Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN KINH tế DU LỊCH BIỂN ở QUẬN đồ sơn, THÀNH PHỐ hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.41 KB, 97 trang )

MỤC LỤC
Trang
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU

3

LỊCH BIỂN Ở QUẬN ĐỒ SƠN THÀNH PHỐ HẢI
1.1.

PHÒNG
Quan niệm về phát triển kinh tế du lịch biển và nội dung
phát triển kinh tế du lịch biển ở quận Đồ Sơn, thành phố
11

1.2.

Hải Phòng
Các nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết phát triển kinh tế du

21

1.3

lịch biển ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng
Kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển kinh tế
du lịch biển và bài học rút ra cho quận Đồ Sơn, thành phố

Chương 2

Hải Phòng
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH


BIỂN Ở QUẬN ĐỒ SƠN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

42
47

2.1

Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế du lịch biển ở quận
47

2.2

Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng từ năm 2006 đến nay
Hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong phát triển

59

Chương 3

kinh tế du lịch biển ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH BIỂN Ở QUẬN ĐỒ
SƠN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG THỜI

68

3.1

GIAN TỚI
Quan điểm cơ bản phát triển kinh tế du lịch biển ở quận Đồ


68

3.2

Sơn, thành phố Hải Phòng
Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế du lịch biển ở
quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng

72
81
82
86

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế phát triển chung của các nước trên thế giới hiện nay, kinh
tế biển nói chung, kinh tế du lịch biển nói riêng là một hướng quan trọng
trong thu hút sự quan tâm của các quốc gia có biển và các nhà kinh doanh du
lịch. Một số quốc gia có thế mạnh về biển coi DLB là ngành kinh tế mũi
nhọn, góp phần quan trọng vào thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và củng cố
quốc phòng – an ninh của mình.
Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, diện tích mặt nước biển trên 1 triệu
km2 với hàng ngàn đảo lớn nhỏ ở ven bờ và ngoài khơi. Tài nguyên thiên
nhiên và tài nguyên nhân văn thuận lợi đã mang lại cho nước ta lợi thế đặc

biệt để phát triển kinh tế DLB. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH,
HĐH, đánh giá được tầm quan trọng của kinh tế du lịch đối với sự phát triển
kinh tế xã hội và củng cố QP – AN, Đảng ta chỉ rõ: “phát triển du lịch thật sự
trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn” [26, trang 178]. Trong chiến lược phát
triển của kinh tế du lịch nói chung, kinh tế DLB luôn là một hướng được quan
tâm hàng đầu.
Góp sức phát triển ngành du lịch biển Việt Nam, trong đó phải kể đến
du lịch biển thành phố Hải Phòng. Với lợi thế là thành phố Cảng, là cửa chính
ra biển của vùng châu thổ sông Hồng và các tỉnh phía Bắc, Hải Phòng có
nhiều tiềm năng đa dạng, phong phú để phát triển kinh tế biển. Thời gian gần
đây, kinh tế biển Hải Phòng phát triển khá nhanh, một số ngành, lĩnh vực tăng
trưởng cao đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
quốc phòng - an ninh, chủ quyền biển, đảo của thành phố và đất nước.
Đồ Sơn là một vùng đất cửa biển của thành phố Hải Phòng, cách trung
tâm thành phố khoảng 20 km về hướng Đông Nam. Thời gian qua, du lịch
biển Đồ Sơn đã đóng góp không nhỏ trong tổng doanh thu từ kinh doanh du
lịch của thành phố Hải Phòng. Đồ Sơn có một khu nghỉ mát gồm nhiều bãi
3


biển có phong cảnh đẹp ở miền bắc Việt Nam. Đến nơi đây, du khách không
chỉ được thỏa sức vẫy vùng trong sóng biển, mà còn thưởng ngoạn một “Đà
Lạt thu nhỏ” ở khu du lịch quốc tế Hòn Dáu, thăm nhiều điểm du lịch tâm
linh nổi tiếng như đền Bà Đế, nhiều cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ như núi
đá, rừng thông, các di chỉ, di tích lịch sử nổi tiếng, các lễ hội truyền thống của
dân vùng biển như chọi Trâu, đua thuyền, đấu vật … Theo tinh thần Nghị
quyết 32/NQ-TW ngày 5/8/2003 của Bộ Chính trị định hướng phát triển du
lịch Hải Phòng đến năm 2020: “Phát triển du lịch Hải Phòng thành trung tâm
du lịch của vùng, trong đó xây dựng đảo Cát Bà cùng với Đồ Sơn, Hạ Long
trở thành một trong những trung tâm du lịch quốc tế của cả nước”.

Trong những năm qua, du lịch biển ở quận Đồ Sơn đã có những bước
phát triển đáng khích lệ, tăng trưởng du lịch đã có những đóng góp quan trọng
vào công cuộc CNH, HĐH của vùng nói riêng, của đất nước nói chung, thể
hiện ở đóng góp của ngành trong giá trị tổng sản phẩm kinh tế vùng. Hoạt
động du lịch đã góp phần tạo nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cho cộng
đồng, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững QP - AN cho thành phố Hải
Phòng. Tuy nhiên, sự phát triển hiện nay của kinh tế du lịch biển ở quận Đồ
Sơn hiện còn nhiều hạn chế. Du lịch biển chưa thực sự trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn như đã được xác định trong Nghị quyết của các cấp ủy Đảng của
tỉnh, chưa có bước phát triển đột phá và khai thác có hiệu quả tiềm năng và
lợi thế về du lịch của tỉnh. Chất lượng sản phẩm du lịch chưa cao, loại hình
chưa thật sự phong phú, đặc sắc với bản sắc văn hoá riêng, chưa có được
những sản phẩm du lịch có giá trị gia tăng cao. Giá cả so sánh trong một số
khâu dịch vụ còn cao dẫn tới kém sức cạnh tranh quốc tế. Chương trình du
lịch còn đơn điệu, trùng lặp, chưa đáp ứng nhu cầu của từng đối tượng khách,
của mỗi thị trường. Việc bảo tồn, tôn tạo và nâng cấp các di tích lịch sử văn
hoá, cũng như giữ gìn cảnh quan môi trường chưa thực sự được chú trọng đầu
tư, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành. Hoạt động tuyên
4


truyền quảng bá du lịch trong nước, khu vực và quốc tế còn nhiều hạn chế,
tính chuyên nghiệp chưa cao, cung cấp chưa đủ và kịp thời thông tin cho du
khách và các nhà đầu tư… Vấn đề đặt ra hiện nay là làm như thế nào để phát
huy tiềm năng, lợi thế của vùng đất cửa biển Đồ Sơn trước yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Trong bối cảnh
đó, học viên lựa chọn đề tài: “Phát triển kinh tế du lịch biển ở Quận Đồ
Sơn, thành phố Hải Phòng” không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa
thực tiễn góp phần phát triển kinh tế du lịch biển ở Đồ Sơn nói riêng và du
lịch Hải Phòng nói chung trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện nay đã có nhiều công trình khoa học được nghiên cứu liên quan
đến đề tài dưới các góc độ khác nhau, trong số đó tiêu biểu là:
Tạp chí “Một số vấn đề về tiềm năng và thực trạng thu hút du khách du
lịch quốc tế đến thành phố Đà Nẵng” của Tạp chí Kinh tế Phát triển, Đại học
Kinh tế Quốc dân, năm 2005. Trên cơ sở chỉ ra các ưu thế phát triển du lịch
cũng như thực trạng thu hút du khách của thành phố Đà Nẵng, tác giả đã đề
xuất các giải pháp nhằm phát triển và cải thiện ngành du lịch của Đà Nẵng.
Lê Trọng Bình, “Một số giải pháp đột phá phát triển du lịch vùng biển
và ven biển Việt Nam”, Tổng cục Du lịch Việt Nam, năm 2007. Tác giả chỉ ra
các lợi thế phát triển du lịch biển ở Việt Nam cũng như hiện trạng phát triển
du lịch vùng biển Việt Nam tập trung vào các nhân tố như thị trường khách
du lịch, thu nhập du lịch, sản phẩm du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động
và không gian du lịch, công tác quảng bá du lịch. Qua đó, tác giả đưa ra một
số giải pháp có tính thuyết phục cao để phát triển du lịch biển Việt Nam.
Đổng Ngọc Minh - Vương Lôi Đình, “Kinh tế du lịch và du lịch
học", Nhà xuất bản trẻ thành phố Hồ Chí Minh, năm 2001. Tác giả đưa ra
khái niệm tổng quát về du lịch và kinh tế du lịch, đồng thời chỉ ra các tiềm
năng, lợi thế, tình hình phát triển của du lịch Việt Nam thời gian qua, từ đó
5


khẳng định đầu tư cho kinh tế du lịch đóng vai trò quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế nói chung của nước ta.
Dương Vũ, “Phát triển du lịch trong tầm nhìn mới”, Tạp chí Cộng sản
số 20, năm 2000. Bài viết đã hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về du lịch
Việt Nam và đưa ra những ý tưởng ban đầu về cung đối với loại hình du lịch
mới. Đề tài cũng tập trung đánh giá thực trạng của du lịch Việt Nam với
những điểm mạnh, điểm yếu, tìm hiểu nguyên nhân để đưa ra các giải pháp và
kiến nghị nhằm phát triển du lịch nước ta trong tương lai.

Mai Văn Điệp, “Phát triển kinh tế du lịch biển và tác động của nó đến
củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa hiện nay”, Luận văn thạc sỹ
kinh tế, Hà Nội, năm 2006. Tác giả phân tích tình hình phát triển kinh tế du
lịch biển của tỉnh Khánh Hòa trong thời gian gần đây, từ đó khẳng định phát
triển kinh tế du lịch biển ngày càng tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời
sống xã hội trong đó có lĩnh vực quốc phòng. Luận văn chỉ ra tính bức thiết
trong giai đoạn hiện nay là cần phải nghiên cứu quá trình phát triển của kinh
tế du lịch biển và tác động của nói đến củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh
nói riêng và cả nước nói chung.
Th.s. Trần Xuân Cảnh, “Bàn về thu hút vốn cho đầu tư phát triển ngành
du lịch tại Việt Nam”, Tạp chí phát triển kinh tế, số 123, tháng 1 năm 2001.
Tác giả đề cập đến vấn đề thu hút vốn cho ngành du lịch có thể thông qua
nhiều hình thức, trong đó cần đẩy mạnh thu hút nguồn vốn xã hội hóa trên cơ
sở đẩy mạnh triển khai hình thức hợp tác công tư (PPP), tập trung và ưu tiên
phát triển các dự án kết cấu hạ tầng, phục vụ kinh tế xã hội nói chung và
ngành du lịch nói riêng. Tiếp đó, nguồn vốn tư nhân sẽ đóng vai trò quan
trọng. Muốn thu hút được nguồn vốn này, cần cải cách thủ tục hành chính, có
cơ chế, chính sách đầy đủ, ổn định. Cam kết hỗ trợ giải phóng mặt bằng, giao
đất sạch đúng thời hạn cho nhà đầu tư triển khai dự án. Nghiên cứu chính
sách ưu đãi trong thu hút đầu tư các dự án phát triển du lịch.
6


Đỗ Quang Trung, “ Phát triển nhanh, bền vững du lịch Việt Nam”, Tạp
chí Cộng sản, số 4, năm1996. Học viên đã tham khảo và tiếp thu có chọn lọc
một số luận điểm của tác giả về quan niệm phát triển du lịch bền vững như lý
luận: Du lịch bền vững là du lịch giảm thiểu các chi phí và nâng cao tối đa các
lợi ích của du lịch cho môi trường thiên nhiên và cộng đồng địa phương, và
có thể được thực hiện lâu dài nhưng không ảnh hưởng xấu đến nguồn sinh
thái mà du lịch phụ thuộc vào. Phát triển du lịch bền vững còn đảm bảo các

vấn đề về xã hội, như việc giảm bớt các tệ nạn xã hội bằng việc cung cấp
công ăn việc làm cho người dân trong vùng. Ở một cái nhìn sâu và xa hơn, du
lịch bền vững giúp khai thác nguồn tài nguyên một cách có ý thức và khoa
học, đảm bào cho các nguồn tài nguyên này sinh sôi và phát triển để thế hệ
sau, thế hệ tương lai có thể được tiếp nối và tận dụng.
Hoàng Đức Cường, Phát triển kinh tế Du lịch ở Nghệ An, Luận văn Thạc
sỹ (1999), Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1999. Hoạt động kinh doanh du lịch
trên địa bàn tỉnh Nghệ An ngày càng tăng trưởng nhanh và hiệu quả ngày càng
rõ. Tác giả khái quát một số kết quả hoạt động du lịch ở Nghệ An từ đó chỉ ra
phương hướng và giả pháp phát triển du lịch Nghệ An. Một trong các giải pháp
được học viên tham khảo và liên hệ vào phát triển kinh tế du lịch Đồ Sơn, đó là
phát triển du lịch phải gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ phát triển văn hoá, nhất là
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giáo dục truyền thống, bảo vệ môi
trường, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền
biên giới và biển đảo. Mở rộng và kết hợp các loại hình du lịch (sinh thái, văn
hoá lịch sử, tâm linh, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, vui chơi giải trí,…) nhằm tạo sự đa
dạng trong hoạt động du lịch; tập trung xây dựng một số sản phẩm du lịch độc
đáo, hấp dẫn, tạo dựng thương hiệu du lịch.
Nguyễn Thị Hoá, Tiềm năng và xu hướng phát triển du lịch - Thừa
Thiên - Huế, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1997.
Luận văn chỉ ra lợi thế của thành phố Huế là những di sản và lễ hội - nguồn
7


tài nguyên quý giá của du lịch, ngành kinh tế - du lịch kết hợp với những tiềm
năng khác của tỉnh đã có những bưgớc phát triển khá toàn diện và bền vững,
trở thành một trong những trung tâm văn hóa, du lịch lớn của cả nước, thực
hiện sự liên kết về du lịch với các tour du lịch trong tuyến Hành lang kinh tế
Đông - Tây với các điểm du lịch ở Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng
Nam, hình thành nên “Con đường di sản miền Trung”. Luận văn cũng chỉ ra

một số giải pháp để bảo tồn các giá trị truyền thống của Tỉnh, trong đó vai trò
không nhỏ từ trách nhiệm của nhân dân địa phương và các cấp chính quyền.
Trần Quốc Luật, Phát triển kinh tế du lịch ở Bà Rịa, Vũng Tàu, Luận
văn Thạc sỹ Kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1996. Tác giả nghiên
cứu tiềm năng phát triển du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu. Di tích lịch sử, văn hóa
là một trong những lợi thế của Bà Rịa-Vũng Tàu chịu ảnh hưởng những mức
độ khác nhau của các nền văn hóa lâu đời gắn với biển: Đông Sơn, Sa Huỳnh,
Đồng Nai. Một phần trong số các di tích lịch sử, văn hóa đều có khả năng
khai thác phục vụ du lịch. Nhóm di tích lịch sử, kiến trúc tôn giáo bao gồm
các kiến trúc đình, miếu, chùa chiền, nhà thờ là các địa điểm tốt để có thể phát
triển thành các điểm du lịch lễ hội, tâm linh, nhóm di tích lịch sử, cách mạng
và kháng chiến phản ánh quá trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc của nhân dân
vùng biển. Tác giả đề xuất các giải pháp xuất phát từ thực trạng phát triển du
lịch ở Bà Rịa – Vũng tàu.
Tiến sỹ Đinh Trung Kiên, “Hà Tây - Điểm du lịch cuối tuần của người
Hà Nội”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 6, 2003. Tác giả nhắc đến du lịch Hà
Tây như một điểm đến lý tưởng cho du khách Hà Nội vào dịp nghỉ cuối tuần.
Ở Hà Tây có nhiều điểm tham quan du lịch khá lý tưởng như khu du lịch tự
nhiên Bằng Tạ, khu du lịch sinh thái Quan Sơn, sân golf Đồng Mô, núi Tử
Trầm, núi Ba Vì, thắng cảnh Hương Sơn… đó là những nơi có điều kiện tự
nhiên và hệ sinh thái khá phong phú. Tác giả nhấn mạnh xây dựng thành công
hình ảnh du lịch Hà Tây không thể tách rời các biện pháp bảo vệ và tôn tạo
các giá trị nhân văn và tài nguyên thiên nhiên ở nơi đây.
8


Lê Thành Công “Hoạt động xúc tiến của du lịch Hải Phòng nhằm thu
hút khách du lịch Trung Quốc - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ,
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2011. Đây là đề tài có ý nghĩa thực
tiễn, khi mà hoạt động xúc tiến của du lịch Hải Phòng những năm gần đây

còn một số hạn chế, đặc biệt là với thị trường khách du lịch Trung Quốc - thị
trường du lịch quốc tế trọng điểm của Hải Phòng cũng như Việt Nam đang có
xu hướng suy giảm. Đề tài đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về xúc tiến du lịch
và xúc tiến điểm đến, trên cơ sở đó tìm hiểu thực trạng, phân tích để đánh giá
những điểm mạnh, điểm yếu của hoạt động xúc tiến nhằm thu hút khách du
lịch Trung Quốc tại Hải Phòng và đưa ra những gải pháp nhằm thúc đẩy hoạt
động xúc tiến đối với thị trường khách này.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
văn, song cho đến nay vấn đề phát triển kinh tế du lịch biển ở quận Đồ Sơn,
thành phố Hải Phòng chưa có công trình nào được công bố. Do vậy, đề tài tác
giả lựa chọn không trùng lặp với các công trình đã công bố khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
∗ Mục đích
Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn, đề xuất quan điểm giải pháp phát
triển kinh tế du lịch biển ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
∗ Nhiệm vụ
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về phát triển kinh tế du lịch
biển và các yếu tố ảnh hưởng cũng như sự cần thiết phát triển kinh tế du lịch
biển quận Đồ Sơn tới phát triển kinh tế vùng nói chung.
- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế du lịch biển và thực trạng tác
động của kinh tế du lịch biển Đồ Sơn tới phát triển kinh tế Quận Đồ Sơn.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế du
lịch biển Đồ Sơn – thành phố Hải Phòng.
9


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
∗ Đối tượng nghiên cứu
Phát triển kinh tế du lịch biển tại Quận Đồ Sơn thành phố Hải Phòng.
∗ Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế du lịch
biển tại Quận Đồ Sơn thành phố Hải Phòng và đề xuất các giải pháp chủ yếu.
- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu phát triển kinh tế du
lịch biển trên địa bàn quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
- Về thời gian: Các số liệu từ năm 2006 đến nay
5. Phương pháp luận nghiên cứu
Để thực hiện luận văn tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu, trong đó phương pháp chủ đạo là phương pháp duy vật biện
chứng, trừu tượng hóa khoa học, logic – lịch sử.
Ngoài ra đề tài sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích và
đối chiếu, so sánh, khảo sát kinh nghiệm thực tế… để phân tích thực trạng và
qua đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện phù hợp.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn
phát triển kinh tế du lịch biển ở quận Đồ Sơn, TP Hải Phòng, cho thấy vai trò
và tầm quan trọng của kinh tế biển trong thời đại ngày nay. Kết quả nghiên
cứu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy
Kinh tế Chính trị Mác – Lê nin, Địa lý kinh tế … ở các học viên, trường đại
học trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài gồm phần mở đầu, 3 chương, 7 tiết, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, bảng viết tắt và phụ lục.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH BIỂN
Ở QUẬN ĐỒ SƠN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG


1.1.

Quan niệm về phát triển kinh tế du lịch biển và nội dung

phát triển kinh tế du lịch biển ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng
1.1.1.

Quan niệm về kinh tế du lịch biển và phát

triển kinh tế du lịch biển
- Quan niệm về du lịch
"Thực tế hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển
của xã hội loài người. Ngay từ cuối xã hội nguyên thuỷ hoạt động du lịch đã
ra đời. Nhưng xét từ quan điểm lịch sử phát triển thì tính kinh tế của hoạt
động du lịch cận hiện đại có sự phân biệt về bản chất so với trước kia. Thời
kỳ đầu do sự hạn chế bởi trình độ phát triển của sức sản xuất và điều kiện
giao thông vận tải, hoạt động của du lịch chủ yếu biểu hiện dưới dạng hoạt
động văn hoá xã hội như du lịch tiêu khiển của vua chúa quý tộc, du lịch của
nhân sỹ, du lịch giáo dục, du lịch tôn giáo... không có ý nghĩa xã hội phổ biến.
Mối liên hệ kinh tế trong hoạt động du lịch có đặc trưng ngẫu nhiên. Càng về
sau sự phát triển của hoạt động du lịch, kinh tế du lịch càng trở thành một bộ
phận hợp thành không thể thiếu của hoạt động kinh tế -xã hội.
Thuật ngữ "Du lịch" bắt nguồn từ gốc tiếng Latinh "Turnus" có nghĩa là
đi chơi, đi dã ngoại. Theo tiếng Pháp "tour" có nghĩa là vận động ngoài trời,
dạo chơi, leo núi. Theo tiếng Anh "To tour" có nghĩa là đi dã ngoại (ở một nơi
nào đó). Theo nghĩa Hán - Việt du lịch có thể coi là từ ghép của "Du" là đi
chơi với "Lịch" là sự lịch lãm, hiểu biết.
Khi du lịch phát triển mạnh mẽ và trở thành một lĩnh vực không thể
thiếu trong đời sống con người nói chung và trong hoạt động kinh doanh nói
riêng (từ những năm đầu của thế kỷ XX) người ta đưa ra được những khái

niệm cụ thể hơn về du lịch. Có người cho rằng: "Du lịch là tổng hợp các tổ
11


chức và chức năng của nó không chỉ về phương diện khách vãng lai mà chính
là về phương diện giá trị mà khách du lịch chỉ ra (Giáo sư Bỉ - Edmod Piracađưa ra 1910) [12- 8].
Có quan điểm lại cho rằng: "Du lịch là tổng hợp những quan hệ và các
hiện tượng nảy sinh từ việc di chuyển và dừng lại của con người ra khỏi chỗ ở
của chính mình. Thời gian dừng lại cũng như di chuyển không phải là lý do
phục vụ cho việc sinh sống hay tìm hiểu việc làm lâu dài của họ" (Giáo sư
Thuỵ Sỹ - W.Hun Ziker đưa ra năm 1942) [12–8]. Hoặc "Du lịch là tổng hợp
những mối quan hệ và hoạt động tạo ra do sự di chuyển và dừng lại của
những người mà vị trí của những nơi dừng lại không phải là nơi cư trú và
cũng không phải là nơi hành nghề của chính họ. Claude kaspas và St gallen Các nhà kinh tế Thuỵ Sĩ đưa ra 1992 [23- 12]. Sau khi hội nghị Manila năm
1980 của tổ chức du lịch quốc tế, du lịch được hiểu là: "Việc lữ hành của mọi
người bắt đầu từ mục đích không phải di cư một cách hoà bình, hoặc xuất
phát từ mục đích phát triển cá nhân về các phương diện kinh tế, xã hội, văn
hoá và tinh thần cùng với việc đẩy mạnh sự hiểu biết và hợp tác với mọi
người" [23-12]. Ưu điểm chủ yếu của định nghĩa trên là nhấn mạnh mục đích
hoà bình của việc du lịch, đồng thời nó cũng bao quát cả việc du lịch để vui
chơi tiêu khiển, cũng như du lịch về công việc. Nhưng khiếm khuyết của nó là
chưa nhấn mạnh tới tính chất đất lạ của việc du lịch, cũng chưa thể phản ánh
đặc đặc điểm tổng hợp khách quan của hoạt động du lịch, của người du lịch.
Giới du lịch phương Tây thường công nhận định nghĩa của AIEST (Hội
Liên hợp các chuyên gia quốc tế về du lịch học): “Du lịch là sự tổng hoà các
hiện tượng và quan hệ do việc lữ hành và tạm thời cư trú của những người
không định cư dẫn đến. Số người này không định cư lâu dài, vả lại cũng không
làm bất kỳ hoạt động nào để kiếm tiền” [23-12].
Quan niệm về du lịch ngắn gọn nhất phải kể đến Ausher và Nguyễn
Khắc Viện. Theo Ausher thì “Du lịch là nghệ thuật đi chơi của cá nhân”. Viện

12


sỹ Nguyễn Khắc Viện lại quan niệm rằng: “Du lịch là sự mở rộng không gian
văn hoá của con người” . Trong từ điển tiếng Việt du lịch được giải thích là:
“Đi chơi cho biết xứ người” [8-8].
Từ những quan niệm nêu trên, có thể thấy rằng du lịch là một khái niệm
bao hàm nội dung kép. Một mặt nó mang ý nghĩa thông thường là việc đi lại
của con người với mục đích thăm quan, nghỉ ngơi, giải trí... Mặt khác, du lịch
còn được nhìn nhận dưới một góc độ khác như là hoạt động gắn chặt với
những kết quả kinh tế (sản xuất, tiêu dùng) do chính nó tạo ra. Du lịch mang
bản chất kinh tế riêng biệt, thể hiện ở chỗ nó sản xuất và cung cấp hàng hoá
phục vụ việc thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của khách du lịch.
Và để đáp ứng nhu cầu đó đã từng bước hình thành một ngành nghề mới là
ngành du lịch, với một thị trường mới là thị trường du lịch. Cùng với sự phát
triển của các ngành kinh tế khác du lịch dần dần trở thành một ngành kinh tế
độc lập, chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của nhiều nước.
Với cách tiếp cận đó có thể rút ra đặc trưng của du lịch là:
- Dưới góc độ khách du lịch: Là sự di chuyển và lưu trú tạm thời trong
thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú thường xuyên để
thoả mãn nghỉ ngơi, giải trí nhằm tái tạo sức lao động.
- Dưới góc độ người kinh doanh du lịch: Du lịch được hiểu là việc sản
xuất, bán và trao đổi cho khách các dịch vụ và hàng hoá nhằm đảm bảo việc
đi lại, lưu trú, ăn uống, giải trí, thông tin... đem lại lợi ích kinh tế cho quốc gia
và các tổ chức kinh doanh đó.
Dưới góc độ lý luận của khoa học kinh tế chính trị có thể hiểu: Du lịch
là một phạm trù kinh tế, phản ánh mối quan hệ qua lại giữa người với người
trong việc sản xuất, cải tạo, phát triển việc cung ứng các sản phẩm tự nhiên và
xã hội nhằm thoả mãn những nhu cầu hưởng thụ về vật chất và tinh thần của
du khách trong lĩnh vực du lịch và hoạt động kinh doanh du lịch.

- Quan niệm về kinh tế du lịch biển

13


Khi đề cập đến hoạt động du lịch biển, một số tác giả Trung Quốc đưa
ra quan niệm: “Gọi du lịch biển là chỉ tổng hòa hiện tượng và quan hệ của các
hoạt động du ngoạn, vui chơi, nghỉ ngơi tiến hành ở biển, sinh ra lấy biển làm
chỗ dựa nhằm mục đích thỏa mãn yêu cầu về vật chất và tinh thần của mọi
người dưới điều kiện kinh tế - xã hội nhất định” [31, tr.173].
Đây là khái niệm kinh tế biển dưới góc độ kinh tế ngành. Một số nhà
nghiên cứu lại gộp du lịch biển vào lĩnh vực kinh tế biển. Họ quan niệm thủy
sản, dầu khí, vận tải biển và du lịch biển hợp thành kinh tế biển. Quan niệm
này thường thấy ở các quốc gia có thế mạnh về biển. Theo đó, có thể thấy
giữa kinh tế du lịch và kinh tế biển có sự giao thao với nhau, khoảng giao
thoa ấy chính là là kinh tế du lịch biển. Tuy nhiên, quan niệm này mới chỉ
phần nào phản ánh nội hàm của khái niệm kinh tế biển.
Đề có quan niệm đầy đủ về kinh tế du lịch biển, yêu cầu đặt ra là phải
phản ánh được cơ sở tồn tại và phát triển của ngành kinh tế này. Đối với
ngành kinh tế du lịch nói chung, kinh tế du lịch biển nói riêng, nhu cầu chỉ trở
thành cầu trong những điều kiện nhất định. Điều kiện đó là thu nhập của
người có nhu cầu phải đủ lớn, đáp ứng đươc những yêu cầu tối thiểu của một
cuộc viễn du xa nơi cư trú thường xuyên của họ, khi thu nhập càng cao thì
nhu cầu về du lịch càng lớn. Ngoài ra, để nhu cầu trở thành cầu còn phụ thuộc
nhiều yếu tố như điều kiện chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh ở
địa điểm du lịch.
Cơ sở để ngành kinh tế du lịch biển phát triển còn dựa vào việc khai
thác tài nguyên du lịch biển và khả năng cung cấp các sản phẩm du lịch biển.
Cung về du lịch biển phụ thuộc vào cầu và ý muốn chủ quan của người kinh
doanh. Cũng như cầu, cung về du lịch biển cũng phụ thuộc vào hàng loạt các

yêu tố khác như điều kiện kinh tế, chính trị ... khi những điều kiện này thuận
lợi sẽ tạo điều kiện cho cung về du lịch biển được mở rộng. Ngược lại sẽ là
cho nó có xu hướng bị thu hẹp.
14


Mặt khác, khi đề cập đến khái niệm du lịch biển cần chỉ ra được những
mối liên hệ kinh tế nảy sinh và vận hành trong lĩnh vực du lịch biển ở nội hàm
của khái niệm, bao gồm cả mối quan hệ giữa con người với tự nhiên (Lực
lượng sản xuất) và mối quan hệ giữa con người với con người (Quan hệ sản
xuất). Lực lượng sản xuất trong ngành kinh tế du lich biển biểu hiện ở khả
năng nhận thúc, đánh giá về tài nguyên du lịch biển cùng khả năng cải tạo,
khai thác những tài nguyên ấy phục vụ cho mục đích kinh tế. Kinh tế du lịch
biển là ngành kinh tế mang định hướng tài nguyên khá rõ rệt, không có tài
nguyên biển thì không thể có cơ sở để ngành kinh tế này tồn tại và phát triển.
Trong lưc lượng sản xuất, con người chính là lực lượng sản xuất hàng đầu, là
yếu tố cơ bản quan trọng nhất, còn tài nguyên du lịch biển là cơ sở sự tồn tại
và phát triển của nó. Con người với khả năng và trình độ của mình có thể cải
tạo tự nhiên, biến tiềm năng du lịch biển thành những sản phẩm du lịch để
thỏa mãn nhu cầu của mình.
Bên cạnh đó khi đề cập đến khái niệm kinh tế du lịch biển phải chỉ ra
được vị trí, vai trò, xu hướng vận động cùng những mối liên hệ của nó đối với
ngành kinh tế khác trong cơ cấu của một nền kinh tế. Đồng thời, trong điều
kiện kinh tế thị trường phải xác định được định hướng phát triển của nó một
cách cụ thể.
Từ cách tiếp cận trên, ta có thể hiểu khái niệm kinh tế du lịch biển một
cách khái quát như sau: Kinh tế du lịch biển là một phạm trù kinh tế chỉ mối
quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và
tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ du lịch biển, nhằm thỏa mãn nhu cầu của du
khách và người kinh doanh du lịch trên cơ sở khai thác tài nguyên thiên nhiên

và tài nguyên nhân văn gắn liền với biển, trong những điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định.

15


Cũng như kinh tế du lịch nói chung, kinh tế du lịch biển là ngành mang
tính dịch vụ, về cơ bản đây là ngành phi sản xuất vật chất, là một bộ phận cấu
thành của nền kinh tế ở những vùng có tài nguyên du lịch biển. Quá trình vận
hành của kinh tế du lịch biển phản ánh mối quan hệ giữa người với người
trong sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng các sản phẩm du lịch biển.
Trong kinh tế du lịch biển cũng tồn tại thị trường du lịch biển chịu sự
tác động của các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh.
Thị trường du lịch biển là nơi gặp gỡ giữa cung (người bán) và cầu
(người tiêu dùng) các sản phẩm du lịch biển. Đây là loại thị trường mang tính
thời vụ khá rõ rệt, thị trường này thường sôi động vào kỳ nghỉ hè, khi du
khách có thời gian và nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí. Tuy nhiên, ở một số trường
hợp đặc thù, du khách cũng có thể tìm đến những vùng biển lạnh lẽo hoặc vào
những thời điểm bất kỳ để du lịch theo mục đích cụ thể.
Thị trường du lịch biển chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố như: thu
nhập của du khách, môi trường kinh tế, chính trị, quốc phòng – an ninh. Sự
thay đổi của các yếu tố nói trên đều trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến sự
vận hành của nó theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Nếu các yếu tố
thuận lợi sẽ góp phần làm cho thị trường du lịch biển được mở rộng, ngược
lại sẽ làm cho nó bị thu hẹp.
Sự khác biệt của thị trường du lịch biển so với thị trường hàng hóa nói
chung thể hiện ở chỗ: nếu như ở thị trường hàng hóa thông thường, bao giờ
người bán cũng tìm đến chỗ người mua để bán hàng. Ở thị trường du lịch biển
thì ngược lại, người mua tìm đến nới có các sản phẩm du lịch để mua và tiêu

thụ. Người tiêu dùng biết đến các sản phẩm du lịch biển qua các thông tin mà
các nhà cung cấp đưa đến. Vì vậy, việc quảng bá, xúc tiến du lịch nhằm cung

16


cấp thông tin về sản phẩm cho khách hàng rất quan trọng. Đôi khi nó làm
định hướng nhu cầu nảy sinh của du khách.
Sản phẩm du lịch biển cũng giống như các sản phẩm dịch vụ nói chung,
đa số là sản phẩm phi vật thể. Người ta tiêu dùng và đánh giá mức độ tốt, xấu
của nó thông qua chất lượng phục vụ của người bán, qua mức độ thỏa mãn
các nhu cầu vui chơi, giải trí, tìm hiểu, bổ sung kiến thức của người mua.
- Quan niệm về phát triển kinh tế du lịch biển
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, phát triển là một quá trình
vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn. Vì vậy, có thể tiếp cận khái niệm phát triển kinh tế du lịch
biển trên cơ sở sự hoàn thiện không ngừng cả về lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Các mối liên hệ kinh tế nảy sinh và vận hanh trong kinh tế du lịch
biển thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất, bao gồm: quan hệ giữa
người với người trong sở hữu về tư liệu sản xuất để sản xuất và cung ứng các
dịch vụ du lịch biển; quan hệ giữa người với người trong quá trình tổ chức
điều hành, quản lý việc sản xuất, cung ứng các dịch vụ du lịch biển và quan
hệ trong tổ chức phân phối các sản phẩm, dịch vụ du lịch biển. Các quan hệ
trên diễn ra ở cả bốn khâu của quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu
dùng các sản phẩm, dịch vụ du lịch biển.
Như vậy, hiểu một cách khái quát, phát triển kinh tế du lịch biển là quá
trình vận động, hoàn thiện không ngừng cả về lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, thông qua việc khai thác có hiệu quả tài nguyên du lịch biển gắn với
bảo vệ môi trường, nâng cao số lượng và chất lượng các sản phẩm, dịch vụ;
không ngừng mở rộng thị trường, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của du

khách, trên cơ sở đó đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao và bền vững.
1.1.2.

Nội dung và tiêu chí phát triển kinh tế du lịch biển ở

quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng

17


Phát triển kinh tế du lịch biển ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng là
quá trình khai thác du lịch có chiến lược và kế hoạch cụ thể đòi hỏi phải được
tiến hành một cách toàn diện, bền vững cả về lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất ; sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành cùng mối liên hệ của
kinh tế du lịch biển với các ngành kinh tế khác ; khai thác có hiệu quả nguồn
tài nguyên du lịch. Từ đó, xây dựng du lịch thực sự trở thành ngành công
nghiệp không khói mang lại lợi ích to lớn cho quá trình phát triển kinh tế, góp
phần cải thiện đời sống và tạo công ăn việc làm cho nhân dân. Nội dung của
quá trình này bao gồm:
Một là, phát triển kinh tế du lịch biển ở Đồ Sơn bao gồm quá trình khai
thác tiềm năng, lợi thế về tài nguyên du lịch, thị trường du lịch, các nguồn lực
phát triển du lịch của địa phương. Tiềm năng du lịch là những thế mạnh chưa
được khai thác hoặc chưa được biết đến trong lĩnh vực du lịch. Lợi thế (bao
gồm lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh) của kinh tế du lịch biển Đồ Sơn có
thể hiểu là những giá trị du lịch mà quận Đồ Sơn sở hữu mang tính đặc thù,
có thể sử dụng được để “nắm bắt cơ hội” kinh doanh và cạnh tranh có lãi. Cụ
thể, kinh tế Đồ Sơn mang đậm chất biển do đó có nhiều lợi thế phát triển nghề
cá, nghề muối và dịch vụ du lịch. Hiện nay, Đồ Sơn xác định kinh doanh dịch
vụ du lịch cùng với ngành ngư nghiệp là một trong những mũi nhọn thực sự
tạo đà cho Đồ Sơn phát triển và làm thay đổi bộ mặt của địa phương này.

Hai là, phát triển kinh tế du lịch thể hiện ở quá trình tổ chức không
gian du lịch; kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch để hỗ trợ phát
triển kinh tế du lịch biển Đồ Sơn. Nói cách khác đây là quá trình thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện tăng cường cả về số lượng và chất
lượng các cơ sở kinh doanh và cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đáp ứng cho nhu
cầu phát triển kinh tế du lịch biển.
Phát triển cơ sở hạ tầng du lịch biển là một trong những nhân tố quan
trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Nó là yếu tố đảm bảo về điều
18


kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện. Phát triển cơ sở hạ
tầng du lịch biển bao gồm: phát triển hệ thống cơ sở lưu trú gần khu du lịch;
phát triển hệ thống nhà hàng; phát triển các trung tâm mua sắm, các khu bán
hàng lưu niệm, các khu vui chơi, giải trí gắn với biển, phát triển các công ty
kinh doanh du lịch.
Tiêu chí phản ánh phát triển về cơ sở hạ tầng du lịch biển: số lượng cơ
sở lưu trú, số cơ sở lưu trú đạt tiêu chuẩn xếp hạng cao; số nhà hàng, số nhà
hàng đạt tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế; số trung tâm mua sắm, các khu vui chơi
giải trí; số các cơ sở, doanh nghiệp tham gia kinh doanh du lịch; vốn đầu tư
phát triển du lịch biển.
Phát triển số lượng sản phẩm du lịch biển: Gia tăng số lượng các sản
phẩm riêng rẽ bằng cách tạo ra sản phẩm mới hoặc bổ sung hoàn thiện sản
phẩm hiện có; Liên kết nhiều dịch vụ thành sản phẩm trọn gói mới như: nghỉ
dưỡng – tắm biển – thể thao – mua sắm; nghỉ dưỡng – thể thao – hội thảo …;
Đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, bao gồm phát triển cả du lịch biển, du lịch
sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa và du lịch công vụ .. tạo nên sự hấp dẫn
với du khách.
Nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch biển: Chất lượng sản phẩm du
lịch được thể hiện qua những thuộc tính độc đáo, đặc thù, sự thân thiện, bầu

không khí trong lành, sự hoang sơ của thiên nhiên … mang lại sự hài lòng,
thích thú cho khách hàng khi hưởng thụ. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm
du lịch biển được thể hiện thông qua: nâng cao mức độ hài lòng, thỏa mãn của
du khách, gia tăng khả năng thu hút khách hàng. Nhóm chỉ tiêu phản ánh phát
triển sản phẩm du lịch biển thể hiện ở sự gia tăng số lượng các dịch vụ du lịch
biển và gia tăng mức độ hài lòng của khách du lịch biển
Ba là, phát triển kinh tế du lịch biển bao gồm quá trình thu hút và triển
khai các dự án ưu tiên đầu tư; phân bổ sử dụng đất cho du lịch, vốn đầu tư, và
phát triển nguồn nhân lực cho du lịch. Đây là một nội dung quan trọng trong
19


quá trình phát triển kinh tế du lịch biển ở Đồ Sơn. Bởi hiện nay, số dự án và
vốn đầu tư tại khu du lịch Đồ Sơn còn hạn chế, một số dự án khác đã hoạch
định và đi vào triển khai song khá dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp. Phát triển
nguồn nhân lực du lịch biển bao gồm cả phát triển về số lượng và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực du lịch biển. Nhóm chỉ tiêu đánh giá phát triển
nguồn nhân lực du lịch biển: gia tăng số lao động ngành du lịch biển; trình độ
nguồn nhân lực du lịch biển và chất lượng phục vụ ngày càng nâng cao.
Bốn là, phát triển kinh tế du lịch biển bao gồm cả nội dung về phát triển
bền vững tài nguyên du lịch và môi trường. Phát triển kinh tế du lịch biển
trước hết phải là sự phát triển bền vững. Phát triển kinh tế du lịch biển bền
vững ở quận Đồ Sơn, TP Hải Phòng được hiểu là hoạt động kinh tế nhằm đáp
ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng
các nhu cầu của thế hệ mai sau. Kinh tế du lịch biển là ngành kinh tế đặc thù,
sự phát triển của nó gắn liền với môi trường, có nghĩa là nó dựa vào nguồn tài
nguyên đặc biệt, đó là tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn gắn liền
với biển. Phát triển kinh tế du lịch biển nếu không tính đến việc khai thác hợp
lý, bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn thì bản thân kinh
tế du lịch biển không thể phát triển bền vững, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến sự

phát triển bền vững nói chung của xã hội.
Năm là, trong chiến lược phát triển kinh tế du lịch biển có quá trình đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng của các ngành
công nghiệp – xây dựng và dịch vụ, xác định du lịch là ngành kinh tế mũi
nhọn, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc
phòng, an ninh của quận và thành phố. Quá trình phát triển kinh tế du lịch
biển cần hướng đến tăng dần tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước,
kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Sự phát triển của kinh tế du lịch
biển còn biểu hiện ra ở sự phân công lao động diễn ra ngày càng sâu sắc, cả
theo chiều rộng và chiều sâu. Cơ sở vật chất kỹ thuật sử dụng vào việc khai
20


thác các tài nguyên du lịch biển ngày càng hiện đại, cơ cấu hợp lý, cho ra đời
những sản phẩm du lịch đa dạng với chất lượng, hiệu quả ngày càng cao.
Sáu là, sự phát triển của kinh tế du lịch biển ở quận Đồ Sơn còn được
xem xét ở khía cạnh về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Biểu hiện của sự phù hợp ở hiệu quả
kinh tế - xã hội thu được từ quá trình kinh doanh du lịch biển ngày càng cao,
môi trường được bảo vệ, người lao động tích cực trong quá trình lao động.
Ngoài ra, trong quá trình phát triển của kinh tế du lịch biển, mối liên hệ của
ngành này với các ngành kinh tế khác như giao thông vận tải, xây dựng cơ sở
hạ tầng, bưu chính viễn thông, thông tin liên lạc, ngân hàng… diễn ra ngày
càng sâu sắc. Tác động ảnh hưởng và vị trí vai trò của nó đối với đời sống
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh ngày càng lớn, kinh tế du lịch
biển trở thành một trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết phát triển kinh tế du
lịch biển ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng
1.2.1.


Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế du lịch

biển ở Quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng
1.2.1.1. Nhóm nhân tố tác động đến cầu du lịch
- Yếu tố tự nhiên
Yếu tố tự nhiên như đất, nước, khí hậu, địa hình, địa mạo, động thực
vật, tài nguyên biển, … tác động chủ yếu đến việc hình thành cầu du lịch và
lượng cầu du lịch. Các yếu tố tự nhiên ở cả 2 địa điểm, một là nơi thường trú
của khách và hai là tại điểm tham quan du lịch, đều tác động đến cầu du lịch,
nhưng cơ chế tác động khác nhau, thường là trái ngược nhau. Điều kiện tự
nhiên tại địa điểm du lịch càng thuận lợi càng khơi dậy và hình thành nhanh
cầu du lịch và quyết định đến lượng cầu. Những yếu tố tự nhiên thường được
coi là những hấp dẫn ban đầu của các điểm tham quan du lịch.

21


Xét về yếu tố tự nhiên, du lịch biển Đồ Sơn là thế mạnh của phát triển
kinh tế nơi đây. Là một bán đảo với ba mặt giáp biển Đông, thiên nhiên đã ưu
đãi cho Đồ Sơn những bãi biển đẹp, rộng và dài, phong cảnh sơn thủy hữu
tình có đầy đủ biển, đảo, núi rừng, tài nguyên sinh vật phong phú ….Khí hậu
Đồ Sơn khá ôn hòa, mang đặc điểm chung của miền biển vịnh Bắc Bộ nhưng
với vị trí là một bán đảo nên mùa đông thường ấm, mùa hè thường mát hơn.
Ngay từ thế kỷ XX,người Pháp đã phát hiện ra tiềm năng du lịch Đồ Sơn và
xây dựng nơi đây thành thị trấn, biến các bãi biển thành bãi tắm để Đồ Sơn
thành một trong những trung tâm du lịch tầm cỡ quốc tế, thu hút ngày càng
đông đảo du khách.
- Các yếu tố kinh tế
Đây là nhóm quyết định, tác động trực tiếp và nhiều chiều lên cầu du
lịch, cả về sự hình thành cầu du lịch đến khối lượng và cơ cấu của nó trên thị

trường du lịch. Trong nhóm yếu tố kinh tế thì thu nhập, giá cả và tỷ giá hối
đoái đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Thu nhập của dân cư: Để có cầu trong du lịch thì thu nhập của dân cư
phải đạt đến mức độ nhất định vượt mức cân đối đáp ứng các nhu cầu thiết
yếu, hoặc phải có nguồn thu nhập bổ sung đủ để bù đắp cho những chi phí của
chuyến đi du lịch.
Giá cả hàng hóa: Trên thị trường chung, giá cả hàng hóa biến động sẽ
gây nên sự biến động của cầu du lịch. Giá cả hàng hóa giảm xuống, sức mua
sẽ tăng lên, việc lưu thông hàng hóa thuận lợi sẽ tác động trực tiếp đến người
tiêu dùng. Thu nhập của họ ngoài việc được sử dụng đáp ứng các nhu cầu
thiết yếu sẽ còn một khoản dôi ra có thể dành để tích lũy hoặc đi du lịch. Theo
đó nhu cầu du lịch sẽ hình thành nhanh chóng và lượng cầu du lịch tăng lên.
Tỷ giá trao đổi ngoại tệ: Yếu tố này tác động chủ yếu đến sự hình thành
cầu, đến khối lượng và cơ cấu của cầu du lịch quốc tế. Trong điều kiện giữ
nguyên giá cả của hàng hóa du lịch, tỷ giá hối đoái tác độn trực tiếp đến cầu
22


trong du lịch quốc tế. Khách du lich sẽ quyết định đến những nơi mà tỷ giá
hối đoái cao nhất giữa đồng tiên của nơi mà ho mang quốc tịch, làm việc và
nhận thu thập với nước nhận khách.
Yếu tố chính trị mang tính quyết định đến việc hình thành cầu trong du
lịch. Điều kiện ổn định chính trị, hòa bình sẽ làm tăng khối lượng khách du
lịch giữa các nước. Đường lối đối ngoại, chính sách phát triển kinh tế - xã hội
của một Đảng cầm quyển, của nhà nước, trong đó có chính sách phát triển du
lịch tác động trực tiếp đến sự hình thành cầu, cơ cấu, số lượng cầu du lịch.
Yếu tố cách mạng khoa học công nghệ và quá trình đô thị hóa: Cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ và quá trình đô thị hóa tác động sâu
sắc đến toàn bộ các hoạt động kinh tế và xã hội trong đó có du lịch. Một mặt
nó tạo điều kiện cần thiết để hình thành các nhu cầu du lịch và chuyển hóa

nhu cầu du lịch thành cầu du lịch.
- Yếu tố văn hóa
Yếu tố văn hóa – xã hội tác động đến việc hình thành cầu du lịch lẫn
khối lượng và cơ cấu của nó. Nhóm yếu tố này bao gồm những thành tố cơ
bản như: tâm trạng, sinh lý con người, độ tuổi và giới tính của khách, thời
gian nhàn rỗi, trình độ văn hóa, thị hiếu và các kỳ vọng của mỗi cá nhân và
từng nhóm người trong xã hội.
Tâm trạng, sinh lý con người: Đây là yếu tố đặc thù tác động lên cầu du
lịch. Tâm lý thư giãn, sảng khoái, sức khỏe tốt thường nảy sinh nhu cầu du
lịch và tạo điều kiện để thúc đẩy cầu du lịch thành thực hiện cầu du lịch.
Độ tuổi và giới tính của khách: Yếu tố này tác động đến cầu du lịch rất
nhiều. Tuổi trẻ thường hay đi du lịch và ưu mạo hiểm nhưng giới hạn bởi tài
chính, tuổi già có tài chính song sức khỏe nhiều khi không cho phép, nam giới
thường đi du lịch nhiều hơn nữ …
Thời gian rỗi: là phần thời gian ngoài giờ làm việc, học tập, con người
thường sử dụng để phục hồi và phát triển sức lực, trí tuệ và tinh thần.
23


Dân cư: Dân cư là lực lượng tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã
hội. Sự tập trung dân cư vào các đô thị, sự gia tăng dân số, tăng mật độ dân
số, tuổi thọ, nghề nghiệp … liên quan trực tiếp đến nhu cầu du lịch và cầu du
lịch. Các yếu tố khác như số dân, thành phần dân tộc, mật độ … tác động trực
tiếp đến việc hình thành cầu du lịch, tần suất hình thành cầu và khối lượng
cầu du lịch.
Bản sắc văn hóa và tài nguyên nhân văn khác: Trong xu thế toàn cầu
hóa, khu vực hóa như hiện nay, quốc gia nào giữ được bản sắc văn hóa dân
tộc sẽ có sức hấp dẫn du lịch lâu dài. Bản sắc văn hóa và tài nguyên nhân văn
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bổ sung cầu lịch ở ngoài mùa
du lịch bởi hầu hết các bộ phận của yếu tố này không mang tính thời vụ.

Trình độ văn hóa: Khi trình độ văn hóa được nâng cao thì động cơ du
lịch tăng lên, những người có trình độ văn hóa thấp thường ít có nhu cầu du
lịch. Yếu tố này tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm du lịch và thông
qua nó tác động đến việc hình thành cầu, khối lượng và cơ cấu du lịch.
Nghề nghiệp: Là những hoạt động phục vụ cho mục đích kiếm sống,
dưới nhiều hình thức, được lặp đi lặp lại trong một khoảng thời gian dài hoặc
cả cuộc đời con người. Tùy theo đặc thù của mỗi nghề, con người sẽ phải
dịch chuyển, phải đi du lịch nhiều hay ít.
Thị hiếu và các kỳ vọng: Các thị hiếu và kỳ vọng tác động trực tiếp đến
việc hình thành cầu du lịch, đến cơ cấu và lượng cầu du lịch.
-

Yếu tố giao thông vận tải:

Yếu tố giao thông vận tải là tiền đề cho sự phát triển du lịch, không có
giao thông, con người sẽ không đến được nơi du lịch. Nhóm yếu tố tác động
gồm: mạng lưới giao thông, phương tiện giao thông vận tải, việc điều hành
giao thông.
Mạng lưới giao thông: Cả đường bộ, đường thuỷ và đường không dẫn
khách du lịch từ nơi cư trú thường xuyên của họ đến được nơi du lịch. Mạng

24


lưới giao thông hoàn thiện chất lượng cao, an toàn về kỹ thuật thúc đẩy việc
hình thành và phát triển cầu du lịch làm cho quy mô cầu về du lịch tăng lên.
Phương tiện giao thông vận tải: Thúc đẩy việc hình thành các chủng
loại cầu du lịch, tần suất hình thành cầu du lịch và số lượng, cơ cấu của nó.
Việc điều hành giao thông: Đảm bảo an toàn và sự thông thoáng trong
vận chuyển khách du lịch và hành lý của họ góp phần đáp ứng việc vận

chuyển khách tốt hơn và tạo cơ sở đáp ứng cầu du lịch khác.
- Mạng lưới thông tin liên lạc và internet
Giúp trao đổi thông tin, tìm kiếm dễ dàng các điểm du lịch mà mình
thích từ đó lên kế hoạch cho chuyến đi giúp chuyến đi được thuận lợi. Mặt
khác nhờ có mạng lưới thông tin và internet sẽ giúp liên kết trong các doanh
nghiệp du lịch với nhau, trao đổi kinh nghiệm và cùng nhau phát triển.
- Các yếu tố khác:
Những hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch: thường là những tác nhân
hình thành cầu du lịch, hiệu ứng xúc tiến quảng bá, quảng cáo giúp thôi thúc
con người đi du lịch lần đầu và tái hình thành nhu cầu du lịch với sản phẩm
du lịch cụ thể.
Mức độ ô nhiễm môi trường: là nhân tố ảnh hưởng đến hình thành cầu
trong du lịch. Sự ồn ào, ô nhiễm môi trường, nguồn nước nhiễm bẩn… làm
cho nhiều người từ bỏ các nhu cầu cần thiết khác để đi du lịch đến những nơi
yên tĩnh, có môi trường trong sạch hơn.
Các yếu tố bất thường : như thiên tai, xung đột chính trị, chiến tranh,
dịch bệnh … làm giảm hoặc triệt tiêu nhu cầu du lịch. Vấn đề mấu chốt là làm
thế nào biết được tác động của các yếu tố bất thường và ngăn chặn được tác
động của nó trong khi rủi ro, khủng hoảng xảy ra.
1.2.1.2. Nhóm nhân tố tác động đến cung du lịch
Cung du lịch được hình thành bởi cung của các doanh nghiệp và bộ tư
nhân tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm và hàng hóa đem bán trên thị
25


trường du lịch, là tổng mức cung của toàn bộ người bán trên thị trường. Các
nhóm yếu tố tác động gồm: sự phát triển của LLSX, QHSX và các thành tựu
khoa học kỹ thuật và công nghệ, cầu du lịch, các yếu tố đầu vào, số lượng
người sản xuất, các kỳ vọng, mức độ tập trung hóa của cung, chính sách thuế,
chính sách du lịch của từng quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương và các sự

kiện bất thường.
- Sự phát triển của LLSX, QHSX và các thành tựu khoa học kỹ thuật và
công nghệ
Đây là yếu tố cơ bản tác động đến việc hình thành cung du lịch biển,
đến lượng cung và cơ cấu của nó. Một mặt, sự phát triển của LLSX, QHSX
tạo ra nhu cầu và cầu du lịch. Mặt khác, do LLSX và QHSX phát triển sẽ tạo
ra các điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, sự phát triển giao thông, thông tin
liên lạc, ngoại giao và thương mại, phát triển khả năng giao lưu kinh tế, văn
hóa xã hội sẽ thúc đẩy du lịch phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch nhờ
thế được đầu tư ngày càng hoàn thiện, các yếu tố khác tạo cung du lịch như
tài nguyên, dịch vụ, hàng hóa vật chất cũng được quan tâm phát triển.
Các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ là yếu tố trực tiếp tác
động đến cung du lịch. Các yếu tố này góp phần tạo ra các dịch vụ du lịch và
hàng hóa vật chất phục vụ du lịch có giá trị sử dụng với chất lượng cao, ngày
càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu du lịch.
- Cầu du lịch
Khối lượng tiền để thỏa mãn cầu du lịch có tác dụng quyết định dịch
vụ, hàng hóa vật chất bán trên thị trường du lịch. Tình trạng của cầu du lịch
tác động đồng thời đến số lượng hàng hóa vật chất và dịch vụ du lịch bán ra
trên thực tế, quá trình chuyên môn hóa của cung du lịch và đặc điểm của các
hoạt động trung gian. Số lượng cầu, cơ cấu và chất lượng của cầu du lịch tác
động trực tiếp đến cung du lịch. Sự thay đổi cơ cấu, số lượng và chất lượng
cầu làm cho nhiều loại hình du lịch mới hình thành và phát triển.
26


×