Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG đội NGŨ bí THƯ ĐẢNG ủy xã ở các HUYỆN, THUỘC THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.78 KB, 96 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

An ninh, quốc phòng

ANQP

Ban chấp hành

BCH

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Hội đồng nhân dân

HĐND

Hệ thống chính trị

HTCT

Lý luận chính trị



LLCT

Tổ chức cơ sở Đảng

TCCSĐ

Tổ chức đảng

TCĐ

Trung cấp chính trị

TCCT

Trung học phổ thông

THPT

Trong sạch vững mạnh

TSVM

Xây dựng đảng

XDĐ

Xã hội chủ nghĩa

XHCN



3


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ BÍ THƯ ĐẢNG
ỦY XÃ Ở CÁC HUYỆN THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã và nâng cao chất

10

lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành
phố Hà Nội
1.2. Thực trạng và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng đội

10

ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội
36
Chương 2 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ BÍ THƯ ĐẢNG ỦY XÃ Ở CÁC
HUYỆN THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1. Sự phát triển của tình hình nhiệm vụ và yêu cầu nâng cao


53

chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc
thành phố Hà Nội hiện nay
2.2. Giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ bí thư đảng
ủy xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

53
62
85
87
91


3
Xã là cấp cơ sở trong hệ thống hành chính bốn cấp của Nhà nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tổ chức đảng ở xã là cấp cơ sở trong hệ thống
tổ chức của Đảng. Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là hạt nhân lãnh đạo toàn diện các
mặt công tác ở cơ sở, có vị trí quyết định đến việc thực hiện thắng lợi mọi chủ
trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ở địa phương.
Yêu cầu đối với tổ chức cơ sở Đảng là phải nhận thức đúng và làm đúng vai trò
hạt nhân chính trị trên địa bàn. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của tổ chức
cơ sở Đảng là đảng uỷ (hoặc chi uỷ); trong đó bí thư đảng uỷ xã được coi là

“linh hồn” của đảng bộ, chịu trách nhiệm chính trong những thành công hay hạn
chế hiệu quả hoạt động của đảng bộ.
Trong suốt quá trình cách mạng, vấn đề cán bộ là vấn đề có ý nghĩa quyết
định đầu tiên trong xây dựng đảng và chính quyền. Lịch sử cách mạng nước ta
chứng minh rằng: Đảng chỉ có thể làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong, lãnh tụ
chính trị của quần chúng nếu đảng biết lựa chọn, đào tạo một đội ngũ cán bộ,
nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt có phẩm chất, năng lực đáp ứng đòi hỏi của
nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ cách mạng. Đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung và đội
ngũ bí thư đảng uỷ nói riêng phải là những người nhiệt tình, có ý chí vươn lên, là
những người ưu tú nhất tại cơ sở, được tổ chức đảng, đảng viên và nhân dân tín
nhiệm để giao nhiệm vụ. Song do nhiều điều kiện chủ quan và khách quan nên
đội ngũ này hiện nay đang có những bất cập, khó khăn nhất định trong công tác.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, nhất là đội ngũ
bí thư đảng ủy xã, những năm qua, nhất là từ khi hợp nhất năm 2008, Đảng bộ
thành phố Hà Nội dặc biệt quan tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ bí thư đảng ủy
xã cả về cơ cấu, chất lượng, trình độ kiến thức, năng lực hoạt động thực tiễn, vì
thế đội ngũ này đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của người đứng đầu cấp ủy ở cơ sở,
góp phần cùng đảng bộ và chính quyền thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế,
xã hội đã đề ra. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới thì đội ngũ này
đang gặp những khó khăn nhất định về trình độ kiến thức, năng lực, nhất là sự
điều hành để đảm bảo hoạt động “đều tay”, nhịp nhàng của tất cả các bộ phận


4
trong hệ thống chính trị. Hiện nay, số bí thư đảng ủy xã cơ bản xuất phát điểm
thấp, kiến thức, năng lực còn nhiều bất cập so với đội ngũ bí thư đảng ủy
phường, thị trấn. Mặt khác, trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị,
đặc biệt là trong lãnh đạo thực hiện xây dựng nông thôn mới, các đảng bộ xã của
thành phố phải đối mặt với những thách thức rất lớn từ các vấn đề: đô thị hóa,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập,

quản lý đất đai, công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng, quản lý xây dựng,
quản lý xã hội, trật tự an ninh.v.v…
Để nâng cao chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc
thành phố Hà Nội hiện nay, cần tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống, xác
định rõ vị trí, vai trò, đánh giá đúng chất lượng, dự báo sự phát triển của đội ngũ
này trong những năm tới. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp hợp lý nhằm
không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc
thành phố Hà Nội để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ người lãnh đạo cao nhất của
đảng ở địa bàn nông thôn. Vì thế “Nâng cao chất lượng đội ngũ bí thư đảng uỷ
xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội hiện nay” là vấn đề cấp thiết cả về lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xuất phát từ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở và những bất
cập giữa yêu cầu nhiệm vụ và khả năng đáp ứng của đội ngũ này trong điều kiện
mới nên nhiều nhà khoa học, cán bộ lãnh đạo, quản lý đã đề cập tới vấn đề cán
bộ cơ sở nói chung, đội ngũ bí thư đảng uỷ xã nói riêng, nhằm đề xuất các giải
pháp giúp hoạt động của đội ngũ này có hiệu quả hơn. Một số đề tài khoa học,
luận văn, luận án, bài báo khoa học tiêu biểu có liên quan:
Đề tài "Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo chính
trị chủ chốt cấp cơ sở", Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội, 1992; Đề tài nhánh
KX.05-11-2005: "Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
cơ sở" năm 1993 do TS. Phan Văn Tích làm chủ nhiệm; "Luận cứ khoa học cho
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại


5
hoá đất nước", Nxb CTQG, HN, 2001 do PGS,TS. Nguyễn Phú Trọng và
PGS,TS Trần Xuân Sầm đồng chủ biên. Các công trình này đã đi sâu phân tích
làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về mẫu hình người cán bộ lãnh đạo, những yêu
cầu mới và những giải pháp mang tính tổng quát nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ
sở trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Lê Thu Hoà “Tiêu chuẩn và con đường hình thành đội ngũ bí thư, chủ
tịch xã, phường ở Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ
khoa học lịch sử, Chuyên ngành xây dựng Đảng, Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, HN, 1995. Đây là đề tài nghiên cứu chung hai chức danh cán bộ quan
trọng nhất của đơn vị hành chính cấp xã, đề tài tập trung nghiên cứu con đường
hình thành đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở để có cái nhìn đầy đủ, toàn diện về
đội ngũ này, về khả năng làm việc, môi trường làm việc, cũng như những vấn đề
đặt ra từ con đường hình thành đội ngũ để chủ động trong tạo nguồn cán bộ kế
cận và đề xuất những phương án, những chế độ chính sách nhằm tạo điều kiện
cho đội ngũ cán bộ cơ sở làm việc hiệu quả hơn trong tương lai.
Phạm Công Khâm "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông
thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay", Luận án tiến sĩ khoa học lịch sử, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, HN, 2000; Nguyễn Văn Phích "Xây dựng
đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay", Luận văn
thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, HN, 2000; Trần Trung Trực
"Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Bình
Chánh, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, HN, 2005. Các công trình này đã nêu lên thực
trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở khu vực đồng bằng sông Cửu Long và
thành phố Hồ Chí Minh; đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt ở khu vực này đáp ứng yêu cầu, nhiêm vụ của từng địa
phương trong giai đoạn tới.
Lê Đức Bình "Vấn đề cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn", Báo Nhân
Dân, tháng 7/2002, tr.3. Tác giả khẳng định cán bộ cơ sở là hạt nhân, là lực


6
lượng nòng cốt của hệ thống chính trị ở cơ sở. Tuy nhiên, do nhận thức chưa đầy

đủ vị trí, vai trò của cán bộ cơ sở, nên công tác xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở
còn nhiều bất cập; các cấp ủy đảng, chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến
công tác cán bộ ở cơ sở; chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở chưa thoả đáng.
Từ đó, có một thực tế đáng chú ý là người có trình độ, năng lực không chịu ở lại
và về công tác ở cơ sở. Nguồn cán bộ cơ sở mỏng, hụt hẫng, trong khi đúng ra
cơ sở phải là nơi tạo nguồn, nơi rèn luyện cán bộ cho cấp trên. Tác giả nêu lên
một số yêu cầu đổi mới về quy hoạch, kế hoạch công tác cán bộ; cải tiến chế độ,
chính sách đối với cán bộ cơ sở; sắp xếp lại, kiện toàn hệ thống trường lớp đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở. Ngoài ra, tác giả còn phân tích một số nguyên nhân
dẫn đến những yếu kém ở cơ sở như vấn đề mất đoàn kết nội bộ do chủ nghĩa cá
nhân, do mâu thuẫn giữa các thế hệ cán bộ. Từ đó tác giả cho rằng, cần giáo dục
cán bộ về đạo đức cách mạng, về phong cách lãnh đạo, kiến thức, năng lực thực
tiễn; cán bộ phải biết gắn bó với nhân dân, đặc biệt là cán bộ cơ sở, để đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Phan Diễn "Một số vấn đề quan trọng về công tác tổ chức và cán bộ của
Đảng hiện nay", Tạp chí Cộng sản, số 31, 2002, tr.3-9. Tác giả tổng kết những
đánh giá của Trung ương về việc thực hiện các nghị quyết Trung ương khoá VII,
khóa VIII và Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khoá IX về công tác tổ chức,
cán bộ. Từ đó, đề nghị các cấp, các ngành tiếp tục quán triệt sâu sắc, cụ thể hoá
và thực hiện có hiệu quả các nghị quyết trong thời gian tới. Trong đó, tác giả nêu
phân tích khá chi tiết những mặt làm được và những mặt yếu kém, hạn chế của
các nội dung công tác tổ chức; công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý;
công tác luân chuyển cán bộ; vấn đề xây dựng tổ chức cơ sở đảng; đề xuất một
số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn công tác tổ chức cán bộ trong thời gian tới.
Hoài Nhân "Nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở: những vấn đề lý luận và
thực tiễn", Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 12, 2002, tr.39, 52. Tác giả nêu lên số
liệu thống kê của tỉnh Bình Dương về trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ cơ sở,
chỉ ra những bất cập cần khắc phục và những trăn trở, băn khoăn của đội ngũ cán



7
bộ cơ sở trước những thực trạng đáng báo động về tình hình hoạt động và chất
lượng đội ngũ cán bộ cơ sở. Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp nâng cao chất
lượng cán bộ cơ sở như: chính sách ưu đãi thu hút nhân tài, kế hoạch đào tạo và
bồi dưỡng, các hình thức đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ trẻ nhằm xây
dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh.
Hà Đăng "Xử lý đúng các mối quan hệ trong công tác cán bộ", Tạp chí
Cộng sản, số 3, 2002, tr.21-24. Đây là tham luận tại Hội thảo khoa học "Xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, huyện" do Tạp chí Cộng sản
phối hợp với tỉnh ủy Hải Dương tổ chức tháng 1/2002. Nội dung tham luận nêu
lên một số mối quan hệ và sự cần thiết phải xử lý đúng các mối quan hệ đó trong
công tác cán bộ: giữa đức và tài, giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, giữa năng lực thực tế
và bằng cấp. Tác giả kết luận: xử lý đúng các mối quan hệ ấy thì công tác cán bộ
mới trôi chảy. Đó không chỉ là chuyện của Trung ương, mà cũng là chuyện của
tỉnh, huyện (thiết nghĩ, đó cũng là chuyện của công tác cán bộ nói chung).
Lê Đức Bình, "Vài suy nghĩ về dân chủ hóa công tác cán bộ", Báo Nhân
Dân, 2/9/2002, tr.3; Hoàng Chí Bảo, "Quan điểm và giải pháp để củng cố và
tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở", Tạp chí Dân vận, số 1+2/2002, tr.16-18;
Phan Quốc Hưng, "Đảng bộ Bạc Liêu với công tác tổ chức - cán bộ", Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 9, 2002, tr.9-10, 26. Các tác giả nêu lên quan điểm chỉ đạo
nhằm củng cố, tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở; những giải pháp cấp bách
tập trung chủ yếu vào lĩnh vực chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn); trình
bày vai trò của việc mở rộng dân chủ nhằm phát huy trí tuệ của tập thể trong
công tác cán bộ, khắc phục tình trạng bố trí cán bộ theo cơ cấu, áp đặt chủ quan;
đánh giá những thuận lợi, khó khăn cũng như những mặt làm được và chưa được
của công tác cán bộ, nhấn mạnh những trọng tâm công tác cán bộ cần tiến hành
trong thời gian tới, góp phần xây dựng tổ chức cơ sở đảng ngày càng trong sạch
vững mạnh, hoàn thành vai trò lãnh đạo ở cơ sở.
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã có những luận giải có giá trị về
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở, trong đó có vấn đề xây dựng đội ngũ



8
bí thư đảng uỷ cấp xã, theo các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay chưa
có công trình khoa học nào trực tiếp đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, tổng
thể về nâng cao chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành
phố Hà Nội hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn và đề xuất giải
pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc
thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về chất lượng và nâng cao chất
lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra một số kinh nghiệm
nâng cao chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao chất lượng đội ngũ bí đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành phố
Hà Nội là đối tượng nghiên cứu của luận văn.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ bí
thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội. Số liệu, tài liệu nghiên cứu,
điều tra khảo sát phục vụ đề tài được giới hạn từ 2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở hệ thống những quan điểm,

nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cộng
sản Việt Nam về đội ngũ cán bộ; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; về chức năng,
nhiệm vụ của TCCSĐ; chức trách, nhiệm vụ của bí thư đảng ủy cơ sở; chỉ thị,


9
hướng dẫn, quy định của Đảng bộ thành phố Hà Nội về xây dựng đội ngũ bí thư
đảng ủy xã. Luận văn kế thừa, tham khảo nhũng kết quả nghiên cứu của các
công trình khoa học có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành phố
Hà Nội thời gian qua; các báo cáo tổng kết, các công trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài đã được công bố và kết quả điều tra, khảo sát trong quá trình thâm nhập thực
tế của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên
ngành; trong đó đặc biệt chú trọng kết hợp các phương pháp phân tích tổng hợp,
lôgic - lịch sử, hệ thống cấu trúc, so sánh, điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn, và
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Góp phần cung cấp những luận cứ khoa học giúp cấp ủy, chính quyền
thành phố Hà Nội; các ngành, cơ quan chức năng trong xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy, học
tập trong các lớp trung cấp chính trị tại trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, kiến nghị, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


Chương 1
NHŨNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


10
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ BÍ THƯ ĐẢNG UỶ XÃ
Ở CÁC HUYỆN THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã và nâng cao chất lượng đội
ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội
1.1.1. Đội ngũ bí thư đảng ủy xã và chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy
xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội
* Khái quát về tình hình thành phố Hà Nội
Hà Nội - Thủ đô của cả nước, nằm ở phía Tây Bắc của vùng đồng bằng
châu thổ Sông Hồng. Theo Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12, ngày 29 tháng 5
năm 2008 của kỳ họp thứ 3, Quốc Hội khóa XII về việc mở rộng địa giới hành
chính Thủ đô, sáp nhập toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và
04 xã của huyện Lương Sơn (tỉnh Hòa Bình) vào Thủ đô Hà Nội. Hiện nay,
Thành phố Hà Nội bao gồm 12 quận, 17 huyện và 1 thị xã. Hà Nội có 577 đơn vị
hành chính cấp xã, phường, thị trấn; trong đó 401 đơn vị cơ sở xã, 157 phường
và 22 thị trấn, với diện tích 334.470,02 ha và dân số khoảng 6.400.000 người,
mật độ dân cư trung bình 1875 người/km 2 (đại bộ phận là người Kinh, chỉ có
một số ít người dân tộc Mường, Dao, Tày, Nùng, Sán Dìu...).
Đến cuối năm 2013, Đảng bộ thành phố Hà Nội có 401 đảng bộ xã với
4.992 chi bộ trực thuộc. Qua kết quả đánh giá của Ban Tổ chức thành ủy Hà Nội,
chi bộ đạt trong sạch vững mạnh là 3.497 tổng số chi bộ, trong đó số chi bộ đạt
trong sạch vững mạnh tiêu biểu là 560, hoàn thành tốt nhiệm vụ 1.042, hoàn
thành nhiệm vụ 217, yếu kém 6. Các đảng bộ xã có số đảng viên được miễn đánh
giá chất lượng là 18.697; đảng viên chưa được đánh giá chất lượng là 1.566;
đảng viên đã được đánh giá chất lượng 10.0181, trong đó, đảng viên đủ tư cách
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ 11.664; đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm

vụ 71.032; đảng viên đủ tư hoàn thành nhiệm vụ 16.628, trong đó đủ tư cách
nhưng còn số mặt còn hạn chế là 3.549. Cụ thể: đảng viên chưa tận tụy với công


11
việc 2.934; còn khuyết điểm trong công tác sinh hoạt đảng 591; là người đứng
đầu mà chưa hoàn thành nhiệm vụ đảng viên là 24. Số đảng viên ở các đảng bộ
xã chủ yếu là nông dân, người về hưu, bộ đội phục viên. Đảng viên ở trường học
và trạm y tế đóng trên địa bàn chiếm tư lệ nhỏ.
* Đảng bộ xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội
Trong hệ thống tổ chức chính trị của Đảng thì đảng bộ cấp xã nói chung
và đảng bộ các xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội nói riêng là hệ thống cơ
sở kỳ quan trọng đó là nền tảng, nền móng, vì không có đảng bộ cơ sở thì không
hình thành nên cả tòa nhà xã hội, nền móng có vững thì tòa nhà mới mạnh.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ
thống ấy”[19, tr.21]. Trong hệ thống chính trị ở xã, đảng bộ xã là một bộ phận,
đồng thời lãnh đạo hệ thống chính trị, cấp xã là một loại hình tổ chức cơ sở đảng.
Các đảng bộ xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội có những đặc điểm đặc thù
riêng, do tính đặc thù của từng xã quy định. Theo Quyết định số 95-QĐ/TW
ngày 03/3/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, đảng bộ xã có vai trò sau:
Một là, đảng bộ xã trực tiếp đưa đường lối, nghị quyết, chủ trương của
cấp trên đến với nhân dân và lãnh đạo nhân dân tổ chức thực hiện thắng lợi
đường lối, chủ trương, nghị quyết ấy. Đảng bộ xã có vai trò lãnh đạo toàn bộ các
hoạt động ở xã nhằm bảo đảm cho các hoạt động đi đúng với đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, nghị quyết
của Đảng; đồng thời phản ánh kịp thời những tâm tư nguyện vọng chính đáng
của nhân dân với Đảng. Thông qua các hoạt động của đảng bộ xã, nhân dân tin
tưởng chấp hành tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước tham gia đóng góp ý kiến xây dựng, bảo vệ Đảng.

Hai là, đảng bộ xã vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho phù hợp với địa phương mình; cụ thể
thành nhiệm vụ, những mục tiêu, chương trình hành động, bảo đảm cho các hoạt
động đó đúng với đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Các
đảng bộ xã trực tiếp lãnh đạo xây dựng chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã


12
hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, uốn nắn kịp thời những lệch lạc trong xây
dựng, tổ chức và hoạt động của những tổ chức đó. Đồng thời lãnh đạo chính
quyền xã tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan, văn phòng đại diện, các
tổ chức kinh tế đóng trên địa bàn của xã.
Ba là, đảng bộ xã ở là cấp chấp hành nghị quyết của cấp trên, ra nghị
quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết ở cấp mình. Đảng bộ xã đã xác định nhiệm
vụ trọng tâm của xã mình, xác định những vấn đề gì cần tập trung giải quyết
trong nhiệm kỳ, trong đó chú ý những vấn đề có tính mũi nhọn, những vấn đề
cần tập trung cho quy hoạch chiến lược, những vấn đề có tính đột phá để phát
triển kinh tế, như xác định chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện đang là những vấn đề bức xúc đặt ra ở nông
thôn; lãnh đạo nhân dân xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phát triển ngành nghề, lồng ghép các chương trình kinh tế với thực hiện
chính sách xã hội ở nông thôn, phấn đấu đưa mức sống ở nông thôn đạt 70% so
với ở thành thị.
Nhiệm vụ của đảng bộ xã theo Quy định số 95-QĐ/TW, ngày 03/3/2004
của Ban Bí thư, gồm:
Một là, lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng. Lãnh đạo thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội xã hội theo nghị quyết đại hội của đảng bộ xã và của cấp trên, tạo mọi điều kiện
thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh tế và hộ gia đình sản xuất, kinh
doanh đúng chính, sách pháp luật của Nhà nước, tạo việc làm cho người lao
động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân

làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, xây dựng địa phương giàu đẹp, văn minh.
Lãnh đạo chính quyền thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp, quản lý và sử dụng tốt các nguồn vốn, xây dựng cơ sở hạ
tầng theo quy hoạch, chăm lo phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, bảo vệ
môi trường, thực hiện tốt các chính sách xã hội, xóa đói, giảm nghèo.


13
Lãnh đạo xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ, thực hiện tốt phương
châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”, giám sát mọi hoạt động ở cơ sở theo
đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mở rộng dân chủ
đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, kịp thời giải quyết những vướng mắc
phát sinh trong cộng đồng dân cư ở cơ sở theo đúng pháp luật, không để tích tụ
mâu thuẫn trở thành điểm nóng, không để xẩy ra tình trạng khiếu kiện tập thể,
vượt cấp hoặc lợi dụng dân chủ để làm mất ổn định chính trị trên địa bàn .
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, và chính sách hậu
phương quân đội, giữ vững an ninh chính trị và trật an toàn xã hội, đề cao tinh
thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập
thể, tính mạng và tài sản của nhân dân, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội,
nhất là ma túy, mại dâm.
Hai là, lãnh đạo công tác tư tưởng. Thường xuyên giáo dục bồi dưỡng,
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh và phát huy
truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong các tầng lớp nhân dân, nhất là
thanh niên, thiếu niên, xây dựng tình đoàn kết gắn bó thương yêu giúp đỡ lẫn
nhau, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở thôn, bản, trong từng gia đình,
chú trọng, tuyên truyền, nhân rộng gương người tốt, việc tốt, các nhân tố tích cực
trong mọi lĩnh vực. Tuyên truyền vận động làm cho nhân dân hiểu và làm đúng
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các
nhiệm vụ của địa phương, kịp thời nắm bắt những tâm tư nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân để giải quyết và báo cáo lên cấp trên.

Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh chống các quan điểm
sai trái, những hành vi nói, viết và làm trái với đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bè
phái, gia trưởng, bảo thủ và các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, phòng chống sự
suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Ba là, lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ. Lãnh đạo xây dựng chính quyền,
các tổ chức trong hệ thống chính trị, các đơn vị kinh tế sự nghiệp ở cơ sở vững


14
mạnh, xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
tích cực tạo nguồn cán bộ tại chỗ, từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ công chức
xã. Cấp ủy xây dựng quy chế về công tác tổ chức, cán bộ, nhận xét, đánh giá, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, đãi ngộ đối với cán bộ thuộc quyền
quản lý và kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với cán bộ ở cơ sở theo phân
cấp, giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, có tín nhiệm trong tổ chức đảng và nhân dân
để bầu vào các chức danh chủ chốt của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Mặt
trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân theo luật định và điều lệ của mỗi tổ chức.
Cấp ủy đề xuất ý kiến trong việc lựa chọn, giới thiệu cán bộ tham gia vào các cơ
quan lãnh đạo của Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cấp trên và cán
bộ chủ chốt ở cơ sở do cáp trên quản lý.
Bốn là, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Lãnh đạo
xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở xã vững mạnh, thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi đoàn thể. Thực hiện
tốt chính sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, xây dựng khối đoàn
kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân, thi đua thực
hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân tham gia xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương, trước hết là chủ
trương, chính sách về nông nghiệp, nông thôn và các chính sách xã hội khác.

Năm là, xây dựng tổ chức đảng. Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp
xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh, gắn với xây dựng, củng cố hệ
thống chính trị cơ sở. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng và đội ngũ đảng viên, nhất là việc phát hiện và đấu tranh chống tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác, chú trọng củng cố, xây
dựng và nâng cao chất lượng lãnh đạo của các chi bộ, tổ đảng ở thôn, bản...thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình, thực
hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ,
bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.


15
Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong, gương
mẫu, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, công dân mẫu mực, nghiêm chỉnh
chấp hành và vận động, thuyết phục nhân dân chấp hành nghị quyết của tổ chức
đảng, quyết định của chính quyền và chương trình hành động của các đoàn thể
nhân dân. Cấp ủy xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện cho đảng viên thực hiện
nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt. Cấp ủy xây dựng
kế hoạch, biện pháp quản lý, phân công nhiệm vụ và tạo điều kiện để đảng viên
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Làm tốt công tác động viên, khen thưởng, kỷ
luật đảng viên, xử lý nghiêm, kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm điều lệ
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng
viên, bảo đảm về tiêu chuẩn và quy trình, chú trọng đối tượng là đoàn viên,
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và những người lao động giỏi, có uy tín trong
quần chúng.
Xây dựng cấp ủy và bí thư cấp ủy bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất năng
lực, thực sự là trung tâm đoàn kết, hoạt động có hiệu quả, được đảng viên và
nhân dân tín nhiệm. Định kỳ hàng năm, cấp uỷ tổ chức để nhân dân tham gia,
góp ý kiến xây dựng Đảng, bí thư cấp uỷ cơ sở, chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ
tịch uỷ ban nhân dân tự phê bình trước đại diện của nhân dân và chịu trách

nhiệm khi để xẩy ra quan liêu. tham nhũng, lãng phí ở địa phương. Cấp uỷ
thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ. nghị quyết,
chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của Bộ Chính trị về những
điều đảng viên không được làm. Phối hợp với các tổ chức cơ sở đảng trên địa
bàn và các tổ chức cơ sở đảng có đảng viên, cán bộ, công chức đang cư trú trên
địa bàn thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
các nhiệm vụ của địa phương.
* Đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội
Đội ngũ bí thư đảng ủy xã là một cán bộ của Đảng, được đại hội đại biểu
đảng bộ cấp xã bầu ra, người chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp ủy cấp mình
về toàn bộ hoạt động công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị, an ninh, quốc


16
phòng của địa phương; có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, tổ chức tiến hành các
nội dung công tác xây Đảng, công tác chính trị của địa phương theo chức trách,
nhiệm vụ; tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện các kế hoạch công tác chung của
địa phương. Luật Cán bộ, công chức năm 2008, quy định: Cán bộ là công dân
Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm
kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị xã
hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Cán
bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam được bầu cử và giữ chức vụ theo
nhiệm kỳ trong thường trực HĐND, UBND, bí thư, phó bí thư đảng ủy, người
đứng đầu tổ chức chính trị xã hội”.
Theo đó, có thể quan niệm: đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc
thành phố Hà Nội là những cán bộ được BCH đảng bộ tín nhiệm bầu ra và được
cấp trên phê chuẩn (trong trường hợp đặc biệt do cấp trên chỉ định); là người
giữ trọng trách chủ trì của đảng ủy, cùng tập thể đảng ủy tổ chức, lãnh đạothực
hiện các nhiệm vụ của đảng bộ theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được

quy định trong Điều lệ Đảng; chịu trách nhiệm trực tiếp trược đảng ủy cấp trên
và tập thể đảng ủy về công tác XDĐ; cùng chịu trách nhiệm với chủ tịch UBND,
chủ tịch HĐND về toàn bộ mọi mặt của địa phương.
Chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ bí thư đảng ủy xã
Nắm vững cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng; đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị của cấp trên và
chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ cấp mình; nắm vững nhiệm vụ trọng tâm, giải
quyết có hiệu quả công việc đột xuất; nắm chắc và sát tình hình đảng bộ, tổ chức
đảng trực thuộc và nhân dân trên địa bàn; chịu trách nhiệm chủ yếu về các mặt
công tác của đảng bộ.
Người bí thư đảng ủy xã trước hết phải nắm vững, vận dụng đúng đắn,
sáng tạo và lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cùng với tập thể cấp ủy và


17
đảng bộ xác định được nhiệm vụ chính trị của đơn vị cơ sở mình một cách sát
thực và đúng hướng, trọng tâm là khai thác được tiềm năng, thế mạnh của xã nơi
mình phụ trách, lãnh đạo việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế; tìm "đầu ra" cho các
sản phẩm của nông dân; ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; tích cực xoá
đói, giảm nghèo… Đi đôi với việc phát triển kinh tế, phải quan tâm lãnh đạo tốt
việc phát triển y tế, giáo dục, các vấn đề văn hoá - xã hội, xây dựng tôn, xóm
văn hoá, kiên quyết xoá bỏ các tệ nạn, điều chỉnh các tập tục lỗi thời, xóa bỏ mê
tín dị đoan, giữ vững ổn định về an ninh, quốc phòng ở nông thôn.
Bí thư đảng ủy xã có trách nhiệm trực tiếp chăm lo xây dựng và chỉnh
đốn Đảng ở ngay tại đảng bộ của mình: xây dựng đảng bộ trong sạch, vững
mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức; đổi mới và nâng cao chất lượng nội dung
sinh hoạt và hoạt động của cấp uỷ, của đảng bộ, của các chi bộ; thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tốt chế độ tự phê bình và phê
bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong cấp ủy và trong đảng bộ; nâng cao

chất lượng đảng viên; củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, chăm lo, xây dựng quy
hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngò cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở
cơ sở; lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức kiểm tra và phối hợp hoạt động chặt chẽ với các
tổ chức, các cơ quan trên địa bàn xã; xây dựng và thực hiện quy chế làm việc của
cấp ủy cơ sở; gần gũi, lắng nghe ý kiến đóng góp của quần chúng; chỉ đạo việc
tổ chức cho các đoàn thể tham gia phê bình cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và
tham gia vào công tác xây dựng Đảng.
Có thể nói, người bí thư đảng ủy cấp xã là người điều hành tất cả mọi
mặt công tác, các lĩnh vực hoạt động của đảng bộ, đảng ủy xã trực tiếp nắm và
chỉ đạo thực hiện các vấn đề trọng yếu, các khâu trung tâm của nhiệm vụ phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, chăm lo xây dựng Đảng và
các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh. Ngoài ra,
trong công tác và sinh hoạt hàng ngày, họ phải giải quyết nhiều mối quan hệ rất
phức tạp. Đó là quan hệ công việc, quan hệ làng xã, quan hệ họ hàng… tất cả các
mối quan hệ đó đều đòi hỏi phải được giải quyết thấu tình, đạt lý. Do vậy, yêu
cầu đối với người bí thư đảng ủy ngày càng nặng nề hơn, họ phải vừa "đủ tâm",


18
vừa "đủ tầm" để đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới. Thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo chỉ đạo hoạt động và giữ vai trò
trung tâm đoàn kết; giữ gìn vai trò lãnh đạo toàn diện đối với các tổ chức trong
hệ thống chính trị ở xã.
Như vậy, bí thư đảng ủy phải quan tâm tới mọi vấn đề liên quan tới sự ổn
định và phát triển của xã, của đảng bộ. Không một lĩnh vực nào bí thư không
phải quan tâm và không chịu trách nhiệm cá nhân. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khoá IX, khẳng định: Bí thư Đảng uỷ xã là cán bộ chuyên
trách ở cơ sở, là “cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động làm việc công
để thực hiện chức trách được giao” [14, tr.178].
Đội ngũ bí thư đảng uỷ xã là người đứng đầu TCCSĐ ở nông thôn và là

người đại diện cho đảng bộ, có trách nhiệm chỉ đạo, điều hành mọi mặt công tác
của đảng uỷ, đảng bộ và chịu trách nhiệm trước cấp uỷ cấp trên. Với vị trí đó,
người bí thư phải làm tròn chức năng, nhiệm vụ của người cán bộ lãnh đạo chủ
chốt quan trọng nhất. “Bí thư đảng uỷ cơ sở là người đủ tín nhiệm, được tập thể
Ban chấp hành đảng bộ cơ sở lựa chọn bầu ra. Bí thư đảng uỷ cơ sở là cán bộ
cốt cán, giữ vị trí là hạt nhân lãnh đạo chủ chốt của Đảng ở cơ sở” [24, tr.258].
Thành tích, uy tín của đảng bộ xã được thể hiện thông qua thành tích của các tổ
chức trong HTCT. Vì thế, vấn đề đặt ra là: người bí thư Đảng uỷ phải hết sức
chú ý nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ, quan tâm đầy
đủ tới công tác thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác tổ chức cán bộ, công tác
xây dựng Đảng.
Đối với toàn bộ hoạt động của cấp uỷ và đảng bộ cơ sở, người bí thư giữ
vai trò chủ chốt nhất, có tác dụng quyết định đến năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của đảng bộ cơ sở, là “linh hồn” của đảng bộ. Đội ngũ bí thư đảng uỷ có
trách nhiệm trong xây dựng nội bộ Đảng. Với trách nhiệm của người đứng đầu,
bí thư phải quan tâm tới việc xây dựng và nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ
đảng viên. Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức đảng làm tốt công tác đảng viên: phát triển
đảng viên mới, giáo dục đảng viên, phân công đảng viên. Thông qua hoạt động


19
thật sự hiệu quả của đội ngũ đảng viên, đảng bộ giáo dục cho nhân dân nhận
thức được tầm quan trọng của việc tham gia xây dựng TCCSĐ. Qua đó động
viên nhân dân giám sát đảng viên và tổ chức đảng, cung cấp thông tin kịp thời
chính xác nhằm góp phần xây dựng TCCSĐ TSVM.
Tập thể cấp uỷ và đội ngũ bí thư đảng uỷ xã phải thật sự là trung tâm đoàn
kết, là hạt nhân lãnh đạo trong tất cả các công việc của đảng bộ. Chỉ có bằng sự
nỗ lực của chính mình thì nhân dân mới thừa nhận sự vững mạnh của đảng bộ và
tầm quan trọng của cá nhân bí thư đảng uỷ. Đội ngũ bí thư đảng uỷ là người chịu
trách nhiệm chính trrong công tác tổ chức và cán bộ, người trực tiếp làm công

tác tư tưởng, quan tâm tới công tác kiểm tra... và ký các quyết định theo thẩm
quyền. Đội ngũ bí thư đảng uỷ trực tiếp nắm các chủ trương về an ninh quốc
phòng và những nhiệm vụ trọng yếu ở cơ sở, là người đại diện cho cấp uỷ trước
các tổ chức của HTCT cấp xã. Đội ngũ bí thư đảng uỷ xã phải quan tâm tới sự
phát triển của tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở, không được bỏ qua
hoặc xem nhẹ lĩnh vực nào.
Ngoài công việc của cấp uỷ viên, đội ngũ bí thư đảng uỷ còn là người chủ
trì toàn bộ công việc của cấp uỷ đảng, thường vụ, thường trực đảng uỷ, trực tiếp
nắm các vấn đề trọng yếu, các khâu trung tâm, các nhiệm vụ mới nảy sinh, chăm
lo xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân. Trong nguyên tắc tập thể
lãnh đạo cá nhân phụ trách, uy tín và hiệu quả lãnh đạo của tập thể phụ thuộc rất
lớn vào khả năng hoàn thành nhiệm vụ của cá nhân phụ trách. Thực tế cho thấy
công việc của một tập thể phụ thuộc rất nhiều vào người đứng đầu tập thể ấy.
Nghị quyết của tập thể cấp uỷ thực thi hiệu quả đến đâu phụ thuộc rất nhiều vào
người được phân công phụ trách công việc ấy. Vậy nên đội ngũ bí thư đảng uỷ
xã có trách nhiệm rất lớn trong việc thực hiện các nghị quyết và sự lãnh đạo của
tập thể cấp uỷ. Với tư cách là đảng viên, đội ngũ bí thư đảng uỷ xã phải nêu cao
vai trò trách nhiệm cá nhân trong việc thực hiện nghị quyết, chủ trương của
Đảng uỷ, gương mẫu trong mọi hoạt động. Chấp hành nghiêm chỉnh Điều lệ
Đảng và pháp luật Nhà nước.


20
Như vậy, vị trí, vai trò của đội ngũ bí thư đảng uỷ xã là rất lớn, trong đấu
tranh giành chính quyền họ vốn đã rất quan trọng, trong điều kiện đảng cầm
quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong giai
đoạn hiện nay họ lại càng quan trọng hơn. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ ấy được tăng
lên cùng với tính chất, quy mô rộng lớn của sự nghiệp đổi mới, đòi hỏi vai trò
trách nhiệm ngày càng cao của đội ngũ bí thư đảng uỷ xã. Do vậy, phải xây dựng
được đội ngũ bí thư đảng uỷ xã có chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời

kỳ đổi mới.
Đặc điểm của đội ngũ bí thư đảng uỷ xã
Thứ nhất, đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở thành phố Hà Nội hiện nay đáp ứng
tiêu chuẩn chức danh do Bộ nội vụ quy định. Trước đây cán bộ chủ chốt cấp xã
nói chung và bí thư đảng uỷ nói riêng thường là cán bộ hưu trí đứng ra gánh vác
công việc chung. Tuy có những mặt tích cực về tri thức và kinh nghiệm, song
cũng có nhiều hạn chế. Hiện nay trừ một số trường hợp đặc biệt, đảng yêu cầu
“không bố trí những đồng chí đã nghỉ hưu giữ các chức danh chủ trì cơ sở... Nơi
thấy cần thiết thì nam không quá 55 tuổi, nữ không quá 50 tuổi” [37, tr.3].
Theo quy định của Bộ Nội vụ năm 2004, quy định tiêu chuẩn đối với bí
thư đảng uỷ xã là: tuổi đời không quá 45 khi tham gia giữ chức vụ lần đầu; Trình
độ văn hoá: THPT; trình độ lí luận chính trị: trung cấp chính trị (TCCT) trở lên;
chuyên môn nghiệp vụ: trung cấp chuyên môn. Đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở
thành phố Hà Nội hiện nay có trình độ đáp ứng tiêu chuẩn chức danh có tính đến
đặc điểm cụ thể của địa phương. Điều đó nói lên hai vấn đề: một là, đội ngũ bí
thư đảng uỷ xã đã có trình độ cao hơn so với trước nhưng vẫn chưa đạt tiêu
chuẩn do Trung ương quy định, trong nhiệm kỳ tới, phải chuẩn bị đầy đủ số cán
bộ nguồn đạt tiêu chuẩn để bố trí bí thư đảng uỷ xã; hai là, sự tín nhiệm của đội
ngũ bí thư đảng uỷ xã hiện nay là cao, bởi tuy chưa đạt chuẩn nhưng trong thực
tế đã tỏ rõ là người ưu tú, được sự tín nhiệm của cán bộ đảng viên và nhân dân.
Đồng thời đội ngũ này cũng đã cố gắng hết mình để bảo đảm thực hiện tốt yêu
cầu nhiệm vụ.


21
Việc bố trí bí thư đảng uỷ theo tiêu chuẩn cả về trình độ, sự tín nhiệm và
độ tuổi đã tạo ra thuận lợi lớn: cán bộ am hiểu điều kiện địa phương, nhiệt tình
công tác, có sức khoẻ và một yếu tố rất quan trọng là tạo động lực cho sự vươn
lên của thế hệ trẻ.
Thứ hai, đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở thành phố Hà Nội thực sự là người

cán bộ lãnh đạo ưu tú nhất trong đảng bộ. Khi được giao trọng trách họ có quyết
tâm lớn trong việc thực thi nhiệm vụ, mong đóng góp sức mình vào sự lớn mạnh
của cơ sở. Trước khi làm bí thư đảng uỷ, bản thân đồng chí ấy đã là một người
ưu tú, có những phẩm chất đáng trân trọng: có uy tín, có ý chí, có quyết tâm và
phương pháp làm việc tốt. Khi được tín nhiệm và đào tạo, giao trọng trách là cơ
hội để đảng viên thể hiện phẩm chất và năng lực của mình đóng góp cho quê
hương. Bí thư đảng uỷ là người lao động giỏi, tha thiết yêu quê hương, có nhu
cầu và khả năng phục vụ địa phương lâu dài. Với tư chất và trách nhiệm được
giao, người bí thư có cơ hội thể hiện tình yêu quê hương và phát huy năng lực sở
trường. Đồng thời chế độ chính sách đối với bí thư đảng uỷ hiện nay cũng là một
trong những động lực cho các đồng chí cán bộ có năng lực phấn đấu. Đội ngũ bí
thư đảng uỷ xã chủ yếu xuất thân từ nông dân, hiện tại sống và làm việc ở nông
thôn, đa số có tác phong sống giản dị, gần gũi với quần chúng, là địa chỉ đáng tin
cậy để nhân dân góp ý kiến, đề đạt tâm tư nguyện vọng.
Tuy nhiên, do đặc điểm sống cùng bà con thân hữu, với mối quan hệ dòng
tộc chặt chẽ tại làng quê, người cán bộ ở xã không dễ gì từ bỏ được một số hạn
chế của tâm lý tiểu nông truyền thống. Muốn hay không muốn, chúng ta cũng
phải nhìn nhận một sự thật là: sự hấp dẫn của đảng cầm quyền, nên bệnh “ham
dùng người bà con” là khó tránh khỏi, bệnh này bắt nguồn từ quan điểm phong
kiến: “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Có quyền trong công tác cán bộ,
nên bố trí cán bộ nhiều khi có sự thiên vị cho những người bà con anh em. Sự
thiên vị ấy ở mức độ nhẹ (cán bộ mới đảm đương được công việc) thì cũng tạo ra
dư luận không lành mạnh. Ở mức độ nặng (vì người mà đẻ ra việc, cán bộ mới
không đảm đương nổi công việc) thì làm mất lòng tin ở nhân dân.


22
Thứ ba, đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở thành phố Hà Nội là những người có
uy tín cao trong đảng bộ và trong cộng đồng dân cư. Vẫn còn một số bí thư chưa
được đào tạo cơ bản, kiến thức chủ yếu do bồi dưỡng, đào tạo tại chức và tự đào

tạo nên lí luận và kiến thức nghiệp vụ còn hạn chế, ảnh hưởng tới công việc.
Đồng thời để nâng cao chất lượng làm việc trong suốt cả nhiệm kỳ, họ phải cần
đến nhiều yếu tố khác, không phải chỉ uy tín ban đầu là đủ, uy tín ấy phải được
bảo đảm bằng một hệ thống những điều kiện khách quan và chủ quan trong suốt
thời gian dài. Đó là sự hoạt động đồng bộ của tập thể Đảng uỷ, của chính quyền,
của HTCT và sự nỗ lực hết mình của mỗi cá nhân.
Đối chiếu với tiêu chuẩn chức danh, nhận thức kết quả công tác của bản
thân, người bí thư cũng hiểu được những ưu, nhược điểm của mình, phấn đấu
không ngừng để đáp ứng yêu cầu công việc, không kiêu căng tự mãn, không chủ
quan. Bí thư đảng uỷ và các cấp uỷ đảng hiểu rõ khả năng và nhu cầu cán bộ nên
đã tích cực tạo điều kiện cho cán bộ được đào tạo nâng cao trình độ. Nhiều đồng
chí đã và đang theo học các lớp tại chức. 100% chí theo học và đã tốt nghiệp
chương trình THPT. Nhiều đồng chí có trình độ học trung cấp LLCT trở lên.
Nhiệm kỳ 2010 - 2015 các Đảng bộ xã đã bố trí bí thư đảng uỷ kiêm chủ tịch
(hoặc phó chủ tịch) HĐND. Việc kiêm nhiệm tạo ra quyền lực khá tập trung để
giải quyết những vấn đề liên quan. Nhưng khi kiêm nhiệm đòi hỏi người cán bộ
phải vươn lên một trình độ cao hơn mới có thể đáp ứng yêu cầu công việc. Việc
kiêm nhiệm các chức danh đã được nghiên cứu và thử nghiệm ở thành phố Hà Nội
cho thấy, phải tuỳ điều kiện địa phương, phạm vi hoạt động và năng lực cán bộ để
bố trí kiêm nhiệm cho phù hợp. Thực tiễn ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội bí
thư đảng uỷ xã kiêm chủ tịch (phó chủ tịch) HĐND là phù hợp. Các đồng chí
được bố trí kiêm chức đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đây còn là một biện pháp để
nâng cao hiệu lực thực tế của chủ tịch HĐND. Nếu bố trí bí thư Đảng uỷ kiêm chủ
tịch, phó chủ tịch UBND thì hiện tại cán bộ chưa đủ khả năng đảm đương.


23
* Chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành phố Hà
Nội hiện nay
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, mọi sự vật, hiện tượng đều có

chất và lượng. Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại đều do các bộ phận, các yếu tố, các
quá trình hợp thành và giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Vì vậy, chất
lượng của mỗi sự vật, hiện tượng phải là tổng hợp trong sự thống nhất chất
lượng của các bộ phận, các yếu tố và các quá trình cấu thành nên sự vật hiện
tượng đó. Đội ngũ bí thư đảng ủy xã có chất lượng phải bao hàm các thành viên
có đủ phẩm chất, năng lực. Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã
không thể quan niệm chỉ là sự cộng lại chất lượng của mỗi người. Bởi vì “đội
ngũ là số đông sắp xếp có trật tự hoặc có tổ chức chặt chẽ”, nhờ đó mà sức mạnh
của từng người và cả đội ngũ được khơi dậy và phát huy cao nhất, giúp họ có thể
thực hiện được nhiệm vụ phức tạp nặng nề.
Theo nghĩa chung nhất, chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã là tổng hợp
những yếu tố tạo nên phẩm chất, giá trị và các mối quan hệ bên trong của cả đội
ngũ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo cương vị, chức trách trong mỗi thời
kỳ, giai đoạn cụ thể. Đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở thành phố Hà Nội là một bộ
phận trong hệ thống TCCSĐ, do đó chất lượng đội ngũ này vừa có những điểm
chung vừa có những điểm riêng. Đi sâu nghiên cứu những yếu tố cấu thành chất
lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở thành phố Hà Nội thấy rằng: Chất lượng đội
ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành phố Hà Nội là tổng hợp các
thuộc tính đặc trưng, các mối quan hệ bên trong của đội ngũ đó, bảo đảm cho
đội ngũ đó hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, thể hiện ở kết quả thực
hiện nhiệm vụ của đảng ủy phân công trong tổng thể sự phát triển mọi mặt của
địa phương nơi đội ngũ đó hoạt động.
Với quan niệm như trên, chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các
huyện thuộc thành phố Hà Nội có những yếu tố cấu thành sau đây:
Một là, cơ cấu, số lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã. Không có số lượng
cán bộ thích hợp không thể tạo dựng thành đội ngũ bí thư đảng ủy xã. Sự thiếu


24
hụt về số lượng bí thư đảng ủy xã dễ gây ra sự quá tải trong quá trình thực hiện

chức trách nhiệm vụ chung, đồng thời làm cho mỗi người không có điều kiện
cần thiết để tích luỹ kiến thức nâng cao trình độ, nhất là đội ngũ này ở các xã
khó khăn. Số lượng bí thư đảng ủy xã của đơn vị và phải là những con người có
bản lĩnh, khả năng trình độ nhất định để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo cương vị
chức trách. Tuy nhiên chất lượng của đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện
thuộc thành phố Hà Nội phải được sắp xếp, sử dụng sao cho phát huy hết khả
năng của từng người và của cả đội ngũ, tức là phải có một cơ cấu hợp lý.
Hai là, chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã. Chất lượng đội ngũ bí thư
đảng ủy xã xét đến cùng nằm ở 2 mặt cơ bản đó là đức và tài, đó cũng chính là
nhân cách của người cán bộ, điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát. Theo
Hồ Chí Minh, một người cán bộ tốt nhất thiết phải có đủ đức, đủ tài trong đó đức
là gốc. Đạo đức đối với người cán bộ cách mạng được Người ví như “nguồn
gốc” của dòng sông; như “gốc rễ” của cây cối. Có đạo đức được xem như có
“nguồn sức mạnh” để “gánh nặng và đi xa”. Trong mối quan hệ với tài, đức vừa
là cơ sở nền tảng, vừa giữ vai trò định hướng đồng thời là động lực thúc đẩy quá
trình phấn đấu nâng cao trình độ mọi mặt của người cán bộ. Sự nghiệp cách
mạng, sự nghiệp đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước đòi hỏi người cán bộ
cách mạng nói chung, đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở các huyện thuộc thành phố Hà
Nội nói riêng phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu để đủ đức, đủ tài,
để gánh vác công việc mà Đảng, Nhà nước, đảng viên và nhân dân giao phó. Là
người đứng đầu TCCSĐ và chịu trách nhiệm mọi mặt về hoạt động của tổ chức
quần chúng quan trọng ở địa phương, đội ngũ bí thư đảng ủy xã phải có tài năng
thực sự, thể hiện trình độ trí tuệ cao và trình độ tổ chức thực tiễn giỏi. Đạo đức
và tài năng của đội ngũ bí thư đảng ủy xã là đại lượng cơ bản để đánh giá chất
lượng của người cán bộ đó cao hay thấp. Tuy nhiên, đạo đức và tài năng đó phải
được biểu lộ ra thông qua hoạt động thực tiễn, gắn liền với hoạt động của cả tập
thể trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Ba là, chất lượng mỗi thành viên trong mối quan hệ với chất lượng chung
của tập thể ban chấp hành đảng bộ cùng cấp. Chất lượng của đội ngũ được tạo



×