Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHÙNG QUỐC BAN

PHÒNG NGỪA SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ MAI LAN

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Những nội dung trong luận văn này là công trình nghiên cứu do tôi thực
hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của PGS.TS Nguyễn Thị Mai Lan. Các nội
dung tham khảo dùng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng tên tác giả, tên
công trình, thời gian và địa điểm công bố. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm
quy chế đào tạo, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2016
NGƯỜI THỰC HIỆN

Phùng Quốc Ban




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BVCSTE

Bảo vệ chăm sóc trẻ em

Công ước 138

Công ước số 138 của ILO về tuổi lao động tối thiểu (ILO
Convention No. 138 on the Minimum Age for Admission to
Employment and Work), 1973

Công ước 182

Công ước số 182 của ILO về xóa bỏ những hình thức lao động
trẻ em tồi tệ nhất (Worst Forms of Child Labour Convention)
1999

ILO

Tổ chức Lao động Quốc tế (the International Labour
Organization)

IPEC

Chương trình quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em của ILO
(International Programme on the Elimination of Child Labour)


LĐ-TB&XH

Lao động - Thương binh và Xã hội

LĐTE

Lao động trẻ em

LHQ

Liên hợp quốc

UBND

Uỷ ban nhân dân

UNICEF

Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (United Nations’ Children Fund)

CTXH

Công tác xã hội


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU................................................................................................... ................ .1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA
SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM. .................................................................................... 7

1.1. Sử dụng lao động trẻ em ...................................................................................... 7
1.2. Phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em ................................................................. 17
1.3. Công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em .......................... 26
1.4. Khách thể và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 29
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA SỬ
DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM TỈNH VĨNH PHÚC................................................. 34
2.1. Thực trạng sử dụng lao động trẻ em tỉnh Vĩnh Phúc ......................................... 34
2.2. Phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em tỉnh Vĩnh Phúc ....................................... 46
2.3. Thực trạng công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em tại
Vĩnh Phúc .................................................................................................................. 49
Chương 3. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM
TỈNH VĨNH PHÚC................................................................................................. ..56
3.1. Dự báo các yếu tố vận động lao động trẻ em ..................................................... 56
3.2. Phương hướng phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em giai đoạn 2016- 2020 .... .59
3.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác phòng ngừa sử dụng lao
động trẻ em ................................................................................................................ 64
3.4. Kiến nghị ............................................................................................................ 73
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO; PHỤ LỤC. .................................................... 77


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. Trẻ em khi sinh
ra đều có quyền được hưởng sự thương yêu, chăm sóc của bố mẹ, cộng đồng.
Nhưng vẫn còn rất nhiều trẻ em vì hoàn cảnh gia đình phải bỏ học để đi làm thêm
phụ giúp gia đình, lang thang kiếm sống rồi nảy sinh ra các tệ nạn xã hội như trộm
cắp, hút chích, bị lạm dụng sức lao động, bị xâm hại tình dục…
Trẻ em lao động sớm đang là vấn về bức xúc của nhiều quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam. Đây cũng là một trong những vấn đề được Chính phủ quan

tâm đặc biệt và đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm can thiệp và hỗ trợ có hiệu
quả đối với nhóm trẻ em thiệt thòi này. Sự quan tâm này được thể hiện: Việt Nam là
một trong những Quốc gia đầu tiên trên thế giới phê chuẩn Công ước Quốc tế về
quyền trẻ em (1990). Việc phê chuẩn Công ước này đã đặt ra trách nhiệm pháp lý
của nước ta trước cộng đồng quốc tế và tạo ra sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ
về thực hiện quyền cơ bản, đặc biệt là quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức bạo
lực về thể xác hoặc tinh thần, bị bỏ mặc xao nhãng, bị tổn thương hay lạm dụng.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Chương trình Ngăn ngừa và giải quyết tình
trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục, trẻ em phải lao động nặng
nhọc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010 (Quyết định số
19/2004/QĐ-TTg ngày 12/2/2004). Nhằm hướng tới trợ giúp cho tất cả mọi trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 267/QĐTTg phê duyệt Chương trình Quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015, trong đó
có việc tiếp tục duy trì và phát triển mô hình trợ giúp trẻ em lang thang, trẻ em phải
làm việc nặng nhọc, tiếp xúc với chất độc hại
Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã giúp nền kinh tế Việt Nam vươn
lên mạnh mẽ, GDP liên tục tăng trưởng ở mức cao và tương đối ổn định. Việt Nam
đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo, đời sống của đại bộ phận nhân dân đã được cải
thiện, nhất là người nghèo, đồng bào dân tộc, phụ nữ và trẻ em. Bên cạnh những
thành tựu về phát triển kinh tế, Việt Nam cũng đạt những kết quả đáng ghi nhận về
xã hội, trong đó có mục tiêu vì trẻ em giai đoạn 2001- 2010 về cơ bản đã đạt và
vượt kế hoạch. Song cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, sự phân hoá giàu

1


nghèo ngày càng tăng. Nhiều trẻ em đã phải bỏ học để tự kiếm sống và giúp đỡ gia
đình. Một số trẻ em may mắn hơn khi không phải bỏ học thì phải chọn cho mình
một công việc nào đó để tự lo liệu tiền trang trải việc học tập của mình.
Vĩnh Phúc là một tỉnh nằm ở phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội. Trong những
năm qua, thực hiện chủ trương chính sách của nhà nước, Vĩnh Phúc đã đạt được

nhiều kết quả đáng ghi nhận. Nhiều năm liền được đánh giá là một trong những tỉnh
có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh đứng đầu trong cả nước làm thay đổi diện mạo
kinh tế- xã hội của tỉnh, từng bước cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của đại
bộ phận dân cư được nâng cao. Vì vậy, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã được
các cấp, các ngành quan tâm hơn, nhiều chính sách trợ giúp trẻ em được triển khai
đạt hiệu quả. Các hoạt động bảo vệ trẻ em bước đầu được triển khai thực hiện ở cả 3
cấp độ: phòng ngừa; can thiệp giảm thiểu các nguy cơ; hỗ trợ phục hồi, hòa nhập
cho trẻ em bị tổn thương và hoàn cảnh đặc biệt. Tuy nhiên, kết quả thực hiện các
mục tiêu bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em đến nay chưa đạt theo kết quả mong
muốn, trong số 36 chỉ tiêu đặt ra thì có tới 14 chỉ tiêu chưa đạt, trong đó có tới 5 chỉ
tiêu thuộc về Bảo vệ chăm sóc trẻ em, trong đó có chỉ tiêu về lao động trẻ em. Vẫn
còn tình trạng trẻ em phải lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm,
trẻ em có nguy cơ cao tham gia lao động sớm do hoàn cảnh gia đình khó khăn…
Thực trạng trên cho thấy công tác phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em nói
chung và trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng còn nhiều bất cập. Tình hình lao
động trẻ em vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh
tế và những vấn đề xã hội nảy sinh như hiện nay. Khi mà gần đây rất nhiều vụ việc
lao động trẻ em bị ngược đãi, bạo hành, lạm dụng... bị phát hiện và xử lí, mà phát
hiện đầu tiên lại là cơ quan báo chí, mạng xã hội và lên tiếng của người dân. Những
vụ việc đó có thể chỉ là con số nhỏ trong tảng băng chìm mà lao động trẻ em đang
phải đối mặt. Điều đó đòi hỏi những giải pháp mang tính hiệu quả hơn đối với công
tác xã hội trong phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em trong bối cảnh hiện nay. Tuy
chưa có vụ việc nghiêm trọng nào xẩy ra trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, song với
mong muốn hoàn thiện các hoạt động về công tác xã hội trong phòng ngừa sử dụng
lao động trẻ em trong thực thi chính sách Bảo vệ chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc, nhằm tạo môi trường lành mạnh, thuận lợi để trẻ em được bảo vệ, được
tham gia, học tập để phát triển.

2



Từ những nhận thức trên, với mong muốn đề xuất những biện pháp công tác
xã hội nhằm hoàn thiện việc phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em
từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Công tác xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tổng quan tình hình nghiên cứu về phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em cho
thấy các hướng nghiên cứu lý luận và thực tiễn về sử dụng lao động trẻ em và
phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em đã được tiến hành nghiên cứu. Các nghiên cứu
cụ thể về vấn đề này được nêu dẫn cụ thể dưới đây:
Các nghiên cứu cụ thể về lao động trẻ em và sử dụng lao động trẻ em đã
được tiến hành nghiên cứu rất bài bản bởi các nhà nghiên cứu thuộc Bộ Lao động –
TTB & XH. Các nghiên cứu cụ thể như:
Bộ Lao Động- Thương binh và Xã hội Việt Nam được sự giúp đỡ của
UNICEF tổ chức biên soạn tài liệu: Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em Việt Nam:
“Đánh giá pháp luật và chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt ở Việt Nam” vào năm 2009. Bản đánh giá đã phân tích các cơ chế chính
sách, văn bản pháp luật của Việt Nam về trẻ em, nhóm trẻ em đã bị thiệt thòi ở Việt
Nam để sử dụng sự giúp đỡ của UNICEF [2].
Báo cáo kết quả điều tra về lao động trẻ em tại 8 tỉnh, thành phố năm 2010
của Bộ Lao động- TB&XH và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Báo cáo đã đề cập
đến thực trạng về lao động trẻ em tại các tỉnh thành phố đặc trưng, đây là cơ sở để
nhà nước có các giải pháp về lao động trẻ em [11].
Tác giả Nguyễn Hải Hữu đã thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học: “Tình
hình lao động trẻ em- Thực trạng và giải pháp”. Đề tài đã nghiên cứu những vấn đề
lý luận và phân tích thực trạng lao động trẻ em trong những năm 2010 và đưa ra các
giải pháp căn bản về bảo vệ lao động trẻ em [18].
Tiếp theo các nghiên cứu trên, tác giả Quách Thị Quế Viện Khoa học Lao
động xã hội đã có bài viết “Giải quyết vấn đề lao động trẻ em và trẻ em lang thang
trong chiến lược bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em” Bài viết đã cung cấp những

thông tin về giải quyết vấn đề lao động trẻ em và trẻ em lang thang nhằm xác định
những chính sách về bảo vệ quyền trẻ em theo các dự án hưởng lợi [24]

3


Năm 2012, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Tổng cục thống kê và Tổ
chức lao động quốc tế đã kết hợp để tổ chức cuộc điều tra quốc gia về lao động trẻ em.
Đây là kết quả điều tra tổng hợp về lao động trẻ em ở tất cả các tỉnh, thành phố của
Việt Nam [10].
Chùm nghiên cứu về đề tài trẻ em (Viện nghiên cứu và phát triển xã hội)
trong đó đề cập đến vấn đề sức khỏe của trẻ lao động sớm.
Qua các đề tài và công trình nghiên cứu trên có thể hình dung ra bức tranh
tổng quan về tình hình lao động trẻ em hiện nay, cũng như những tác động từ gia
đình, xã hội đến trẻ em lao động sớm. Một số đề tài, nghiên cứu đã đề cập đến một
số kỹ năng thực hành công tác xã hội đối với trẻ em lao động sớm, bên cạnh đó đã
đề cập đến một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng lao động trẻ em.
Báo cáo nghiên cứu về trẻ em làm việc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm
năm 2001 của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội. Báo cáo đã đề cập đến thực
trạng về trẻ em phải làm việc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm, đây là cơ sở để
nhà nước có các chính sách và giải pháp về lao động trẻ em [4].
Tác giả Phan Thị Lan Phương năm 2014 đã có bài viết “Phòng, chống lạm
dụng lao động trẻ em góp phần thúc đẩy việc thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam”
Bài viết đã cung cấp những thông tin về thực trạng lao động trẻ em và giải pháp
phòng chống lạm dụng lao động trẻ em ở Việt Nam [23].
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu về tình hình lao động trẻ em dưới
góc độ công tác xã hội để đưa ra được các giải pháp đồng bộ, thống nhất nhằm ngăn
ngừa, giải quyết tình trạng lao động trẻ em từ các khâu phòng ngừa, phát hiện, can
thiệp sớm nhằm chủ động phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em trong hoạt động
công tác xã hội, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng công tác xã hội về
phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em, đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu công tác xã hội về phòng ngừa sử dụng
lao động trẻ em;
Phân tích thực trạng nhiệm vụ công tác xã hội trong phòng ngừa lao động trẻ
em tại tỉnh Vĩnh Phúc;
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với
phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Công tác xã hội về phòng ngừa sử dụng lao động
trẻ em.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Có rất nhiều khía cạnh có thể nghiên cứu phòng ngừa sử dụng lao động trẻ
em. Tuy nhiên, trong nội dung luận văn này chúng tôi sẽ nghiên cứu sâu lý luận và
thực tiễn về phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em từ góc độ khoa học công tác xã
hội. Trong đó, sẽ đi sâu vào việc xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu công tác xã
hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em, xác định rõ các nhiệm vụ công tác
xã hội đối với phòng ngừa lao động trẻ em.
Nghiên cứu này sẽ được tiến hành trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Để nghiên
cứu được thực trạng công tác xã hội trong phòng ngừa lao động trẻ em tác giả sẽ
tiến hành điều tra trên các khách thể chính như: 100 trẻ em, 100 nhân viên công tác

xã hội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử Mác xít, đường lối, chủ chương của Đảng. Chính sách
pháp luật của nhà nước về quyền con người, quyền công dân, về bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu về công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ
em nghiên cứu này sử dụng thuyết vai trò.
Để tìm hiểu thực trạng về lao động trẻ em, công tác xã hội đối với phòng
ngừa sử dụng lao động trẻ em tỉnh Vĩnh Phúc, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên

5


tổng số lượng khách thể là 200 người. Trong đó gồm có: 100 trẻ em; 100 nhân viên
công tác xã hội tỉnh Vĩnh Phúc.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã chỉ ra được khung lý thuyết nghiên cứu công tác xã hội với
phòng ngừa lao động trẻ em. Trong đó, xác định được các khái niệm công cụ (công
tác xã hội; phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em; công tác xã hội đối với phòng ngừa
sử dụng lao động trẻ em). Luận văn cũng đã chỉ ra được những vấn đề lí luận cơ bản
về các nhiệm vụ của công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể bổ sung thêm một số vấn đề lí luận về công
tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em vào những vấn đề lí luận của
chung của công tác xã hội với trẻ em.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã phân tích và chỉ ra được thực trạng lao động trẻ em trên địa bàn

tỉnh Vĩnh Phúc, thực trạng công tác xã hội đối với phòng ngừa lao động trẻ em. Kết
quả nghiên cứu của luận văn là bằng chứng khoa học quan trọng cho các cơ quan
hữu quan trong việc áp dụng nhiều biện pháp trong thực hành công tác xã hội nhằm
thực hiện có hiệu quả việc phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em; đồng thời khắc
phục những tồn tại, hạn chế hiện tại để đáp ứng yêu cầu về phòng ngừa từ xa cho
mọi đối tượng trẻ em.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận về công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao
động trẻ em.
- Chương 2. Thực trạng công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động
trẻ em tỉnh Vĩnh Phúc.
- Chương 3. Biện pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với phòng
ngừa sử dụng lao động trẻ em tại tỉnh Vĩnh Phúc.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
PHÒNG NGỪA SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM
1.1. Sử dụng lao động trẻ em
1.1.1. Lao động trẻ em
1.1.1.1. Khái niệm trẻ em
Công ước quốc tế về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới
18 tuổi” [17].
Tại Việt Nam, căn cứ vào những điều kiện, đặc điểm của con người Việt
Nam, luật của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số
25/2004/QH11 ngày 15/6/2004 về Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (BVCSTE)

quy định: “trẻ em là những công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [25].
* Công ước về quyền trẻ em: là luật Quốc tế để bảo vệ Quyền trẻ em bao
gồm 54 điều khoản. Công ước đề ra các Quyền cơ bản của con người mà trẻ em trên
toàn Thế giới đều được hưởng và được Liên hiệp quốc thông qua năm 1989. Công
ước đã được hầu hết các nước trên thế giới đồng tình và phê chuẩn. Việt Nam là
nước đầu tiên ở Đông Nam Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước
Quốc tế về quyền trẻ em. Trong đó nêu lên bốn nhóm quyền chính của trẻ em là :
- Quyền được sống còn
- Quyền được bảo vệ
- Quyền được phát triển
- Quyền được tham gia
Việc phân chia bốn nhóm quyền này chỉ mang ý nghĩa tương đối, trên thực tế
các nhóm quyền này có mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết với nhau[17].
1.1.1.2.Khái niệm lao động trẻ em
Hiện tại chưa có một định nghĩa thống nhất về lao động trẻ em (LĐTE),
nhưng ở cấp độ chung thì LĐTE được hiểu là: bất cứ trẻ em làm công việc nào có
tính chất bóc lột và gây ra tổn hại về thể chất, tâm lí, tình cảm, đạo đức,... cho trẻ
em.

7


Ở phạm vi quốc tế, không có định nghĩa chung nào về lao động trẻ em (child
labour). Thay vào đó, thuật ngữ LĐTE thường được hiểu là bất kì công việc nào gây
tổn hại cho trẻ em mà được nêu ra trong Công ước 138, 182 của tổ chức Lao động
quốc tế ILO. [25]
Các tiêu chuẩn của ILO về độ tuổi tối thiểu được nhận vào làm việc hoặc lao
động không quy định một độ tuổi tối thiểu, duy nhất mà với 3 độ tuổi tối thiểu khác
nhau phụ thuộc vào bản chất của việc làm hoặc công việc được thực hiện. Những độ
tuổi này được thiết lập theo nguyên tắc không thấp hơn độ tuổi hoàn thành giáo dục

bắt buộc trong mọi trường hợp, có nghĩa là không thấp hơn 15 đối với độ tuổi tối
thiểu chung, 13 đối với công việc nhẹ nhàng, (16 tuổi với những điều kiện nhất
định) và 18 đối với công việc độc hại.
Theo quan niệm của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), trẻ em bị coi
là lao động trẻ em nếu trẻ em phải lao động trong những trường hợp sau:
- Lao động khi còn quá bé, công việc trọn thời gian;
- Làm quá nhiều giờ, cường độ cao ảnh hưởng đến việc học hành, vui chơi,
giải trí;
- Lao động và sống trên đường phố trong những hoàn cảnh tồi tệ;
- Quá căng thẳng ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất, tinh thần và tâm lí;
- Thù lao không tương ứng với công sức bỏ ra;
- Ảnh hưởng đến nhân phẩm như làm nô lệ, gán nợ, mại dâm, đi ăn xin;
- Làm công việc hay gánh vác trách nhiệm của người lớn [28]
Ở Việt Nam chưa có khái niệm thống nhất về lao động trẻ em. Tuy nhiên,
quan điểm của Việt Nam phù hợp với quan điểm của các tổ chức quốc tế về lao
động trẻ em.
Những quy định tại Bộ Luật Lao động được Quốc hội thông qua năm 2012
về cơ bản phù hợp với những điều ước quốc tế về lao động trẻ em, quy định ở độ
tuổi lao động tối thiểu là 15, với những công việc nặng nhọc, độc hại là 18. Người
sử dụng lao động chỉ được sử dụng người đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi làm các
công việc nhẹ theo danh mục do Bộ Lao động- Thương binh & Xã hội (LĐTBXH)

8


quy định. Không được sử dụng lao động là người dưới 13 tuổi làm việc, trừ một số
công việc cụ thể do Bộ Lao động-TB&XH quy định (Điều 163, 164) [27].
Bộ Luật lao động cũng quy định: Người lao động chưa thành niên là người lao
động dưới 18 tuổi và người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa
thành niên vào những công việc phù hợp với sức khỏe để bảo đảm sự phát triển thể

lực, trí lực, nhân cách… và không được sử dụng lao động chưa thành niên làm những
công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu
tới nhân cách của họ, theo danh mục của Bộ Lao động-TB&XH chủ trì phối hợp với
Bộ Y tế ban hành (quy định chi tiết tại Điều 165) [8].
Tuy nhiên Luật Bảo vệ, chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004 quy định trẻ
em là người dưới 16 tuổi. Theo đó, lao động trẻ em có thể hiểu là người lao động
dưới 16 tuổi. Như vậy, có sự bất cập về độ tuổi trẻ em giữa Luật Bảo vệ, chăm sóc và
Giáo dục trẻ em với độ tuổi lao động chưa thành niên của Bộ Luật lao động. Như vậy
có thể thấy, cùng một nhóm đối tượng dưới 16 tuổi trong hai văn bản luật lại được
gọi khác nhau (lao động trẻ em và lao động chưa thành niên).
Vì vậy để hài hòa giữa luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam, trong
nghiên cứu đề tài này, đối tượng nghiên cứu chỉ giới hạn về lao động trẻ em được
xác định là lao động của người dưới 16 tuổi, phải làm những công việc nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm, ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Từ việc phân tích các khái
niệm nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm như sau:
Lao động trẻ em là chỉ những người dưới 16 tuổi phải làm những công việc
trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, lao động trong điều kiện bị cưỡng
bức, bóc lột sức lao động hoặc làm quá nhiều thời gian so với độ tuổi của trẻ em;
việc lao động này gây ảnh hưởng tới việc phát triển về thể chất, tâm lí, tình cảm,
nhận thức, đạo đức và xã hội của trẻ em.
Để xác định là trẻ em tham gia lao động hay lao động trẻ em có thể căn cứ
vào các nhóm yếu tố đó là: tính chất công việc ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ
em; điều kiện làm việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; độ tuổi và thời gian làm việc
tương ứng với độ tuổi [25].

9


1.1.1.3.Các hình thức lao động trẻ em
Tổ chức lao động quốc tế ( ILO) không đưa một khái niệm cụ thể về các hình

thức lao động trẻ em, mà chỉ xác định các hình thức lao động trẻ em nói chung gồm:
- Trẻ em trực tiếp hoặc gián tiếp làm những công việc nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm;
- Trẻ em làm việc ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực, trí tuệ, tinh thần, đao
đức và xã hội của trẻ;
- Trẻ em làm việc quá nhiều thời gian ở độ tuổi quá nhỏ, không có thời gian
cần thiết để học tập, vui chơi
Tuy nhiên ILO lại chỉ ra các hình thức lao động trẻ em tồi tệ. Theo Công ước
182 của ILO xác định rõ hình thức lao động trẻ em tồi tệ, những hình thức này đôi
khi cũng được dùng để chỉ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ vô thức, các hình
thức lao động trẻ em tồi tệ nhất có thể kể đến:
- Tất cả những hình thức nô lệ hay những tập tục giống như nô lệ, như buôn
bán trẻ em, giam cầm thiếu nợ, lao động khổ sai, lao động cưỡng ép, hay bắt buộc
để sử dụng trong các cuộc xung đột vũ trang.
- Việc sử dụng ma túy hay chào mời trẻ em cho các mục đích mại dâm, cho
việc sản xuất sách báo hay các chương trình khiêu dâm.
- Việc sử dụng ma túy hay mời chào trẻ em cho các hoạt động bất hợp pháp,
đặc biệt cho việc sản xuất và buôn lậu ma túy như đã được định nghĩa trong các
hiệp ước quốc tế liên quan.
- Những công việc có khả năng làm hại đến sức khỏe, sự an toàn hay đạo đức của
trẻ em, do bản chất của công việc hay do hoàn cảnh, điều kiện tiến hành công việc.
Bảng 1.1. Phân biệt công việc của trẻ em
TT

1

Tiêu chí Có thể chấp nhận được
Tính
chất
công

việc

Không thể chấp nhận được
Quá nặng nhọc hoặc phức tạp so
Phù hợp với độ tuổi và khả năng
với khả năng thể chất và tinh thần
thể chất,tinh thần của trẻ
của trẻ
Không lương thiện hoặc bất hợp
Lương thiện, hợp pháp, có ích
pháp, xâm phạm an ninh, trật tự
cho bản thân, gia đình và xã hội
hoặc đạo đức xã hội

10


2

3

Điều
kiện và
môi
trường
làm việc

Được người lớn kèm cặp, giúp
đỡ trong quá trình làm việc
Thời gian làm việc ngắn, không

ảnh hưởng đến thời gian học tập,
nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí
Điều kiện làm việc an toàn, môi
trường làm việc không độc hại, ô
nhiễm
Môi trường xã hội ở nơi làm việc
lành mạnh, không ảnh hưởng
đến sự phát triển về tinh thần,
đạo đức, xã hội
Được bù đắp thích đáng về vật
chất và tinh thần
Làm việc trên cơ sở tự nguyện,
nhằm rèn luyện bản thân và giúp
đỡ gia đình

Bị người lớn giám sát, kìm kẹp hoặc
khống chế trong quá trình làm việc
Trong thời gian làm việc dài nên
thiếu hoặc không có thời gian học
tập, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí
Điều kiện làm việc nguy hiểm, môi
trường làm việc độc hại, ô nhiễm
Môi trường xã hội ở nơi làm việc
không lành mạnh, dễ bị lạm dụng
thể xác, tình cảm hoặc tha hóa về
đạo đức, tinh thần
Không được động viên và trả công
thích đáng
Làm việc do bị người khác hoặc
hoàn cảnh bắt buộc, nhằm kiếm

sống cho mình hoặc gia đình

Tâm lý,
hoàn
cảnh &
mức độ
Tham gia làm việc ở độ tuổi Phải làm việc quá sớm, ở độ tuổi
trường
thích hợp theo quy định của quá nhỏ, thấp hơn tuổi lao động tối
thành
pháp luật
thiểu trong pháp luật
của trẻ
(Nguồn: Vũ Ngọc Bình (2002) Vấn đề lao động trẻ em) [36]
1.1.1.4.Phân biệt trẻ em tham gia lao động với lao động trẻ em
Không phải trẻ em nào tham gia làm việc cũng được coi là lao động trẻ em.
Mặc dù hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất nào về lao động trẻ em, nhưng
hầu hết các cách tiếp cận đều thống nhất rằng các tiêu chí chính để phân biệt giữa
LĐTE và trẻ em tham gia lao động chính là tính chất công việc dẫn đến việc ảnh
hưởng tiêu cực đối với sự phát triển của trẻ, như: thời gian làm việc của trẻ, độ tuổi
và điều kiện làm việc có nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hay không. Trên thực tế, trẻ
em tham gia lao động là khái niệm để chỉ sự tham gia không mang tính chất bóc lột
của trẻ em vào các hoạt động kinh tế, không gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển
của trẻ em và pháp luật quốc gia không cấm. Trong khi khái niệm “lao động trẻ em”
được hiểu rộng rãi với ý nghĩa là sự lạm dụng, mang tính chất bóc lột sức lao động
của trẻ em vì mục đích lợi nhuận.

11



Bảng 1.2. Phân biệt trẻ em tham gia lao động và lao động trẻ em
Trẻ tham gia lao động

Lao động trẻ em

Công việc phù hợp với tuổi, khả năng thể Công việc nặng nhọc quá sức đối với
chất và trí tuệ của trẻ em

tuổi và khả năng của trẻ em.

Được người lớn chăm sóc và chịu trách Trẻ em lao động dưới sự giám sát của
nhiệm giám sát

người sử dụng lao động

Thời gian làm việc hạn chế, không cản trở
trẻ em đến trường, vui chơi và nghỉ ngơi

Làm việc nhiều giờ, trẻ em bị hạn chế
hoặc không có thời gian đi học, vui chơi
và nghỉ ngơi

Nơi làm việc an toàn và môi trường bạn bè
thân thiện, không độc hại với sức khỏe và
cuộc sống trẻ em
Môi trường làm việc góp phần nuôi dưỡng
và phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ và
tinh thần của trẻ em

Nơi làm việc độc hại đến sức khỏe và

cuộc sống của trẻ em
Trẻ em có nguy cơ cao bị ngược đãi,
xâm hại tình dục, bạo lực và bóc lột

Trẻ em làm việc tự nguyện để duy trì công
việc và phát triển sản suất, tăng thu nhập Hoàn cảnh bắt buộc hay trẻ em phải lao
cho gia đình hoặc ngay cả khi là người động cùng với những người khác
kiếm sống chính trong gia đình
Trẻ em bị hạn chế hoặc không được

Trẻ em được bù đắp về tinh thần và vật chất

khuyến khích về tinh thần và vật chất

Công việc của trẻ em như một phương tiện
cho sự tiến bộ xã hội và cải thiện chất
lượng cuộc sống của trẻ em

Công việc trẻ em làm không nằm trong
phạm vi luật pháp cho phép

Những công việc trẻ làm phục vụ các mục Công việc trẻ em làm bị sử dụng cho
đích nhân văn hợp pháp

mục đích bóc lột hoặc bất hợp pháp

(Nguồn: Nguyễn Hải Hữu (2012), Sơ đồ nhận dạng trẻ em) [18]
1.1.1.5. Nguyên nhân dẫn đến lao động trẻ em
Sự lạm dụng lao động trẻ em xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong đó phải kể đến một số nguyên nhân cơ bản dưới đây:

12


Một là, độ tuổi trẻ em trong luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em chưa
thống nhất với quy định về của lao động chưa thành niên trong Bộ luật lao động và
độ tuổi trẻ em theo quy định của tổ chức ILO vì vậy các cơ quan chức năng gặp
nhiều khó khăn trong việc theo dõi, kiểm soát, thống kê và đánh giá, xử lý các vi
phạm về lao động trẻ em.
Hai là, hệ thống pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về quyền hạn,
trách nhiệm của các chủ thể quản lý trong việc phòng ngừa, xóa bỏ lao động trẻ em;
còn thiếu những quy định cụ thể về cơ chế phát hiện, tố giác, xử lý vi phạm lao
động trẻ em.
Ba là, việc xử lý những trường hợp lạm dụng lao động trẻ em còn nhẹ, chủ
yếu mới dừng lại ở mức xử phạt hành chính, rất ít vụ bị xử lý hình sự do vi phạm
pháp luật lao động trẻ em. Chính quyền địa phương chậm và bị động trong phát
hiện và xử lý những trường hợp sử dụng lao động trẻ em, chỉ những vụ việc xảy ra
hậu quả nghiêm trọng mới được bị phát hiện và xử phạt.
Bốn là, các cơ quan chức năng còn gặp khó khăn trong việc xử lý những cơ
sở sử dụng lao động trẻ em vì người sử dụng lao động không xuất trình được giấy tờ
tùy thân của lao động trẻ em, nên chỉ căn cứ vào lời khai của các bên liên quan để
xác định độ tuổi của các em. Tuy nhiên độ tuổi thường được khai tăng lên trên 15
tuổi vì vậy không đủ căn cứ để xử lý.
Năm là, do nhận thức và hiểu biết pháp luật về lao động trẻ em của gia đình,
cộng đồng, người sử dụng lao động còn hạn chế dẫn đến vi phạm các quy định về
sử dụng lao động trẻ em, như: Gia đình khó khăn về kinh tế nên cho con nghỉ học
để đi làm, trẻ em học kém nên bỏ học đi làm, người sử dụng lao động vì lợi nhuận
nên lạm dụng lao động trẻ em. Nhiều gia đình quan niệm rằng sự tham gia của trẻ
em trong công việc gia đình được coi là một phần của quá trình xã hội hóa, trẻ em
cần phải lao động mới có thể phát triển trí tuệ và hình thành nhân cách.
Sáu là, trẻ em là người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần vì

vậy khi tham gia lao động thường dễ sai bảo, ít có sự phản kháng hay tự vệ. Mặt
khác, tiền công trả cho người lao động là trẻ em thường thấp nên người sử dụng lao
động đương nhiên ưu tiên lựa chọn lao động trẻ em.

13


Bảng 1.3. Nguyên nhân dẫn đến lao động trẻ em
Nguyên nhân bên trong

Nguyên nhân bên ngoài

- Hoàn cảnh gia đình khó khăn

- Gia đình thuộc về một nhóm thiểu số

+ Gia đình chỉ có cha hoặc mẹ

nhất định.

+ Gia đình có cha hoặc mẹ bị bệnh hoặc - Trẻ em chịu ảnh hưởng tiêu cực của
không có khả năng làm việc.

các bạn đồng trang lứa; cha mẹ/trẻ em

+ Gia đình mất kiểm soát.

có nhiều tham vọng về vật chất.

+ Gia đình không được trợ cấp hoặc bảo - Tác động của khủng hoảng kinh tế,

trợ xã hội.

chính trị, xã hội.

- Gia đình nghèo đói.

- Ảnh hưởng của HIV/AIDS, bệnh

- Trình độ học vấn của bố mẹ (hoặc con dịch.
cái) thấp, thiếu kỹ năng làm cha mẹ.

- Yếu tố về chính sách, pháp luật

1.1.1.6. Hậu quả của lao động trẻ em
- Tác động tiêu cực của lao động trẻ em đến quốc gia
Lao động trẻ em thường có ở những quốc gia có nền kinh tế kém phát triển và
khoa học kĩ thuật còn lạc hậu. Chính tình trạng nghèo đói, thất nghiệp, thất học, thu
nhập thấp và tỉ lệ sinh sản cao ở nhiều quốc gia đã đẩy trẻ em vào việc tham gia lao
động trước độ tuổi cho phép. Lao động trẻ em thường là lao động của những trẻ em
không có văn hóa đầy đủ, thiếu kiến thức, còn non nớt về thể chất và tinh thần, không
qua đào tạo và thiếu những kĩ năng nghề nghiệp chuyên môn cần thiết để giúp các em
có một nghề ổn định và có thu nhập cao khi trưởng thành.
Lao động trẻ em có thể xem là một hiện tượng của sự không ổn định về kinh
tế. Từ đó sẽ tạo ra những trở ngại lớn đối với sự phát triển của mỗi quốc gia như:
mất ổn định về an ninh kinh tế, về trật tự xã hội, ảnh hưởng tới sự hoạt động thương
mại quốc tế trong trường hợp trẻ em tham gia sản xuất hàng hóa xuất khẩu, vì cộng
đồng quốc tế không khuyến khích trẻ em lao động. Các em thiếu hiểu biết và nhận
thức xã hội sẽ hình thành những con người lao động trong tương lai thiếu sự phát
triển đầy đủ về thể chất, tinh thần và xã hội. Lao động trẻ em sẽ có ảnh hưởng tiêu


14


cực đến chất lượng nguồn nhân lực của một quốc gia khiến cho năng lực cạnh tranh
của quốc gia đó giảm sút khi tham gia vào thị trường thế giới.
- Tác động tiêu cực đối với gia đình và xã hội
Lao động trẻ em sẽ gây ra những hậu quả bất lợi trước mắt và lâu dài cho sự
phát triển của mỗi gia đình và toàn xã hội. Nếu tình trạng này diễn ra khá phổ biến
thì không chỉ là sự thiệt thòi lớn đối với bản thân và gia đình các em còn là nguy cơ
đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia và cả cộng đồng. Các nhà
nghiên cứu đã cảnh báo rằng, một quốc gia không ngăn chặn và xóa bỏ được tình
trạng lao động trẻ em sẽ không có một lực lượng lao động khỏe mạnh và lành nghề
để có một nền kinh tế có thế cạnh tranh. Đối với cộng đồng quốc tế, nếu không
ngăn chặn và xóa bỏ được tình trạng lao động trẻ em thì sẽ lâm vào khủng hoảng thị
trường lao động chất lượng cao, đây đang là một nghịch lý cần sớm được giải quyết.
- Tác động tiêu cực của lao động trẻ em đến bản thân trẻ em:
Tác động về thể chất: Do còn non nớt về thể chất và tinh thần, thiếu kinh
nghiệm và kỹ năng chuyên môn, nghề nghiệp, sức khỏe và sự dẻo dai còn hạn chế,
trẻ em dễ bị tổn thương và gặp nhiều rủi ro về thể chất hơn người lớn khi làm việc.
Tuy nhiên phần lớn các trường hợp, những trẻ em này không được hưởng các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe một cách tương xứng.
Tác động tâm lý: Trong một số trường hợp, hậu quả tâm lý gây ra cho lao
động trẻ em có thể bao gồm chậm phát triển trí tuệ, thiếu tự tin, khó hòa nhập xã
hội; gặp khó khăn trong việc tạo lập các mối quan hệ, suy giảm lòng tự tin; thái độ
bạo lực hoặc tâm trạng trầm cảm, lo lắng, thậm chí có ý định tự hủy hoại bản
thân...
Tác động về nhận thức: Trong nhiều trường hợp, khả năng nhận thức của trẻ
em bị ảnh hưởng do công việc mà trẻ phải làm, ví dụ như suy giảm năng lực nhận
thức, giao tiếp và thực hành – những yếu tố cốt yếu để thích nghi xã hội và có cuộc
sống tốt đẹp.

Tác động về giáo dục: Lao động nặng nhọc hoặc nhiều thời gian khiến trẻ em
phải bỏ học sớm hoặc giảm khả năng tiếp thu trong quá trình học tập. Tuy nhiên,
phổ biến là lao động tước đi của trẻ em thời gian cần thiết cho việc học tập, và vì

15


vậy thành tích học tập của các em sút giảm, kỹ năng học tập yếu, bị thụt lùi so với
bạn bè, bị bỏ mặc hoặc gặp khó khăn khi hòa nhập với bạn học.
Tác động về kinh tế - xã hội: Lao động trẻ em ảnh hưởng tiêu cực đến việc
nắm bắt các cơ hội kinh tế- xã hội của trẻ về sau. Nói cách khác, lao động trẻ em
tước đoạt cơ hội của trẻ thoát khỏi vòng đói nghèo do trước đó nó đã tước đoạt cơ
hội của trẻ học tập.
Ngoài ra, trẻ em còn có thể gặp phải những rủi ro khi tham gia lao động:
- Thể lực, sức khỏe kém, mắc bệnh nghề nghiệp.
- Bỏ học và nguy cơ bỏ học cao, học vấn thấp, tay nghề thấp, vậy là lại luẩn
quẩn trong vòng nghèo đói.
- Bị kỳ thị, coi thường.
- Nguy cơ cao bị ngược đãi, bạo lực, xâm hại tình dục, bóc lột sức lao động.
- Nguy cơ cao mắc tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật.
- Nguy cơ lệch chuẩn, xa rời các chuẩn mực đạo đức xã hội.
Chính vì những tác động tiêu cực của lao động trẻ em đối với quốc gia, gia
đình và bản thân trẻ nên cần thiết phải có những biện pháp can thiệp sớm nhằm
ngăn ngừa và giải quyết lao động trẻ em, đó chính vai trò quản lý nhà nước về
phòng, chống sử dụng lao động trẻ em.
1.1.2. Sử dụng lao động trẻ em
1.1.2.1. Khái niệm sử dụng lao động trẻ em
“Sử dụng lao động trẻ em là thuật ngữ chỉ tình trạng trẻ em (những người
dưới 16 tuổi) phải trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia làm những công việc nặng nhọc,
độc hại hay nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về thể lực, trí tuệ, tinh

thần, đạo đức và xã hội của trẻ; hoặc phải làm việc quá nhiều hay ở độ tuổi quá nhỏ,
khiến các em không có thời gian cần thiết để học tập và vui chơi”.
(Nguồn: Phạm Thị Lan Phương/ Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 30,
Số 4 (2014) tr58-64 [23]).
Khái niệm “Sử dụng lao động trẻ em” theo nghĩa rộng là việc chấp nhận, yêu
cầu hoặc bắt buộc trẻ em tham gia lao động, có thể bao hàm cả công việc trẻ em
tham gia phụ giúp các công việc gia đình, những hoạt động mang tính phi lợi nhuận

16


và cả những công việc mang lại lợi ích kinh tế. Tuy nhiên xét ở góc độ lao động trẻ
em, thì khái niệm sử dụng lao động trẻ em là hành vi mang tính lạm dụng, bóc lột
sức lao động của trẻ em của chủ thể sử dụng sức lao động đó [5].
Theo quan niệm của Liên minh các tổ chức cứu trợ trẻ em (SC), thuật ngữ
lạm dụng trẻ em dùng để chỉ bất kỳ sự sử dụng lao động của trẻ em nào mà không
vì sự phát triển hài hòa, toàn diện nhân cách của trẻ, trái lại còn gây tổn hại đến sự
phát triển của các mặt đạo đức, trí tuệ, thể lực, thẩm mỹ của trẻ em.
1.1.2.2.Hình thức sử dụng lao động trẻ em
- Mọi hình thức nô lệ hay tương tự nô lệ như buôn bán và vận chuyển trẻ em,
gán nợ và lao động nô lệ và lao động cưỡng bức trong đó có tuyển mộ cưỡng bức
trẻ em tham gia vào các xung đột vũ trang;
- Sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em vào hoạt động mại dâm, sản xuất các
sản phẩm phim ảnh khiêu dâm hoặc biểu diễn khiêu dâm.
- Sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em vào các hoạt động bất hợp pháp, đặc
biệt vào mục đích sản xuất và vận chuyển chất ma tuý như được nêu tại các hiệp
định quốc tế;
- Những công việc mà tính chất hoặc các điều kiện của nó có thể xâm hại đến
sức khoẻ, an toàn và đạo đức của trẻ.
(Nguồn: Hội nghị toàn thể Tổ chức Lao động quốc tế, Kỳ họp thứ 87 ngày 01

tháng 6 năm 1999 Ban hành Công ước 182).
1.2. Phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em
1.2.1. Khái niệm phòng ngừa
Phòng ngừa chính là để không xảy ra, không gây ra các hậu quả nguy hiểm
cho xã hội.
( Nguồn: Trịnh Tiến Việt, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân
Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật
24 (2008) 185-199).
Thuật ngữ “Phòng” hay “phòng ngừa” được hiểu là ngăn ngừa hoặc ngăn
chặn sớm không để cho vấn đề xảy ra. Trong nội dung nghiên cứu “Phòng ngừa sử
dụng lao động trẻ em” thì phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em là hoạt động mang

17


tính dự báo nhằm ngăn chặn sớm việc sử dụng lao động trẻ em. Không để xảy ra
các vụ việc liên quan đến bóc lột, lạm dụng lao động trẻ em, gây ra những hậu quả
ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất, tâm hồn, đạo đức của trẻ em.
1.2.2. Khái niệm phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em
Phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em là nội dung của chính sách bảo vệ chăm
sóc trẻ em, trong cả lý luận và thực tiễn vận dụng có mối quan hệ tương hỗ nhằm ngăn
ngừa và giảm thiểu tình trạng lao động trẻ em, tiến tới xóa bỏ lao động trẻ em [4] .
Phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em là một trong những hoạt động bảo vệ
trẻ em, được hiểu là những hoạt động ngăn ngừa, can thiệp, trợ giúp hướng đến đảm
bảo cho trẻ em được hưởng quyền và lợi ích của mình về cả yếu tố vật chất và tinh
thần, giúp cho trẻ em được phát triển một cách toàn diện. Các yếu tố liên quan đến
bảo vệ trẻ em trong hoạt động phòng ngừa và giải quyết tình trạng lao động trẻ em,
như: bảo vệ quyền, lợi ích trẻ em, bảo vệ thể chất, tâm sinh lý, chế độ chính sách
dành cho trẻ em, bảo đảm cho trẻ được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh
để phát triển toàn diện. Bên cạnh đó phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi lạm

dụng lao động trẻ em, có tính răn đe xã hội theo quy định của pháp luật về bảo vệ
quyền trẻ em.
1.2.3. Nội dung phòng ngừa lao động trẻ em
1.2.3.1. Sự cần thiết quản lý nhà nước về phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em
Trẻ em có quyền tham gia lao động. Khi trẻ em tham gia lao động, xét về
mặt kinh tế các em cũng góp phần tạo ra của cải vật chất, làm tăng thêm thu nhập
cho bản thân trẻ em, gia đình và xã hội. Tuy nhiên lao động trẻ em phải đối mặt với
rất nhiều rủi ro, dễ bị lạm dụng: thời gian làm việc kéo dài, tiền công thấp, dễ bị bắt
nạt, bị dụ dỗ vào con đường phạm tội hoặc tệ nạn xã hội, bị lạm dụng tình dục...
Bên cạnh việc học hành bị dở dang, các em không được quan tâm bảo vệ đầy đủ từ
phía chính quyền và các tổ chức xã hội. Ngay cả chính gia đình các em cũng không
ý thức được những rủi ro và thiệt thòi mà các em đang phải gánh chịu. Trong bối
cảnh trẻ em tham gia lao động vẫn là vấn đề khách quan tồn tại trong xã hội hiện
nay, lao động trẻ em chưa được xóa bỏ thì việc làm cần thiết là sự quản lý nhà nước
trong phòng, chống sử dụng lao động trẻ em, nhằm đảm bảo quyền của trẻ em.

18


Theo tài liệu điều tra Quốc gia về lao động trẻ em 2012, số liệu công bố
tháng 3/2014 cho thấy, cả nước có 18,3 triệu trẻ em từ 5-17 tuổi (dân số trẻ em),
trong đó có 1,75 triệu trẻ em thuộc nhóm lao động trẻ em, chiếm 9,6% dân số trẻ
em. Trong 1,75 triệu lao động trẻ em này, có gần 569 ngàn em có thời gian làm việc
bình quân trên 42 giờ/tuần, chiếm 32,4%, thời gian làm việc kéo dài ảnh hưởng dến
việc tham gia học tập của trẻ em, có 96,2% số trẻ em này hiện tại không đi học; và
có khoảng 1,315 triệu trẻ em, chiếm 75% tổng số lao động trẻ em có nguy cơ làm
trong các nghề thuộc nhóm nghề bị cấm sử dụng lao động chưa thành niên hoặc
điều kiện lao động có hại theo quy định của Thông tư số 09/TT-LB ngày 13/4/1995
của Bộ Lao động-TB&XH và Bộ Y tế.
Sơ đồ 1.1. Phân bố dân số trẻ em 5- 17 tuổi tham gia hoạt động kinh tế


Dân số trẻ em từ 5 - 17 tuổi
18.349.629

Trẻ em không
hoạt động kinh tế
15.517.512

Trẻ em
hoạt động kinh
tế 2.823.117

Trẻ em HĐKT, không phải
LĐTE 1.077.335

LĐTE không có
nguy cơ làm
trong các nghề
thuộc nhóm
nghề bị cấm

Lao động trẻ em
1.754.782

LĐTE có nguy
cơ làm trong các
nghề thuộc nhóm
nghề bị cấm

LĐTE có thời

gian làm việc
dưới 42 giờ/tuần
1.186.059
(87,6%)

LĐTE có thời
gian làm việc
trên 42 giờ/tuần
568.723
(32,4%)

(Nguồn:Báo cáo Điều tra quốc gia về lao động trẻ em năm 2012)[3]
1.2.3.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em
Nguyên tắc trước hết được hiểu là "Ðiều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân
theo trong một loạt việc làm" Trong quản lý hành chính nhà nước, các nguyên tắc

19


cơ bản là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản
lý, từ bản chất của chế độ, được quy định trong pháp luật làm nền tảng cho hoạt
động quản lý hành chính nhà nước.
Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước bao gồm:
1- Nguyên tắc Ðảng lãnh đạo đối với hành chính nhà nước;
2- Nguyên tắc nhân dân làm chủ trong quản lý hành chính nhà nước;
3- Nguyên tắc tập trung dân chủ;
4- Nguyên tắc kết hợp giữa quản lý ngành với quản lý lãnh thổ;
5- Nguyên tắc phân định giữa quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý kinh
doanh của doanh nghiệp;
6- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa;

7- Nguyên tắc công khai, minh bạch;
Trên cơ sở 7 nguyên tắc cơ bản quản lý hành chính nhà nước áp dụng trong
lĩnh vực Bảo vệ chăm sóc trẻ em nói chung và công tác phòng ngừa sử dụng lao
động trẻ em nói riêng không nằm ngoài những nguyên tắc quản lý nhà nước về bảo
vệ chăm sóc trẻ em nói chung được quy định trong Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo
dục trẻ em năm 2004. Các nguyên tắc quản lý nhà nước về phòng chống sử dụng
lao động trẻ em có thể hiểu như sau:
- Không phân biệt đối xử với trẻ em. Mọi người đều được hưởng các quyền
công dân, bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách
bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào. Mọi trẻ em đều có quyền được
sống, quyền được bảo vệ, quyền được học tập, phát triển và quyền được tham gia..
- Tôn trọng và đảm bảo thực hiện các quyền của trẻ em. Trẻ em là công dân
và trẻ em có các quyền con người, nhưng khả năng thực hiện lại phụ thuộc vào từng
lứa tuổi trẻ em và được đảm bảo từ phía gia đình và xã hội. "Mọi hành vi vi phạm
quyền của trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường của trẻ em đều bị
nghiêm trị theo quy định của pháp luật" [25].
- Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của toàn xã hội.
Nguyên tắc này xuất phát từ đặc điểm của trẻ em, những người chưa phát triển đầy
đủ về thể chất và trí tuệ, chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa đủ điều kiện
để tự quyết định quyền của mình và đòi hỏi gia đình, Nhà nước và xã hội phải có sự

20


bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, phải tạo cơ hội thuận lợi cho việc thực hiện quyền trẻ
em, trong đó có công tác phòng chống sử dụng lao động trẻ em. Do đó, quyền của
trẻ em làm phát sinh nghĩa vụ của người lớn, đó là đặc thù của Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em.
- Dành lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Nguyên tắc này xuất phát từ ý tưởng chiến
lược phát triển con người, với "Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất

nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hãy bảo đảm cho
trẻ em một tương lai tốt đẹp hơn”.
- Trẻ em thuộc diện chính sách xã hội, có hoàn cảnh đặc biệt. Trẻ em có
những yếu thế nhất định về thể chất, tinh thần và không đủ cơ hội để thực hiện các
quyền của mình có quyền được trợ giúp để ngăn ngừa việc trẻ em bị xâm hại, bị bạo
hành, bị lạm dụng...
- Nghiêm cấm các hành vi vi phạm quyền trẻ em nhằm bảo đảm cho trẻ em
được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh và các hành vi vi phạm khác làm
tổn hại đến quyền và lợi ích của trẻ em.
1.2.3.3.Nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em
(1)Xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về phòng ngừa sử
dụng lao động trẻ em
Nhà nước quản lý xã hội nói chung và quản lý công tác bảo vệ chăm sóc trẻ
em nói riêng, trong đó có công tác phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em bằng pháp
luật. Do đó, Nhà nước cần ban hành thể chế, chính sách, pháp luật về phòng ngừa
sử dụng lao động trẻ em. Hệ thống pháp luật sẽ tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm các
quyền của trẻ em được thực hiện.
Pháp luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em, trong đó có công tác phòng,
chống sử dụng lao động trẻ em bao gồm hệ thống quy định pháp luật của nhà nước
về lao động đối với trẻ em; khái niệm về lao động trẻ em, quy định về độ tuổi tham
gia lao động, điều điện được sử dụng trẻ em làm việc, tham gia các hoạt động kinh
tế và những ràng buộc pháp lý để các quyền của trẻ em được đảm bảo và thực hiện;
quy định trách nhiệm quản lý của các cơ quan nhà nước, phân công, phân cấp, đồng
thời đã có sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan để thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em.

21



×