Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ GIẢI QUYÊT VIỆC làm CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN NGOẠI THÀNH hà nội TRONG QUÁ TRÌNH đô THỊ hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.55 KB, 117 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN NGOẠI THÀNH
HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ VÀ
KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về việc làm, giải quyết việc
làm cho người lao động nông thôn ngoại thành Hà Nội
trong quá trình đô thị hóa
1.2. Nội dung và các nhân tố tác động đến giải quyết việc làm
cho người lao động nông thôn trong quá trình đô thị hóa
1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động nông
thôn ngoại thành trong quá trình đô thị hoá ở một số địa
phương và bài học rút ra cho thành phố Hà Nội
Chương 2 THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN NGOẠI THÀNH
HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Thủ đô
Hà Nội có ảnh hưởng đến giải quyết việc làm
2.2. Thành tựu và hạn chế trong giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa
thời gian qua
2.3. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra về giải quyết việc
làm cho người lao động nông thôn ngoại thành Hà Nội
trong quá trình đô thị hóa
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG
THÔN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH
ĐÔ THỊ HÓA THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm giải quyết việc làm cho người lao động nông


thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa thời
gian tới
3.2. Giải pháp chủ yếu tăng cường giải quyết việc làm cho
người lao động nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quá
trình đô thị hóa thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
3

9
9
26
36
44
44
49
73

84
84
88
108
109
115


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Việc làm cho người lao động là vấn đề được quan tâm hàng đầu và luôn
mang tính thời sự trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia
trên thế giới. Việc làm vừa là yêu cầu, là nguyện vọng chính đáng của người
lao động, vừa là trách nhiệm của mỗi con người đối với bản thân và xã hội.
Việc làm giúp cho người lao động vươn lên làm giàu bằng chính sức lực của
mình. Đảm bảo việc làm cho người lao động không những giúp cho bản thân
người lao động có thu nhập ổn định cuộc sống mà còn làm lành mạnh hóa các
quan hệ xã hội và là một trong những yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền vững.
Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì vấn đề việc làm cho người
lao động là hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong tiến trình xây dựng và
phát triển đất nước, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc
tế. Hiện nay, Việt Nam với dân số trên 90 triệu người, trong đó lao động nông
nghiệp nông thôn có nguồn nhân lực dồi dào, đây cũng là thế mạnh của chúng ta,
việc quan tâm, giải quyết việc làm cho người lao động luôn là một trong những
vấn đề được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Chính vì vậy, trong văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: "Giải quyết việc
làm là nhân tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển
kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức
xúc của nhân dân". Và văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
tiếp tục nhấn mạnh: “Trên cơ sở đầu tư phát triển kinh tế, phải hết sức quan tâm
tới yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động; giải quyết việc làm cho người lao động;
tạo điều kiện giải quyết ngày càng nhiều việc làm, đặc biệt là cho nông dân” [24].
Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của cả nước, là địa
phương nằm trong vùng tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc: Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh. Vì vậy, trong thời gian qua Hà Nội đã thu hút được

3



nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào phát triển kinh tế, tạo
những bước chuyển biến quan trọng đối với thủ đô trên nhiều lĩnh vực trong
đó có giải quyết việc làm.
Tuy nhiên, do Hà Nội đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và xu hướng đô thị hoá gia tăng đòi hỏi người lao động phải có
trình độ, được đào tạo cả về kỹ năng nghề nghiệp và tác phong công nghiệp thì
mới đáp ứng được yêu cầu. Lao động ở ngoại thành hiện nay chưa thể đáp ứng
được yêu cầu này do mặt bằng trình độ thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa cao,
lao động giản đơn theo kiểu truyền nghề và tự học là chủ yếu.v.v... Việc làm thì
có rất nhiều song người lao động không thể đáp ứng được công việc nên vẫn bị
thất nghiệp. Không có việc làm sẽ nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội phức
tạp vì vậy tạo việc làm cho lực lượng lao động, đặc biệt là lực lượng lao động ở
khu vực ngoại thành bao gồm các huyện: Gia Lâm, Thanh Trì, Đông Anh, Sóc
Sơn, Mê Linh, Thường Tín, Thạch Thất, Quốc Oai, Ba Vì, Chương Mỹ, thị xã
Sơn Tây, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Ứng Hoà. là
vấn đề cấp bách đặt ra cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thủ đô Hà Nội.
Để đánh giá những kết quả đạt được và những tồn tại, vướng mắc trong
vấn đề giải quyết việc làm cho lao động ở ngoại thành Hà Nội, từ đó đề xuất
một số giải pháp hữu hiệu cho vấn đề tạo việc làm nhằm góp phần vào sự ổn
định và phát triển kinh tế – xã hội của thủ đô trong những năm tới, tôi đã chọn
đề tài: “Giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ngoại thành Hà
Nội trong quá trình đô thị hoá” cho luận văn thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế
Chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các nghiên cứu về vấn đề giải quyết việc làm
Chính sách việc làm: Thực trạng và giải pháp của Th.s Thúy Hà,
Trung tâm nghiên cứu khoa học, Viện Nghiên cứu lập pháp, năm 2013.

4



Bài viết tổng quan lại thực trạng các chính sách việc làm mà chính phủ
đưa ra để hỗ trợ công tác giải quyết việc làm cũng như những giải pháp để
hoàn thiện cơ chế chính sách trên, nhằm phát huy cao nhất hiệu quả của
những chính sách đưa ra.
GS,TS Phạm Đức Thành: Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam - Tạp
chí Kinh tế và Phát triển 2002- số 64. Trong bài viết, tác giả đã đánh giá hiện
trạng việc làm và thất nghiệp trên cơ sở đó đề ra những quan điểm và biện
pháp giải quyết việc làm cho người lao động.
TS Nguyễn Tiệp: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn: Các
giải pháp tạo thêm việc làm, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 309 (6/2004).
Trong bài viết, tác giả đề cập đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông
thôn là phù hợp với yêu cầu của quá trình CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Là kết quả của phát triển lực lượng sản xuất và phân công lại lao động ở nông
thôn. Đồng thời, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn còn chịu sức
ép giải quyết việc làm, tăng mức cầu lao động trên địa bàn nông thôn.
Bùi Xuân An (2005), Giải quyết việc làm ở Thái Bình: thực trạng và
giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Tác giả đã phân tích thực trạng công tác giải quyết việc làm tại tỉnh
Thái Bình, từ đó đưa ra các hạn chế còn tồn tại và đề xuất các giải pháp để
giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Bình
Nguyễn Tiệp (2004), "Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn:
Các giải pháp tạo thêm việc làm", Tạp chí Lao động và Công đoàn, (309), tr 67.
Một trong những giải pháp hữu hiệu để giải quyết việc làm cho người
lao động là tạo ra cầu lao động, trong đó giải pháp phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ để thu hút lao động được coi là một trong những giải pháp
thích hợp trong điều kiện kinh tế của nước ta. Bài viết đã nêu nên những
hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam và các phương thức


5


thu hút lao động vào các doanh nghiệp này.
Nguyễn Tiệp (2006), "Một số giải pháp tạo việc làm gắn với giải quyết
các vấn đề xã hội tại Hà Nội", Tạp chí Lao động - xã hội, (289), tr 39-41. Trong
bài viết này tác giả đã đưa ra một số giải pháp tạo việc làm cho lao động tại Hà
Nội, theo đó, gắn vấn đề giải quyết việc làm với những vấn đề nổi cộm trong xã
hội như cờ bạc, trộm cắp, mất trật tự an ninh xã hội, nghiện hút…
Nguyễn Thị Hải Vân (2006), "Những giải pháp đột phá trong chương
trình việc làm giai đoạn 2006 - 2010", Tạp chí Lao động - xã hội, (282), tr 1314, 17. Ở đây tác giả đã đưa ra nội dung chính của chương trình giải quyết
việc làm và những thành tựu đáng ghi nhận trong chương trình giải quyết việc
làm ở nước ta giai đoạn 2006 – 2010. Trong đó, tác giả đã nêu ra những giải
pháp hiệu quả để đạt được những thành tích trên.
* Các nghiên cứu về đô thị hóa và tác động của đô
thị hóa đến việc làm
Hoàng Văn Hoa (2006), "Tác động của đô thị hoá đối với lao động, việc
làm của người có đất bị thu hồi ở nước ta hiện nay", Tạp chí Kinh tế và phát
triển (106), tr 3- 5. Bài viết đã đưa ra những tác động tiêu cực và tác động tích
cực của quá trình đô thị hóa đến người lao động, cụ thể là người nông dân ở
nước ta hiện nay. Nội dung chính của bài viết đề cập đến chính sách thu hồi đất
của người lao động và vấn đề việc làm của họ sau khi bị thu hồi đất.
TS Nguyễn Tiến Dũng (2010) - Tổng cục trưởng Tổng cục dạy nghề,
Bộ lao động thương binh và xã hội: Đào tạo nghề cho nông dân trong quá
trình đô thị hóa, Chuyên san nghiên cứu khoa học của Tổng cục dạy nghề.
Bài viết nêu rõ những ưu điểm và nhược điểm của nông dân hiện nay
trong vấn đề giải quyết việc làm. Bài viết cũng nêu rõ về vấn đề cần thiết của
việc đào tạo nghề cho nông dân trong quá trình đô thị hóa. Trong quá trình đô
thị hóa, người nông dân mất đi tư liệu sản xuất là đất đai, chính vì vậy họ cần
chuyển hướng từ nông nghiệp sang ngành nghề khác. Hơn nữa quá trình đô

thị hóa yêu cầu trình độ của người lao động phải cao hơn nên vấn đề đào tạo
là cấp bách.
6


Đỗ Thế Tùng (2002), “Ảnh hưởng của quy hoạch đô thị với vấn đề giải
quyết việc làm ở Việt Nam", Tạp chí Lao động và Công đoàn, (261). Bài viết
nêu lên 1 số dự án quy hoạch đô thị tiêu biểu của nước ta, đồng thời nêu thực
trạng lao động việc làm của các vùng quy hoạch sau đô thị hóa, từ đó tác giả
đã đưa ra những ảnh hưởng của vấn đề quy hoạch đô thị tới công tác giải
quyết việc làm cho các vùng này.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
đầy đủ về việc làm cho người lao động nông thôn ngoại thành Hà Nội trong
quá trình đô thị hoá dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận của giải quyết việc làm cho người lao động
trong quá trình đô thị hoá, phân tích thực trạng giải quyết việc làm cho người
lao động nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá hiện nay và
đề xuất những quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm tạo việc làm cho người lao
động nông thôn ngoại thành Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận và khảo sát kinh nghiệm thực tiễn về giải
quyết việc làm cho người lao động nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quá
trình đô thị hóa .
- Phân tích thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động nông
thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa giai đoạn 2010 - 2014. Rút
ra nguyên nhân của hạn chế và những vấn đề đặt ra trong giải quyết việc làm
cho người lao động nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa.
- Đề xuất quan điểm và những giải pháp đẩy mạnh giải quyết việc làm

cho lao động nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá từ nay
đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tuợng nghiên cứu: Giải quyết việc làm cho người lao động nông
thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá.

7


* Phạm vi nghiên cứu: Giải quyết việc làm cho người lao động nông
thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá dưới góc độ của khoa học
kinh tế chính trị Mác - Lênin.
Thời gian khảo sát, đánh giá thực trạng từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, lý thuyết lao động và việc làm hiện
đại cùng với những chủ trương và chính sách của Nhà nước về vấn đề lao
động việc làm.
*Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho việc nghiên cứu và thực hiện những nhiệm vụ đề ra,
luận văn dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá của các công trình khoa học đã
được công bố, để nghiên cứu vấn đề việc làm và giải quyết việc làm ở ngoại
thành Hà Nội và sử dụng những phương pháp như: Phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; trừu tượng hoá khoa học, phương pháp phân tích
tổng hợp; phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh, đối chiếu...để
làm rõ vấn đề.
6. Ý nghĩa của đề tài
Cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc làm cho người lao

động nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá. Qua đó cung
cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành của thành phố
tham khảo để thực hiện tốt chính sách giải quyết việc làm trong những năm
tới. Luận văn cũng là tài liệu tham khảo dùng trong giảng dạy môn Kinh tế
chính trị Mác - Lê nin trong các nhà trường Cao đẳng và Đại học.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

8


luận văn gồm 3 chương (8 tiết).

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ VÀ
KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về việc làm, giải
quyết việc làm cho người lao động nông thôn ngoại
thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa
1.1.1. Khái niệm về việc làm và giải quyết việc làm
* Khái niệm về việc làm
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã
hội và nhân khẩu, là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời
sống xã hội. Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt
động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.

Việc làm được bắt nguồn từ lao động của con người (tất nhiên là chỉ
ở những người có sức lao động) tác động đến tự nhiên nhằm tạo ra của cải
vật chất để thỏa mãn nhu cầu của mình, và việc làm luôn gắn với một
ngành nghề nhất định.
Trong tác phẩm nổi tiếng Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen đã
khẳng định: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài
người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải
nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [12, tr.112]. Điều đó có
nghĩa là nhân tố có tính chất quyết định trong lịch sử, xét đến cùng là việc sản
xuất và tái sản xuất ra chính bản thân con người. Nói đến sản xuất và tái sản
xuất phải luôn thấy, sản xuất gồm có hai loại: một loại sản xuất ra những của
cải vật chất, tinh thần hay sản xuất ra tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, như
thức ăn, nhà ở, quần áo và các công cụ cần thiết khác; một loại sản xuất ra
bản thân loài người, tức là việc phát triển giống nòi. Ở đây, lao động được
xem xét ở khía cạnh thứ nhất - lao động để sản xuất ra của cải hay sản phẩm
10


để phục vụ con người và xã hội.
Điều 13, chương 2, Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ghi rõ: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập,
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [52, tr.25]. Như vậy,
việc làm là lao động của con người nhằm tạo ra thu nhập hoặc lợi ích của bản
thân và gia đình không bị pháp luật ngăn cấm. Trong thực tế, phần lớn những
việc làm phạm pháp (buôn lậu, buôn người, sản xuất hàng giả, hàng cấm…)
đều mang lại những khoản thu nhập rất cao cho chủ thể hoạt động, nhưng đó
là những hoạt động phạm pháp, không được pháp luật cho phép nên không
được thừa nhận là việc làm.
Các hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm:
- Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật

(làm việc được trả công)
- Những công việc tự làm hoặc làm các công việc gia đình, được hiểu là
các công việc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong gia đình để thu lợi nhuận cho
bản thân hoặc tạo ra thu nhập cho gia đình nhưng không được trả công bằng
tiền hoặc hiện vật cho công việc đó (việc làm không được trả công). Trên thực
tế, phần thu nhập mà bản thân hay gia đình nhận được, phục vụ cho nhu cầu
sinh hoạt hàng ngày chính là tiền công, tiền lương mà bản thân người lao
động nhận được, hay nói cách khác, trong trường hợp này bản thân người lao
động tự trả công cho lao động của mình. Việc làm không được trả công này
khác với việc làm không được trả công khi người lao động làm việc cho tư
bản, bởi việc làm không được trả công của người lao động khi làm việc cho
nhà tư bản thì đó chính là phần lao động tạo ra giá trị thặng dư và lại bị giai
cấp tư sản chiếm đoạt.
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, thị trường lao động
còn đang trong giai đoạn khởi phát, hình thức tìm việc và làm việc còn rất hạn
chế, do đó tỷ trọng lao động tự làm việc và làm việc cho gia đình là lớn so với
tổng số người đang làm việc, đặc biệt trong khu vực nông thôn. Trong sản

11


xuất nông nghiệp, người nông dân thường bỏ công sức để trồng lúa, hoa màu,
cây công nghiệp, chăn nuôi…phục vụ cho nhu cầu của họ. Những dạng lao
động kiểu này thường không được định giá và người lao động không được
nhận tiền lương hay thu nhập nhưng những sản phẩm bằng hiện vật mà người
lao động thu được cũng là một phần thu nhập của họ.
Theo khái niệm trên, hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai
điều kiện:
Một là, hoạt động đó phải có ích nhưng đồng thời tạo ra thu nhập cho
người lao động và cho các thành viên trong gia đình. Những hoạt động lao

động có ích khác như sản xuất tự cung tự cấp, nhằm phục vụ tự tiêu dùng,
nhưng không trao đổi, không đem lại thu nhập cho người lao động thì không
được coi là việc làm.
Hai là, hoạt động đó phải đúng luật; không bị pháp luật cấm.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, và là điều kiện cần và
đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động chỉ tạo
ra thu nhập nhưng vi phạm luật pháp như: trộm cắp, buôn bán hêrôin, mại
dâm,... Không thể được công nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động dù là
hợp pháp, có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là
việc làm. Chẳng hạn như công việc nội trợ hàng ngày của phụ nữ cho chính
gia đình mình: đi chợ, nấu cơm, giặt giũ quần áo,... Nhưng nếu người phụ nữ
đó cũng thực hiện các công việc nội trợ tương tự cho gia đình người khác thì
hoạt động của họ lại được thừa nhận là việc làm vì được trả công.
Điểm đáng lưu ý là tùy theo phong tục, tập quán của mỗi dân tộc và
pháp luật của các quốc gia mà người ta có một số quy định khác nhau về việc
làm: Ví dụ: mại dâm của phụ nữ được coi là việc làm của phụ nữ ở Thái Lan,
Philippin vì được pháp luật bảo hộ và quản lý; nhưng ở Việt Nam hoạt động
đó được coi là hoạt động phi pháp, vi phạm pháp luật và không được thừa
nhận là việc làm.

12


Việc làm có những tính chất đa dạng như sau:
Một là, tính chất cá nhân hay tập thể của việc làm: điều này cho biết
công việc của một người hay của tập thể.
Hai là, tính chất địa lý của việc làm: cho biết việc làm được diễn ra ở
đâu, khu vực nông thôn hay thành thị, vùng đồng bằng hay miền núi…
Ba là, tính chất kỹ thuật của việc làm: cho biết tính đặc thù về kỹ thuật
và công nghệ của việc làm. Đây cũng là cơ sở để chia theo ngành nghề của

công việc.
Bốn là, tính chất thành thạo của việc làm: cho biết năng lực và phẩm
chất của người lao động được thể hiện trong quá trình làm việc.
Năm là, tính chất kinh tế của việc làm: cho thấy hiệu quả kinh tế của
việc làm.
Sáu là, tính chất cơ động của việc làm: cho thấy khả năng thay đổi nghề
nghiệp và năng lực thích nghi với điều kiện làm việc mới của người lao động.
Như vậy, việc làm có nhiều tính chất khác nhau và luôn mang tính
chất động. Vì vậy người ta chia việc làm thành những phạm trù xã hội nghề nghiệp khác nhau, từ đó có sự phân biệt các loại nghề nghiệp của lao
động khác nhau. Đó là:
Việc làm chính thức: được hiểu là công việc chính mang lại thu nhập
chính (đối với những việc làm được trả công) và những thu nhập về của cải vật
chất cho bản thân và gia đình (đối với những việc làm không được trả công)
Việc làm không chính thức: được hiểu là những công việc làm thêm
ngoài làm chính. Như vậy, đối với người nông dân, việc làm chính của họ là
sản xuất nông nghiệp trong mùa vụ, còn việc làm không chính thức là việc
làm thêm trong lúc nông nhàn.
Việc làm bền vững: theo ILO, việc làm bền vững là những việc làm có
năng suất và chất lượng cho nam giới và nữ giới, trong điều kiện tự do, bình
đẳng, an toàn và nhân phẩm được tôn trọng. Việc làm bền vững bao gồm các

13


cơ hội làm việc một cách hiệu quả; có thu nhập công bằng; đảm bảo an toàn
tại nơi làm việc và bảo vệ xã hội cho người lao động cũng như gia đình họ; có
triển vọng phát triển cá nhân và khuyến khích hòa nhập xã hội; cho phép mọi
người được tự do bày tỏ những mối quan tâm của mình, được tự do tổ chức và
tham gia vào các quyết định ảnh hưởng tới cuộc sống của họ; và đảm bảo cho
tất cả mọi người đều có cơ hội bình đẳng và được đối xử bình đẳng. Như vậy,

xét về mặt kinh tế, việc làm bền vững là việc làm phải có năng suất và có thể
cạch tranh. Tuy nhiên trên thế giới, bảo đảm cho người lao động có việc làm
bền vững vẫn còn là vấn đề rất nan giải.
Từ những phân tích ở trên, có thể cho rằng, việc làm là hoạt động lao
động của con người mà pháp luật không cấm, là dạng hoạt động kinh tế - xã
hội, đó là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất theo những điều
kiện phù hợp nhất định, nhằm tạo ra sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng
lợi ích của con người.
* Khái niệm về giải quyết việc làm
Việc làm là một dạng hoạt động kinh tế - xã hội. Hoạt động đó không
đơn thuần là sự kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất, mà nó còn bao gồm
cả những yếu tố xã hội. Muốn sự kết hợp đó diễn ra và không ngừng phát
triển, phải tạo ra được sự phù hợp cả về số lượng, chất lượng sức lao động với
tư liệu sản xuất, trong một môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi, đảm bảo cho
hoạt động đó diễn ra một cách bình thường.
Giải quyết việc làm (GQVL) là việc tạo ra các cơ hội để người lao động
có việc làm và tăng được thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình
và cộng đồng xã hội.
Giải quyết việc làm là nhằm khai thác triệt để tiềm năng của một con
người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm có hiệu quả. Chính vì vậy
GQVL phù hợp có ý nghĩa quan trọng đối với người lao động ở chỗ tạo cơ hội
cho họ thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình. Trong đó có quyền cơ

14


bản nhất là quyền được làm việc nhằm nuôi sống bản thân và gia đình góp
phần xây dựng quê hương đất nước.
Giải quyết việc làm có thể được hiểu ở các khía cạnh như sau:
Một là, Giải quyết việc làm cho người lao động là quá trình tạo ra

những cơ hội sử dụng tối đa sức lao động kết hợp với tư liệu sản xuất trong
phát triển kinh tế - xã hội mang lại thu nhập hợp pháp cho người lao động,
người sử dụng lao động và cho xã hội. Ở nước ta hiện nay với chủ trương
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã và đang tạo mọi
điều kiện thuận lợi để hình thành thị trường sức lao động đa dạng và phong
phú, cả thị trường trong và ngoài nước. Người lao động được làm chủ sức lao
động của mình, tự do tìm kiếm việc làm theo năng lực của mình ở mọi lúc,
mọi nơi... Người sử dụng lao động ở các loại hình doanh nghiệp khác nhau
cũng được tự do thuê mướn lao động theo số lượng, chất lượng, theo nhu cầu
sản xuất kinh doanh mà pháp luật cho phép. Đó thực chất là quá trình đẩy
mạnh phân công lao động, tạo ra các ngành, nghề mới để nhằm thu hút lực
lượng lao động xã hội hiện đang chưa có việc làm hoặc có việc làm chưa
ổn định, thu nhập thấp.
Hai là, GQVL là quá trình tạo ra nhu cầu về việc làm để thu hút
người lao động có nhu cầu, mong muốn được làm việc có thể tìm đến. Đó
thực chất là quá trình tạo ra những điều kiện kinh tế - xã hội, các chính sách
của Nhà nước, các giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, các giải
pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu quả cao; các giải pháp về mở
rộng thị trường xuất khẩu lao động; về tiền lương, trợ cấp nghề nghiệp; về chế
độ hưu trí… GQVL còn cần phải được xem xét cả phía người lao động, người
sử dụng lao động và vai trò của Nhà nước.
Ba là, GQVL là một hoạt động mang tính xã hội sâu sắc, đòi hỏi phải có
sự chung sức của cả hệ thống chính trị. Trong bất cứ xã hội nào nhu cầu được có
việc làm và khả năng GQVL của xã hội và bản thân nền kinh tế luôn có sự lệch

15


pha và thông thường số lượng người muốn có việc làm hay còn gọi là cầu về
việc làm luôn lớn hơn khả năng GQVL hay cung về việc làm. Việc giải quyết

bất cập này phải bằng tổng thể các biện pháp cả kinh tế, chính trị, giáo dục; của
cả gia đình nhà trường, xã hội; của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa
phương nhằm tác động đến quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi
lao động và sự di chuyển của lao động, về sự phát triển của giáo dục đào tạo, y tế,
thể chất và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Vì vậy, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm là vấn đề có ý nghĩa to
lớn đối với mỗi quốc gia. Trong Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã có quy định rõ ràng và đầy đủ về trách nhiệm của nhà
nước, trách nhiệm của từng thành viên trong xã hội đối với vấn đề việc làm:
“giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ
hội có việc làm, là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và của
toàn xã hội” [52, tr.142].
Tham gia vào quá trình GQVL có nhiều thành phần: Nhà nước, các
doanh nghiệp, các đoàn thể và cá nhân từng người lao động trong toàn xã hội.
Cụ thể, theo Bộ luật Lao động, các qui định trách nhiệm của Nhà nước đó là:
Nhà nước định ra các chỉ tiêu kế hoạch giải quyết việc làm mới trong kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Có chính sách ưu đãi, khuyến khích giải
quyết việc làm như: hỗ trợ về tài chính vay vốn, miễn giảm thuế; Chính phủ
lập chương trình quốc gia về việc làm, phát triển hệ thống dịch vụ việc làm,
hệ thống các cơ sở dạy nghề.
Doanh nghiệp: Phải đảm bảo việc làm cho người lao động mà doanh
nghiệp đã tuyển dụng; Phải mở rộng quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm;
Phải ưu tiên lao động nữ, người tàn tật với một tỷ lệ thích hợp và có công việc
phù hợp cho bộ phận lao động này khi thay đổi cơ cấu công nghệ, nếu cho
người lao động thôi việc thì phải trợ cấp mất việc làm; Các tổ chức đoàn thể,
tổ chức xã hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
tham gia các chương trình giải quyết việc làm của chính phủ.
Để từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống, phát huy nguồn lực con

16



người, vấn đề bức xúc đối với nước ta hiện nay là phải tính đến đầy đủ các
yếu tố cơ bản tác động, nhất là, vấn đề an toàn việc làm, an toàn lương thực
và môi trường bền vững; trong đó an toàn việc làm, có việc làm thường
xuyên, ổn định cho người lao động là yếu tố quan trọng hàng đầu.
Từ những phân tích luận giải trên, có thể quan niệm: “Giải quyết việc làm
cho người lao động là quá trình tạo ra và kết hợp các yếu tố sản xuất bao gồm sức
lao động, tư liệu sản xuất và các điều kiện kinh tế - xã hội khác để đảm bảo cho
người có khả năng lao động được lao động và duy trì hoạt động lao động đó”.
1.1.2. Đô thị hóa và tác động của đô thị hóa đến việc làm
* Đô thị hóa
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá (CNH, HĐH& ĐTH) là
con đường phát triển của mọi quốc gia trên thế giới. Trong thời đại ngày nay,
thời đại khoa học - công nghệ phát triển nhanh như vũ bão, kinh tế tri thức
đang dần đi vào cuộc sống và toàn cầu hoá là một xu thế không gì có thể
cưỡng lại được thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường giúp các nước
chậm phát triển rút ngắn thời gian so với các nước đi trước.Việt Nam đang
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu
và bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, có
nghĩa là chúng ta đang chuyển từ một nền kinh tế tiền tư bản đi lên chủ nghĩa
xã hội, vì vậy chúng ta phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của chúng ta là phải thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Chúng ta biết rằng, đi kèm với việc áp dụng máy móc, kỹ thuật vào
trong sản xuất sẽ làm thay đổi tính chất của quá trình sản xuất. Quá trình sản
xuất chỉ sử dụng ít lao động sống và sử dụng nhiều máy móc thay thế. Hệ quả
của việc này là dư thừa lao động: người lao động không có việc làm hoặc có
việc làm nhưng không đầy đủ. Mặt khác quá trình CNH, HĐH cũng làm xuất
hiện những ngành kinh tế mới, có thể thu hút được một số lượng lao động

nhất định. Nhưng nhìn chung, tình hình người lao động không có việc làm

17


vẫn tăng nhanh hơn tỷ lệ người lao động tìm được việc làm.
CNH, HĐH sẽ dẫn đến sự thay đổi to lớn về nhiều mặt cả về kinh tế và
xã hội.
Về mặt kinh tế: CNH, HĐH làm thay đổi phương thức sản xuất và cơ
cấu nền kinh tế, làm cho nền kinh tế có một bước phát triển mới về chất, đó là
nền kinh tế dựa trên nền đại công nghiệp và dịch vụ chất lượng cao.
Về mặt xã hội: đó là quá trình đô thị hoá. Trong nền kinh tế hiện đại, đô
thị hoá không chỉ đơn thuần là sự hình thành các đô thị mới mà đó là một nấc
thang tiến hoá vượt bậc của xã hội với một trình độ văn minh mới, một
phương thức hoạt động mới. Đó là cách thức tổ chức, bố trí lực lượng sản
xuất, cơ cấu lại nền kinh tế.
Mặc dù còn nhiều quan niệm khác nhau về đô thị hoá. Song tựu trung
lại có thể hiểu: Đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố lại lực lượng sản
xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các
hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị theo
chiều rộng và theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật
và tăng quy mô dân số ở các đô thị. Đó là quá trình tập trung, tăng cường,
phân hoá các hoạt động trong đô thị và nâng cao tỷ lệ số dân thành thị trong
các vùng, các quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Đồng thời, đô thị hoá
cũng là quá trình phát triển của các thành phố lớn và phổ biến rộng rãi lối
sống thành thị trong dân cư.
Theo đó, đô thị hoá được xem là quá trình biến đổi, chuyển biến về
nhiều mặt kinh tế - xã hội của các khu vực trước đây là sản xuất nông nghiệp,
khu vực nông thôn để trở thành các khu đô thị, khu chế xuất, khu công nghiệp
phục vụ cho sản xuất công nghiệp và các ngành dịch vụ. Như vậy, về bản chất

của đô thị là sự phát triển các cụm kinh tế công nghiệp, dịch vụ, kết cấu hạ tầng
cơ sở, phát triển các cụm dân cư theo hình thức và điều kiện sống mang tính
công nghiệp, đô thị sầm uất. Đây là một xu thế tất yếu xảy ra đối với tất cả các

18


quốc gia, các thành phố lớn khi thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp
sang nền kinh tế công nghiệp từng bước tiếp cận với nền kinh tế tri thức, vì đô
thị hoá tạo ra cơ sở thúc đẩy sự phát triển phân công lao động xã hội, cơ cấu lại
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó có thủ đô Hà Nội.
Khái niệm pháp quy về đô thị hoá ở Việt Nam: Điểm dân cư được coi là
đô thị hoá phải có các tiêu chí sau đây: Là trung tâm tổng hợp hay chuyên
ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi cả nước,
một miền lãnh thổ, của một tỉnh, một huyện hoặc một vùng trong tỉnh hay
huyện; có quy mô dân số nội thị nhỏ nhất là 4000 người (vùng núi có thể thấp
hơn); tỷ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm 60% trở lên trong tổng số lao động
của nội thị, là nơi sản xuất và dịch vụ thương mại hàng hoá phát triển; có kết
cấu hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng phục vụ dân cư đô thị hoá
từng phần hoặc đồng bộ; mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km2.
Đô thị hoá có hai hình thức biểu hiện chủ yếu:
Một là, đô thị hoá theo chiều rộng trong đó quá trình đô thị hoá diễn ra
tại các khu vực trước đây không phải là đô thị. Đó cũng chính là quá trình mở
rộng quy mô diện tích các đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các khu đô thị
mới, các quận, phường mới. Với hình thức này, dân số và diện tích đô thị
không ngừng gia tăng, các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp và các hoạt
động của kinh tế đô thị không ngừng mở rộng; các hoạt động sản xuất kinh
doanh và điểm dân cư ngày càng tập trung. Sự hình thành các đô thị mới được
tạo ra trên cơ sở phát triển các khu công nghiệp và trung tâm công nghiệp,
thương mại, dịch vụ ở vùng nông thôn và ngoại ô là xu hướng tất yếu của sự

phát triển , là nhân tố mở đường thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đô thị
hoá theo chiều rộng là hình thức phổ biến hiện nay ở các nước đang phát triển
trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá.
Hai là, đô thị hoá theo chiều sâu, đó là quá trình hiện đại hoá và nâng
cao trình độ của các đô thị hiện có. Mật độ dân số có thể tiếp tục tăng cao,

19


phương thức và các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, thực lực khoa học
kỹ thuật, công nghệ ngày càng tăng cường; hiệu quả kinh tế - xã hội cũng
ngày càng được cải thiện. Đô thị hoá theo chiều sâu là quá trình hình thành
thường xuyên, là yêu cầu tất yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển. Quá
trình đó đòi hỏi các nhà quản lý đô thị và các thành phần kinh tế trên địa bàn
đô thị thường xuyên vận động và phải biết điều tiết, vận dụng tối đa những
tiềm năng sẵn có và hoạt động có hiệu quả cao trên cơ sở hiện đại hoá trên
mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội ở đô thị.
Đô thị hoá là một quá trình đa dạng, trong nó có chứa đựng nhiều hiện
tượng và biểu hiện khác nhau trong quá trình phát triển. Trên quan điểm một
vùng, đô thị hoá là quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện
sống theo kiểu đô thị.
Trên quan điểm kinh tế chính trị, đô thị hoá là một quá trình biến đổi về
phân bố các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nền kinh tế quốc dân,
bố trí dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển các
đô thị hiện có theo chiều sâu. Đô thị hoá là quá độ từ hình thức sống nông thôn
lên hình thức sống đô thị của các nhóm dân cư, gắn liền với những biến đổi sâu
sắc về kinh tế - xã hội của nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao
thông vận tải, xây dựng và dịch vụ…và hoàn thiện hệ thống quan hệ kinh tế đô
thị. Do vậy, đô thị hoá luôn gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội cả về mặt
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Đô thị hoá nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật; đó là quá
trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho các vùng nông
thôn (cách sống, hình thức nhà cửa, phong cách sinh hoạt…); Thực chất đó là
tăng trưởng đô thị theo xu hướng bền vững.
Đô thị hoá ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của
thành phố do kết quả phát triển công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng, tạo ra
các cụm đô thị, liên đô thị, góp phần đẩy nhanh đô thị hoá nông thôn.

20


Trong quá trình CNH, HĐH, sự hình thành các đô thị hiện đại có vai
trò đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh nông
thôn, đô thị là hình thái quần cư cơ bản thứ hai của xã hội loài người. Trên thế
giới, đô thị ra đời sớm nhưng chỉ thật sự phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ 19,
đầu thế kỷ 20 và đến nay đô thị đã trở thành một hiện tượng xã hội, một hiện
tượng kinh tế có ảnh hưởng hết sức quan trọng tới mọi lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội.
Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Sự phát triển đô thị kích thích tăng
trưởng, phát triển của các vùng lãnh thổ xung quanh và toàn bộ nền kinh tế
thông qua quá trình phân bổ lại các cơ sở kinh tế, lan truyền tiến bộ công
nghệ, văn hoá, xã hội. Với sự phát triển của hệ thống các đô thị, nhiều nước
đã từng bước hình thành được những vùng lãnh thổ phát triển, không chỉ đảm
nhận chức năng động lực, thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã
hội đất nước mà còn đảm nhận chức năng hợp tác và hội nhập quốc tế, vừa
đảm nhận vai trò tiếp nhận thông tin, các thành tựu về phát triển khoa học,
công nghệ, kinh tế, văn hoá của thế giới rồi lan rộng ra các vùng xung quanh.
* Tác động của đô thị hóa đến giải quyết việc làm cho người lao động
nông thôn ngoại thành

Thứ nhất, đô thị hóa tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông
nghiệp vùng ngoại thành nhờ đó tạo cơ hội mới cho giải quyết việc làm và
nâng cao chất lượng nhân lực nông nghiệp
Quá trình đô thị hóa diễn ra, tư liệu sản xuất nông nghiệp như đất đai bị
thu hẹp, diện tích chăn nuôi trồng trọt không còn nhiều, tuy nhiên theo xu
hướng thế giới hiện nay là phát triển mô hình nông nghiệp đô thị. Từ cuối thế
kỷ XX, nông nghiệp đô thị đã trở thành xu thế trong quá trình phát triển đô
thị ở các quốc gia. Theo báo cáo hằng năm của Tổ chức Nông lương Liên
hiệp quốc (FAO), năm 2008 “gần 1/3 lượng rau, quả, thịt, trứng cung ứng

21


cho đô thị trên thế giới là từ nông nghiệp đô thị, 25 - 75% số gia đình ở
thành phố phát triển theo mô hình nông nghiệp đô thị” (Báo cáo của FAO:
Tổng quan tình hình lương thực thế giới 2008.) Rất nhiều đô thị nổi tiếng
trên thế giới phát triển mạnh về nông nghiệp đô thị. Ở Matxcơva (Nga)
65% gia đình có mô hình VAC đô thị, ở Dactxalam là 68%, Maputo 37%,...
Tại Béclin (Đức), có 8 vạn mảnh vườn trồng rau ở đô thị; hàng vạn cư dân
ở Niu Oóc (Hoa Kỳ) có vườn trồng rau trên sân thượng. Tại nhiều thành
phố lớn của Trung Quốc như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu..., nông
nghiệp đô thị, ven đô cung cấp tới 85% nhu cầu về rau xanh, 50% về thịt
trứng của người dân. Theo Tổ chức Làm vườn quốc gia Hoa Kỳ, năm 2007,
người dân Hoa Kỳ chi khoảng 1,4 tỷ USD cho việc trồng cây rau, quả tại
nhà, tăng 25% so với năm 2006.
Ở nước ta nhìn chung nông nghiệp đô thị đã hiện diện song còn ở dạng
manh mún, phần lớn là sự sáng tạo của người dân. Mặc dù phạm vi hoạt động
chưa rộng, mức độ phát triển chưa cao, chưa toàn diện nhưng hiệu quả kinh tế
- xã hội - môi trường của nông nghiệp đô thị đã được chứng minh ở nhiều
thành phố thuộc nhiều nước phát triển và đang phát triển trên thế giới. Trong

thời gian tới, nông nghiệp đô thị sẽ là giải pháp và là hướng đi chiến lược cho
sự phát triển nhanh, bền vững của các đô thị trong tiến trình đô thị hóa hiện
nay của nước ta nói chung và tại các vùng ngoại thành Hà Nội nói riêng, từ đó
góp phần tạo công ăn việc làm cho người dân.
Đô thị hóa còn đặt ra yêu cầu cao hơn về chất lượng lao động tại nông
thôn. Đô thị hóa hình thành, mọc lên các khu thương mại dịch vụ lớn, cụ thể
như tại Hà Nội có các khu siêu thị như Metro, BigC…ở các huyện Từ Liêm,
Gia Lâm… các khu chế xuất, các cụm công nghiệp như ở Thanh Oai, Thường
Tín, Hoài Đức, Thạch Thất, Quốc Oai… khi đó, nền kinh tế chuyển dịch từ
nông nghiệp sang lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương
mại dịch vụ…Theo đó, các công việc tại các khu đô thị đòi hỏi chất lượng lao

22


động cao hơn, không chỉ là lao động thủ công như trước, mà cần có sự học
hỏi, có nhận thức và khả năng điều khiển các máy móc, tuân thủ các quy trình
công nghệ theo yêu cầu đặt ra, có như vậy mới có thể tăng năng suất và hiệu
quả lao động, ngoài ra yêu cầu các kỹ năng như giao tiếp, ngoại ngữ, vi tính…
nhiều hơn. Theo đó, chất lượng nhân lực trong nông nghiệp vùng ngoại thành
cũng vì đó được nâng cao.
Thứ hai, đô thị hóa góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động
giữa các ngành nghề
Theo các chuyên gia thuộc trung tâm định cư của Liên hợp quốc
(Habitat), đô thị hóa là quá trình mà nhờ nó, dân số của các quốc gia, chuyển
dịch từ các nghề nghiệp nông thôn sang các nghề nghiệp đô thị, và vì thế mà
diễn ra sự chuyển dịch từ các điểm dân cư nông thôn sang các điểm dân cư đô
thị ở các quy mô khác nhau. Đô thị hóa không đơn thuần là vấn đề dân số
học, nó là vấn đề bao trùm về sự phân bố; đô thị hóa có thể được hiểu như là
sự biểu hiện của các mô hình phát triển các điểm dân cư.

Tại Việt Nam nói chung và các vùng ngoại thành Hà Nội nói riêng, đô
thị hóa đã tạo ra sự phi nông hóa của người làm nông nghiệp, số lượng lao
động trong các ngành phi nông nghiệp ngày càng tăng lên. Trong tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch
vụ đã thu hút một lượng khá lớn lao động nông thôn. Cụ thể, quá trình đô thị
hóa làm thay đổi và chia nhỏ các đơn vị sản xuất nông nghiệp, các ngành
công nghiệp khởi động và nhanh chóng chiếm chỗ các dư địa của sản xuất
nông nghiệp, tỷ trọng của ngành nông nghiệp sẽ giảm sút, ngày càng nhỏ đi
một cách tương đối. Đô thị hóa diễn ra tạo thêm cơ hội việc làm mới, thu hút
lao động nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ.
Về thực chất CNH, HĐH và đô thị hoá là quá trình cơ cấu lại nền kinh
tế theo hướng phát triển mạnh khu vực công nghiệp, dịch vụ và chuyển dịch
cơ cấu lao động đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, tăng nhanh lao động làm

23


công nghiệp và dịch vụ, giảm mạnh lao động làm nông nghiệp. CNH diễn ra
đồng thời với phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế mở, khu
công nghiệp tập trung, các trung tâm dịch vụ lớn, cùng với nó là quá trình mở
rộng các khu đô thị, các thị trấn, thị tứ… Trong những năm qua, các khu,
cụm, điểm công nghiệp tập trung ngoại thành Hà Nội đã và đang thu hút hàng
trăm nghìn lao động nông thôn, tạo ra thị trường sức lao động mới để thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội trong vùng. Hệ thống kết
cấu hạ tầng được xây dựng mới và nâng cấp, nhất là khu vực nông thôn, tỷ lệ
hộ nghèo giảm.
Thứ ba, đô thị hóa tạo ra luồng dân cư di chuyển lên thành thị đồng
thời làm cho một bộ phận nông dân bị thất nghiệp
Đô thị hoá và di chuyển lao động nông thôn ra thành thị trở thành xu
thế không thể cưỡng nổi. Nó có tác dụng giảm sức ép căng thẳng về việc làm

tại các vùng nông thôn và cung ứng lao động cho thị trường lao động ở các
thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu du lịch. Đây
là nguồn cung cấp dồi dào về lao động cho sự phát triển của các khu đô thị.
Nhưng ở khía cạnh nào đó, nó cũng trở thành sức ép do lao động giản đơn là
chủ yếu cũng như sức ép do hệ thống hạ tầng cơ sở không đáp ứng được số
lượng lao động gia tăng qúa nhanh. Từ đó dẫn đến tình trạng quá tải, gây biến
động lớn về các vấn đề kinh tế - xã hội của khu vực thành thị.
Theo tính toán hàng năm số lao động từ khu vực nông thôn, ngoại
thành chuyển sang thành người dân ở khu vực thành thị tăng giảm khoảng
0,52%, chưa kể đến số lao động nhàn rỗi di chuyển ra khu vực thành thị tìm
kiếm việc làm cũng chiếm số lượng không nhỏ.
Quá trình đô thị hóa đã tạo ra một dòng di chuyển ồ ạt dân cư ở các địa
phương ngoại thành vào Hà Nội. Dự kiến dân số Hà Nội đến 2020 là 8 triệu với
tỷ lệ đô thị hóa là 54%, 2030 lên tới 9 triệu và 70%. Tình trạng tăng vọt dân số
cơ học ở Hà Nội làm đậm thêm sự mất cân đối trong phân bố dân cư, lao động

24


trên phạm vi toàn quốc. Hà Nội phải gánh chịu áp lực quá tải rất nặng nề về dân
số, áp lực về tạo công ăn việc làm, chỗ ở cho người dân nghèo, nâng cao chất
lượng môi trường, về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.
Ðô thị hóa nhanh, đất nông nghiệp bị thu hồi để thực hiện các dự án
phát triển kinh tế - xã hội đang tạo sức ép với vấn đề giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn, đặc biệt là bộ phận lao động trẻ. Trong những năm qua,
để phục vụ quá trình đô thị hóa, buộc Nhà nước phải đưa ra chính sách thu
hồi đất nông nghiệp để phát triển các khu đô thị, phát triển hạ tầng cơ sở, các
khu thương mại dịch vụ, trong khi tư liệu sản xuất của nông dân là đất đai, khi
bị thu hồi đất, người dân không còn tư liệu sản xuất nữa, một số người dân
chuyển hướng sang lao động ngành khác, nhưng còn một số người dân không

tìm việc mới, chính vì vậy, đô thị hóa đã tạo ra một bộ phận nông dân không
có việc làm.
1.1.3. Quan niệm về giải quyết việc làm cho người lao động nông
thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa
Theo quan niệm truyền thống, nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một
địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn và gắn liền với nó là
dân cư mà đại bộ phận là nông dân. Nông thôn có thể được xem xét trên
nhiều góc độ về kinh tế, chính trị, văn hoá…
Các huyện ngoại thành thủ đô Hà Nội là các huyện có tốc độ đô thị hóa
cao trong cả nước. Để phục vụ sự nghiệp đô thị hóa, các hộ gia đình phải
nhường đất để di dời đến nơi định cư mới theo sự sắp xếp của các nhà quản
lý. Cùng với đó là hàng trăm ngàn ha đất nông nghiệp phải chuyển đổi mục
đích sử dụng, do đó sẽ có hàng chục vạn lao động nông thôn không còn cơ
hội được làm việc. Số lao động này phải chuyển sang các ngành nghề mới nếu
không muốn bị thất nghiệp.
Từ những phân tích về việc làm thì có thể cho rằng việc làm cho lao
động nông thôn là hoạt động lao động của người lao động nông thôn trong độ

25


tuổi lao động mà pháp luật không cấm, là sự kết hợp giữa sức lao động với tư
liệu sản xuát theo những điều kiện phù hợp nhất định, nhằm tạo ra sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng lợi ích của người lao động nông thôn, cộng
đồng và xã hội. Với tư duy như trên, tác giả cho rằng: Giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa là quá
trình tạo ra và kết hợp giữa các yếu tố tư liệu sản xuất, sức lao động và các
điều kiện kinh tế - xã hội khác trong quá trình đô thị hóa để đảm bảo cho việc
làm diễn ra và duy trì việc làm cho lao động nông thôn thuộc ngoại thành Hà
Nội. Từ quan niệm đó, cho thấy:

Mục đích của GQVL cho người lao động nông thôn ngoại thành Hà
Nội trong quá trình đô thị hóa là nhằm tạo ra nhiều việc làm bền vững cho
người lao động nông thôn dưới tác động của quá trình đô thị hóa, nhằm giúp
họ ổn định đời sống, phát triển kinh tế địa phương hay nói cách khác là làm
tăng lên số người có việc làm và giảm bớt số người lao động không có việc
làm hoặc có việc làm thiếu ổn định.
Chủ thể GQVL cho người lao động nông thôn ngoại thành Hà Nội bao
gồm: Chính bản thân người lao động phải chủ động sử dụng sức lao động của
mình để có thể tự do tìm kiếm một công việc phù hợp; Người sử dụng lao
động có thể tìm kiếm được người lao động thỏa mãn các yêu cầu của mình về
mặt số lượng và chất lượng; Nhà nước với tư cách là chủ thể lớn nhất phải
đảm bảo tạo ra môi trường thuận lợi để lao động nông thôn có thể thực hiện
quá trình lao động của họ.
Phương thức GQVL là kết hợp chặt chẽ giữa sự chủ động, tích cực của
Nhà nước thông qua quy hoạch, chiến lược, chương trình, mục tiêu quốc gia
về giải quyết việc làm với sự năng động, chủ động và tích cực của bản thân
người lao động; kết hợp giữa các giải pháp kinh tế với các giải pháp về mặt xã
hội; kết hợp giữa Nhà nước - doanh nghiệp - người lao động.
GQVL cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa tại ngoại

26


×