Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Hiện tượng chuyển thể văn học (khảo sát qua một số hình thức chuyển thể truyện cổ tích dân gian tấm cám)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

HIỆN TƯỢNG CHUYỂN THỂ VĂN HỌC
(KHẢO SÁT QUA MỘT SỐ HÌNH THỨC CHUYỂN THỂ
TRUYỆN CỔ TÍCH DÂN GIAN TẤM CÁM)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

HIỆN TƯỢNG CHUYỂN THỂ VĂN HỌC
(KHẢO SÁT QUA MỘT SỐ HÌNH THỨC CHUYỂN THỂ
TRUYỆN CỔ TÍCH DÂN GIAN TẤM CÁM)
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ TRÀ MY



HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ của mình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới cô TS. Lê Trà My, người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết
hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào Tạo, Phòng Sau
Đại học, Khoa Ngữ Văn, các giảng viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2;
Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Nội, Ban giám hiệu và các thầy cô giáo trong trung
tâm giáo dục thường xuyên Phố Nối (Yên Mỹ - Hưng Yên), đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Lưu Khánh Thơ đã
nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
hết lòng động viên, khuyến khích tôi trong học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!

Xuân Hoà, ngày 25 tháng 11 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Thu Hương


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam

đoan rằng mọi sự trợ giúp cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong lụân văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 1
3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 8
6. Giả thuyết khoa học.................................................................................... 8
7. Đóng góp của luận văn ............................................................................... 9
Chương 1. VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ VĂN HỌC VÀ CHUYỂN THỂ
TRUYỆN DÂN GIAN TẤM CÁM ............................................................ 10
1.1. Vấn đề chuyển thể văn học .................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm chuyển thể ................................................................... 10
1.1.2. Các quan niệm về chuyển thể ....................................................... 19
1.2. Vấn đề chuyển thể truyện cổ tích dân gian Tấm Cám ............................ 30
1.2.1. Xác định văn bản truyện cổ tích dân gian Tấm Cám .................... 30
1.2.2. Một số hình thức chuyển thể truyện Tấm Cám ............................. 31
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 34
Chương 2. TẤM CÁM TỪ TRUYỆN CỔ TÍCH DÂN GIAN ĐẾN
TRUYỆN THEO PHONG CÁCH CỔ TÍCH CỦA TÔ HOÀI................ 35
2.1. Viết lại truyện dân gian hay là hình thức chuyển thể văn học ................ 35
2.2. Tấm Cám trong Chuyện ngày xưa một trăm cổ tích từ sự đối sánh với

truyện cổ tích................................................................................................ 42
2.2.1. Xu hướng thay đổi khung hình truyện cổ tích ............................... 42
2.2.2. Khắc họa tâm lí nhân vật ............................................................. 46
2.2.3. Tạo dựng các màn đối thoại ......................................................... 52
2.2.4. Giọng điệu, ngôn ngữ kể chuyện .................................................. 60


Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 66
Chương 3. TẤM CÁM TỪ TRUYỆN CỔ TÍCH DÂN GIAN ĐẾN KỊCH
BẢN CHÈO CỦA LƯU QUANG THUẬN ............................................... 67
3.1. Lưu Quang Thuận và vở chèo Tấm Cám ............................................... 67
3.2. Tương quan tích - trò trong chèo và cách thức tự sự sân khấu ............... 71
3.2.1. Tương quan tích - trò trong chèo ................................................. 71
3.2.2. Cách thức tự sự trong sân khấu chèo ........................................... 74
3.3. Kịch bản chèo Tấm Cám - những soi chiếu từ bản gốc truyện cổ tích .... 78
3.3.1. Mở rộng các mô típ ....................................................................... 78
3.3.2. Gia tăng sự kiện, nhân vật ............................................................. 84
3.3.3. Thay đổi tình tiết ........................................................................... 87
3.3.4. Tăng cường tính xung đột .............................................................. 90
3.3.5. Tô đậm tính trữ tình ..................................................................... 93
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................... 96
KẾT LUẬN ................................................................................................. 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 99


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Có rất nhiều hình thức chuyển thể từ tác phẩm văn học sang các loại
hình nghệ thuật khác như chuyển thể từ truyện thơ, thơ sang truyện, truyện

sang phim, sang kịch, sang hội hoạ, điêu khắc, sang truyện hiện đại... Trong
xu thế mở rộng các hướng nghiên cứu văn học, chuyển đổi sự nghiên cứu nội
tại mang tính khép kín sang nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu liên ngành, vấn
đề chuyển thể văn học ngày càng được quan tâm.
Hiện tượng chuyển thể văn học dân gian sang các hình thức văn học hay
các loại hình nghệ thuật khác không còn là điều xa lạ. Ngay từ thời cổ đại, các
kho thần thoại đồ sộ đã trở thành “vật liệu” sáng tạo cho sử thi, bi kịch, điêu
khắc, hội họa... Ở Việt Nam, một trong những tác phẩm truyện cổ tích dân
gian tiêu biểu và đặc sắc được chuyển thể là truyện Tấm Cám. Truyện Tấm
Cám của Việt Nam thuộc loại truyện cổ tích thần kì, phản ánh những mâu
thuẫn trong gia đình, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, cùng ước mơ cái
thiện thắng cái ác của người Việt Nam. Kiểu truyện này xuất hiện khá phổ
biến ở Việt Nam cũng như trên thế giới, có rất nhiều các công trình nghiên
cứu về kiểu truyện Tấm Cám. Tuy nhiên thì ở khía cạnh chuyển thể từ kiểu
truyện này sang các thể loại nghệ thuật khác vẫn chưa được các nhà nghiên
cứu quan tâm, xem xét một cách kĩ lưỡng. Với mong muốn góp một cái nhìn
toàn diện hơn về việc chuyển thể từ truyện Tấm Cám sang các loại hình nghệ
thuật khác chúng tôi lựa chọn đề tài “Hiện tượng chuyển thể văn học (khảo
sát qua một số hình thức chuyển thể truyện cổ tích dân gian Tấm Cám)”.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu chuyển thể văn học
Trên thế giới có rất nhiều các nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề chuyển
thể. Ở khu vực Âu - Mĩ, cái nôi của điện ảnh thế giới, hoạt động nghiên cứu


2
chuyển thể theo hướng chuyển thể văn học sang điện ảnh đã có lịch sử lâu dài
và có thành tựu vững chắc. Cuốn Bàn về kịch bản điện ảnh của các tác giả
William Fadiman, John W. Bloch, Lois Peysen có dành một chương bàn về
chuyển thể: Kịch bản điện ảnh cải biên từ văn học. Qua khảo sát một số phim

tiêu biểu chuyển thể từ văn học sang phim điện ảnh, các tác giả đã tổng hợp
và phân loại hai khuynh hướng chuyển thể cơ bản: trung thành với nguyên tác
và cải biên nguyên tác. Dù với khuynh hướng nào thì tác phẩm chuyển thể
vẫn phải có những thay đổi nhất định để phù hợp với đặc trưng ngôn ngữ của
loại hình nghệ thuật điện ảnh.
Một trong những công trình mang tính chất chuyên biệt về chuyển thể
được đánh giá cao là cuốn A theory of Adaptation (Lí thuyết về chuyển thể)
của Linda Hutcheon. Trên cơ sở những lập luận mang tính biện chứng, tác giả
đã tiến hành lí thuyết hoá chuyển thể ở các phương diện: Cái gì (hình thức);
Ai? Tại sao? (những tác giả chuyển thể); Như thế nào? (khán giả); Ở đâu?
Khi nào? (văn cảnh). Sức hút của các phiên bản chuyển thể theo tác giả nằm ở
khả năng “nhân bản” các câu chuyện một cách chọn lọc, trong đó mỗi văn
bản có thay đổi riêng, tuy nhiên vẫn có thể nhân ra điểm chung giữa chúng.
Hiện tượng chuyển thể ở đây được soi chiếu từ cái nhìn kép: chuyển thể với
tư cách là quá trình và chuyển thể với tư cách là sản phẩm. [8;tr.20,21].
Nếu công trình Lí thuyết chuyển thể của Linda Hutcheon cho thấy nỗ lực
lí thuyết hoá vấn đề chuyển thể từ quan điểm của một nhà hậu cấu trúc thì
công trình Film and Literature (Điện ảnh và văn học) của nhà nghiên cứu
Timothy Corrigan lại hướng đến khảo cứu và tổng kết mối quan hệ văn học điện ảnh theo chiều lịch đại, từ đó tái hiện lại một loạt các giai đoạn lịch sử,
các phong tục văn hoá và các phương pháp phê bình điện ảnh dựa trên những
nền tảng quan trọng như sự giao thoa giữa phim ảnh và văn chương, tính tôn
ti thứ bậc thường thấy về văn hoá vốn đặt văn chương cao hơn lĩnh vực có vẻ
ít nghiêm túc hơn là điện ảnh...


3
Tiếp đến tác phẩm Intertextuality in Literature and Film (Liên văn bản
trong văn học và điện ảnh) của các tác giả Elaine D. Cancalon và Antoine
Spacagna lại chọn quan niệm của Mikhail Bakhtin về tính đối thoại và tư
tưởng của Julia Kristeva, Roland Barthes, Michel Foucault về tính liên văn

bản làm nền tảng lí thuyết. Trong phần giới thuyết, các tác giả đã đề cập đến
quá trình tiếp nhận văn bản theo hai cấp độ: “đọc và đọc lại/ nghiền ngẫm”.
Tác phẩm điện ảnh ra đời là kết quả đọc lần thứ nhất của các nhà làm phim.
Hoạt động xem phim tương ứng với hành vi đọc lại (đọc lần hai) của độc giả
với văn bản nguồn, tức khán giả đọc lại văn bản văn học qua cách đọc của
đạo diễn, do đó không tránh khỏi bị chi phối bởi cách nhìn của đạo diễn. Ở
đây, người đọc tự thể hiện vai trò và địa vị của mình qua việc tham dự bình
luận, diễn giải tác phẩm. Chính người đọc, bằng trí tưởng tượng và tư duy của
họ, đã kết nối các văn bản lại với nhau và văn bản (văn học hay điện ảnh) đều
có thể biến hoá liên tục tuỳ theo cách tiếp cận của mỗi người đọc, thậm chí
mỗi lần đọc.
Nhìn chung các nghiên cứu về chuyển thể đều thống nhất coi chuyển thể
là hiện tượng phổ biến và tất yếu của mọi nền điện ảnh.
Ở Việt Nam, vấn đề chuyển thể được đặt ra từ những ngày sơ khai với
dấu mốc là bộ phim Kim Vân Kiều dựa theo Truyện Kiều của Nguyễn Du do
Công ty chiếu bóng Đông Dương thực hiện (năm 1923). Một số nhà nghiên
cứu đã bước đầu tiến hành tìm hiểu các quy luật, quy trình của việc chuyển
thể, trong đó phải kể đến công trình Văn học dân gian với nghệ thuật tạo hình
điện ảnh của nhóm tác giả Nguyễn Mạnh Lân, Trần Duy Hinh và Trần Trung
Nhàn (Nxb. Văn học, 2002). Từ thực thể văn học dân gian, mỗi tác giả đã
phát hiện ra những giá trị khác nhau: tính khái quát và biểu tượng, tính ngụ
ngôn, ẩn dụ, tính tạo hình, gợi tả trạng thái động, tĩnh; tính gợi thanh... trong
văn học dân gian đều là những gợi mở đối với ngôn ngữ tạo hình điện ảnh.


4
Đây có thể xem là công trình nghiên cứ hoàn chỉnh có quy mô đầu tiên ở Việt
Nam về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh. Tuy nhiên, các luận điểm
được đưa ra hầu hết đều nhấn mạnh vai trò “đỡ đầu, dẫn dắt” của văn học đối
với các loại hình nghệ thuật khác (trong đó có điện ảnh). Quan hệ tương tác

giữa chúng tuy có được bàn đến nhưng khá mờ nhạt.
Vấn đề văn hoá truyền thống và điện ảnh tiếp tục được khai thác cụ thể
hơn trong chuyên luận Văn học nghệ thuật truyền thống với phim truyện Việt
Nam của Phan Thị Bích Hà. Từ xuất phát điểm của lĩnh vực nghiên cứu lí
luận ứng dụng, công trình tập trung làm sáng tỏ ảnh hưởng của văn học nghệ
thuật truyền thống đối với phim truyện trên cấp độ nội dung và ngôn ngữ
nghệ thuật. Những ảnh hưởng này được nhìn nhận từ cả hai chiều tích cực và
hạn chế. Công trình đã chỉ ra những nét không tương đồng, những đặc điểm
không phù hợp trong quá trình điện ảnh tiếp thu một số đặc điểm của văn học
nghệ thuật truyền thống. Từ đó đề xuất biện pháp nhằm kết hợp hài hoà tính
hiện đại và tính dân tộc để xây dựng các tác phẩm điện ảnh xuất sắc, mang
bản sắc văn hoá dân tộc.
Công trình Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh của Phan Bích
Thuỷ đã nhìn nhận chuyển thể như một hành trình với sự tham gia của nhiều yếu
tố. Công trình này đã tiến hành khảo sát hoạt động chuyển thể qua ba cấp độ:
đồng nhất, tương đồng và khác biệt, nhằm đánh giá những ảnh hưởng, tác động
của lí luận văn học và tác phẩm văn học trong việc xây dựng kịch bản văn học
và phim truyện chuyển thể. Một trong những đóng góp quan trọng của công
trình là hệ thống hoá được cơ chế và quy trình thực hiện chuyển thể từ văn bản
văn học sang phim điện ảnh, đồng thời giới thiệu khái quát những thành tựu tiêu
biểu của phim truyện chuyển thể Việt Nam qua các thời kì lịch sử.
Bên cạnh đó, trên một số các báo, tạp chí cũng xuất hiện một số bài viết
như Từ văn học đến điện ảnh của Phạm Vũ Dũng đăng trên tạp chí Văn hóa


5
nghệ thuật số 6/1999; Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh cũng đăng trên
tạp chí này số 12/ 2002; Từ chùa đàn đến Mê Thảo liên bản trong văn chương
và điện ảnh của Nguyễn Nam trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 12/2006.
Gần đây có công trình nghiên cứu của tác giả Lê Thị Dương - Chuyển

thể văn học điện ảnh (nghiên cứu liên văn bản), công trình này đã chỉ ra
những góc nhìn đa dạng của nghiên cứu chuyển thể và đi sâu vào nghiên cứu
chuyển thể từ lí thuyết liên văn bản. Tác giả đã chia chuyển thể thành hai
hướng là chuyển thể “trung thành” - cuộc tái sinh từ văn học và chuyển thể tự
do - cuộc kiến tạo từ văn học. Có thể nói đây là một trong những công trình ở
Việt Nam đi sâu vào nghiên cứu về vấn đề chuyển thể văn học điện ảnh.
Các công trình nghiên cứu về chuyển thể ở Việt Nam đã bước đầu đi vào
khám phá mối tương quan giữa văn học và các loại hình nghệ thuật khác tuy
nhiên thì vấn đề chuyển thể văn học vẫn được coi là mảnh đất màu mỡ của các
nhà nghiên cứu và cần được quan tâm một cách sâu sắc và toàn diện hơn nữa.
2.2. Tình hình nghiên cứu truyện cổ tích Tấm Cám
Kiểu truyện cổ tích Tấm Cám là một trong những kiểu truyện phổ biến
nhất trên thế giới. Kiểu truyện này có tên gọi là kiểu truyện Cô lọ lem. Tác
phẩm nghiên cứu đầu tiên về type truyện Cô Lọ Lem là của bà M.R.Kirks nhà
folklore người Anh do Hội Dân tộc học nước Anh xuất bản vào năm 1893.
Sau đó những bài viết gây được tiếng vang còn có luận án tiến sĩ khu vực lưu
truyền truyện Cô Lọ Lem của A.B.Rose nhà folklore người Thuỵ Điển (1951),
bà đã thu thập được hơn 700 dị bản của kiểu truyện Cô Lọ Lem trên thế giới,
đóng góp lớn nhất của bà là ở chỗ bà đã cung cấp một bức tranh rõ nét về
phạm vi lưu truyền trên khắp thế giới và kết cấu đa dạng của type truyện Cô
Lọ Lem. Ngoài ra, truyện Cô Lọ Lem ở Trung Quốc của R.D Jameson (Mỹ),
truyện Cô Lọ Lem châu Phi của W.Bascurme v.v... cũng đã phân tích và lý
giải về type truyện Cô Lọ Lem từ nhiều khía cạnh khác nhau và sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau.


6
Bài viết Type truyện Cô Lọ Lem với đồng thoại dân gian Trung Quốc
(Tiêu Sùng Tố, số 2 năm 1987, Tập san văn học dân gian) là một trong những
bài nghiên cứu về type truyện Cô Lọ Lem tương đối sớm và gây được tiếng

vang ở Trung Quốc. Tác giả đã lấy truyện Nàng A Từ - một bản kể của dân
tộc Di do ông sưu tầm được ở tỉnh Tứ Xuyên để so sánh với truyện Cô Lọ
Lem trong Truyện cổ Grim và cho rằng so với truyện Cô Lọ Lem ở châu Âu
thì truyện Nàng A Từ có nội dung và kết cấu phức tạp hơn .
Năm 1994, cuốn chuyên luận Nghiên cứu so sánh văn học tự sự giữa
Trung Quốc và phương Tây của Đinh Nãi Thông, học giả người Mỹ gốc Hoa
được dịch ra tiếng Trung do nhà xuất bản Trường Đại học Sư phạm Hoa
Trung xuất bản, trong sách có bài Type truyện Cô Lọ Lem của Trung Quốc
và Việt Nam, Lào, Campuchia. Ông đã khảo sát chi tiết 21 dị bản thuộc 7
dân tộc ở Trung Quốc và 9 dị bản của Đông Nam Á, từ đó đưa ra dự đoán:
Type truyện này có lẽ xuất hiện sớm nhất ở miền Nam Quảng Tây Trung
Quốc và miền Bắc Việt Nam.
Ở Việt Nam, trong công trình Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ
tích qua truyện Tấm Cám của Đinh Gia Khánh đã chỉ ra rằng: “Truyện kiểu
Tấm Cám ít nhất có hai chủ đề chính: chủ đề “dì ghẻ con chồng” và chủ đề
“vật báu đem lại hạnh phúc”. Chủ đề thứ nhất có ý nghĩa đấu tranh xã hội,
chủ đề thứ hai có ý nghĩa phong tục”[28,tr.66]. Ở công trình này tác giả đã sơ
bộ tìm hiểu những vấn đề về truyện cổ tích và qua phân tích truyện Tấm Cám
tác giả đã đưa ra những nhận xét sâu sắc về truyện cổ tích nói riêng và văn
học dân gian nói chung. Tuy công trình viết từ những năm 60 nhưng đến bây
giờ vẫn còn nguyên giá trị.
Ngoài ra còn có công trình Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif
của Nguyễn Tấn Đắc gồm có năm bài về truyện Tấm Cám, tác giả đã phân
tích tương đối toàn diện và đề cập hầu hết các vấn đề chính của kiểu truyện


7
Tấm Cám ở Việt Nam và một số nước Đông Nam Á. Và sau Nguyễn Tấn Đắc
lại có thêm hai bài viết về type truyện Tấm Cám, đó là: Type truyện Tấm Cám
ở Đông Nam Á và bài Ai xung đột với ai trong type truyện Tấm Cám ở Đông

Nam Á. Ngoài ra còn có những bài viết như: Qua truyện Tấm Cám ở vùng
Kinh Bắc tìm hiểu con đường truyền thuyết hoá truyện cổ tích (Nguyễn Thị
Bích Hà), Đôi điều suy nghĩ về truyện Tấm Cám (Phạm Xuân Nguyên), Vấn
đề cách ứng xử nghệ thuật của truyện cổ tích Tấm Cám (Bùi Văn Tiếng), Một
số tư liệu để tiến tới so sánh truyện Tấm Cám của Việt Nam và Ru-ma-ni
(Hoàng Thị Đậu), Thử đánh giá ảnh hưởng của Đạo giáo trong truyện Tấm
Cám (Đào Văn Tiến) v.v...
Tất cả những công trình này đều đi sâu vào tìm hiểu về bản chất của
truyện cổ tích nói chung và kiểu truyện Tấm Cám nói riêng, tuy nhiên vấn đề
chuyển thể giữa truyện cổ tích sang các loại hình nghệ thuật khác vẫn chưa
được nghiên cứu cụ thể và kĩ lưỡng. Cố gắng tập hợp lại các tư liệu đã có để
đặt trong hệ thống các tiêu chí được xác định, người viết mong muốn làm rõ
hơn được hiện tượng chuyển thể văn học khảo sát qua một số hình thức
chuyển thể của truyện cổ tích dân gian Tấm Cám.
3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi muốn làm sáng rõ về hiện tượng chuyển
thể văn học và đặc biệt chuyển thể truyện Tấm Cám từ truyện cổ tích sang
truyện hiện đại và sân khấu chèo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu khái niệm về chuyển thể và mối quan hệ giữa chuyển thể văn
học sang các loại hình nghệ thuật khác.
- Tìm hiểu vấn đề chuyển thể từ truyện Tấm Cám sang truyện hiện đại và
sân khấu chèo.


8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thực tiễn chúng tôi tìm hiểu vấn đề chuyển thể của truyện cổ tích sang
truyện hiện đại và từ truyện cổ tích sang sân khấu. Trong quá trình tìm hiểu

người viết đi sâu vào nghiên cứu truyện Tấm Cám để thấy được mối liên quan
khi chuyển thể từ truyện cổ tích sang truyện hiện đại và sân khấu chèo.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi đi khảo sát tập truyện Chuyện ngày xưa
một trăm cổ tích của Tô Hoài (gồm 3 tập, 100 truyện). Đặc biệt chúng tôi chú
trọng khảo sát truyện Tấm Cám ở trong tập truyện này để nghiên cứu như một
trường hợp cụ thể và đặt nó trong mối quan hệ, so sánh đối chiếu với truyện
cổ tích Tấm Cám.
Chúng tôi đi vào khảo sát kịch bản chèo Tấm Cám của nghệ sĩ Lưu
Quang Thuận, so sánh đối chiếu với truyện cổ tích Tấm Cám.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài chúng tôi thực hiện đồng bộ các phương pháp sau:
- Phương pháp liên ngành nhằm phân tích các quan hệ chuyển thể văn
học và các loại hình nghệ thuật khác.
- Phương pháp lịch sử trong việc phác họa lại lịch sử hình thành của khái
niệm chuyển thể.
- Phương pháp hệ thống để triển khai các thảo luận về định nghĩa khái
niệm chuyển thể.
Ngoài ra chúng tôi sử dụng các thao tác nghiên cứu khác như phân tích,
khái quát, tổng hợp, so sánh và đối chiếu.
6. Giả thuyết khoa học
Luận văn sẽ góp phần vào việc đánh giá lại khái niệm chuyển thể, từ đó
tạo tiền đề cho nghiên cứu, phân tích chuyển thể một văn bản đặc biệt như
Tấm Cám, tạo cơ sở cho hoạt động nghiên cứu chuyển thể giữa thể loại truyện
và các loại hình nghệ thuật khác còn nhiều bỏ ngỏ ở Việt Nam.


9
7. Đóng góp của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được triển khai ở 3 chương:

Chương 1: Vấn đề chuyển thể văn học và chuyển thể truyện dân gian
Tấm Cám
Chương 2: Tấm Cám từ truyện cổ tích dân gian đến truyện theo phong
cách cổ tích của Tô Hoài
Chương 3: Tấm Cám từ truyện cổ tích dân gian đến kịch bản chèo của
Lưu Quang Thuận


10
Chương 1. VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ VĂN HỌC VÀ CHUYỂN THỂ
TRUYỆN DÂN GIAN TẤM CÁM
1.1. Vấn đề chuyển thể văn học
1.1.1. Khái niệm chuyển thể
Chuyển thể được xem là một xu hướng phổ quát trong tất cả các xã hội
loài người nhằm viết lại một văn bản gốc nào đó. Kết quả của việc đó là tác
phẩm chuyển thể có mối liên hệ với văn bản gốc theo những cách thức và
mức độ khác nhau. Những ví dụ điển hình đã được gợi ra trong các bài viết
của Boldt, Federici và Virgulti như chuyển thể tiền hiện đại bao gồm tác
phẩm The Vanity of human wishes thế kỉ 18 từ bài thơ Latin, vở King Lear
của Shakespear chuyển thể từ vở King Leir, JoNathan D. Syss đã dùng hình
mẫu từ truyện Robinson Crusoe (1719) của Daniel Defoe để viết The Swiss
Family Robinson (1812) , Charlotte Bronte viết lại Pamela (1740) thành Jane
Eyre (1847), trước đó là bức tranh của Titian Death and Acteaon (1559), một
ví dụ vào hàng sớm nhất của phiên bản biến đổi của thần thoại Ovid được tập
hợp trong Metamorphosis.
Có thể nói hiện tượng chuyển thể không phải là vấn đề mới lạ, nó xuất
hiện khá sớm với những tên gọi khác nhau. Ở Châu Âu, từ thể kỉ XVI,
Shakespeare đã đưa những câu chuyện thuộc nền văn hoá của ông từ trang
giấy sang sân khấu và đưa chúng đến với đối tượng khán giả mới [24;tr.8].
Sau đó, vào thời kì đầu của phim câm, các vở kịch của Shakespeare đã luôn

được chuyển thể bởi một loạt đạo diễn phim [6]. Ở Việt Nam cũng vậy, các
câu chuyện dân gian đã bước lên sân khấu chèo, tuồng từ rất sớm (truyện Tấm
Cám, Tống Trân - Cúc Hoa, Thạch Sanh…) và về sau này chuyển thể còn
hiện diện trong cách hình thức như phim, kịch, nhạc kịch…
Nhìn chung, mọi tác phẩm đều có thể được làm lại, được diễn giải hoặc
chuyển sang hình thức khác. Một hệ thống kí hiệu của văn bản này không
ngừng đi xuyên qua các thể loại, phương tiện để xác lập những văn bản mới.


11
Trong lịch sử nghệ thuật có khá nhiều các hình thức chuyển thể. Chúng
tôi xin nêu một vài hình thức phổ biến.
a) Chuyển thể từ thể loại văn học này sang thể loại văn học khác
Ví dụ chuyển thể từ truyện sang thơ, truyện sang truyện, truyện sang
kịch bản văn học...). Có thể nói đây là hình thức chuyển thể xuất hiện từ thời
sơ khai và phổ biến nhất của văn học. Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, thần thoại
Hy Lạp đã được chuyển thể sang hình thức bi kịch. Nhiều câu chuyện trong
thần thoại, kinh thánh, truyện lịch sử đã có mặt trong các sáng tác văn học,
nhất là từ thế kỉ XVII. Vào khoảng thế kỉ thứ XVII Jean De La Fontaine
(Giăng đờ La Phông-ten) nhà thơ ngụ ngôn nổi tiếng người Pháp đã chuyển
thể những câu chuyện ngụ ngôn sang thể thơ và những tác phẩm này của ông
đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Rất nhiều bài nổi tiếng được
truyền tụng từ đời này sang đời khác và trở thành điển hình cho các tính cách
và các tình huống khác nhau của cuộc sống: Ve và kiến, Quạ và cáo, Chó sói
và cừu non; Thần chết và lão tiều phu, Con cáo và chùm nho; Gà trống và
cáo; Ông già và các con; Gà mái đẻ trứng vàng; Thỏ và rùa; Chó thả mồi bắt
bóng, Đám ma sư tử, Hội đồng chuột, v.v… La Fontaine kế thừa truyền thống
sáng tác của các nhà ngụ ngôn trước ông như Êdốp (Hy lạp), Đabriux (Syrie),
Pheđrô (La Mã) và sáng tạo nên nhiều hình tượng mới có tính chất thời đại.
Một bài ngụ ngôn của La Phông-ten gồm hai phần: phần chính giống như một

màn kịch nhỏ có thắt nút, cởi nút và phần rút ra bài học thường chỉ là một vài
câu ngắn gọn. Dưới ngòi bút của ông, các con vật như sư tử, hổ, báo, cáo, gà,
mèo, chuột, ve,… được nhân cách hóa, cũng biết yêu, ghét, thiện và ác. Xã
hội loài vật trong Ngụ ngôn tượng trưng cho xã hội Pháp thời đại La Phôngten đang sống, với đủ mọi cung bậc, tầng lớp, với những mâu thuẫn bộc lộ
bản chất của xã hội đó, từ những người thấp cổ bé họng đến những kẻ quyền
cao chức trọng, và cao nữa là đức Vua - Sư tử. Ông ca ngợi trí thông minh,


12
lòng nhân hậu của người lao động, phê phán thói kiêu căng của bọn quý tộc,
thói đạo đức giả của giới tu sĩ, thái độ nịnh trên nạt dưới của bọn quan lại,
tính hiếu danh, xu thời của tầng lớp tư sản. Hình ảnh Vua - Sư tử trong Ngụ
ngôn của ông tượng trưng cho sự tác oai, tác quái của giai cấp thống trị.
Trong thơ La Phông-ten ngay cả những vật vô tri như cánh rừng, dòng suối
cũng có tiếng nói và tâm tình như con người khiến thơ ông ngoài tính chất
phê phán, chiến đấu còn mang tính trữ tình sâu sắc. La Phông-ten trở thành
nhà văn quen thuộc của mọi lứa tuổi và mọi thời đại, và ngày nay thơ ông vẫn
giữ nguyên những giá trị thời sự sâu sắc. Hiện tượng chuyển thể từ truyện
sang thơ của ông được đông đảo độc giả đón nhận và ở Việt Nam những tác
phẩm của ông được dịch ra từ rất sớm, nhận được sự yêu thích của độc giả.
Ở Việt Nam hiện tượng chuyển thể này cũng được xuất hiện từ khá sớm.
Có nhiều tác phẩm chuyển thể từ truyện sang thơ và một trong số đó là truyện
cổ tích Tấm Cám được nhà thơ Tú Mỡ viết sang thể thơ và cũng để lại được
ấn tượng sâu sắc.
b) Chuyển thể từ văn học sang sân khấu, điện ảnh.
Trên thế giới, việc đưa lên sân khấu các truyện kể lịch sử, truyện kể dân
gian là rất phổ biến. Ở Việt Nam, những tích truyện dân gian, truyện Phật
giáo cũng được đưa lên sân khấu chèo, tuồng.
Thế kỉ XX, khi điện ảnh ra đời, hình thức chuyển thể từ truyện lên phim
làm cho hiện tượng chuyển thể càng trở nên phổ biến. Có những tiểu thuyết

kinh điển được chuyển thể thậm chí nhiều lần thành phim (Anna Karenin,
Những người khốn khổ, Chiến tranh và hòa bình, Giã từ vũ khí, Cuốn theo
chiều gió, Cao lương đỏ...). Năm 2008, Viện Điện ảnh Hoa Kỳ AFI American Film Institute đã đưa ra danh sách AFI's 10 Top 10 vinh danh
những bộ phim kinh điển xuất sắc nhất của những dòng phim khác nhau. Gần
50% trong số những tác phẩm này đều được chuyển thể từ những tác phẩm


13
văn học hoặc lấy cảm hứng từ những tác phẩm văn học. Có thể kể đến những
tác phẩm kinh điển nổi tiếng bậc nhất của cả lĩnh vực văn học lẫn điện ảnh
nằm trong danh sách này như (những tác phẩm văn học không quá phổ biến ở
nước ta, tôi xin đưa kèm tên tiếng Anh bên cạnh tên dịch sang tiếng Việt):
Nàng bạch tuyết và bảy chú lùn (Anh em nhà Grimm); Pinocchio (Carlo
Collodi); Phù thủy xứ Oz (L. Frank Baum); Bố già (Mario Puzo); Chiếc đồng
hồ vàng cam - A Clockwork Orange (Anthony Burgess); Giết con chim nhại
(Harper Lee), Nhân chứng hành quyết - Witness for the Prosecution (Agatha
Christie); Ben-Hur (Lew Wallace); Cuốn theo chiều gió (Margaret Mitchell),
Spartacus (Howard Fast); Mặt trận Phía tây tĩnh lặng - All Quiet on the
Western Front (Erich Maria Remarque); Mười điều răn - The Ten
Commandments dựa trên Kinh thánh Cựu Ước v.v… Trên thực tế, danh sách
trên còn rất nhiều những bộ phim kinh điển được chuyển thể từ những tác
phẩm văn học. Những bộ phim trên đã góp phần hình thành nên bộ mặt đa
diện của nền điện ảnh thế giới, đồng thời tạo nên những ảnh hưởng sâu sắc
sau này lên những tác phẩm nghệ thuật khác. Trào lưu chuyển thể điện ảnh từ
những tác phẩm văn học kinh điển có phần lắng xuống trong những năm 8090 của thế kỉ XX. Cho đến khi nhân loại bước sang thế kỉ XXI, những tác
phẩm văn học kinh điển đã trở lại màn ảnh rộng với những sức hút mới.
Từ trước đến nay, có nhiều bộ phim Việt Nam được chuyển thể từ kịch
bản văn học đã để lại dấu ấn trong lòng khán giả. Chị Dậu được xếp vào hàng
những bộ phim kinh điển Việt Nam. Bộ phim này của đạo diễn Phạm Văn
Khoa được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Bộ phim

tái hiện lại những hình ảnh cuộc sống cùng khổ của người nông dân Việt Nam
dưới thời Pháp thuộc, phải chịu tầng tầng lớp lớp áp bức bóc lột, gia đình tan
nát vì sưu cao thuế nặng. Bộ phim để lại nhiều ám ảnh trong lòng người xem
bằng chính chất hiện thực đã có sẵn trong từng trang viết của Ngô Tất Tố. Bộ


14
phim Làng Vũ Đại ngày ấy được Đoàn Lê chuyển thể từ các tác phẩm Chí
Phèo, Lão Hạc và Sống mòn của nhà văn Nam Cao. Ba tác phẩm này đã vượt
qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, để lại những giá trị lâu
bền về ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ
thuật điêu luyện, độc đáo. Nếu trong văn học, ba nhân vật là ba con người
riêng, ở ba thế giới riêng, thì trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy, họ có cùng
một hoàn cảnh sống, một môi trường sống và có những mối liên hệ với nhau.
Sự gắn kết giữa ba nhân vật này đã vẽ lên một bức tranh ảm đạm ở làng Vũ
Đại - một hiện thực đen tối của xã hội thời Pháp thuộc. Đất rừng phương
Nam chuyển thể theo tiểu thuyết cùng tên của cố nhà văn Đoàn Giỏi. Năm
1997, Hãng phim truyền hình thành phố Hồ Chí Minh đã sản xuất bộ phim
Đất phương Nam dài 11 tập, kịch bản, đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn. Đất rừng
phương Nam có kết cấu chương hồi kiểu truyền thống: không gian, thời gian
rạch ròi, nhân vật thiện ác, trắng đen tách bạch và bộc lộ qua hành động, hình
dáng, ngôn ngữ. Phong cách văn chương truyện kể với những biến tấu khác
nhau vẫn tràn đầy sức sống vừa dễ đọc, dễ hiểu lại hợp với đại đa số thiếu nhi
Việt Nam. Bộ phim đạt Giải A của Hội Điện ảnh Việt Nam năm 1997. Bến
không chồng là phim được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên được trao giải
thưởng Hội nhà văn năm 1991 của nhà văn Dương Hướng. Bộ phim được
đánh giá là gần như là bản sao của nguyên tác văn chương, kể về những phận
người bị bóp nghẹt, bị "giết chết" trong cái ấu trĩ, hủ lậu ở một làng quê. Bộ
phim đã đạt giải A Hội Điện ảnh Việt Nam và giải Bông sen bạc tại liên hoan
phim toàn quốc năm 2001. Mùa len trâu là tác phẩm đầu tay của đạo diễn

Nguyễn Võ Nghiêm Minh. Phim được chuyển thể từ tác phẩm Mùa len trâu
và Một cuộc biển dâu trong tập truyện nổi tiếng Hương rừng Cà Mau của nhà
văn Sơn Nam. Mỗi khi về, nước tràn ngập mọi nơi, có những người làm nghề
"len trâu", đưa trâu đi tìm cỏ để sống qua mùa lũ. Bộ phim đã mang về cho


15
Nguyễn Võ Nghiêm Minh giải thưởng đạo diễn xuất sắc nhất, giành giải
Bông sen bạc trong liên hoan phim Việt Nam lần thứ 15 và nhiều giải thưởng
điện ảnh quốc tế. Thời xa vắng bộ phim được thực hiện dựa theo cuốn tiểu
thuyết cùng tên và truyện ngắn Bến sông của nhà văn Lê Lựu. Toàn bộ cuốn
tiểu thuyết này toát lên sự hấp dẫn của hàng loạt chi tiết sống động, chân thực,
bởi những nhân vật điển hình của cuộc sống đậm đặc chất nông thôn Bắc Bộ
những năm 1950. Ngay sau khi tiểu thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu
đạt giải của Hội nhà văn Việt Nam năm 1986, đạo diễn Hồ Quang Minh đã
dành mười mấy năm ấp ủ thực hiện bộ phim, giành giải Cánh diều bạc 2004
và giải thưởng Kim tước dành cho Âm nhạc xuất sắc nhất (nhạc sĩ Đặng Hữu
Phúc) tại liên hoan phim quốc tế Thượng Hải lần thứ 11. Đừng đốt của đạo
diễn Đặng Nhật Minh là bộ phim được chuyển thể từ cuốn nhật kí ghi chép
hàng ngày của của nữ bác sĩ - chiến sĩ cách mạng Đặng Thùy Trâm. Cuốn
nhật ký có nội dung toát lên một ý chí mãnh liệt, một lòng can đảm phi
thường - những điều đã làm nên một thế hệ anh hùng. Ngay sau khi xuất bản
Nhật kí Đặng Thùy Trâm đã phát hành tới 40 vạn bản. Bộ phim Đừng đốt ra
đời được đông đảo khán giả đón nhận, vượt qua 22 đối thủ nặng ký khác để
đạt giải thưởng khán giả bình chọn (Fukuoka Audience Award) của Liên hoan
phim quốc tế Fukuoka lần thứ 19 diễn ra ở Nhật Bản 2009; giải Bông sen
vàng tại liên hoan phim Việt Nam lần thứ 16.
Nhiều tác phẩm văn học lần lượt được màn ảnh hóa: phim Lục Vân Tiên
(dựa theo truyện Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, 1957), Vợ
chồng A Phủ (chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của Tô Hoài, 1960), Chim

vành khuyên (dựa theo truyện ngắn Câu chuyện một bài ca của Nguyễn Văn
Thông, 1962), Chị Tư Hậu (chuyển thể từ truyện Một chuyện chép ở bệnh
viện của Bùi Đức Ái, 1963), Nổi gió (dựa trên vở kịch cùng tên của Đào Hồng
Cẩm, 1966), Rừng xà nu (chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của Nguyễn


16
Trung Thành, 1969). Đây cũng có thể xem là thời kì “hoàng kim” của điện
ảnh Việt Nam… Đặc biệt, ở mảng đề tài chiến tranh cách mạng, những tác
phẩm điện ảnh chuyển thể từ văn học tạo được dấu ấn trong tâm trí người
xem có Cỏ lau (chuyển thể từ tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, 1993), Đất
nước đứng lên (chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Nguyên Ngọc, 1994),
Ông cố vấn (chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của Hữu Mai), Đời cát (chuyển
thể từ truyện ngắn Ba người trên sân ga của Hữu Phương, 1999), Bến không
chồng (chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Dương Hướng, 2000), Người
đàn bà mộng du (chuyển thể từ truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành
của Nguyễn Minh Châu, 2003). Đặc biệt trong giai đoạn này, bộ phim Cỏ lau
đã hoàn toàn thuyết phục được ban giám khảo tại Liên hoan phim quốc tế
Bình Nhưỡng lần III của các nước không liên kết năm 1994, với giải thưởng
Ngọn đuốc vàng. Thành công này đánh dấu bước khởi sắc của điện ảnh nước
nhà trong thời kỳ đổi mới.
Một hình thức chuyển thể nữa là từ văn học sang nhạc kịch. Nhạc kịch
là loại hình sân khấu trong đó kết hợp ca khúc, lời thoại, diễn xuất và nhảy
múa. Nội dung và biểu cảm của nhạc kịch (hỉ, nộ, ái, ố) được thể hiện thông
qua câu chữ, âm nhạc, động tác và các khía cạnh kỹ thuật sân khấu; tất cả hợp
thành một thể thống nhất. Nhạc kịch hiện diện ở khắp nơi trên thế giới. Người
ta diễn nhạc kịch trên các sân khấu lớn - chẳng hạn các vở nhạc kịch West
End (Luân Đôn) hay Broadway (New York) với chi phí đầu tư cao - hay là
trên các sân khấu nhỏ hơn, cũng có thể tổ chức thành chuyến lưu diễn hoặc
chỉ đơn thuần diễn không chuyên tại trường học hay các nơi chốn khác. Có rất

nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng được chuyển thể sang nhạc kịch và để lại ấn
tượng trong lòng khán giả như: Notre-Dame de Paris (Nhà thờ Đức Bà
Paris). Ngày 16 tháng 9 năm 1998, Richard Cocciante và Luc Plamondon ra
mắt công chúng vở Notre-Dame de Paris lấy cảm hứng từ tiểu thuyết cùng


17
tên của Victor Hugo. Vở nhạc kịch đã được công diễn ở nhiều thành phố của
Pháp, Bỉ, Thuỵ Sỹ và Canada. Hơn 3,5 triệu khán giả đã phải di chuyển giữa
các thành phố trong suốt ba năm để thưởng thức màn biểu diễn từ các đoàn
khác nhau. Sau đó, tác phẩm đã được lưu diễn trên toàn thế giới. Les Dix
Commandements (Mười điều răn của Chúa) được dàn dựng bởi Pascal
Obispo và Elie Chouraqui vào năm 2000 cũng đạt được nhiều thành công về
phòng vé cũng như doanh thu từ bán đĩa: 4 triệu bản được tiêu thụ và hơn 1,8
triệu khán giản đã đến xem cuộc phiêu lưu được tiểu thuyết hoá về Moïse,
đứa trẻ được cứu vớt từ sông Nile. Roméo et Juliette (Romeo và Juliette) dựa
trên câu chuyện tình lãng mạng giữa Romeo và Juliette của William
Shakespeare, bản chuyển thể của Gerard Presgurvic đã thu hút rất đông khán
giả đến thưởng thức. Thành công này có được một phần cũng nhờ vào việc
phát hành đĩa ra thị trường từ nhiều tháng trước buổi công diễn đầu tiên của
vở nhạc kịch với doanh số bán được là 5 triệu bản.
Không chỉ xuất hiện ở các sân khấu lớn và được các nghệ sĩ nổi tiếng
diễn, ngày nay nhạc kịch còn được diễn phổ biến ở các trường học, nhiều buổi
diễn văn nghệ có những vở diễn nhạc kịch rất hấp dẫn. Có thể nói hình thức
chuyển thể tác phẩm văn học sang nhạc kịch đã trở thành một hình thức học
tập vui chơi bổ ích cho các em học sinh.
c) Chuyển thể từ văn học sang hội họa, điêu khắc.
Đây là hình thức chuyển thể từ kênh chữ sang các kí hiệu tạo hình. Thời
trung cổ ở châu Âu, kinh thánh đến với dân chúng bằng các bức tranh, tượng.
Hàng loạt các họa sĩ, nhà điêu khắc Phục hưng, Cổ điển, Ba rốc, Tân cổ

điển... ở các thế kỉ XVII, XVIII, XIX ở phương Tây dựa vào kinh thánh, thần
thoại Hy Lạp... để sáng tạo nên tác phẩm. Tượng Người suy tưởng và Cánh
cổng địa ngục của Rodin là sự diễn tả Thần khúc của Dante. Tranh khắc gỗ
của Nhật Bản cũng được sáng tạo dựa trên các câu truyện như Ngưu Lang
Chức Nữ...


18
Hình thức chuyển thể truyện sang truyện tranh cũng tương đối phổ
biến. Chuyển thể tác phẩm văn học chính thống nổi tiếng thành truyện tranh
không lạ lẫm ở nước ngoài nhưng lại khá mới mẻ ở Việt Nam. Đây được
xem là một cách phổ cập dễ hiểu những tác phẩm hay trong chương trình
giảng dạy của sách giáo khoa, hàng loạt tác phẩm văn học Việt được coi là
kinh điển đã được chuyển thể thành truyện tranh. Trong đó, nổi bật nhất là
bốn tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao), Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Giông tố (Vũ
Trọng Phụng), và Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng). Đây là một cách
làm mới mẻ và sáng tạo. Mục tiêu của dự án này đã nhận được sự đồng tình,
cổ vũ của nhiều người yêu thích văn học Việt. Và không thể phủ nhận một
điều rằng những truyện tranh danh tác đã tác động không nhỏ đến việc giúp
giới trẻ Việt hình dung một cách khá cụ thể, sinh động và dễ hiểu hơn các
tác phẩm tưởng chừng như quen thuộc. Bước đầu, những tác phẩm văn học
truyện tranh hóa này được bạn đọc nhỏ tuổi và cả người lớn đón nhận một
cách khá nồng nhiệt. Nhiều người đồng tình ủng hộ, cho rằng đó là một
hướng đi khá táo bạo và mới mẻ của các công ty xuất bản nhằm làm phong
phú hơn thị trường truyện tranh Việt Nam, đồng thời giúp giới trẻ dễ tiếp
cận hơn với những tác phẩm văn học, từ đó vực dậy niềm đam mê văn học ở
thanh thiếu niên.
Như vậy, chuyển thể là cách thức biến đổi một tác phẩm nghệ thuật này
thành một tác phẩm nghệ thuật khác. Từ văn bản gốc có thể tái tạo thành các
thể loại hoặc loại hình nghệ thuật, đem đến những cách tái sinh mới cho tác

phẩm gốc. Chuyển thể (còn có thể gọi là cải biên/cải tác) xuất phát từ nghĩa
gốc là thích nghi, thay đổi, khiến cho phù hợp/ làm thích nghi, làm thích ứng,
được định nghĩa là phỏng theo, cải biến nội dung của hình thức nghệ thuật
này cho phù hợp với hình thức nghệ thuật khác, chẳng hạn chuyển thể một
tiểu thuyết thành kịch bản phim.


19
1.1.2. Các quan niệm về chuyển thể
Trên thế giới đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề chuyển
thể và có được những thành tựu đáng kể. Một trong số đó là cuốn Bàn về kịch
bản điện ảnh của các tác giả William Fadiman, John W.. Bloch, Lois Peysen.
Họ đã chia chuyển thể thành hai khuynh hướng: trung thành với nguyên tác
và cải biên nguyên tác.
Tiếp đó là tác phẩm A theory of Adaptation (Lí thuyết về chuyển thể) của
Linda Hutcheon, đây là một trong những công trình được đánh giá cao trong
lĩnh vực nghiên cứu chuyển thể. Tác giả đã chỉ ra hiện tượng chuyển thể ở
đây được soi chiếu từ cái nhìn kép: chuyển thể với tư cách là quá trình (sự
diễn giải đầy sáng tạo/ sự sáng tạo có tính diễn giải của tác giả chuyển thể);
chuyển thể với tư cách là sản phẩm (sự chuyển mã được công bố, bao quát và
cụ thể). Văn bản chuyển thể có khả năng “thách thức quyền uy của bất cứ ý
niệm nào về sự ưu tiên. Các phiên bản phức hợp tồn tại bên cạnh nhau chứ
không phải theo chiều thẳng đứng”. Tác giả quan niệm “tác phẩm chuyển thể
là một sự chuyển vị mạnh mẽ và được thông báo của một hoặc vài tác phẩm
cụ thể”. [24]
Nếu công trình Lí thuyết về chuyển thể của L. Hutchoen tập trung nghiên
cứu về lí thuyết của chuyển thể thì công trình Film and Literature (Điện ảnh
và văn học) của nhà nghiên cứu Timothy Corrigan (nhóm dịch giả Nguyễn
Thu Hà, Trần Phương Hoàng, Huyền Vũ, Trần Lê Minh chuyển ngữ; Minh
Lê hiệu đính, Nxb. Thế giới, 2013), nói đến việc khảo cứu và tổng kết mối

quan hệ văn học - điện ảnh theo chiều lịch đại và tái hiện lại một loạt các giai
đoạn lịch sử, các phong tục văn hoá và các phương pháp phê bình điện ảnh.
Nhưng dù là nghiên cứu chuyển thể ở phương diện nào thì các nhà nghiên cứu
đều đi đến thống nhất coi chuyển thể là hiện tượng phổ biến và tất yếu của
mọi nền điện ảnh.


×