Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ VAI TRÒ của THUẾ TRONG PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội ở QUẬN hà ĐÔNG, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.94 KB, 96 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ VAI TRÒ CỦA
THUẾ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở
QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1.
Cơ sở lý luận về thuế
1.2.
Quan niệm, nội dung vai trò của thuế trong phát triển kinh tế - xã
hội ở Quận Hà đông
Chương 2 THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA THUẾ TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở QUẬN HÀ
ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.
Đặc điểm về địa lý, điều kiện tự nhiên của Hà Đông và tình
hình hoạt động của ngành thuế trên địa bàn quận Hà Đông,
TP Hà Nội
2.2.
Đánh giá thực trạng vai trò của thuế trong phát triển kinh tế
- xã hội ở Quận Hà Đông thành phố Hà Nội
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ
THUẾ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA
QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1.
Quan điểm cơ bản phát huy vai trò thuế trong phát triển
kinh tế -xã hội của Quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
3.2.
Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò thuế trong
phát triển kinh tế - xã hội của Quận Hà Đông, Thành phố
Hà Nội trong thời gian tới
KẾT LUẬN


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

3

12
12
17

31

31
38

59
59

63
85
87
90


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Ban Chấp hành Trung ương
Chính trị quốc gia
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đảng Cộng sản Việt Nam

Giáo dục - đào tạo
Khoa học - công nghệ
Kinh tế - xã hội
Ngân hàng thế giới
Nhà xuất bản
Quỹ Tiền tệ quốc tế
Thuế giá trị gia tăng
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

Chữ viết tắt
BCHTW
CTQG
CNXH
CNH, HĐH
ĐCSVN
GD - ĐT
KH - CN
KT - XH
WB
Nxb
IMF
VAT
OECD

Châu Âu
Tổ chức Thương mại thế giới
Tổng sản phẩm quốc nội
Trang
Xã hội chủ nghĩa
Ủy ban nhân dân


WTO
GDP
Tr
XHCN
UBND


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, thuế đóng một
vai trò hết sức to lớn, là nguồn thu ngân sách chính, đồng thời là công cụ điều
tiết vĩ mô quan trọng của Nhà nước. Trong những năm gần đây số thu về thuế
trong phạm vi cả nước chiếm khoảng từ 80% đến 90% tổng thu ngân sách. Nó
đã góp phần quan trọng trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện
bình đẳng, công bằng xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động, ổn
định chính trị xã hội, quốc phòng an ninh được bảo đảm. Vì vậy, trong những
năm qua Đảng và Nhà nước đã giành nhiều sự quan tâm đến công tác đổi mới
hệ thống thuế nhằm phát huy vai trò to lớn của thuế đối với phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
Phát huy vai trò của thuế cho phát triển kinh tế xã hội là vấn đề cần
thiết và cấp bách đối với sự' nghiệp xây dựng đất nước trong bối cảnh toàn
cầu hoá và hội nhập quốc tế đang diễn ra sâu rộng, mạnh mẽ và Việt Nam đã
trở thành thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế. Vì vậy,
việc sử dụng thuế làm công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế
không thể tiếp tục thực hiện theo những nội dung mang tính truyền thống
trước đây mà cần có những sửa đổi bổ sung và phát huy tác động to lớn của
thuế tới mọi mặt của đời sống xã hội cho phù hợp và bảo đảm cho quá trình
hội nhập kinh tế đạt hiệu quả cao.
Trong những năm vừa qua, mặc dù nền kinh tế đất nước gặp nhiều khó

khăn do tác động của suy thoái kinh tế thế giới. Tuy nhiên, với những lợi thế
riêng có của mình, Quận Hà Đông vẫn giữ được sự ổn định và phát triển về
mọi mặt. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thành công đó là Quận
Hà Đông đã phát huy tốt vai trò của thuế trong phát triển kinh tế xã hội trên
địa bàn Quận. Song, bên cạnh những thành công thì việc phát huy vai trò của
thuế cho phát kinh tế xã hội của Quận trong những năm qua vẫn tồn tại một
3


số hạn chế, yếu kém như: hiện tượng khai man, trốn thuế, lậu thuế vẫn sảy ra;
tình trạng nộp thuế chưa phản ánh đúng quy mô hoạt động sản xuất kinh
doanh đã tạo ra sự bất bình đẳng và cạnh tranh không lành mạnh giữa các
doanh nghiệp, các thành phần kinh tế. Do đó, chưa phát huy hết vai trò của
thuế để kích thích phát triển kinh tế xã hội, phát triển sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế trên địa bàn Quận.
Vì vậy, việc tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
vai trò của thuế đối với phát triển kinh tế xã hội nói chung và nghiên cứu trên
địa bàn Quận Hà Đông nói riêng để có những quan điểm và giải pháp thích
hợp nhằm phát huy vai trò của thuế đối với phát triển kinh tế xã hội trên địa
bàn Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội hiện nay là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết
cả về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề "Vai trò của thuế
trong phát triển kinh tế - xã hội ở Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội" làm đề
tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề thuế và vai trò của thuế trong phát triển kinh tế xã hội ở nước
ta nói chung là vấn đề rất quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển kinh tế
xã hội của đất nước. Những năm gần đây đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu về lĩnh vực này trên các góc độ khác nhau, trong đó đáng chú ý một số
công trình tiêu biểu sau:
Luận án Tiến sĩ kinh tế “Nâng cao vai trò của thuế - công cụ phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hóa ở Việt nam”, tác giả: Nguyễn Kim Quyến [35]. Luận
án đã đề cập khá toàn diện vai trò của thuế đối với quá trình công nghiệp hóa
ở Việt Nam: Thuế là công cụ huy động nguồn tài chính cho ngân sách Nhà
nước để thực hiện quá trình công nghiệp hóa; là công cụ thu hút vốn đầu tư
trong và ngoài nước theo hướng chiến lược công nghiệp hóa; là công cụ điều
tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường theo chiến lược công nghiệp hóa. Đồng thời
luận án đã phân tích khái quát một số thành tựu và tồn tại chủ yếu của hệ
4


thống thuế hiện hành trong quá trình phục vụ công nghiệp hóa ở Việt Nam.
Đề xuất một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn nữa vai
trò của thuế phục vụ công nghiệp hóa ở nước ta.
Luận văn Thạc sĩ kinh tế “Thanh tra, kiểm tra thuế trong điều kiện thực
hiện cơ chế sản xuất, kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế ở Việt nam”, tác giả:
Thành Xuân Lý [18] . Luận văn đã đánh giá được khái quát thực trạng kiểm
tra, thanh tra thuế trên các mặt: bộ máy, kết quả thu, quy trình nghiệp vụ, cơ
sở dữ liệu… và chỉ ra tồn tại chủ yếu ở khâu lực lượng kiểm tra, thanh tra
thuế, công tác lập kế hoạch, chất lượng cuộc kiểm tra, thanh tra thấp và những
nguyên nhân từ cơ chế chính sách và đối tượng nộp thuế.
Luận văn thạc sĩ kinh tế “Hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong
quản lý Nhà Nước đối với doanh ngiệp công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt
nam”, tác giả: Phạm Thái Hà [11]. Luận văn đã luận giải làm rõ cơ sở lý luận
và thực tiễn về sử dụng công cụ thuế trong quản lý Nhà Nước đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Đề xuất quan điểm, giải pháp về cải tiến phương
pháp tính áp thuế xuất; hoàn thiện cơ chế chính sách, xây dựng đồng bộ hệ
thống thuế; từng bước đổi mới và cải tiến hệ thống kiểm toán, kế toán; phân
cấp quản lý thuế một cách phù hợp; chú trọng khâu bồi dưỡng đào tạo đội ngũ
cán bộ và thực hiện tốt chế độ đãi ngộ đối với cán bộ ngành thuế nhằm nâng
cao hiệu quả công cụ thuế trong quản lý Nhà Nước đối với doanh nghiệp công

nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ kinh tế “ Hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế
theo chương trình cải cách hiện đại hóa ngành thuế Việt nam đến năm 2010”,
tác giả: Phạm Thúy Hồng [16]. Tác giả đã đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy
của kiểm tra, thanh tra thuế theo hai giai đoạn từ 1999-2004 và từ 2004-2006
qua các mặt: trình độ của cán bộ thanh tra của ngành thuế, việc lập kế hoạch
kiểm tra, thanh tra thuế qua các năm.
5


Luận văn thạc sĩ kinh tế “ Thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao tính tuân
thủ của người nộp thuế trong điều kiện Việt nam hiện nay”, tác giả: Nguyễn
Chí Dũng [9]. Đã phân tích kiểm tra, thanh tra thuế dưới giác độ tuân thủ của
người nộp thuế, nêu được một số vai trò của kiểm tra, thanh tra thuế đối với việc
nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế. Tác giả đã đề cập các giải pháp điều
kiện để nâng cao tính tuân thủ như xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả
kiểm tra, thanh tra thuế như tỷ lệ người nộp thuế tiến hành thanh tra, kiểm tra
trong vòng một năm. Tỷ lệ phần trăm (%) độ chính xác tại khâu phân tích hồ sơ
so với kết quả thanh tra.
Luận văn thạc sĩ kinh tế “ Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra đối
tượng nộp thuế ở Việt nam hiện nay”, tác giả: Lê Thị Phương Thảo [43] . Đã
đánh giá thực trạng kiểm tra, thanh tra thuế qua ba nội dung: kiểm tra đăng ký
thuế; chấp hành chế độ kế toán sổ sách chứng từ, hóa đơn; kê khai, tính thuế
và nộp thuế. Qua đó, luận văn đã phân tích những ưu điểm và hạn chế của
khâu lập kế hoạch kiểm tra, thanh tra thuế các năm từ 2005-2008. Phần giải
pháp đổi mới kiểm tra, thanh tra thuế luận văn tập trung vào một số giải pháp
như: phân cấp quản lý doanh nghiệp, xây dựng tiêu chí, đánh giá, lựa chọn
xếp loại doanh nghiệp để có chiến lược kiểm tra, thanh tra thuế cụ thể cho
từng loại hình doanh nghiệp.
Luận văn thạc sĩ kinh tế “Hoàn thiện quản lý thu thuế đối với các doanh

nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế huyện Quảng Trạch, Quảng Bình”, tác giả:
Phạm Hồng Thắng [44] . Luận văn đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực
tiễn về quản lý thuế trong cơ chế thị trường đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ làm cơ sở phân tích đánh giá thực trạng quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại chi cục thuế huyện Quảng Trạch, Quảng Bình và đã đề
xuất một số giải pháp khả thi nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối
doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn huyện Quảng Trạch như: Tăng cường
công tác quản lý các doanh nghiệp đăng ký thuế, kê khai thuế; Quản lý chặt
6


chẽ doanh thu, thuế giá trị gia tăng và hóa đơn chứng từ; Thực hiện tốt công
tác kê khai, quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp và công tác quản lý nộp
thuế, quản lý nợ thuế; Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, xử lý vi phạm
và tuyên truyền giáo dục việc thực hiện nghĩa vụ thuế cho đối tượng người
nộp thuế.
Luận văn thạc sĩ kinh tế “ Hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp ở nước ta hiện nay”, tác giả: Vũ Thị Mai [21]. Tác giả đã luận giải làm
rõ các đặc điểm, yêu cầu, nội dung quản lý thu thuế và các cơ chế quản lý,
phương thức kê khai nộp thuế đối với các doanh nghiệp. Đồng thời tác giả đã
tổng quan được kinh nghiệm quản lý thu thuế doanh nghiệp của một số nước
trên thế giới và rút ra bài học tham khảo đối với Việt nam. Đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta
như: Tiếp tục hoàn thiện về pháp luật thuế tạo điều kiện để cải cách hiện đại
hóa quản lý thu thuế theo hướng tiên tiến hiện đại; Tổng kết và mở rộng cơ
chế tự khai, tự nộp thuế của người nộp thuế; Từng bước thực hiện áp dụng
đăng ký thuế, ke khai thuế qua mạng internet; Cải cách hiện đại hóa hệ thống
quản lý thuế hiện hành đối với doanh nghiệp.
Luận văn thạc sĩ kinh tế “ Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi - thực trạng và giải pháp”, tác giả: Nguyễn Hoàng

Nguyên [22 ]. Luận văn đã phân tích làm rõ vai trò của thuế trong nền kinh tế
ở nước ta: Thuế là công cụ chủ yếu huy động tập trung nguồn lực cho Nhà
nước; Là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế; Góp phần điều hòa thu nhập
thực hiện công bằng xã hội trong phân phối. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu
để tăng cường quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi như: Đối với các cơ sở thực hiện thu thuế giá trị gia
tăng thực hiện theo phương thức trực tiếp; Đối với các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và kinh doanh cá thể nộp thuế theo phương thức khấu trừ; Phát

7


huy tác dụng quản lý thu thuế theo quy trình tự tính, tự khai, tự nộp thuế;
Hoàn thiện chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn trong quản lý thu thuế;
Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương trong quản
lý thu thuế; Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chính sách thuế; Sử dụng các
biện pháp đặc thù đối với công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh.
Bên cạnh những công trình được phân tích ở trên, trong quá trình triển
khai đề tài luận văn tác giả đã nghiên cứu, kế thừa từ một số tài liệu như: Học
viện Tài chính (2005), Giáo trình Lý thuyết Tài chính; Học viện Tài chính
(2009), Giáo trình Thuế; Học viện Tài chính (2009), Giáo trình Nghiệp vụ
thuế; Học viện Tài chính (2010), Giáo trình Lý thuyết thuế; Học viện Tài
chính (2000), Giáo trình Thanh tra tài chính; Trường Cán bộ Thanh tra
(2008), Kiểm tra tài chính trong các doanh nghiệp; Quang Anh, Hà Đăng
(2002), Những điều cần biết về thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp; Đàm Thị
Thu Hương (2005), Đổi mới công tác thanh tra- kiểm tra tại cơ quan thuế địa
phương, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội ; Nguyễn Thị
Nhung (2006), Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc
sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội; Nguyễn Thị Thanh Minh (2007), Đổi

mới thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp trên địa bàn tỉnh Tiền
Giang, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội; Nguyễn Lan
Anh (2009), Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nhằm nâng cao hiệu lực quản lý thuế, Luận văn Thạc
sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội ; Phan Bùi Kim Thoa (2011), Tăng
cường công tác kiểm tra, thanh tra trong quản lý thuế ở Cục Thuế Nghệ An,
Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội; Đặng Đình Long
(2012), Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra ở
Cục Thuế Nam Định, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội ;
8


Phạm Đức Long (2012), Hoàn thiện công tác kiểm tra, thanh tra thuế tại Cục
Thuế Thái Bình, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội ; Phan
Thị Minh Hiền (2012), Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế
của Cục Thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận
văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội; PGS.TS Lê Văn Ái (2000),
Những vấn đề lý luận cơ bản về thuế trong nền kinh tế. (Viện nghiên cứu tài
chính), NXB Tài chính, Hà Nội; Ths Nguyễn Thị Lệ Thuý (2009) “5 yếu tố
tác động đến sự tuân thủ pháp luật Thuế của Doanh nghiệp”, Tạp chí Thuế
nhà nước, Các tài liệu này đặt nền móng cho những lý thuyết về thuế và vai
trò về thuế nói chung mà vấn đề nghiên cứu của tác giả đã đặt ra.
Phạm vi vai trò của thuế trong phát triển kinh tế xã hội là một vấn đề
rộng lớn, đã được nhiều nhà quản lý, nhà nghiên cứu đề cập ở các khía cạnh
khác nhau. Có công trình nghiên cứu phân tích dưới góc độ tổng hợp, có công
trình nghiên cứu cụ thể về vai trò của thuế. Các tác giả đều đã nêu bật những
yếu tố khách quan và chủ quan tác động đến vai trò của thuế trong phát triển
kinh tế xã hội, làm rõ những yêu cầu mới về vai trò của thuế đối với phát triển
kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm phát
huy vai trò của thuế trong phát triển kinh tế xã hội nói chung. Tuy nhiên chưa

có công trình nào nghiên cứu vấn đề "Vai trò của thuế trong phát triển kinh tế
- xã hội ở Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội" dưới góc độ khoa học kinh tế
chính trị như một công trình nghiên cứu chuyên ngành. Chính vì vậy, vấn đề
này đang thực sự là một “khoảng trống” để tôi tập trung nghiên cứu làm sáng
tỏ trong luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận và thực trạng vai trò của thuế
trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận Hà Đông. Trên cơ sở đó đề
9


xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai
trò của thuế trong phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn quận Hà Đông, Thành
phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của thuế trong phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn quận Hà Đông.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân và những vấn đề
đặt ra cần giải quyết từ thực trạng phát huy vai trò của thuế trong phát triển
kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông thời gian qua.
- Đề xuất những quan điểm cơ bản và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
vai trò của thuế trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận Hà Đông trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của thuế trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận Hà Đông
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung : Nghiên cứu về vai trò của thuế trên địa bàn quận Hà Đông.
- Về thời gian : Số liệu khảo sát thực tế từ năm 2009 đến nay.
- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn quận Hà Đông

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tương Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
Thuế và vai trò của thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, luận văn sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác - Lênin (trừu

10


tượng hoá khoa học) và các phương pháp khác như: Kết hợp lôgíc và lịch sử, phân tích
và tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của
thuế trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển kinh tế - xã hội ở Quận Hà
Đông nói riêng.
- Cung cấp những luận cứ khoa học cho Đảng bộ, chính quyền Quận Hà Đông
tham khảo trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, trực tiếp là vai
trò của thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ VAI TRÒ CỦA THUẾ
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở QUẬN HÀ ĐÔNG,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Cơ sở lý luận về thuế
1.1.1. Khái niệm
Thuế ra đời và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của Nhà nước, vì
Nhà nước và do Nhà nước. Dưới bất kỳ một hình thái kinh tế - xã hội nào khi
còn Nhà nước là còn thuế. Thuế là một công cụ quan trọng mà bất kỳ Nhà
nước nào cũng sử dụng để hoàn thành chức năng của mình. Bàn về mối liên hệ
giữa thuế và nhà nước, Mác viết "Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước,
là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để
dùng vào việc chi tiêu của nhà nước”[20].
Ănghen cũng viết "Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần phải có sự
đóng góp của công dân đó là thuế má"
Tuy nhiên, cho đến nay có nhiều cách nhìn nhận khác nhau và người ta
vẫn chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm thuế cũng như nhìn chung
chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của phạm trù thuế.
Ở góc độ nghiên cứu về Pháp luật thì thuế được quan niệm là khoản
đóng góp theo quy định của Pháp luật mà Nhà nước bắt buộc các tổ chức và
cá nhân phải nộp vào Ngân sách Nhà nước.
Ở góc độ nghiên cứu về Kinh tế Chính trị học thì khái niệm về thuế là
hình thức phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để hình
thành lên các quỹ tiền tệ tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức
năng của Nhà nước.
Ở góc độ người thu thuế thì thường hiểu thuế là khoản đóng góp bắt buộc
theo nghĩa vụ do Pháp luật quy định. Thuế là khoản thu không phải hoàn trả
ngang giá và trực tiếp.
12


Ở góc độ người nộp thuế thì hiểu thuế là khoản bắt buộc phải nộp cho
Nhà nước theo quy định. Còn trên góc độ phân phối thu nhập, TS. Nguyễn Thị

Bất và TS. Vũ Duy Hào đưa ra khái niệm về thuế như sau: "Thuế là hình thức
phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm
hình thành lên qũy tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước (qũy ngân sách
nhà nước) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng của
nhà nước"[1].
Các quan niệm trên có thể đúng nhưng được nghiên cứu ở những góc độ
khác nhau. Cách hiểu như vậy chưa đầy đủ và chính xác. Vì vậy, từ những
nghiên cứu trên chúng ta có thể quan niệm về thuế như sau:
Thuế là một khoản thu của Nhà Nước đối với các tổ chức và mọi thành
viên trong xã hội. Khoản thu này mang tính bắt buộc, không hoàn trả trực tiếp
do Pháp luật của Nhà nước quy định, nhằm sử dụng cho mục đích chung của
toàn xã hội.
Từ quan niệm về thuế ở trên, cho thấy rằng để phản ánh đầy đủ nội dung
và bản chất của thuế cần phải đạt được các nội dung sau :
Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà
nước với các Pháp nhân và các thể nhân, không mang tính hoàn trả trực tiếp.
Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách
quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt
buộc theo mệnh lệnh của Nhà nước.
Các Pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã
được pháp luật quy định.
1.1.2. Đặc điểm của thuế
-Thuế luôn luôn gắn liền với quyền lực của Nhà nước :
Thuế là nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến
pháp.Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ bất kỳ một sắc thuế nào cũng
chỉ do một cơ quan quyền lực duy nhất của Nhà nước có thẩm quyền đó là Quốc
13


hội. Mặt khác, tính quyền lực Nhà nước cũng thể hiện ở chỗ Nhà nước không

thể hiện thu thuế một cách tùy tiện mà phải dựa trên những cơ sở pháp luật nhất
định đã được xác định trong các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành.
-Tính bắt buộc phải nộp thuế :
Nhà nước sử dụng quyền lực của mình buộc các thành phần kinh tế có
sản xuất kinh doanh đều phải đóng góp một phần thu nhập của mình dưới
hình thức nộp thuế cho Ngân sách Nhà nước. Do vậy, Nhà nước đã ban hành
các sắc thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, các khoản phí, lệ phí
để buộc người sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng dịch vụ, người có thu nhập
cao phải nộp thuế.
-Tính không hoàn trả trực tiếp :
Tính không hoàn trả trực tiếp thể hiện trên các khía cạnh : người nộp
thuế vào Ngân sách Nhà nước không có quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung
cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình. Người nộp thuế sẽ được
nhận một phần dịch vụ công cộng mà Nhà nước cung cấp chung cho cả cộng
đồng, giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết phải trùng với khoản thuế mà họ
phải nộp cho Nhà nước.
-Tính cố định của thuế :
Nhà nước ban hành các sắc thuế, luật thuế để làm căn cứ, bắt buộc các
thành phần kinh tế trong xã hội phải đóng góp nghĩa vụ thuế. Luật thuế ban
hành một mức thu cố định cho các hàng hóa dịch vụ. Do đó, các mức cố định
này mà Nhà nước có thể tính trước được nguồn thu của mình. Người nộp thuế
cũng có thể tính toán được sẽ phải nộp bao nhiêu trong thu nhập của mình cho
Nhà nước. Thuế còn có một ưu điểm lớn với Nhà nước là thu một cách
thường xuyên, chỉ cần có hoạt động sản xuất kinh doanh là phải nộp thuế cho
Nhà nước. Do đó, Nhà nước có nguồn tài chính để chi trả thường xuyên ổn
định cho các nhu cầu của mình.
14


1.1.3. Bản chất của thuế

Thuế gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước và nền kinh
tế hàng hóa. Nhà nước là người đại diện quyền lực cao nhất cho một giai cấp
nhất định. Do đó, thuế có bản chất kinh tế - chính trị - xã hội sâu sắc.
- Bản chất kinh tế của thuế :
Bản chất kinh tế của thuế thể hiện trước hết là một phần thu nhập của xã
hội được tập trung để phục vụ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Kinh tế là cơ sở
của thuế. Không có sản xuất, phát triển sản xuất và sản xuất không có hiệu
quả thì nguồn thu từ thuế của Nhà nước không thể tăng nhiều và nhanh được.
Vì thế, qua thu thuế phải tác động tới sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển, thúc đẩy thực hành tiết kiệm mọi mặt trong sản xuất và
tiêu dùng một cách hợp lý để tạo nguồn thu ngày càng lớn cho Ngân sách.
Mức động viên về thuế không hợp lý, chỉ nhằm đáp ứng đơn thuần nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước mà bỏ qua đảm bảo tăng trưởng về kinh tế thì thường là gặp
thất bại, dễ dẫn đến hậu quả xấu nhiều mặt cả về kinh tế - chính trị. Ngược lại,
mức động viên hợp lý sẽ có tác dụng tăng thu cho Ngân Sách và kích thích sản
xuất phát triển.
-Về bản chất giai cấp của thuế :
Bản chất giai cấp của Nhà nước quyết định bản chất của thuế. Cùng một
hiện tượng Ngân sách thu thuế của dân, nhưng với các Nhà nước khác nhau thì
bản chất của thuế khác nhau. Điều đó được thể hiện bên trong những nội dung
chủ yếu của thuế là : Thuế thu vào ai? Thu như thế nào? Và thu để làm gì? Có
thể nói mục đích của thuế - Thu để làm gì đã thể hiện rõ ràng nhất mục đích
của thuế. Trong xã hội người bóc lột người, nhân dân lao động đóng thuế cho
Nhà nước để nuôi bộ máy áp bức, bóc lột lại chính mình. Còn dưới chế độ xã
hội chủ nghĩa, nhân dân đóng thuế để chi tiêu cho những công việc nhằm phục
vụ trở lại nhân dân lao động. Đó là điều khác nhau cơ bản về bản chất giai cấp,
bản chất chính trị của thuế.
15



-Thuế còn thể hiện tính xã hội rộng rãi :
Trước hết, vì thuế thu vào toàn dân, thuế có liên quan đến mọi tổ chức,
cá nhân trong xã hội. Thuế điều chỉnh các quan hệ phân phối, phân phối lại
thu nhập xã hội giữa các tổ chức kinh tế, giữa các tầng lớp dân cư.
1.1.3. Phân loại thuế
Phân loại thuế là việc sắp xếp các sắc thuế trong hệ thống thuế thành
những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Có các tiêu thức phân
loại thuế như sau :
Dựa vào phương thức đánh thuế
Các hình thức thuế đều đánh vào thu nhập của người nộp thuế. Người ta
chia hệ thống thuế thành hai loại :
- Thuế giá trị gia tăng : là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá,
dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp : là một loại thuế trực thu đánh vào lợi
nhuận của các doanh nghiệp.
Dựa vào cơ sở đánh thuế
Cơ sở đánh thuế chỉ rõ thuế đánh trên cái gì. Căn cứ vào cơ sở đánh thuế
có thể chia thuế làm ba loại :
- Thuế thu nhập : Bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập
kiếm được. Thu nhập kiếm được từ nhiều nguồn; từ lao động dưới dạng tiền
lương, tiền công ; thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh dưới dạng lợi
nhuận, lợi tức cổ phần…do đó thuế thu nhập cũng có nhiều dạng: Thuế thu
nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty, thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài …
- Thuế tiêu dùng : Là các loại thuế có cơ sở đánh thuế là phần thu nhập của tổ
chức, cá nhân được mang ra tiêu dùng trong hiện tại. Trong thực tế loại thuế tiêu
dùng được thể hiện dưới nhiều dạng như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt…
- Thuế tài sản : Là các loại thuế có cơ sở đánh thuế là giá trị tài sản. Tài sản có
nhiều hình thức biểu hiện :

16



Tài sản tài chính gồm tiền mặt, tiền gửi, chứng khoán, thương phiếu…
Tài sản cố định gồm nhà cửa, đất đai, máy móc, nhà xưởng…
Tài sản vô hình như quyền sử dụng đất, lợi thế thương mại, bằng phát
minh Sáng chế…
1.2. Quan niệm, nội dung vai trò của thuế trong phát triển kinh tế xã hội ở Quận Hà đông
1.2.1. Quan niệm vai trò của thuế trong phát triển kinh tế - xã hội của Quận
Hà Đông
Vai trò là thuật ngữ dùng để nói về vị trí chức năng, nhiệm vụ của sự vật,
hiện tượng trong một hoàn cảnh, mối quan hệ nào đó. Vì vậy, để nghiên cứu
quan niệm vai trò của thuế trong phát triển kinh tế - xã hội của Quận Hà Đông
cần phải tiếp cận từ chức năng của thuế.
Thuế có những chức năng cơ bản sau:
-Chức năng huy động nguồn lực tài chính :
Đây là chức năng cơ bản của thuế, đặc trưng cho thuế ở tất cả các dạng
Nhà nước trong tiến trình phát triển của xã hội. Về mặt lịch sử, chức năng huy
động nguồn lực tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân sự ra đời
của thuế.
Thông qua chức năng huy động nguồn lực tài chính của thuế mà các quỹ
tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho
sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước. Chính chức năng này đã tạo những tiền
đề để Nhà nước tiến hành tham gia phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân (do đó chức năng này còn được gọi là chức năng
phân phối của thuế).
Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nước đòi hỏi phải tăng cường
chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn lực của thuế
ngày càng được nâng cao. Thông qua thuế một phần đáng kể tổng sản phẩm quốc nội
được tập trung vào Ngân sách Nhà nước. Thuế trở thành nguồn thu có tỷ trọng lớn
17



nhất trong tổng thu Ngân sách Nhà nước của tất cả các nước có nền kinh tế thị
trường. Hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới, sau khi thực hiện cải cách hệ thống
thuế, số thu từ thuế và phí thường chiếm tới 90% tổng số thu Ngân sách Nhà nước.
Chức năng huy động nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề khách
quan cho sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế. Trong quá trình
thực hiện chức năng này, thuế đã tự động làm xuất hiện chức năng điều
tiết vĩ mô nền kinh tế.
-Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế
Thuế thực hiện chức năng điều chỉnh thông qua việc quy định các
hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và
nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả
năng của người nộp thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước hướng dẫn các hoạt
động kinh tế đi vào quỹ đạo chung của nền kinh tế quốc dân phù hợp với
lợi ích của xã hội. Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò
kích thích kinh tế thông qua thuế ngày càng được nâng cao. Với cải cách
thuế, sự can thiệp của Nhà nước không còn mang tính mệnh lệnh bắt
buộc, các cơ sở sản xuất kinh doanh lựa chọn hình thức sản xuất cho phù
hợp với nền kinh tế và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh phát triển tăng thu
nhập cho bản thân mình và tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.
Từ nghiên cứu chức năng của thuế cho thấy vai trò của thuế là
nguồn thu chủ yếu của ngân sách, là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà
nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội, góp phần bảo đảm sự
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội.
Từ vai trò của thuế nói chung, có thể quan niệm: Vai trò của thuế
trong phát triển kinh tế xã hội của Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội
là việc thực hiện chức năng của thuế trên địa bàn Quận, là nguồn thu
chủ yếu của ngân sách, là công cụ điều tiết đối với phát triển kinh tế xã hội, góp phần bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
và công bằng xã hội trên địa bàn Quận.

18


1.2.2. Nội dung thể hiện vai trò của thuế trong phát triển kinh tế - xã hội
*Thuế là công cụ huy động nguồn tài chính cho ngân sách để thực hiện phát
triển kinh tế - xã hội
Đây là vai trò quan trọng nhất của thuế trong phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia. Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân, ngân
sách Nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào
nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước có thể thu ngân sách từ
nhiều nguồn khác nhau nhưng không có nguồn thu nào ổn định và bền vững
bằng thuế. Vì mang tính không hoàn trả trực tiếp nên nhà nước có thể yên tâm
dùng thuế làm công cụ chủ yếu để thu ngân sách, phục vụ các chi tiêu của
quốc gia mà không phải lo lắng về nghĩa vụ bồi hoàn hay trả nợ. Hàng năm,
thuế luôn đóng góp khoảng trên 90% vào tổng thu ngân sách nhà nước.
Bất kỳ một quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển đều phải tạo cho
mình một nguồn tài chính vững chắc và lành mạnh, mà trong đó nguồn tài
chính chủ yếu được động viên từ thuế và phí của các quốc gia. Ở nước ta từ
khi có các Luật thuế ra đời nguồn thu từ thuế ngày càng tăng lên, ngày càng
chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu ngân sách, năm 2009 đạt 93,5%; năm
2010 đạt 93,7%; năm 2011 đạt 94% [6]. Vai trò của thuế thực sự được nâng
lên và thể hiện rõ trong quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước, thuế được
áp dụng thống nhất đối với các thành phần kinh tế, không phân biệt kinh tế
nhà nước với các thành phần kinh tế khác, nó bao quát và điều tiết các hoạt
động kinh doanh, mọi nguồn thu nhập, mọi tài nguyên thiên nhiên và mọi
hoạt động tiêu dùng trong xã hội. Với việc đóng góp một tỷ trọng cao và ngày
càng tăng lên trong tổng thu ngân sách nhà nước, thuế đang ngày càng chứng


19


tỏ vai trò chủ đạo của mình trong việc huy động tài chính công phục vụ cho
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hầu hết mọi cá nhân, tổ chức sống, hoạt động và thực hiện các giao
dịch trong phạm vi quy định đều phải nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Các
cá nhân, tổ chức khi thực hiện bất kỳ giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ
hay tài sản nào cũng đều phải nộp thuế trên giá trị hàng hóa đó. Loại thuế
không thể tránh được là thuế giá trị gia tăng, ngoài ra còn có thể có thuế xuất
nhập khẩu hay thuế tiêu thụ đặc biệt. Khi thực hiện các giao dịch khác liên
quan đến tài sản của mình, tổ chức và cá nhân cũng phải nộp thuế vào ngân
sách nhà nước. Cá nhân có thu nhập cao phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Mọi
doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh có lãi đều phải nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp. Như vậy, hầu như không ai sống trong xã hội mà không
phải nộp thuế cho nhà nước. Từ những người nội trợ, người làm việc văn
phòng, doanh nhân cho đến các tổ chức hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận
hay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kiếm lời đều phải thường xuyên
đóng thuế vào ngân sách Nhà nước.
Đối tượng đánh thuế trong mỗi nền kinh tế rất rộng lớn và gần như bao
quát toàn bộ nền kinh tế - xã hội của quốc gia đó như:
Thuế đánh vào tiêu dùng: là loại thuế phổ biến và có tính thường
xuyên, ổn định nhất. Không có tổ chức, cá nhân nào có thể tồn tại trong nền
xã hội mà không tiêu dùng. Vì vậy, đánh thuế vào tiêu dùng là một chính sách
giúp ổn định nguồn thu và tạo tính công bằng xã hội. Mọi hàng hóa, dịch vụ
lưu thông trên thị trường đều phải chịu thuế, trong đó, thuế phổ biến nhất là
thuế giá trị gia tăng. Tiêu dùng ở đây không chỉ nói đến tiêu dùng cho đời
sống và sinh hoạt hàng ngày của người dân mà còn nói đến nhu cầu mua sắm
nói chung, kể cả mua sắm nguyên vật liệu, trang thiết bị, cơ sở vật chất của

các tổ chức, doanh nghiệp trong cả nước. Vì vậy, thuế đánh vào tiêu dùng đã
tạo nên nguồn thu ổn định nhất cho ngân sách.

20


Thuế đánh vào tài sản: mọi hoạt động, giao dịch liên quan đến tài sản
của tổ chức, cá nhân đều phải chịu thuế của Nhà nước. Ở Việt Nam hiện nay,
tài sản bị đánh thuế có rất nhiều chủng loại và giá trị thường cao, thêm vào
đó, các hoạt động, giao dịch liên quan đến tài sản là rất đa dạng như đăng ký
tài sản, thừa kế, biếu, tặng, chuyển nhượng tài sản (nhà, đất, vốn, trái
phiếu...), khai thác tài nguyên quốc gia... nên nó tạo nên một nguồn thu tương
đối lớn cho ngân sách Nhà nước. Đặc biệt, trong những tài sản này, thuế thu
được từ bất động sản chiếm một tỷ trọng rất lớn. Hàng năm, lượng bất động
sản được giao dịch với số lượng rất lớn như mua, bán, tặng, thừa kế… thêm
vào đó, đây lại là hàng hóa có giá trị cao nên thuế thu được từ tài sản này
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu ngân sách Nhà nước.
Thuế đánh vào thu nhập: hai loại thuế thu nhập mang tính thường
xuyên và ổn định nhất là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá
nhân. Hầu hết các doanh nghiệp tham gia sản xuất, kinh doanh có lãi đều phải
trích nộp 25% lợi nhuận của mình vào ngân sách nhà nước. Luật thuế thu
nhập cá nhân năm 2014 quy định cá nhân có thu nhập trên 5 triệu đồng phải
đóng thuế thu nhập cá nhân.
Từ những phân tích trên cho thấy thuế là công cụ huy động nguồn tài
chính, là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước để thực hiện phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
*Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước dùng để quản lý điều tiết vĩ mô
nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hóa, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một chính sách thuế đặt ra không chỉ đơn

thuần tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, mà quan trọng hơn là thực hiện
chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua pháp lệnh về thuế,
Nhà nước chủ động tác động đến cung - cầu của nền kinh tế góp phần phân bổ
lại nguồn lực nhằm thực hiện tốt chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
21


Thuế có tác động định hướng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thông qua tác động trực tiếp tới cung- cầu thị trường. Chính sách thuế phải
thiết thực, góp phần chuyển được cơ cấu kinh tế cũ, lạc hậu sang cơ cấu kinh
tế mới hiện đại, hợp lý và thay đổi được tỷ lệ tương quan giữa các ngành
trong GDP, đúng chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc một phần rất lớn vào mối quan hệ cung cầu của
thị trường. Có nhu cầu tất yếu đòi hỏi phát triển sản xuất, dịch vụ để đủ cung
ứng cho nhu cầu và ngược lại.
Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là làm tăng tổng cung gắn
với kích cầu để quá trình chuyển dịch cơ cấu đạt hiệu quả tốt. Tổng cầu tăng
hay giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố liên quan, chủ yếu là thu nhập của các
tầng lớp dân cư, giá cả từng loại sản phẩm, cơ cấu hàng hoá trên thị trường…
Ảnh hưởng của chính sách thuế thông qua các mức thuế, các chế độ miễn
giảm, các chế độ quản lý thu thuế khác nhau có vai trò quan trọng đến việc
tạo nên tổng cầu theo hai hướng: khuyến khích phát triển hay hạn chế. Thuế
cũng có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới cung của thị trường. Đó là việc
đánh thuế cao hay thấp vào các yếu tố sản xuất, tiêu dùng, thu nhập.
Đối với sản xuất:
Nhà nước sử dụng thuế nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến
khích hoặc hạn chế các ngành sản xuất mong muốn. Thực tế, đối với các
ngành sản xuất yếu kém trong nước, khả năng cạnh tranh với các sản phẩm
nhập khẩu kém cả về giá cả và chất lượng, nếu muốn duy trì và phát huy các
ngành này, buộc nhà nước phải có chính sách bảo hộ nhất định để hạn chế

được tính cạnh tranh gay gắt từ các mặt hàng nhập khẩu cùng loại, và hỗ trợ
các doanh nghiệp trong nước tăng sản xuất.
Nhà nước có thể điều tiết, hướng dẫn tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong
nước, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế thay thế
nguyên liệu nhập khẩu bằng nguyên liệu sản xuất sẵn có trong nước theo mức
22


độ tỷ lệ nội địa hoá, góp phần tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong
nước, đặc biệt trong tiến trình hội nhập hiện nay, làm cho hàng hoá trong nước
có sức cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa cũng như thị trường quốc tế.
Thông qua thuế nhập khẩu, chính sách thuế sẽ tác động đến giá cả hàng
hóa trên thị trường, là công cụ hữu hiệu để hướng dẫn sản xuất, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế từ lĩnh vực đầu tư kém hiệu quả sang lĩnh vực đầu tư có hiệu
quả hơn. Đối với những hàng hoá là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật liệu…
phục vụ sản xuất, việc đánh thuế với thuế suất thấp có tác dụng làm giảm chi
phí “đầu vào” của sản xuất, giúp doanh nghiệp sản xuất trong nước có điều
kiện đổi mới công nghệ, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Khi
đánh thuế hàng nhập cao, giá hàng nhập đắt sẽ khuyến khích tiêu dùng hàng
sản xuất trong nước. Với điều kiện đó, hàng sản xuất trong nước có thế cạnh
tranh hơn, giá thành hạ so với hàng nhập khẩu.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực thì vai
trò bảo hộ của thuế nhập khẩu sẽ bị hạn chế do thực hiện các cam kết khu vực
và quốc tế. Hơn nữa nếu các quốc gia quá dựa vào vai trò bảo hộ từ thuế nhập
khẩu, không những làm cho chính sách thuế nhập khẩu ảnh hưởng không lợi
đến chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước trong bối cảnh mới, mà còn
làm cho nền sản xuất trong nước trì trệ, kém phát triển, nhân dân thường
xuyên phải dùng hàng hoá với giá đắt và mẫu mã không được đổi mới theo xu
thế phát triển của khu vực và thế giới.
Chính sách thuế phân biệt theo thuế suất cao, thấp khác nhau đối với

từng ngành nghề sản xuất kinh doanh, đối với từng sản phẩm, dịch vụ, tuỳ
thuộc vào sự cần thiết của sản xuất và đời sống xã hội, tự nó đã có tác dụng
điều chỉnh việc phân bổ lại nguồn vốn đầu tư trong xã hội. Việc áp dụng các
hình thức ưu đãi (thuế suất, thời gian miễn giảm thuế…) đối với hàng hoá,
dịch vụ phù hợp với hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế thường sẽ làm cho giá
cả hàng hoá dịch vụ đó giảm xuống. Khi giá cả hàng hoá, dịch vụ giảm thì
23


lượng cầu sẽ tăng lên. Để đáp ứng cho sự gia tăng về cầu hàng hoá, các doanh
nghiệp sẽ mở rộng quy mô sản xuất nhằm thu lợi nhuận nhiều hơn. Ngược
lại, khi áp dụng thuế suất cao, giá tăng sẽ có giảm sút về cầu, thu hẹp quy mô
sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ tìm lĩnh vực đầu tư mới để chuyển
dịch cơ cấu kinh tế với mục đích sản xuất mặt hàng khác có thể tạo lợi nhuận
nhiều hơn. Với chính sách ưu đãi qua thuế suất, thời gian miễn giảm của thuế
thu nhập doanh nghiệp, Nhà nước có thể khuyến khích đầu tư trong nước
cũng như đầu tư nước ngoài vào những ngành, những lĩnh vực và những vùng
cần khuyến khích đầu tư. Áp dụng mức thuế suất thấp và miễn giảm hấp dẫn
đối với các dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư
như các cơ sở sản xuất mới thành lập; đầu tư ở miền núi, hải đảo, các vùng có
nhiều khó khăn...
Đối với tiêu dùng
Để hạn chế hay khuyến khích tiêu dùng, Nhà nước xây dựng một biểu
thuế phù hợp, tác động trực tiếp đến tâm lý tiêu dùng của người dân. Khi thuế
tăng cao, đồng nghĩa với việc thu nhập giảm, người dân buộc phải có những
điều chỉnh trong chi tiêu thích hợp để hài hòa ngân sách của chính mình và
ngược lại. Thuế là công cụ điều chỉnh giá cả thị trường và kiềm chế lạm phát.
Trong điều kiện kinh tế thế giới có nhiều biến động, khủng hoảng, suy
thoái… và kinh tế trong nước vẫn đang trong giai đoạn phát triền, thị trường
luôn có những biến động khó lường. Để kiểm soát được những biến động này,

Nhà nước phải sử dụng kết hợp rất nhiều biện pháp và chính sách đồng thời.
Trong đó, có sự tham gia của chính sách thuế. Hiện nay, nền kinh tế nước ta
đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, cùng với sự kích thích sản
xuất phát triển, cơ chế thị trường cũng là môi trường làm nảy sinh những
khuyết tật vốn có của nó. Vì vậy, để phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước phải sử dụng các công
cụ kinh tế, trong đó đặc biệt là công cụ thuế nhằm tạo lập các cân đối vĩ mô,
24


điều tiết thị trường, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội.
Như vậy, sự điều tiết của Nhà nước thông qua thuế gồm hai mặt:
khuyến khích và hạn chế. Điều đó được thể hiện ra trong việc xây dựng cơ
cấu các loại thuế và mối quan hệ giữa chúng cũng như việc xác định thuế
suất, chế độ miễn - giảm thuế phù hợp với điều kiện thực tế. Khuyến khích
đối với những ngành nghề, hoạt động sản xuất kinh doanh cần thiết cho nền
kinh tế quốc dân hoặc những ngành nghề những hoạt động sản xuất kinh
doanh phục vụ cho đại đa số quần chúng nhân dân thì áp dụng thuế suất thấp.
Hạn chế, thu hẹp những ngành nghề không có lợi cho sự phát triển của nền
kinh tế, cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân hoặc những ngành nghề ảnh
hưởng đến thuần phong mỹ tục, đến sức khỏe của nhân dân thì áp dụng thuế
suất cao. Trong nền kinh tế thị trường, các thành phần kinh tế tự do lựa chọn
ngành nghề sản xuất, kinh doanh, với mục tiêu đầu tư vào những ngành nghề
nào mang lại lợi nhuận cao nhất mà không tính đến hậu quả để lại sau quá
trình sản xuất kinh doanh. Nhà nước dùng công cụ thuế để điều chỉnh và
hướng các hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào con đường phát triển có hiệu
quả mang lại nhiều lợi ích cho quốc kế dân sinh.
Trong điều kiện nay, hệ thống thuế của Nhà nước Việt Nam thể hiện
rất rõ quan điểm khuyến khích các ngành nghề sản xuất hơn là các hoạt động

thương mại, dịch vụ. Sản xuất các mặt hàng thiết yếu được khuyến khích hơn
sản xuất các mặt hàng và dịch vụ khác. Để khuyến khích các ngành nghề sản
xuất hàng xuất khẩu, sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu cần thiết khi
trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng chưa đáp ứng đủ nhu
cầu, hay đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng không
thuận lợi cho sức khỏe, sinh hoạt của người dân,... Nhà nước thường áp dụng
thuế ưu đãi để thúc đẩy kinh tế phát triển một cách có hiệu quả, đồng bộ theo
hướng có lợi cho quốc kế dân sinh. Nhà nước ta đang sử dụng tổng hợp hệ
25


×