Tải bản đầy đủ (.doc) (145 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục QUẢN lý PHỐI hợp các lực LƯỢNG TRONG GIÁO dục dạo đức CHO học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG HUYỆN cù LAO DUNG, TỈNH sóc TRĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 145 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1

15

CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ PHỐI HỢP CÁC
LỰC LƯỢNG TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH
1.1. Các khái niệm công cụ
1.2. Nội dung quản lý phối hợp các lực lượng trong
giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc quản lý phối hợp
các lực lượng trong giáo dục đạo đức học sinh
trung học phổ thông
Chương 2
CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ
PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG TRONG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
THPT HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC
TRĂNG
2.1. Khái quát tình hình kinh tế, xã hội, GD&ĐT
huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng
2.2. Thực trạng việc quản lý phối hợp các lực lượng
trong giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng
2.3. Đánh giá chung về quản lý phối hợp các lực lượng


trong giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông
Chương 3
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ PHỐI HỢP CÁC LỰC
LƯỢNG TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
HỌC SINH THPT HUYỆN CÙ LAO DUNG,
TỈNH SÓC TRĂNG
3.1. Nguyên tắc xây dựng biện pháp
3.2. Hệ thống các biện pháp quản lý phối hợp các lực
lượng trong giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

15
26
30
36

36
39
59
66

66
70
104

113
118
121

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa, ông cha ta đã đúc kết một cách sâu sắc kinh nghiệm về giáo
dục “Tiên học lễ, hậu học văn”. Ngày nay, phương châm “Dạy người, dạy
chữ, dạy nghề” cũng thể hiện rõ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục đạo
đức cho học sinh. Bác Hồ đã dạy: “Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài
lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc quan trọng. Nếu thiếu đạo
đức, con người sẽ không phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội
sẽ không phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn định,…”
Đảng ta đã khẳng định "Giáo dục là sự nghiệp của toàn dân". Điều 3
chương I, Luật giáo dục 2005 ghi rõ: "Hoạt động giáo dục phải được thực hiện
theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục phải kết hợp với lao động sản xuất,
lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình
và giáo dục xã hội". Điều 93 đến điều 98 chương VI cũng đã qui định trách
nhiệm của nhà trường, gia đình, xã hội đối với công tác giáo dục và đã thể hiện ý
nghĩa quan trọng của sự phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội. Sự phối hợp
giữa nhà trường, gia đình và xã hội nếu được thực hiện một cách đồng bộ thì
hiệu quả giáo dục sẽ nâng lên, ngược lại sự phối hợp này không ăn khớp thì sẽ
gây cản trở hoặc khó khăn trong quá trình hình thành nhân cách học sinh.
Như chúng ta đã biết, mặt trái của toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ
đến thế hệ trẻ, ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp giáo dục, trong đó sự suy
thoái về đạo đức và những giá trị nhân văn đã tác động lớn đến đại đa số
thanh thiếu niên và học sinh như: có lối sống thực dụng, sống tùy tiện, cẩu

thả, tha hóa nhân cách, bạo lực học đường, lười lao động và học tập, không
dám đấu tranh với cái sai, thờ ơ, vô cảm, vị kỷ, thiếu hoài bão lập thân, lập
nghiệp,… Thêm vào đó, sự du nhập văn hóa phẩm đồi trụy thông qua các
phương tiện như phim ảnh, games, mạng Internet,… làm ảnh hưởng đến tư
2


tưởng, tình cảm, sai lệch trong cách nhìn, cách nghĩ và cách làm của các em.
Những hiện tượng này là một trong những đặc điểm của quá trình giáo dục
đạo đức học sinh diễn ra với những tác động giáo dục phức hợp. Trong quá
trình giáo dục, người được giáo dục chịu nhiều tác động từ các phía khác nhau:
gia đình, nhà trường và xã hội. Ngay trong gia đình, nhà trường hoặc xã hội,
người được giáo dục cũng chịu ảnh hưởng của nhiều tác động khác nhau. Ví
như trong gia đình có những tác động của cha mẹ, của anh chị em, của nếp
sống gia đình…. Trong nhà trường có những tác động của giáo viên, của tập
thể lớp, của nội qui, của nội dung, phương pháp tổ chức giáo dục… Trong xã
hội có những tác động của các cơ quan thông tin đại chúng, của phim ảnh, sách báo,
của người lớn… Những tác động đó có thể đan kết vào nhau rất mật thiết tạo ra
những ảnh hưởng tích cực thống nhất đối với người được giáo dục, hoặc có
thể ngược chiều nhau tạo ra những "lực nhiễu" gây khó khăn cho quá trình giáo
dục. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần tổ chức phối hợp tất cả các tác động giáo dục
theo hướng tích cực, đồng thời cần ngăn chặn, hạn chế đến mức tối đa những
tác động tiêu cực.
Thực tiễn giáo dục cho thấy nhận thức về sự phối hợp giữa nhà trường,
gia đình và xã hội chưa phù hợp. Một số bậc phụ huynh còn xem nhà trường
là môi trường giáo dục duy nhất cho học sinh, vì vậy học sinh hư thì đỗ lỗi
hoàn toàn cho nhà trường, hoặc đỗ lỗi cho xã hội như: xã hội quá nhiều tiêu cực,
cạm bẫy làm cho con tôi hư….. Một bộ phận giáo viên ở các trường học thì chỉ tập
trung cho chất lượng học tập, xem nhẹ giáo dục đạo đức, dẫn đến chỉ biết đỗ
lỗi cho gia đình và xã hội, chưa thấy mối quan hệ giữa nhiệm vụ giảng dạy và

giáo dục, chưa kết hợp "dạy chữ" với "dạy người". Các lực lượng xã hội lại
luôn kêu ca là nhà trường, gia đình chưa có giải pháp cho giáo dục, đưa ra xã
hội nhiều "phế phẩm", "sản phẩm của giáo dục chưa đáp ứng nhu cầu xã
hội….". Việc đỗ lỗi cho nhau giữa ba lực lượng trên xuất phát từ sự phối hợp lỏng lẻo
3


giữa nhà trường, gia đình và xã hội, là hiện tượng " trống đánh xuôi kèn thổi
ngược". Đây chính là thực trạng của nhiều địa phương trên đất nước ta và
chính là nỗi bức xúc của nhiều nhà sư phạm, nhà nghiên cứu giáo dục. Nếu sự
phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội được tốt hơn thì những khó khăn
trong giáo dục đạo đức chắc rằng sẽ được hạn chế, những tồn tại được đẩy lùi.
Trong thực tế, sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội ở đây thực ra
chỉ có tính bề nổi, còn rất nhiều hạn chế, đặc biệt là giải pháp phối hợp như thế
nào để đạt hiệu quả, thường xuyên và đồng bộ.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài
nghiên cứu “Quản lý phối hợp các lực lượng trong giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ thông huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng” làm
luận văn tốt nghiệp cao học Quản lý giáo dục của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các nghiên cứu ở nước ngoài:
Ở phương Đông từ thời cổ đại, Khổng Tử (551-479 TCN) trong các tác
phẩm: “Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc Xuân Thu” rất xem trọng việc giáo dục đạo đức.
Ở phương Tây, nhà triết học Socrate (469-399 TCN) cho rằng cái gốc
của đạo đức là tính thiện. Bản tính con người vốn thiện, nếu tính thiện ấy được
lan toả thì con người sẽ có hạnh phúc. Theo ông, muốn xác định được chuẩn
mực đạo đức phải bằng nhận thức lý tính với phương pháp khoa học .
Aristoste (384-322 TCN) cho rằng không phải hy vọng vào Thượng đế
áp đặt để có người công dân hoàn thiện về đạo đức, mà việc phát hiện nhu cầu
trên trái đất mới tạo nên được con người hoàn thiện trong quan hệ đạo đức.

Ở phương Đông , thời cổ đại, Khổng Tử (551-479 TCN) là nhà triết
học nổi tiếng của Trung Quốc đồng thời là nhà đạo đức học khai sinh Nho
giáo. Ông coi trọng vai trò của giáo dục đạo đức và quan niệm có tính hệ
thống về phương pháp giáo dục cũng như về tâm lý giáo dục. Nội dung và
4


mục tiêu chủ yếu của giáo dục Nho giáo được ghi trong Tứ thư và Ngũ kinh.
Nhưng cụ thể và tập trung nhất là nêu trong Luận ngữ (sách ghi lời nói, việc
làm của Khổng tử và của một số môn đồ) là bồi dưỡng những người có đức
nhân, người "quân tử" có đủ phẩm cách và năng lực thi hành "đạo lớn" theo
tôn chỉ của Nho gia. Khổng tử quan niệm sự hiểu biết không phải là sinh ra đã
có sẵn mà phải được tích lũy qua quá trình học tập, rèn luyện khá công phu.
Các đức tính như nhân, trí, tín, trực, dũng, cương cần phải học tập rèn luyện
thì mới có thể phát triển đúng hướng, ứng dụng hoàn hảo. Kết hợp chặt chẽ
việc truyền thụ tri thức văn hóa với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức. Ở mức độ
nhất định, có thể nói Khổng tử chủ trương coi việc rèn luyện đạo đức là ưu
tiên số một. Ông từng căn dặn các học trò rằng: Ở nhà thì ăn ở hiếu thuận
với cha mẹ, ra ngoài xã hội thì kính trọng nhường nhịn các bậc huynh
trưởng; nên ít lời và đã nói thì phải thành thực, nên thân yêu rộng khắp mọi
người. Khổng tử đặt lên hàng đầu nhân cách và đạo đức của người dạy, sự
làm gương quan trọng hơn lời giảng (Thân giáo trọng ư ngôn giáo). Ông xây
dựng học thuyết "Nhân - Trí - Dũng", trong đó " Nhân" là lòng thương người
- là yếu tố hạt nhân, là đạo đức cơ bản nhất của con ngườiĐứng trên lập
trường coi trọng giáo dục đạo đức, ông có chủ trương nổi tiếng truyền lại đến
ngày nay " Lễ trị". Lấy "Lễ" để ứng xử ở đời. Muốn vậy , mỗi người phải biết tu
thân làm gốc.
Thế kỷ XVII, Komenxky (1592-1670) - Nhà giáo dục vĩ đại của Tiệp
Khắc đã có nhiều đóng góp cho công tác giáo dục đạo đức qua tác phẩm
"Khoa sư phạm vĩ đại". Ông đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể trong việc giáo

dục làm cơ sở cho nền giáo dục hiện đại sau này. Komensky có khả năng như
là bẩm sinh trong việc nắm bắt tâm lý trẻ em và hiểu được cả những khía cạnh
tinh vi nhất của tâm hồn trẻ. Ông nhấn mạnh việc tôn trọng con người phải
bắt đầu từ ý thức tôn trọng trẻ em, bởi trẻ em như những cây non trong vườn
5


ươm: "Để cây đó lớn lên một cách lành mạnh, nhất thiết phải được sự quan
tâm, chăm sóc, tưới bón, tỉa tót…".
Theo quan niệm học thuyết Mac-Lênin: đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng xã hội, nó
phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Nếu tồn tại xã hội thay đổi thì
đạo đức cũng thay đổi theo. Do vậy đạo đức mang tính lịch sử, tính giai cấp và
tính dân tộc.
- V.A Xukhomlinxky, nhà giáo dục lớn người Nga cũng rất quan tâm đến
những biện pháp quản lý đạo đức cho học sinh, đóng góp nhiều lí luận, kinh
nghiệm giáo dục thế hệ trẻ.Với kinh nghiệm giảng dạy và giáo dục ở trường
nông thôn Pavlush ông cho rằng: dạy học trước hết là sự giao tiếp về tâm hồn
giữa thầy và trò "dạy trẻ phải hiểu trẻ, thương trẻ và tôn trọng trẻ…". Trong quá
trình giáo dục, hình thành nhân cách cho học sinh, ông quan tâm đặc biệt tới sự
cân đối hài hòa giữa sự phát triển xúc cảm, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ
với sự phát triển trí tuệ, thể chất, năng lực hoạt động xã hội, giao tiếp, kỹ năng
lao động nghề nghiệp, kỹ thuật, ý thức công dân XHCN. Ông đã có nhiều kinh
nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa quá trình giáo dục và tự giáo dục, chủ đạo
tác động của nhà sư phạm với chủ động, tự quản rèn luyện của học sinh và tập
thể học sinh, giải quyết hợp lí giữa giáo dục tập thể và giáo dục cá nhân. Ông đã
nêu lên nhiều kinh nghiệm phối hợp các lực lượng giáo dục xã hội, gia đình, nhà
trường, tận dụng những điều kiện xã hội, tự nhiên vào quá trình giáo dục thế hệ
trẻ. Những tác phẩm về giáo dục đạo đức như "Giáo dục con người chân chính
như thế nào", "Giáo dục cộng sản đối với lao động" vẫn được sử dụng và có giá

trị to lớn trong công tác giáo dục thế hệ trẻ.
* Các nghiên cứu ở trong nước
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Có tài mà không có đức thì là người vô
dụng”. Người coi trọng mục tiêu, nội dung giáo dục đạo đức trong các nhà
6


trường như: “Đoàn kết tốt”, “Kỷ luật tốt”, “Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”,
“Con người cần có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính, mà nếu thiếu một đức thì
không thành người”.
Hoạt động phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội là vấn đề
bức xúc trong công tác giáo dục mà nhiều tác giả đã quan tâm nghiên cứu.
Đặc biệt, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc phối hợp giáo dục giữa
nhà trường với gia đình và xã hội, coi đó là nguyên tắc cơ bản để đảm bảo kết
quả trong nhà trường. Các nhà giáo dục, các giáo sư giảng dạy ở các trường
đại học đã quan tâm nghiên cứu và từng bước giải quyết vấn đề này ở nhiều
góc độ khác nhau dưới dạng giáo trình, sách tham khảo, phổ biến kinh
nghiệm... đã được công bố. Đó là các tác giả: Nguyễn Quốc Chí – Nguyễn
Thị Mỹ Lộc (2003) “Lý luận đại cương về quản lý”, Đặng Bá Lãm - Phạm
Thành Nghị (1999) “Chính sách và kế hoạch trong quản lý giáo dục”, Đặng
Bá Lãm (2005) “Quản lý nhà nước về giáo dục – Lý luận và thực tiễn”, Đặng
Quốc Bảo (2008) “Tập bài giảng quản lý nhà nước và vai trò xã hội trong
quản lý giáo dục”,... Các công trình nghiên cứu của các tác giả trên đã giải
quyết được vấn đề lý luận rất cơ bản về khoa học quản lý: như khái niệm
quản lý, bản chất của hoạt động quản lý, thành phần cấu trúc, chức năng quản
lý, chỉ ra các phương pháp và nghệ thuật quản lý...
Cũng như đối với các ngành quản lý khác, quản lý giáo dục luôn là vấn
đề được các nhà nghiên cứu hết sức quan tâm. Đặc biệt là trong sự nhận thức
sâu sắc vai trò của giáo dục đối với tương lai phát triển của mỗi quốc gia, mỗi
dân tộc thì điều này càng có ý nghĩa. Các công trình nghiên cứu giáo dục như

“Cơ sở khoa học quản lý giáo dục” của tác giả Nguyễn Minh Đạo, “Những
khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục” của tác giả Nguyễn Ngọc Quang,
“Quản lý, quản lý giáo dục tiếp cận từ những mô hình” của tác giả Đặng Quốc
Bảo, “Lý luận quản lý giáo dục” của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, “Quản lý
7


nhà trường” của tác giả Nguyễn Phúc Châu, “Tâm lý học lãnh đạo, quản lý”
của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, “Quản lý hành chính nhà nước
và quản lý ngành giáo dục và đào tạo” của tác giả Phạm Viết Vượng làm chủ
biên, … đó là những công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục, quản lý hành
chính, nghệ thuật quản lý nhằm mang lại hiệu quả nhất định cho công tác
quản lý giáo dục nói chung và công tác quản lý trong nhà trường nói riêng.
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng về trách nhiệm của nhà
trường đối với tổ chức phối hợp với gia đình và xã hội: “…Phải mật thiết liên
hệ với gia đình học trò. Bởi vì giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn
cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để cho việc giáo dục đạo
đức của học sinh trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường
dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả
cũng không hoàn toàn…”.
Việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục đạo đức cho học sinh đã trở thành một đề tài nghiên cứu khoa
học của các nhà giáo dục. Những nhà giáo dục đã đi sâu vào đề tài này phải
kể đến: GS.TS Hà Thế Ngữ, GS.TS Đặng Vũ Hoạt, vấn đề này cũng được
đưa vào một số giáo trình khác như giáo dục gia đình của PGS.TS Phạm Khắc
Chương đã đề cập đến vai trò, vị trí, ý nghĩa cực kỳ quan trọng của sự phối
hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để nâng cao hiệu quả giáo dục học
sinh. Nhóm tác giả ở Trung tâm Giáo dục học thuộc Viện Khoa học Giáo dục
đã đề cập tính thống nhất giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội. Tác
giả Nguyễn Thị Kỷ, Viện khoa học Giáo dục đã hệ thống những quan điểm

phương pháp luận của việc liên kết giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã
hội trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh hiện nay.
Nghiên cứu công tác quản lý việc phối hợp giữa nhà trường với gia
đình và xã hội trong giáo dục đạo đức của hiệu trưởng các trường trung học
8


phổ thông trên địa bàn huyện Cù Lao Dung tỉnh Sóc Trăng là bước tiếp tục
làm phong phú thêm lý luận về quản lý giáo dục đạo đức, đồng thời cũng góp
phần đề ra được một số biện pháp có hiệu quả, thiết thực, góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục địa phương.
Trong những năm qua cũng đã có những luận văn thạc sĩ liên quan đến
vấn đề quản lý giáo dục đạo đức cho HS ở những cấp độ và phạm vi khác
nhau. Cũng có nhiều luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề phối hợp giáo dục
giữa nhà trường, gia đình và xã hội ở tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông của một số tác giả như: Phạm Thành Công “Tổ chức phối hợp nhà
trường với gia đình và xã hội trong giáo dục đạo đức học sinh ở các trường
THPT huyện Đan Phượng, Hà Nội”; Hồ Văn Thơm “Thực trạng quản lý sự
phối hợp giữa nhà trường – gia đình trong công tác giáo dục học sinh ở các
trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An”; Phạm Thị Minh Tâm “Một số
biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trong công tác giáo dục
cho học sinh trường THPT”; Đoàn Thị Thu Hà “Quản lý sự phối hợp các lực
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh của hiệu trưởng THCS huyện Vũ Thư,
Thái Bình”, Nguyễn Hữu Tân “Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trong
mối quan hệ phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội ở trường THPT
Tân Yên 2, tỉnh Bắc Giang”, Lê Thị Ngọc Thảo “Thực trạng công tác quản
lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến
Tre”…. Nhìn chung, trong những năm qua giáo dục đạo đức trong nhà trường
được quan tâm rất nhiều. Các công trình trên đã phân tích vấn đề dưới nhiều
góc độ khác nhau, rất đa dạng, phong phú và có chiều sâu. Tuy nhiên, ở tỉnh

Sóc Trăng nói chung và huyện Cù Lao Dung nói riêng về lý luận và thực tiễn
vấn đề này chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống dựa trên đặc điểm đặc
thù của địa phương. Vì vậy qua đề tài này tôi mong rằng sẽ giúp cho các
trường THPT tìm ra được nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
9


quản lý phối hợp các lực lượng trong giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn quản lý phối hợp các lực lượng trong giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT, đề xuất các biện pháp quản lý phối hợp các lực lượng trong giáo
dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Cù lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.
* Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài tập trung thực hiện các nhiệm vụ cơ
bản là:
- Làm rõ cơ sở lý luận về phối hợp và quản lý phối hợp các lực lượng
trong giáo dục đạo đức cho học sinh THPT.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng việc phối hợp và quản lý phối hợp
các lực lượng trong giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Cù Lao
Dung, tỉnh Sóc Trăng.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý phối hợp các lực lượng trong giáo
dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Khách thể nghiên cứu: Công tác phối hợp các lực lượng trong giáo
dục đạo đức cho học sinh THPT.
* Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý phối hợp các lực lượng
trong giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.
* Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu tìm ra được các biện

pháp quản lý phối hợp các lực lượng trong giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.
Phạm vi về đối tượng khảo sát: CBQL giáo dục, CBQL xã hội, giáo
viên, CMHS và học sinh.
Các số liệu sử dụng để nghiên cứu từ năm học 2011 – 2012 đến nay.
10


5. Giả thuyết khoa học.
Học sinh THPT nói chung và học sinh THPT huyện Cù Lao Dung nói
riêng có nhiều biểu hiện tích cực, đáng khích lệ về học tập, lao động và rèn
luyện. Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, ở một bộ
phận nhỏ học sinh còn có những biểu hiện hành vi đạo đức lệch lạc. Chất
lượng giáo dục đạo đức học sinh trường THPT huyện Cù Lao Dung thời gian
qua hiệu quả chưa cao, còn nhiều vấn đề cần giải quyết vì chưa có sự thống
nhất giữa các lực lượng giáo dục. Nếu đề xuất và thực hiện được các biện
pháp quản lý phối hợp các lực lượng trong giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT một cách đồng bộ, tạo ra sự thống nhất, phát huy tốt các yếu tố tích cực
trên cơ sở mục tiêu giáo dục phổ thông, đặc điểm tâm sinh lý của học sinh
cũng như khắc phục những tồn tại, yếu kém của những biện pháp quản lý
phối hợp với các lực lượng giáo dục hiện nay thì chất lượng giáo dục đạo đức
nói riêng và giáo dục toàn diện nói chung sẽ được nâng cao nhiều hơn.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở các quan điểm, tư tưởng về
quản lý giáo dục của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời quán triệt và vận dụng sâu sắc
quan điểm hệ thống - cấu trúc, lịch sử - lôgíc và quan điểm thực tiễn trong
nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục.
* Phương pháp nghiên cứu

- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Thu thập, phân tích, tổng hợp các tài liệu lý luận về quản lý giáo dục,
bồi dưỡng đội ngũ; các văn kiện Đại hội Đảng các cấp; các văn bản pháp quy
về giáo dục và các tài liệu khác có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Từ đó rút
ra cơ sở lý luận để đề xuất các giải pháp quản lý phối hợp giữa nhà trường với
gia đình và xã hội trong hoạt động giáo dục đạo đức học sinh.
11


- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Sử dụng phiếu hỏi đến lãnh
đạo các đoàn thể chính trị ở địa phương, lãnh đạo và GV các trường THPT
nhằm thu thập nhiều thông tin có liên quan đến đề tài nghiên cứu để có cơ sở
cho việc đưa ra các giải pháp thực hiện.
+ Phương pháp quan sát: Quan sát để thu thập các thông tin có liên
quan đến công tác quản lý phối hợp các lực lượng giáo dục trường THPT trên
địa bàn huyện Cù Lao Dung để có cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp tổ chức
thực hiện.
+ Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn lãnh đạo các trường THPT và
GV các trường THPT về thực trạng công tác quản lý phối hợp các lực lượng
trong giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT trên địa bàn huyện Cù Lao
Dung nhằm làm căn cứ đề xuất các biện pháp một cách hiệu quả.
+ Phương pháp chuyên gia: Bằng việc tổ chức gặp gỡ, trao đổi ý kiến
về những vấn đề có liên quan đến nội dung quản lý phối hợp các lực lượng
trong giáo dục đạo đức ở trường THPT với các chuyên gia nghiên cứu, người
có nhiều kinh nghiệm; các nhà quản lý nhằm xác định các giải pháp tối ưu
cho công tác quản lý hoạt động này.
+ Phương pháp toán thống kê: Sử dụng các công thức toán để xử lý kết
quả khảo nghiệm, phân tích kết qủa nghiên cứu và đánh giá mức độ tin cậy
của phương pháp điều tra.

7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài này đã xây dựng các khái niệm công cụ, đặc điểm, nội dung,
những nhân tố tác động đến công tác quản lý phối hợp các lực lượng trong giáo
dục đạo đức học sinh THPT huyện Cù Lao Dung và làm sáng tỏ thực trạng
vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở đó, đề xuất những biện pháp mang tính khả thi
cao nhằm áp dụng cho công tác quản lý phối hợp các lực lượng trong giáo dục
12


đạo đức cho học sinh THPT trên địa bàn huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng
trong thời gian tới đạt kết quả và hiệu quả cao nhất.
Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp quản
lý giáo dục ở các trường THPT trong toàn tỉnh Sóc Trăng.
8. Kết cấu của đề tài
Luân văn có cấu trúc bao gồm: Phần mở đầu; Phần nội dung: 3 chương
(9 tiết); kết luận và kiến nghị; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG
TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1 Khái niệm đạo đức và giáo dục đạo đức
* Đạo đức
Đạo đức là một phạm trù lịch sử có tính giai cấp thuộc lĩnh vực đời sống
tinh thần, là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc, có cơ sở tồn tại xã hội.
Theo tác giả Trần Hậu Kiêm:"Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội
đặc biệt, bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn

mực xã hội. Nó ra đời,tồn tại và biến đổi từ nhu cầu xã hội. Nhờ đó con người
tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của
con người và sự tiến bộ xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa cá nhân với xã hội”.
Theo hai tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt thì đạo đức là một lĩnh
vực của ý thức xã hội, là một mặt hoạt động xã hội của con người và là một
hình thái chuyên biệt của quan hệ xã hội, thực hiện chức năng xã hội hết sức
quan trọng là điều chỉnh hành vi con người trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Đạo đức nảy sinh từ nhu cầu của xã hội điều hoà và thống nhất các mâu
thuẫn giữa lợi ích chung (của tập thể ,của xã hội) và lợi ích riêng (của cá nhân)
nhằm bảo đảm trật tự xã hội và khả năng phát triển xã hội và cá nhân. Để giải
quyết các mâu thuẫn đó, một trong những phương thức của xã hội là đề ra các
yêu cầu dưới dạng những chuẩn mực giá trị, được mọi người công nhận và
được củng cố bằng sức mạnh của phong tục, tập quán, dư luận, lương tâm…
Dưới góc độ Đạo đức học, đạo đức là một hình thái ý thức của xã hội
đặc biệt bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, những quy tắc,
nguyên tắc, chuẩn mực xã hội.
14


Dưới góc độ Giáo dục học, đạo đức là một hình thái ý thức của xã hội
đặc biệt bao gồm một hệ thống các quan niệm về cái thực, cái có trong mối
quan hệ của con người với con người.
Dưới góc độ Triết học, đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất
của ý thức xã hội, bapo gồm những nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực điều tiết
hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng. Căn cứ
vào những quy tắc ấy, người ta đánh giá hành vi, phẩm giá của mỗi người bằng
các quan niệm về thiện ác, chính nghĩa và phi nghĩa, nghĩa vụ và vinh dự.
Góc độ xã hội: Đạo đức là những hình thái ý thức xã hội được phản
ánh dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu,chuẩn mực, qui tắc điều chỉnh hành

vi của con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội, lao
động và con người với chính bản thân mình.
Góc độ cá nhân: Đạo đức chính là những phẩm chất nhân cách của con
người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí , hành vi, thói quen và cách ứng xử
của họ trong các mối quan hệ giữa con người với xã hội, giữa bản thân với
người khác và với chính bản thân mình.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: “Đạo đức là một hình thái
ý thức xã hội, có nguốn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng xã
hội, phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là sư thống nhất trong tư
tưởng và phong cách. Người có đạo đức là người biết kính yêu nhân dân,
khiêm tốn, thật thà, thẳng thắn và có thái độ cầu thị, làm việc chí công, vô tư,
không kêu ngạo, không giấu dốt. Ở Người, đạo đức đóng vai trò như lẽ sống
thấm sâu vào tư tưởng và chỉ đạo hành động, lối sống.
Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù
chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản
ánh bộ mặt nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hoá. Đạo đức được biểu
15


hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, ở hành động giải quyết hợp
lý, có hiệu quả những mâu thuẫn. Khi thừa nhận đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội thì đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi tầng lớp giai cấp trong
xã hội cũng phản ánh ý thức chính trị của họ đối với các vấn đề đang tồn tại.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: “Đạo đức là một hình thái
ý thức xã hội đặc biệt bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm,
những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và
sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa
cá nhân và xã hội”.

Bản chất đạo đức là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã
hội, nó được hình thành, tồn tại và phát triển trong cuộc sống, được xã hội
thừa nhận và tự giác thực hiện. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản
ánh những quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở kinh tế, xã hội. Mỗi
hình thái kinh tế hay mỗi giai đoạn đều có những nguyên tắc, chuẩn mực đạo
đức tương ứng. Vì vậy, đạo đức có tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại.
Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm đạo đức. Mỗi
một giai cấp, một hình thái kinh tế xã hội hay mỗi dân tộc lại có một chuẩn
mực đạo đức khác nhau, hay nói cách khác đạo đức mang tính giai cấp, tính
dân tộc và tính thời đại. Vì vậy trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi hình thái ý
thức xã hội lại có những hình mẫu, những chuẩn mực đạo đức đặc trưng của
xã hội ấy. Chuẩn mực đạo đức không phải là bất biến mà một số có thể thay
đổi theo thời gian. Tuy nhiên có một số chuẩn mực đạo đức lại có tính bền
vững cao do những chuẩn mực ấy có ý nghĩa tốt đẹp trong việc củng cố mối
quan hệ giữa con người với con người, với tự nhiên và xã hội. Theo đà phát
triển của lịch sử và sự phát triển đi lên của xã hội, những chuẩn mực đạo đức
qua cuộc đấu tranh, gạn lọc, kế thừa mà ngày càng tiến bộ.
16


Ngày nay trong nền kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế, thì khái
niệm đạo đức cũng có thay đổi theo tư duy và nhận thức mới. Tuy nhiên,
không có nghĩa là các giá trị đạo đức cũ hoàn toàn mất đi, thay vào đó là các giá
trị đạo đức mới. Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, các giá trị đạo đức
hiện nay là sự kết hợp sâu sắc truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với xu
hướng tiến bộ của thời đại, của nhân loại. Đó là tinh thần cần cù lao động
sáng tạo, tình yêu quê hương đất nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sống và
làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có nếp sống văn minh lành mạnh, có
tinh thần nhân đạo và tinh thần quốc tế cao cả.
* Giáo dục đạo đức

Giáo dục đạo đức là một quá trình bao gồm hai mặt, một mặt đó là sự
tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục, mặt khác thông qua sự tác
động này làm cho đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn thiện, tự nâng
mình lên qua giáo dục.
Giáo dục đạo đức góp phần chuyển các quan niệm đạo đức từ tự phát
sang tự giác, từ bị động sang chủ động, không ngừng nâng cao trình độ nhận
thức các giá trị đạo đức cho mỗi người, từ trình độ nhận thức thông thường
lên trình độ nhận thức khoa học. Nhận thức thông thường hình thành do ảnh
hưởng trực tiếp của những điều kiện sinh hoạt hàng ngày mang lại, nó phản
ánh những giá trị đạo đức gần gũi với cuộc sống đời thường, còn nhận thức
khoa học phản ánh các giá trị đạo đức một cách gián tiếp, khái quát, cả những
giá trị đạo đức hiện đại, cả những phẩm giá của con người được kết tinh trong
truyền thống lâu dài của dân tộc.
Giáo dục đạo đức góp phần to lớn, tích cực trong việc truyền lại cho
thế hệ đang trưởng thành những giá trị đạo đức, mà thế hệ trước đã tạo ra,
những giá trị đạo đức được kết tinh trong hàng nghìn năm lịch sử của dân
tộc. Trên cơ sở đó giúp họ nhận ra chân giá trị của các giá trị đạo đức, nhận
17


thấy giá trị và ý thức cuộc sống mang tính nhân bản, nhân ái, nhân văn sâu
sắc, góp phần to lớn trong việc nhân đạo hóa con người và đời sống xã hội
của con người, trong việc hình thành, củng cố những giá trị nhân cách tốt đẹp.
Giáo dục đạo đức không chỉ có tác dụng nâng cao các giá trị đạo đức,
tạo ra những giá trị đạo đức mới, mà còn góp phần tích cực vào việc khắc
phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị nhân cách,
những thói hư tật xấu, chống lại những hiện tượng vô đạo đức đang đầu độc
bầu không khí xã hội, tạo ra cơ chế phòng ngừa các phản giá trị đạo đức, phản
giá trị văn hóa...
Hiện nay, trước nhiều biến động phức tạp của đạo đức trong xã hội,

trước sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận thanh niên học sinh trong các
trường học, trong chiến lược chăm lo phát triển nguồn lực con người, Đại hội
VIII, Đảng ta đã khẳng định: "Cùng với đổi mới nội dung giáo dục theo
hướng cơ bản, hiện đại, phải tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới
quan khoa học, lòng yêu nước, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền
đồ của đất nước".
Giáo dục đạo đức trong nhà trường là một quá trình giáo dục bộ phận
của quá trình sư phạm tổng thể. Nó có quan hệ biện chứng với các quá trình
giáo dục bộ phận khác như: giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể
chất, giáo dục lao động, giáo dục hướng nghiệp,...
Giáo dục đạo đức cho học sinh là quá trình hình thành và phát triển các
phẩm chất đạo đức của nhân cách học sinh dưới những tác động và ảnh hưởng
có mục đích được tổ chức có kế hoạch, có sự lựa chọn về nội dung, phương
pháp và hình thức giáo dục phù hợp với lứa tuổi và với vai trò chủ đạo của
nhà giáo dục. Từ đó, giúp cho học sinh có những hành vi ứng xử đúng mực
trong các mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, với cộng đồng – xã hội, với
lao động, với tự nhiên,... Giáo dục đạo đức bao gồm giáo dục thế giới quan,
18


nhân sinh quan, giáo dục tư tưởng chính trị và giáo dục các phẩm chất đạo
đức cao đẹp của con người mới cho học sinh.
Bản chất của giáo dục đạo đức là chuỗi tác động có định hướng của chủ
thể giáo dục và yếu tố tự giáo dục của học sinh, giúp học sinh chuyển những
chuẩn mực, qui tắc, nguyên tắc đạo đức… từ bên ngoài xã hội vào bên trong
thành cái của riêng mình, mục tiêu cuối cùng là hành vi đạo đức phù hợp với
những yêu cầu của các chuẩn mực xã hội. Giáo dục đạo đức không chỉ dừng lại
ở việc truyền thụ những khái niệm, những tri thức đạo đức, mà quan trọng hơn
hết là kết quả giáo dục phải được thể hiện qua tình cảm, niềm tin, hành động
thực tế của học sinh.

Giáo dục đạo đức cho học sinh là giáo dục truyền thống tốt đẹp của
ông cha ta, giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc và sự kế thừa, tiếp thu những tinh
hoa văn hoá của nhân loại; giúp cho học sinh thấy được và biết giữ gìn những
thành quả Cách mạng. Vì thế, giáo dục đạo đức trong nhà trường chỉ có được
kết quả khi nhà giáo dục biết tổ chức phù hợp,hình thức đa dạng, phong phú ,
khơi dậy được tính tích cực, chủ động sáng tạo và tự giáo dục của người học.
Người học biết chuyển hoá những cái tốt đẹp đó thành phẩm chất nhân cách của
mình, phục vụ cho cuộc sống xã hội.
Như vậy, giáo dục đạo đức là những tác động sư phạm một cách có
mục đích, có hệ thống và có kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo
dục (học sinh) để bồi dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức (chuẩn mực,
hành vi đạo đức) phù hợp với yêu cầu của xã hội.
1.1.2. Các lực lượng giáo dục
Quá trình GDĐĐ cho học sinh bao gồm tác động của nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong. Có thể hiểu rằng có bao
nhiêu mối quan hệ trong nhà trường và xã hội mà học sinh tham gia hoạt động
thì có bấy nhiêu yếu tố tác động đến học sinh. Đó là gia đình, nhà trường và
19


xã hội. Mỗi lực lượng có tầm quan trọng, có nhiệm vụ, có phương pháp và
tính ưu việt riêng.
* Nhà trường là một tổ chức xã hội đặc thù với cấu trúc tổ chức chặt
chẽ, có nhiệm vụ chuyên biệt là giáo dục, đào tạo nhân cách trẻ em theo
những định hướng của xã hội.
Về mặt cấu trúc có nhiệm vụ chuyên biệt là: “Nâng cao dân trí, đào tạo
nguồn nhân lực, phát hiện bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, trong đó có
nhiệm vụ giáo dục, hình thành nhân cách cho trẻ em theo những định hướng
của xã hội”.
Quá trình thể hiện chức năng trên là quá trình tổ chức các hoạt động

dạy học và giáo dục theo chương trình được hoạch định chặt chẽ, khoa học.
Nhà trường có vai trò chủ đạo trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh vì:
Nhà trường có nhiệm vụ thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo nhân cách.
Nhà trường có nội dung và phương pháp giáo dục chọn lọc, tổ chức
chặt chẽ, khoa học.
Nhà trường là lực lượng giáo dục của xã hội mang tính chuyên biệt.
Nhà trường là môi trường giáo dục có tính sư phạm có tác động tích
cực đến giáo dục đạo đức cho học sinh.
Nhà trường có vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với gia đình và các
lực lượng xã hội khác để giáo dục đạo đức cho học sinh.
* Gia đình là một tế bào xã hội, là nơi lưu giữ và phát triển vững chắc nhất
giá trị truyền thống. Từ gia đình có thể giáo dục tất cả các lứa tuổi lòng kính yêu
cha mẹ, người thân trong gia đình, yêu thương đồng loại. Gia đình hạnh phúc dựa
trên nguyên tắc cơ bản là mọi người đều phải yêu thương quí mến nhau, giúp đỡ
nhau trong công việc và là chỗ dựa tinh thần cho mỗi thành viên.
Gia đình là nơi con người sinh sống, lớn lên và hình thành nhân cách
của mình, gia đình là cơ sở để duy trì nòi giống và là cơ sở của việc giáo dục
thế hệ trẻ. Không có gia đình thì xã hội không thể tồn tại và phát triển.
20


Giáo dục con cái trong gia đình không phải chỉ là công việc riêng tư
của bố mẹ mà còn là trách nhiệm, đạo đức và nghĩa vụ công dân của người
làm cha mẹ. Luật hôn nhân và gia đình đã ghi rõ: “Cha mẹ có nghĩa vụ
thương yêu, nuôi dưỡng, giáo dục con, chăm lo việc học tập và sự phát triển
lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ và đạo đức… Cha mẹ phải làm gương
tốt cho con về mọi mặt và phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã
hội trong việc giáo dục con”.
Khả năng giáo dục của gia đình là rất to lớn vì được dựa trên những
tình cảm máu mủ ruột thịt, tình thương yêu sâu sắc của cha mẹ đối với con

cái và tình cảm kính yêu, biết ơn của con cái đối với cha mẹ. Bên cạnh đó,
những tác động giào dục của gia đình còn là tác động thường xuyên, lâu dài
trong các tình huống khác nhau, các loại hoạt động đa dạng trong gia đình.
* Các lực lượng xã hội bao gồm: Theo Luật Giáo dục năm 2005 đã nêu
rõ trách nhiệm của xã hội trong điều 97: Các lực lượng xã hội bao gồm các
cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, các đoàn thể quần chúng… Góp
phần xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn, ngăn chặn những
hoạt động có ảnh hưởng xấu đến thế hệ trẻ, tạo điều kiện để thế hệ trẻ được
vui chơi hoạt động văn hoá, thể dục thể thao lành mạnh… hình thành nhân
cách, đạo đức con người mới.
1.1.3. Phối hợp các lực lượng giáo dục
Theo “Từ điển tiếng Việt thông dụng” của Nxb Giáo dục năm 2002:
Phối hợp là cùng chung góp, cùng hành động ăn khớp để hỗ trợ cho nhau.
Phối hợp các lực lượng giáo dục là sự cùng bàn bạc, hỗ trợ nhau của
các lực lượng xã hội nhằm tạo ra sự thống nhất về nhận thức, hành động trong
công tác giáo dục của tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội trong đó nhà
trường chủ động lên kế hoạch hoạt động phối hợp và có ký kết giao ước thực
21


hiện mục tiêu, nội dung giáo dục học sinh và xác định trách nhiệm, nhiệm vụ
của nhà trường và các tổ chức khi tham gia các hoạt động giáo dục trong và
ngoài nhà trường theo một kế hoạch đã được bàn bạc.
Phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội thường nhằm mục đích
huy động nguồn lực tổng hợp để nhằm xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức
sao cho kế hoạch phải vừa bao quát, vừa cụ thể phù hợp với từng đối tượng
khác nhau. Để thực hiện mục tiêu giáo dục học sinh, việc phối hợp giữa nhà
trường, gia đình và xã hội có một ý nghĩa đặc biệt vì đó là những môi trường
trực tiếp ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách của học sinh phổ thông nói

chung và học sinh THPT nói riêng. Trong việc kết hợp sự tác động của các
môi trường ấy vai trò của nhà giáo dục là rất quan trọng, vì vậy: “Nhà giáo
dục phải có tầm nhìn, phải có kế hoạch, có chiến lược, phải hiểu đối tượng dự
định tiếp cận và huy động thì mới có thể đạt được những điều mong muốn".
Bản chất của quá trình phối hợp các lực lượng giáo dục là sự thỏa thuận
chung để đi đến nhất trí chung về nhận thức, mục tiêu, nội dung, phương thức
thực hiện. Đó là quá trình xây dựng kế hoạch, xác định cơ chế hoạt động trên
cơ sở thực hiện mục tiêu của xã hội về giáo dục, vị trí và vai trò đối với phát
triển giáo dục.
1.1.4. Quản lý phối hợp các lực lượng giáo dục
Trong nhà trường, hoạt động quản lý bao gồm nhiều nội dung, trong đó
quản lý hoạt động phối hợp các lực lượng giáo dục cho học sinh là một trong
những nội dung quan trọng.
Quản lý phối hợp các lực lượng giáo dục là một lĩnh vực quản lý rất
khó khăn, phức tạp đòi hỏi người quản lý phải có năng lực quản lý vững vàng,
toàn diện; khả năng vận dụng các biện pháp quản lý linh hoạt và phải luôn là
tấm gương sáng về đạo đức nhà giáo.
Quản lý sự phối hợp theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối
hợp các lực lượng xã hội theo kế hoạch đã bàn và được cam kết nhằm đẩy
22


mạnh công tác giáo dục thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Có sự đánh
giá, rút kinh nghiệm sau mỗi hoạt động, lấy ý kiến đánh giá phản hồi từ phía
học sinh, giáo viên, các lực lượng về hiệu quả các hoạt động đã thực hiện.
Quản lý phối hợp các lực lượng là quản lý sự phối hợp giữa nhà trường
với gia đình và xã hội nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh về bản chất là
quá trình tổ chức quản lý việc phối hợp giáo dục của nhà trường với gia đình
và xã hội cùng tham gia tạo ra sự thống nhất chung của các thành viên, nhằm
phối hợp, huy động khả năng của các thành viên sao cho phù hợp với mục

tiêu, nội dung, kế hoạch tổ chức hoạt động giáo dục toàn diện của nhà trường.
Mục tiêu của quản lý phối hợp giáo dục là làm cho quá trình giáo dục
vận hành đồng bộ, hiệu quả, tạo ra bầu không khí hắng hái và thuận lợi để
nâng cao chất lượng giáo dục hoc học sinh trong nhà trường, gia đình và ở
khắp mọi nơi ngoài xã hội.
Quản lý phối hợp các lực lượng là sự kết hợp, tác động qua lại một
cách biện chứng giữa ba lực lượng giáo dục. Một mặt nhà trường đóng vai trò
chủ đạo trong việc giáo dục đạo đức học sinh. Mặt khác nhà trường cần giúp
đỡ hỗ trợ cụ thể của các bậc cha mẹ học sinh trong việc giáo dục con cái. Với
tư cách là chủ thể giáo dục, cha mẹ học sinh có trách nhiệm chủ động phối
hợp với nhà trường trong việc giáo dục con em mình, tránh tư tưởng khoán
trắng cho nhà trường.
Bên cạnh đó, vai trò giáo dục của xã hội ảnh hưởng không nhỏ tới sự
hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh. Giáo dục xã hội
bao gồm hoạt động giáo dục do các đoàn thể chính trị xã hội tham gia như
Đoàn thanh niên, cộng đồng dân cư, Hội phụ nữ, Hội Khuyến học, ... tổ chức
cho các em tham gia vào các hoạt động xã hội tạo thành môi trường giáo dục
lành mạnh, mang tính giáo dục cho các em.
Việc phối hợp thống nhất giáo dục của nhà trường với giáo dục của gia
đình và xã hội đã trở thành một nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục xã hội
23


chủ nghĩa. Bản chất của việc phối hợp đó là đạt được sự thống nhất về các
yêu cầu giáo dục cũng như về các hành động giáo dục của tất cả người lớn,
khiến cho nhân cách của trẻ phát triển đúng đắn, đầy đủ và vững chắc, tạo
được môi trường giáo dục thuận lợi trong nhà trường, trong gia đình và ngoài
xã hội. Nhờ có môi trường giáo dục đó, học sinh buộc phải hành động đúng
theo các yêu cầu và các chuẩn mực ứng xử. Môi trường giáo dục bao gồm:
Những yêu cầu thống nhất của nhà trường, gia đình và xã hội đối với hành vi

của học sinh; Những tình huống được tạo ra trong cuộc sống để các hành vi
tích cực có điều kiện thực hiện; Những phương pháp và biện pháp giáo dục
được sử dụng khéo léo, không mâu thuẫn với nhau và không để dẫn đễn tính
chất hai mặt trong ứng xử của học sinh.
Chất lượng và hiệu quả của giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói
riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quản lý và đặc biệt việc
phối hợp quản lý giữa nhà trường, gia đình và xã hội để giáo dục đạo đức cho
học sinh có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Tạo nên tác động tổng hợp và phát huy được những tiềm năng phong
phú của toàn xã hội tham gia vào quá trình giáo dục hình thành và phát triển
nhân cách của học sinh.
Là nguyên tắc quan trọng tạo ra sự thống nhất thực hiện mục tiêu giáo
dục, thực hiện các chuẩn mực đạo đức của học sinh.
Tạo ra sức mạnh tổng hợp và đồng bộ trong toàn xã hội, tạo ra môi
trường sư phạm lành mạnh, hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực, tạo ra
những tác động tích cực cho quá trình giáo dục đạo đức và hình thành nhân
cách học sinh.
Việc định hướng cho học sinh THPT về các giá trị chuẩn mực đạo đức,
hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực là cần thiết. Yêu cầu đó không chỉ là trách
nhiệm của nhà trường, mà cần đặt ra cho các bậc cha mẹ học sinh, cho mọi
người, cho các ngành, các cấp trong xã hội.
24


1.2. Nội dung quản lý phối hợp các lực lượng trong giáo dục đạo
đức học sinh trung học phổ thông
1.2.1. Quản lý kế hoạch, chương trình, nội dung phối hợp giữa nhà
trường, gia đình và xã hội
Hiệu trưởng nhà trường quản lý kế hoạch, chương trình chung cho sự
phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội, chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch,

chương trình hoạt động phối hợp giữa nhà trường, gia đình của giáo viên chủ
nhiệm. Duyệt kế hoạch chương trình hoạt động phối hợp giữa nhà trường, gia
đình và xã hội theo định kỳ thời gian (tuần, tháng, học kỳ), chỉ đạo điều hành
quản lý, giám sát việc thực hiện kế hoạch hoạt động phối hợp của các lực lượng
giáo dục. Công tác xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức phải đảm bảo sao cho
kế hoạch phải vừa bao quát, vừa cụ thể phù hợp với từng đối tượng khác
nhau. Mặt khác quan tâm quản lý phối hợp các các kế hoạch chăm sóc và giáo
dục học sinh của tập thể sư phạm nhà trường, của Ban đại diện cha mẹ học
sinh, của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội ngoài nhà trường.
Căn cứ vào mục tiêu, nội dung, hình thức, nguyên tắc giáo dục đạo đức
cho học sinh THPT, căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT, sự
phát triển nhân cách và hoạt động của học sinh THPT, có thể đưa ra một số
biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trong mối quan hệ
phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội cụ thể như sau:
Thứ nhất: Nâng cao nhận thức cho mọi người về tầm quan trọng và
vai trò của giáo dục đạo đức cho học sinh, trước hết là nâng cao nhận thức
cho cán bộ quản lý, giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp. Do vậy, việc làm
cho mọi người, mọi ngành, mọi cấp, mọi tổ chức thấy được trách nhiệm của
mình trong việc cùng nhà trường giáo dục đạo đức cho học sinh là biện pháp
tiên quyết trong tổ chức quản lý hoạt động giáo dục đạo đức. Đây là điều kiện
đầu tiên tạo ra sự thống nhất hành động trong toàn xã hội. Không thể coi tổ
25


×