendt. Khác với nhà triết học M. Heidegger đã gia
nhập Đảng Quốc xã, Jaspers phản đối kịch liệt chủ nghĩa phát xít và ông cho
rằng: "Bất kỳ ai tham gia tích cực vào việc chuẩn bị hay thực hiện những tội
ác chiến tranh chống lại loài người đều có tội về mặt đạo đức".

Với một tư duy biện chứng sâu sắc, tinh tế, ông đã đi vòng theo những
quanh co của hiện sinh để mô tả những gì dường như không thể làm được,
mặc dù lối lập luận của ông đôi khi quá phức tạp, chi ly. Ngoài những giá trị
suy tư vừa nói, triết lý của Jaspers thể hiện ra như một bài học hay kinh
nghiệm đạo đức cao siêu và phóng khoáng. Vì với mỗi trình bày hay miêu tả
về một khía cạnh nào về hiện sinh, ông cũng đồng thời nêu lên một hình ảnh
đạo đức để khích lệ chúng ta vươn lên những khuynh hướng siêu việt thâm
sâu. Nhưng phải nói ngay rằng, đây không phải một thứ đạo đức ngoại tại,
phiến diện hay tổng quát mà là một thứ đạo đức xuyên tới. Có thể nói, đây là
"đạo tại tâm" tức là, ở đây người đọc vừa học triết lý lại vừa sống trong triết
lý của chính mình học. Thực vậy, mỗi lần đọc lại những trang Triết học nhập
môn là một lần tư duy và tâm hồn như được tắm lại trong một sức sống và suy
tư mới, thông qua đó thấy được giá trị, những đóng góp của triết học Jaspers
trong thế kỷ XX.
Trên cơ sở những tác phẩm cơ bản của Jaspers, tác giả luận văn đi vào
trình bày một cách khái quát những tư tưởng hiện sinh và triết học giáo dục
trong 2 tác phẩm của ông là Triết học nhập môn và Ý niệm đại học.
Tác phẩm Triết học nhập môn gồm 3 tập (1932) là tác phẩm quan trọng
nhất, chứa đựng hầu như trọn vẹn chủ đề hiện sinh của Jaspers. Ở đây, ông đã
trình bày những hiểu biết, đánh giá của mình về lịch sử triết học và đưa ra
quan niệm về vũ trụ hiện sinh trên một số phương diện. Triết học Jaspers là sự
kết hợp tinh tế và sâu sắc triết học Kierkegaard với triết học Nietzsche, cộng


với một tinh thần năng động của truyền thống và hiện đại, khác với đường lối
tiêu cực của Jean Paul Sartre. Trong triết học Jaspers, người ta nhận thấy tinh
thần hiện sinh khá sâu sắc, khi ông chú trọng với mọi hình thái hiện sinh của
con người trong không gian và thời gian. Khi chống lại những luận điểm về
con người của Plato, Comte, Hegel, Nietzsche…, ông cho rằng, những quan
niệm này nhất định sẽ đưa con người tới chỗ tự tôn mình làm Thượng đế và

do vậy, sẽ đưa con người tới những cái điên rồ, vô lý. Triết học Jaspers là kết
quả của những tư tưởng, những suy ngẫm chân thành và sâu sắc về con người.
Trong triết học của ông, người ta thấy những suy tư trong việc đi tìm định
mệnh con người, thấy sự cố gắng của ông trong việc giúp cho con người thoát
ra khỏi cảnh sa lầy tự mãn và do vậy, những suy tư, cố gắng này của ông đã
có ảnh hưởng tích cực tới nền triết học hiện đại. Điều đáng ghi nhận nhất
trong triết học về con người của Jaspers là sự thức tỉnh con người, buộc con
người phải tự ý thức về trách nhiệm làm người của mình và phải sống sao cho
xứng đáng với sự hiện sinh ấy. Tư tưởng của Jaspers về tự do, về tôn giáo
cũng mang ý nghĩa sâu sắc, khi nó giúp cho con người nhận thức được tự do
có giới hạn, tự do là ý nghĩa căn bản của hiện sinh, nhưng đó không phải là tự
do vô lối, vô ý thức của con người.
Cuốn Ý niệm đại học dài 164 trang, gồm 3 phần không đều nhau: Phần
I bàn về đời sống tinh thần nói chung; phần II bàn về những mục tiêu của Đại
học; phần III bàn về những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của đại học.
Trong đó, phần II là quan trọng nhất, nên được trình bày một cách sâu rộng
hơn hai phần kia. Trong cuốn sách này, Jaspers đã chỉ ra hiện thực tại nước
Đức, tại các trường đại học của Đức trong cuộc khủng hoảng nhận thức chung
đã tiến hành những cải cách, mang tới những thất vọng, lãng phí và vô nghĩa
chính trị, đưa tới việc đe dọa các trường đại học ở Đức. Ông đã đặt ra những
câu hỏi mà các trường đại học của Đức cần trả lời như: các trường đại học của


tương lai là như thế nào? Cần có bao nhiêu cuộc cải cách, có bao nhiêu cạnh
tranh, làm thế nào với các vấn đề quốc tế mà họ cần phải trở thành? Các
chuyên gia nổi tiếng tham gia vào nghiên cứu và trường đại học thực hành đặt
nền móng cho các cuộc tranh luận hiện nay. Từ sự khởi đầu trong thế kỷ XII,
để cải cách các trường đại học của Wilhelm von Humboldt và các trường đại
học cho quần chúng trong thời đại. Phạm vi từ phân tích lịch sử quan điểm
thực tế kích thích tư duy và tương lai mới cho các trường đại học của tương

lai.
1.2.2. Những điều kiện kinh tế, chính trị và văn hóa - xã hội cho sự
ra đời chủ nghĩa hiện sinh Karl Jaspers
Từ nửa cuối thế kỷ XVIII, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật
đã đưa các nước phương Tây tới sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của kinh tế, xã hội phương Tây lúc bấy
giờ được đánh dấu bằng Cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh năm 1760, lúc
đầu nó được bắt đầu trong ngành công nghiệp dệt, sau đó đã lan rộng ra khắp
các ngành sản xuất khác để làm thay đổi bộ mặt đời sống xã hội nước Anh,
biến nước Anh từ một nước công nghiệp nhỏ bé thành một nước công nghiệp
dẫn đầu lúc bấy giờ và chủ nghĩa tư bản ở Anh trở nên lớn mạnh cũng như có
tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã kéo
theo sự phát triển nhanh chóng trong nền kinh tế, cũng như có ảnh hưởng sâu
sắc đến sự phân chia giai cấp trong xã hội. Điều này đã được Ph. Ăngghen
phân tích khá tỉ mỉ trong tác phẩm Tình cảnh nước Anh thế kỷ mười tám.
Cuộc cách mạng này được đánh dấu bằng sự kiện James Watt chế tạo thành
công chiếc máy hơi nước đầu tiên trên thế giới năm 1768. Sau đó, với nhiều
sự kiện chuyển mình khác trong nền kinh tế xã hội lúc bấy giờ với những phát
minh, cải tiến kỹ thuật trong các lĩnh vực như: sản xuất gốm, cơ khí, máy kéo


sợi… Kết quả của những phát minh, cải tiến đó là sự phát triển nhanh chóng
của nền công nghiệp Anh, mà đầu tiên là trong lĩnh vực thủ công nghiệp, sau
đó được phát triển mạnh sang những ngành khác như công nghiệp chế tạo len,
lanh và tơ. Bằng việc phát minh và cải tiến kỹ thuật như vậy đã kéo theo một
hệ quả tất yếu là sự dư thừa lao động trong những ngành công nghiệp đó khi
sức của máy móc đã dần thay thế sức lao động thủ công với năng suất lao
động không ngừng được tăng lên, sản phẩm hàng hóa ngày càng nhiều, chất
lượng ngày càng tốt. Cuộc cách mạng công nghiệp còn nhanh chóng lan sang
nhiều ngành công nghiệp khác như: khai mỏ, chế tạo máy, chế biến kim loại,

phát triển giao thông vận tải, v.v… và hàng hóa được vận chuyển lưu thông
nhanh chóng trong toàn nước Anh, đã đưa tới một tất yếu khác trong sự phát
triển xã hội là sự hình thành giai cấp vô sản do cuộc cách mạng công nghiệp
đem lại [2, tr.51]. Cuộc cách mạng đã đòi hỏi một số đông công nhân có sẵn
để cung cấp cho nhiều ngành nghề mới. Mặt khác, nhờ cuộc cách mạng công
nghiệp mà giai cấp tư sản “đã ngoi lên địa vị của tầng lớp quý tộc thực sự”
[22, tr.39]. Sự kiện thứ hai đánh dấu cho sự phát triển của xã hội châu Âu lúc
bấy giờ là cuộc Cách mạng Tư sản diễn ra ở Pháp 1789 – 1794 nhằm thủ tiêu
chế độ phong kiến để mở đường cho lực lượng sản xuất của xã hội tư bản
phát triển. Sự kiện này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với xã hội phương Tây
lúc bấy giờ, khi xé toang màn đêm của xã hội đêm trường Trung cổ, làm cho
những quan hệ phong kiến cũ bị phá vỡ, chế độ quân chủ sụp đổ, để xã hội
phương Tây bước vào một kỷ nguyên mới của tự do, bình đẳng, bác ái, với
những quyền con người được đề cao trong xã hội. Những nhà tư tưởng ở châu
Âu lúc bấy giờ ở Pháp, Anh, Đức, Hà Lan, v.v… đã nhanh chóng đón nhận
những sự kiện này, đặc biệt là các nhà triết học Đức. Với tinh thần của khẩu
hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” mà cách mạng tư sản Pháp mang tới đã thực
sự khơi gợi cảm hứng và là đề tài chủ đạo cho “tự do”, “tinh thần phổ biến”,


cho các nhà triết học thời kỳ này. Sự thay đổi mau lẹ của nước Anh và Pháp
như vậy trên con đường tư bản chủ nghĩa thì tại Đức lúc bấy giờ vẫn là một
nước phong kiến lạc hậu về kinh tế và chính trị. Với những ràng buộc bởi
quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu, sự tập trung ruộng đất trong tay địa chủ
ở nông thôn và chế độ phường hội trong thành thị đã làm năng suất lao động
thấp, đời sống của dân chúng thì nghèo nàn, lạc hậu và cùng cực. Mặc khác,
sự phân chia lãnh địa thành cát cứ phong kiến, cùng với sự phân chia về kinh
tế và chính trị đã cản trở nước Đức phát triển theo con đường tư bản chủ
nghĩa. Đúng như Ăngghen khi nghiên cứu về nước Đức đã nhận xét về “tình
hình nước Đức” như sau: “Mọi cái đều tồi tệ và tâm trạng bất mãn đã bao

trùm cả nước. Không có giáo dục, không có phương tiện ảnh hưởng đến ý
thức quần chúng, không tự do báo chí, không có dư luận xã hội, thậm chí
không có buôn bán tương đối lớn với các nước khác – không có gì cả ngoài sự
đê tiện và tự tư tự lợi; lề thói con buôn hèn mạt, xum xoe, nịnh hót thảm hại
đã xâm nhập toàn dân. Mọi thứ đều nát bét, lung lay, xem chừng sắp sụp đổ,
thậm chí chẳng còn lấy một tia hy vọng chuyển biến tốt lên, vì dân tộc thậm
chí không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi” [2,
tr.54]. Có thể thấy, nước Đức bước vào thời đại công nghiệp muộn hơn so với
các nước Anh, Pháp lúc bấy giờ, cộng với những khác biệt trong sự hình
thành dân tộc Đức so với các nước khác nên giai cấp tư sản ở Đức bấy giờ
không thể hiện được vai trò tiên phong trong xã hội như ở các quốc gia khác.
Còn các nhà triết học lúc bấy giờ của Đức lại chống lại những cải cách ấy
bằng con đường cách mạng xã hội và vì vậy với những nhà triết học Đức họ
cũng đã tạo nên những hệ thống triết học trừu tượng, tách khỏi đời sống thực
tiễn, phủ nhận con đường cách mạng cải tạo hiện thực. Bế tắc trước thực trạng
kinh tế - xã hội lúc bấy giờ, cũng như những giá trị nhân quyền bị bóp nghẹt
trong xã hội phong kiến quân chủ Phổ, các nhà triết học duy tâm mà bắt


nguồn từ I.Kant trở đi đã xây dựng một hệ thống triết học trong tư duy, ý thức
của chủ thể (con người), đặc biệt đề cao tính năng động và tính duy lý của chủ
thể. Với tư duy biện chứng sâu sắc các nhà triết học duy tâm Đức khi đi sâu
vào chủ thể (do Kant khởi xướng) văn hóa tinh thần đã có những đóng góp to
lớn trong việc xây dựng nền tảng triết học độc đáo và tạo nên bước ngoặt
trong lịch sử triết học phương Tây mà sau này các nhà triết học trong thế kỷ
XX đã kế thừa những tư tưởng về con người trong triết học của Kant. Bước
vào thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây ngày càng phát triển, mang
nhiều diện mạo mới với sự chuyển mình sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản hiện
đại. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật được thay thế bằng cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, đã làm biến đổi sâu sắc bộ mặt đời sống xã hội

phương Tây lúc bấy giờ. Trong xã hội thời kỳ hiện đại, nền sản xuất phương
Tây đã thể hiện sức mạnh vượt trội với quy mô sản xuất tăng, dẫn tới tích tụ
sản xuất lớn, sản xuất hàng hóa phong phú và đa dạng, v.v… thành quả của
những tiến bộ trong khoa học kỹ thuật ấy được ý thức hệ của xã hội phương
Tây miêu tả như thành quả của chủ nghĩa duy lý [5, tr. 5]. Lịch sử đã ghi nhận
và cho thấy, xã hội phương Tây bước từ giai đoạn phong kiến sang tư bản chủ
nghĩa, được gọi là thời kỳ của triết học Khai sáng để thay thế cho đêm trường
Trung cổ ở châu Âu. Từ đó người ta cho rằng, mọi tiến bộ trong đời sống xã
hội chỉ có thể thực hiện được dựa trên sự phát triển phồn vinh của khoa học
kỹ thuật và công nghệ, thông qua sự duy lý hóa chính trị, kinh tế và toàn bộ
đời sống xã hội. Sự lạc quan đối với trí tuệ và tri thức đã thể hiện một cách
đầy đủ và triệt để nhất trong ý thức lấy công nghệ làm nền tảng. Cuộc cách
mạng khoa học công nghệ giữa thế kỷ XX đã làm nảy sinh ý tưởng cho rằng,
sự phát triển khoa học – kỹ thuật có thể cứu chủ nghĩa công nghiệp khỏi cuộc
khủng hoảng, loại trừ những xấu xa, băng hoại và mâu thuẫn vốn có trong xã
hội của nó. Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ trong khoa học kỹ thuật có tác


động không nhỏ tới sự phát triển trong kinh tế đã đưa đến sự hình thành một
xu hướng duy lý cao gọi là chủ nghĩa kỹ trị và những quan điểm kỹ trị được
bộc lộ rõ ràng trong những mô hình xã hội của những nhà tương lai học về
chủ nghĩa công nghiệp mang nhiều màu sắc khác nhau. Trong đó, tính duy lý
luôn luôn đối lập với tính phi duy lý, như tâm linh, tôn giáo, đạo đức, tình
yêu, v.v… và được coi là phương thức vạn năng để hoàn thiện xã hội. Người
ta đã có sự tuyệt đối hóa trong sự định nghĩa cũng như hiểu về xã hội khi
quan niệm rằng, mọi tiến bộ xã hội được hiểu như là kết quả của sự truyền bá
những tư tưởng duy lý chân thực trong việc loại bỏ những điều phi duy lý.
Điều này đã đưa đến sự ngộ nhận về sự toàn năng của tư duy khoa học - kỹ
thuật trong việc giải quyết những vấn đề của xã hội đặt ra lúc bấy giờ.
Trong những biểu hiện của chủ nghĩa duy lý trong đời sống xã hội lúc

bấy giờ thì phải nói đến chủ nghĩa duy lý về nhà nước và thị trường, điều mà
J. Habermas đã chỉ ra đó là hai trụ cột của xã hội phương Tây hiện đại. Theo
đó tác giả có sự phân tích độc đáo như sau: Tính duy lý của nhà nước, thể
hiện ở chỗ nó bị chi phối bởi những nhà kỹ trị, nhà quản lý chuyên nghiệp tạo
thành một nhà nước quan liêu ngày một trương phình đè lên con người [5, tr.
7]. Vì vậy con người muốn thoát khỏi sự đè nén khỏi nhà nước duy lý ấy thì
con người phải phá bỏ, vượt qua sự cưỡng bức quyền lực ấy để xây dựng một
xã hội mới công bằng, bình đẳng về chính trị. Còn thị trường được xem như
một thành tựu vĩ đại, sánh ngang với những thành tựu trí tuệ khác của con
người. Sức mạnh của nó là sản sinh ra một “xã hội tiêu thụ”, “xã hội dư thừa”,
một hiện tượng “tiện nghi đại chúng” đã được ý thức hệ hóa khi trở thành
phương tiện hòa nhập, khóa chặt con người vào xã hội không còn một lối
thoát. Có thể nhận thấy, với chủ nghĩa duy lý, xã hội phương Tây đã đạt tới
giai đoạn tột cùng của nó và trong sự phát triển tột cùng của nó đã nảy sinh
trong nó là sự khủng hoảng. Các nhà triết học phi duy lý như Nietzsche,


Spenler đã chỉ rõ sự suy tàn, sự suy đồi ở phương Tây chính ở chủ nghĩa duy
lý kỹ thuật. Sống trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp nhưng
Mác đã nêu ra những nhược điểm của xã hội kỹ trị như sau: “Trong thời đại
chúng ta, mọi sự vật đều tựa hồ như bao hàm mặt đối lập của nó. Chúng ta
thấy rằng những máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt lao
động của con người và làm cho lao động của con người có kết quả hơn, thì lại
đem nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải
mới, từ xưa tới nay chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đó
lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Những thắng lợi của kỹ
thuật dường như đã được mua bằng cái giá của sự suy đồi về mặt tinh thần”
[5, tr.8], hay như Mác viết “Tất cả những phát minh của chúng ta và tất cả sự
tiến bộ của chúng ta tựa hồ như đang dẫn tới chỗ là, những lực lượng vật chất
thì được ban cho một đời sống tinh thần, còn đời sống của con người vốn đã

bị tước mất cái mặt tinh thần rồi thì nay lại bị hạ thấp xuống trình độ những
lực lượng vật chất đơn thuần” [5, tr.8]. Với bối cảnh lịch sử, xã hội như vậy
sự duy lý hóa ở phương Tây đã sa vào khủng hoảng, suy đồi khi nó đã phi
nhân vị hóa con người và biến con người chỉ còn là “một lực lượng vật chất
đơn thuần”. Khi con người đã trở nên bần cùng và kiệt quệ trong bộ máy kỹ
trị khổng lồ của xã hội hiện đại, thì sự suy sụp của những cá nhân là điều
không thể tránh khỏi. Thân phận con người trong chính xã hội mà con người
tạo ra ấy đã thực sự nuốt chửng con người với những gì giành được không
phải giá trị của loài người mà lại phải trả giá bằng sự băng hoại, suy đồi của
đạo đức. Khi tìm hiểu về con người trong nền văn minh kỹ trị, F. Fromm đã
có những nhận xét thật độc đáo: Ở thế kỷ XIX, sự tàn bạo chống lại con người
vì vậy vấn đề của thế kỷ này theo Nietzsche nói là “Chúa đã chết”. Còn ở thế
kỷ XX, con người đã tha hóa, có tính chất nô lệ để biến con người trong
tương lai có nguy cơ trở thành thần kinh phân liệt [5, tr. 9] và vấn đề của con


×