Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục QUẢN lý HOẠT ĐỘNG dạy học ở các TRƯỜNG PHỔ THÔNG dân tộc nội TRÚ, TỈNH sóc TRĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.13 KB, 105 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, trong bối cảnh giáo dục phải được đổi mới mẽ, phải không
ngừng nâng cao chất lượng đào tạo ở các cấp học, bậc học. Trong đó, có các
trường phổ thông dân tộc nội trú. Việc nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ
phụ thuộc vào chương trình giảng dạy, sách giáo khoa, các điều kiện vật chất của
nhà trường mà còn phụ thuộc lớn vào hoạt động giảng dạy của đội ngũ giáo viên
của nhà trường. Dạy học là hoạt động trung tâm của nhà trường, đội ngũ giáo
viên là lực lượng quyết định chất lượng dạy học. Nhiệm vụ của giáo viên là giáo
dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý, chương trình giáo dục để giúp học sinh
phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, vận dụng kiến thức đã học vào thực
tiễn cuộc sống và hình thành những tình cảm đạo đức tốt đẹp.
Quản lý giáo dục là khâu then chốt đảm bảo sự thắng lợi của mọi hoạt
động giáo dục. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định “Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại
hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo
dục, phát triển đội ngũ giáo viên và CBQL giáo dục là khâu then chốt” [7].
Nói đến hoạt động quản lý của nhà trường thì quản lý hoạt động dạy
học là vô cùng quan trọng và hàng đầu trong công tác quản lý. Quản lý
HĐDH tác động trực tiếp đến chất lượng của giáo viên và học tập của học
sinh. Chính vì vậy, CBQL phải là hạt nhân chủ yếu trong việc ứng dụng các
khoa học quản lý để vận dụng linh hoạt, năng động các biện pháp quản lý
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra.
Trong thời gian qua, các trường PTDTNT ở tỉnh Sóc Trăng đã tích cực
đổi mới HĐDH, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng dần lên. Tổ chức
HĐDH đã bám sát chuẩn kiến thức và kỹ năng theo chương trình giáo dục
phổ thông cấp THCS, THPT của Bộ GD&ĐT. Ngoài việc dạy học văn hóa
còn tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà trường chuyên biệt: Tổ chức nội


trú, nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe học sinh, tổ chức các hoạt động văn hóa,


văn nghệ, thể dục thể thao, giáo dục kỹ năng sống, hướng nghiệp dạy nghề,...
nhằm mục tiêu phát triển toàn diện học sinh dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, HĐDH ở các trường phổ thông thông dân tộc nội trú vẫn
còn những hạn chế nhất định dẫn đến chất lượng giáo dục ở các trường vẫn
còn thấp so với yêu cầu. Một trong các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế
trên là quản lý HĐDH của các trường vẫn còn nhiều hạn chế, bất cấp, trách
nhiệm của một số CBQL và giáo viên trong tổ chức HĐDH chưa cao; việc
chỉ đạo thực hiện chương trình, kế hoạch và đổi mới nội dung, PPDH chưa
đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục và phù hợp với đặc điểm hoạt động
của trường PTDTNT; trong quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên có
những mặt chưa chặt chẽ, từ khâu chuẩn bị bài giảng đến tổ chức dạy học
trên lớp, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. Việc tổ chức bồi
dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ giáo viên chưa được
thực hiện một cách có hiệu quả; quản lý hoạt động học tập của học sinh chưa
toàn diện; chất lượng giữa các trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh chưa được
đồng đều. Tỷ lệ học sinh có học lực khá, giỏi còn ít, năng lực một bộ phận
đội ngũ nhà giáo, CBQL ở một số trường chưa đáp ứng nhu cầu nâng cao
chất lượng giáo dục của các trường PTDTNT. Những biện pháp mà đội ngũ
CBQL các trường PTDTNT của Tỉnh đang áp dụng hầu hết là do kinh
nghiệm của bản thân, chưa phát huy hết sức mạnh nội lực của nhà trường để
đưa nhà trường phát triển phù hợp với thực tế của từng đơn vị trường.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Quản lý hoạt động dạy
học ở các trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Sóc Trăng” để nghiên cứu
nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập góp phần quản lý chặt chẽ hoạt động
dạy học ở các trường PTDTNT tỉnh Sóc Trăng ngày càng đi vào chiều sâu và
có chất lượng cao.


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Những nghiên cứu ở ngoài nước

Quản lý HĐDH trong nhà trường đã được nhiều tác giả ở các quốc gia
khác nhau thế giới quan tâm nghiên cứu. Nhà quản lý giáo dục Chikondi
Mpokosa (2008), đã có công trình nghiên cứu về quản lý HĐDH của giáo viên
trong các trường phổ thông. Nghiên cứu này đã thu hút được sự quan tâm rất
lớn của cộng đồng giáo dục, nó có ảnh hưởng lớn đến chương trình giáo dục
của UNESCO. Tác giả đã khẳng định vai trò quan trọng của quản lý HĐDH
đối với việc nâng cao chất lượng dạy học.
Ở phương Tây, đáng chú ý có Xôcrat (469 - 339 trước CN). Trong dạy
học, ông đã sáng tạo phương pháp đàm thoại gợi mở, ông chỉ nêu câu hỏi, yêu
cầu học trò trả lời, qua đó mà lĩnh hội tri thức [12].
Ở phương Đông, Khổng Tử (551 - 479 trước CN) - một triết gia, nhà
giáo dục lừng danh của Trung Quốc cho rằng trong dạy học, giữa người dạy
và người học có sự tương tác lẫn nhau, giúp nhau cùng trưởng thành (giáo học
tương trưởng); người dạy và người học cùng hoạt động tích cực mới có hiệu
quả. Người dạy thì phải biết: Dụ (ví von, so sánh) - Trợ (giúp đỡ) - Đạo (dẫn
dắt) - Khải (gợi ý) - Phát (khích thích); còn người học thì phải: Lập chí (đặt
chí) - Bác học (học rộng) - Thâm vấn (hỏi sâu) - Thận tư (suy nghĩ) - Minh
biện (phân biệt) - Thời tập (tập ngay) - Đốc hành (ứng dụng). Ông còn nói:
“Kẻ nào không bực tức về sự dốt nát, ta không bảo cho mà biết; không hậm
hực vì không nói ra được, ta không bày cho cách nói; bảo một góc, không suy
ra ba góc kia, ta không bảo lại”[ 12].
Một nghiên cứu khác được thực hiện vào năm 2011, tại Hoa Kỳ, thảo
luận về vai trò của hiệu trưởng trong các trường học. Vai trò quản lý dạy học
trong định hướng nâng cao chất lượng dạy học đã thu hút được sự chú ý của
cộng đồng ở tiểu bang này. Nhóm nghiên cứu gồm 30 nhà giáo dục cao cấp
của Hoa Kỳ đưa ra các giải pháp về quản lý các HĐDH và đề ra các phương


hướng quản lý HĐDH trong tương lai. Nghiên cứu đã đề xuất chuẩn nghề
nghiệp dạy học (National teachinh standards). Ngoài ra, trong các nghiên cứu

về quản lý HĐDH trong các trường phổ thông, việc nắm vững chương trình
dạy học là một tiền đề để đảm bảo hiệu quả quản lý hoạt động dạy và học.
Về xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, các nhà nghiên cứu đều
cho rằng trong những nhiệm vụ của hiệu trưởng thì nhiệm vụ hết sức quan
trọng là xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Hiệu trưởng phải biết lựa
chọn đội ngũ giáo viên bằng nhiều nguồn khác nhau và bồi dưỡng họ trở
thành những giáo viên tốt theo tiêu chuẩn nhất định bằng những biện pháp
khác nhau.
Đối với việc dự giờ và phân tích sư phạm bài dạy của giáo viên, tác giả
V.A.Xukhomlinxki đã thừa nhận tầm quan trọng của biện pháp này và chỉ rõ
thực trạng yếu kém của việc phân tích sư phạm bài dạy, cho dù hoạt động dự
giờ và góp ý với GV sau khi hiệu trưởng dự giờ diễn ra thường xuyên. Từ
thực trạng đó, tác giả đã đưa ra nhiều cách phân tích sư phạm bài dạy của GV.
* Những nghiên cứu ở trong nước
Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, đã có nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục Việt Nam nghiên cứu về quản
lý nhà trường. Thủ tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu: “Ngành GD&ĐT phải vũ
trang cho mình phương pháp giảng dạy, phát huy vai trò chủ động của người
học, giải đáp tốt bốn câu hỏi: dạy ai, dạy cái gì, dạy như thế nào, dạy để làm
gì?”[13]. Vào những 1995-1996, trong ngành giáo dục đã xuất hiện mệnh đề
“Phương pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm” và đã có nhiều công
trình nghiên cứu về PPDH tích cực như: “Phương pháp giáo dục lấy người
học làm trung tâm”, “Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học” của tác
giả Nguyễn Kỳ; “Học và dạy cách học” của các tác giả Nguyễn Cảnh Toàn
(chủ biên), Nguyễn Kỳ, Lê Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo; “Những vấn đề cơ bản
giáo dục học hiện đại” của tác giả Thái Duy Tuyên, “Bản chất của việc dạy
học lấy học sinh làm trung tâm” của tác giả Trần Bá Hoành.


Hiện nay, trong xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế, giáo dục Việt Nam

đã và đang đẩy nhanh tiến độ đổi mới để rút ngắn khoảng cách về trình độ
phát triển giáo dục so với các nước trong khu vực và thế giới. Yêu cầu của
việc đổi mới nội dung, PPDH trở thành vấn đề cần thiết và khách quan, các
nhà khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này. Tiêu biểu
là các tác giả có nhiều đóng góp về lý luận và thực tiễn như: Phạm Minh Hạc,
Bùi Minh Hiền, Đặng Quốc Bảo, Vũ Ngọc Hải, Trần Kiểm, Nguyễn Ngọc
Quang, Hà Sỹ Hồ,...
Trong các nhà trường phổ thông, HĐDH là hoạt động trọng tâm. Chính
vì vậy, đã có rất nhiều CBQL nghiên cứu các biện pháp quản lý nhà trường,
trong đó có quản lý HĐDH, như các luận văn thạc sỹ của tác giả Phạm Văn
Khảo với đề tài “Thực trạng và giải pháp quản lý HĐDH ở các trường THPT
huyện Cần Đước, tỉnh Long An” (2008); tác giả Phan Ngọc Huỳnh với đề tài
“Thực trạng quản lý HĐDH ở các trường THPT thành phố Vũng Tàu, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu”; tác giả Nguyễn Ánh với đề tài “Biện pháp quản lý của
hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện
Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk” (2011).
Các tác giả luận văn này đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, thực
tiễn và đề ra các biện pháp quản lý HĐDH ở địa phương mình. Từ các nghiên
cứu của các tác giả nêu trên cho thấy sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
giáo dục về quá trình quản lý HĐDH trong giai đoạn hiện nay của đất nước ta
là hết sức quan trọng.
Về quản lý HĐDH ở các trường PTDTNT trong thời gian qua đã được
nhiều nhà lãnh đạo, CBQL giáo dục rất quan tâm nghiên cứu, đã có một số
công trình nghiên cứu về vấn đề này như: Luận án tiến sĩ của Nguyễn Hữu
Châu “Những giải pháp tăng cường hiệu quả HĐDH của hiệu trưởng trường
THPT”; Luận văn Thạc sĩ của Trần Vũ Minh Hằng “Quản lý HĐDH ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc”,… Vì,


HĐDH là một hoạt động trung tâm chi phối các hoạt động giáo dục khác

trong nhà trường, là con đường thuận lợi giúp học sinh lĩnh hội được tri thức
một cách có hệ thống; giúp học sinh phát triển tư duy, hình thành những năng
lực cơ bản về nhận thức và hành động, hình thành thế giới quan khoa học,
lòng yêu nước, yêu dân tộc, yêu chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, HĐDH là yếu tố
quyết định đến chất lượng giáo dục của từng học sinh, của từng trường học.
Nếu người thầy dạy học tốt, có kinh nghiêm, có năng khiếu truyền đạt kiến
thức tốt cho học sinh thì học sinh sẽ dàng tiếp thu và lĩnh hội những tri thức
mà thầy cô truyền đạt, còn ngược lại sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
của học sinh, của nhà trường. Do đó, đòi hỏi người CBQL phải biết cách quản
lý HĐDH của thầy giáo, cô giáo một cách đúng đắn, phù hợp với tình hình
thực tế của nhà trường và phù hợp với đặc thù của từng đối tượng học sinh
nhằm mang lại hiệu quả và chất lương cao nhất.
Tóm lại, các đề tài, công trình trên đã đáp ứng một phần thực tiễn quản lý
HĐDH ở các trường phổ thông; đồng thời, là cơ sở trực tiếp để tác giả kế thừa
và phát triển vấn đề nghiên cứu dưới góc độ của khoa học quản lý giáo dục.
Mặc khác, hiện nay chưa có công trình nào trực tiếp đi sâu nghiên cứu
đối với đối tượng các trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Do đó, đề
tài của tác giả lựa chọn không trùng lặp với các công trình đã được công bố,
đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan, đề
xuất biện pháp quản lý HĐDH ở các trường PTDTNT tỉnh Sóc Trăng nhằm
góp phần nâng cao chất lượng dạy - học, hình thành nhân cách và phát triển
toàn diện của học sinh.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận về quản lý hoạt động động dạy học ở các
trường PTDTNT.



- Khảo sát, đánh giá thực trạng về quản lý hoạt động dạy học ở các
trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
- Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường
PTDTNT tỉnh Sóc Trăng và khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các
biện pháp đã đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Hoạt động dạy học ở các trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động dạy học ở các trường PTDTNT tỉnh Sóc Trăng.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu quản lý HĐDH ở các
trường PTDTNT tỉnh Sóc Trăng.
Phạm vi về đối tượng khảo sát: Lãnh đạo Sở GD&ĐT và cán bộ,
chuyên viên các phòng, ban chuyên môn thuộc Sở GD&ĐT; CBQL và GV
các trường PTDTNT tỉnh Sóc Trăng.
Các số liệu sử dụng để nghiên cứu từ năm 2010 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Đổi mới quản lý giáo dục nói chung, quản lý HĐDH trong nhà trường
nói riêng là nhân tố quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học ở các trường
PTDTNT tỉnh Sóc Trăng. Trong công tác quản lý nếu các chủ thể thường
xuyên giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các lực lượng liên quan;
tăng cường quản lý thực hiện chương trình, nội dung dạy học; đồng thời,
quan tâm tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên;
phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chuyên môn trong quản lý HĐDH; kết
hợp chặt chẽ công tác kiểm tra chuyên môn của giáo viên với quản lý hoạt
động học tập của học sinh và coi trọng quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị
dạy học thì chất lượng giáo dục ở các trường PTDTNT tỉnh Sóc Trăng sẽ nâng
cao, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.



6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở các quan điểm, tư tưởng về
quản lý giáo dục của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời quán triệt và vận dụng sâu sắc
quan điểm hệ thống - cấu trúc, lịch sử - lôgíc và quan điểm thực tiễn trong
nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục.
* Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Thu thập, phân tích, tổng hợp các tài liệu lý luận về quản lý giáo dục,
HĐDH, bồi dưỡng đội ngũ CBQL, GV; các văn kiện Đại hội Đảng các cấp;
các văn bản pháp quy về giáo dục và các tài liệu khác có liên quan đến đề tài
nghiên cứu. Từ đó, rút ra cơ sở lý luận để đề xuất các giải pháp quản lý hoạt
động dạy học ở các trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Trưng cầu ý kiến của 130 người
bao gồm lãnh đạo Sở và cán bộ, chuyên viên các phòng, ban chuyên môn
thuộc Sở GD&ĐT, CBQL và GV các trường PTDTNT nhằm thu thập nhiều
thông tin có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát : Sử dụng các biện pháp khác nhau để quan
sát hoạt động giảng dạy của giáo viên, học tập của học sinh và quản lý
HĐDH của CBQL các trường để thu thập các thông tin có liên quan để góp
phần làm rõ thực trạng quản lý HĐDH ở các trường PTDTNT trên địa bàn
tỉnh Sóc Trăng.
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn lãnh đạo Sở và lãnh đạo các
phòng, ban chuyên môn thuộc Sở GD&ĐT; lãnh đạo và giáo viên các trường
PTDTNT về thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học nhằm làm căn cứ
đề xuất các giải pháp một cách hiệu quả.



- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến chuyên giá của các nhà khoa
học, nhà giáo có nhiều kinh nghiệm trong quản lý hoạt động dạy học ở các
trường PTDTNT.
- Phương pháp toán thống kê: Sử dụng các công thức toán để xử lý kết
quả khảo nghiệm, phân tích kết quả nghiên cứu và đánh giá mức độ tin cậy
của phương pháp điều tra.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài này đã xây dựng các khái niệm công cụ, đặc điểm, nội dung và
những nhân tố tác động đến công tác quản lý HĐDH ở các trường PTDTNT
trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng và làm sáng tỏ thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Trên cơ sở đó, đề xuất những biện pháp mang tính khả thi cao nhằm áp
dụng cho công tác quản lý hoạt động dạy học ở các trường PTDTNT tỉnh Sóc
Trăng trong thời gian tới đạt kết quả và hiệu quả cao nhất.
Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp quản
lý giáo dục ở các trường PTDTNT và các trường phổ thông trong toàn
tỉnh Sóc Trăng.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn có cấu trúc bao gồm: Phần mở đầu; phần nội dung: 3 chương
(8 tiết); kết luận và kiến nghị; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
Ở CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ
1.1. Các khái niệm công cụ của luận văn
1.1.1. Khái niệm hoạt động dạy học ở trường phổ thông dân tộc nội trú
HĐDH là hoạt động trung tâm chi phối các hoạt động giáo dục khác
trong nhà trường, là con đường thuận lợi nhất để học sinh lĩnh hội được tri
thức một cách có hệ thống; giúp học sinh phát triển tư duy, hình thành những

năng lực cơ bản về nhận thức và hành động, hình thành thế giới quan khoa
học, lòng yêu nước, yêu dân tộc, yêu Chủ nghĩa xã hội. Dạy học được thực
hiện bởi các hoạt động cụ thể, diễn ra trong không gian và thời gian nhất định.
Là hoạt động của chủ thể dạy học, hướng vào hoạt động của người học, tương
ứng với yêu cầu của các thành tố trong HĐDH.
HĐDH có tính hai chiều gồm: Hoạt động giảng dạy của GV và hoạt
động học tập của học sinh, là hai mặt của quá trình tác động và bổ sung cho
nhau, phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa người dạy và người học. Trong
đó, hoạt động dạy đóng vai trò chủ đạo, điều khiển, hướng dẫn; hoạt động học
đóng vai trò chủ động tích cực tự giác và sáng tạo để thực hiện mục tiêu giáo
dục đã xác định.
Hiện nay, một số nhà khoa học tiếp cận khái niệm dạy học từ cơ sở lý
luận của quá trình giáo dục tổng thể. Đồng thời, xét quan hệ giữa các thành tố
cấu trúc của hoạt động để luận giải nội hàm của khái niệm dạy học từ những
góc độ khoa học khác nhau như: Giáo dục học, điều khiển học, tâm lý học,...
Tiếp cận dạy học từ góc độ tâm lý học, dạy học được hiểu là sự biến
đổi hợp lý hoạt động và hành vi của người dạy học trên cơ sở cộng tác hoạt
động và hành vi của người dạy và người học.
Dưới góc độ điều khiển học, dạy học là quá trình cộng tác giữa thầy và
trò nhằm điều khiển - truyền đạt và tự điều khiển - lĩnh hội tri thức nhân loại
nhằm thực hiện mục đích giáo dục.


Tiếp cận dạy học từ góc độ giáo dục hiện đại, tác giả Hà Sỹ Hồ cho
rằng: “HĐDH là hệ thống những hành động phối hợp, tương tác giữa giáo
viên và học sinh, trong đó dưới tác động chủ đạo của giáo viên, học sinh tự
giác tích cực, chủ động lĩnh hội tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển
năng lực nhận thức, năng lực hành động, hình thành thế giới quan khoa học
và những phẩm chất của nhân cách”[20].
Như vậy, dạy học là một hoạt động kép gồm hoạt động dạy của giáo

viên và hoạt động học của học sinh. Trong đó, hoạt động dạy của giáo viên
giữ vai trò chủ đạo, định hướng cho hoạt động học, hoạt động dạy thúc đẩy
học và làm cho hoạt động học thành công; hoạt động học giữ vai trò chủ
động, tự giác, tích cực, độc lập và sáng tạo.
Hoạt động dạy được hiểu, “đó là sự truyền lại của thế hệ trước cho thế
hệ sau những kinh nghiệm mà xã hội đã sáng tạo và tích lũy được qua các thế
hệ”. “Hoạt động dạy là sự truyền thụ những tri thức khoa học, những kỹ năng
và phương pháp hành động” [34].
Mục đích của hoạt động dạy là giúp người học lĩnh hội nền văn hóa xã
hội, phát triển tâm lý, hình thành nhân cách. Bản thân người học không thể
biến năng lực của loài người thành năng lực của bản thân và nhất thiết người
học ở những mức độ khác nhau phải dựa vào sự giúp đỡ của người dạy. Như
vậy, người học lĩnh hội nền văn hóa xã hội một cách gián tiếp thông qua
người dạy. Sự giúp đỡ của người dạy để người học lĩnh hội nền văn hóa xã
hội, thúc đẩy sự phát triển tâm lý, tạo ra những cơ sở trọng yếu để hình thành
nhân cách của người học là mục đích của dạy học.
Thực chất, hoạt động dạy là quá trình người giáo viên truyền thụ tri thức,
kinh nghiệm cho người học, là hoạt động tổ chức điều khiển của GV đối với
hoạt động nhận thức của học sinh nhằm hình thành trong mỗi học sinh tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, hành vi. Đồng thời, hoạt động dạy của giáo viên còn
giữ vai trò tổ chức, lãnh đạo, điều khiển HĐDH, mọi hoạt động giảng dạy, tổ
chức, điều khiển của giáo viên đều nhằm mục đích duy nhất là thúc đẩy sự


nhận thức của người học. Vì vậy, người giáo viên phải nắm vững kiến thức một
cách khoa học và hệ thống, phải am hiểu và tinh thông kiến thức thực tiễn cùng
với việc sử dụng phương pháp giảng dạy hợp lý, khoa học.
Cùng với hoạt động học tập, hoạt động dạy là hoạt động trung tâm và
đặc trưng nhất ở trường phổ thông. Hoạt động dạy được tiến hành với mục
đích tổ chức - điều khiển nhằm tối ưu hóa hoạt động học, giúp người học

chiếm lĩnh tri thức khoa học và qua đó hình thành nhân cách.
Hoạt động dạy có những nhiệm vụ cơ bản là:
Giúp học sinh nắm vững tri thức khoa học một cách có hệ thống, cơ
bản, có những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong học tập, trong lao động và
trong cuộc sống.
Phát triển trí tuệ của học sinh, trước hết là sự phát triển tư duy độc lập,
sáng tạo, hình thành năng lực nhận thức và hành động. Dạy học phải đi trước
sự phát triển.
Dạy học đồng thời là dạy cách tự học, tự hoàn thiện nhân cách.
Dạy kiến thức văn hóa phải đi đôi với việc hình thành thế giới quan
khoa học, lòng yêu nước, chí tự cường, sống lành mạnh, giàu lòng nhân ái, có
trách nhiệm, biết hợp tác và thích nghi.
Phương pháp của hoạt động dạy bao gồm những cách tổ chức, tác động
sư phạm và những công cụ, thiết bị, máy móc hỗ trợ.
Kết quả của hoạt động giảng dạy là chất lượng và trình độ mới về phẩm
chất và năng lực của học sinh, giúp học sinh có thể nhận thức và cải biến hiện
thực, làm cho hiện thực trở nên tốt đẹp hơn.
Hoạt động học là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi
mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kỹ năng kỹ xảo mới, những hình
thức hành vi và những dạng hoạt động nhất định. Đây là một dạng hoạt động
chỉ có thể thực hiện ở một trình độ khi mà con người có được khả năng điều
chỉnh những hành động của mình bởi một mục đích đã được ý thức. Chỉ có
thông qua hoạt động này mới hình thành ở cá nhân những tri thức khoa học
cũng như cấu trúc tương ứng của hoạt động tâm lý, sự phát triển toàn diện


nhân cách của người học. Thực chất hoạt động học là quá trình người học lĩnh
hội kiến thức dưới sự hướng dẫn của người dạy nhằm biến đổi bản thân, để
hình thành và hoàn thiện nhân cách của mình. Do đó, người học phải xác định
mục đích, động cơ, thái độ học tập, có sự tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo

trong tiếp thu tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo. Hoạt động học có những
đặc điểm sau:
Đối tượng của hoạt động học là tri thức và những kỹ năng kỹ xảo tương
ứng với nó. Có thể nói cái đích mà hoạt động học hướng tới là chiếm lĩnh tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo của xã hội thông qua sự tái tạo của cá nhân. Việc tái tạo
này sẽ không thể thực hiện được nếu người học chỉ là khách thể bị động của
những tác động sư phạm, nếu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chỉ được truyền
cho người học theo cơ chế “máy phát” (người dạy), “máy bận” (người học).
Muốn học có kết quả người học phải tích cực tiến hành các hoạt động học tập
bằng chính ý thức tự giác và năng lực trí tuệ của bản thân mình.
Hoạt động học là hoạt động hướng vào làm thay đổi chính mình. Thông
thường các hoạt động khác hướng vào làm thay đổi khách thể (đối tượng của
hoạt động), trong khi đó hoạt động học lại làm cho chính chủ thể hoạt động
này thay đổi và phát triển. Như vậy, tri thức mà loài người đã tích lũy được là
đối tượng của hoạt động học. Nội dung của đối tượng này không hề thay đổi
sau khi nó bị chủ thể hoạt động học chiếm lĩnh. Chính nhờ có sự chiếm lĩnh
này mà tâm lý của chủ thể mới được thay đổi và phát triển. Người học càng
được giác ngộ sâu sắc mục đích này bao nhiêu thì sức mạnh vật chất và tinh
thần của họ ngày càng được huy động bấy nhiêu trong học tập và như vậy sự
thay đổi và phát triển tâm lý của chính họ ngày càng lớn lao và mạnh mẽ. Dĩ
nhiên, hoạt động học cũng có thể làm thay đổi khách thể. Tuy nhiên, việc làm
thay đổi khách thể như thế không phải là mục đích tự thân của hoạt động học
mà chính là phương tiện không thể thiếu của hoạt động này nhằm đạt được
mục đích làm thay đổi chính chủ thể hoạt động. Chỉ có thông qua đó người
học mới dành được điều kiện khách quan để ngày càng tự hoàn thiện mình.


Quá trình học tập là quá trình nhận thức đặc biệt để tiến tới nắm vững
tri thức, bảo lưu trong trí nhỡ những chân lý sơ đẳng (sự kiện, quy tắc, số liệu,
những đặc trưng, những mối phụ thuộc, mối tương quan, những định nghĩa

khác nhau) và từng bước vận dụng trong cuộc sống, biết sử dụng chúng, tìm
thấy chúng trong trí nhớ của mình lúc cần thiết.
Học là thừa hưởng những giá trị mà thế hệ trước để lại. Những giá trị
đó là nguyên liệu, người học phải chế biến những giá trị đó theo những quy
trình nhất định, biến nó thành tài sản cá nhân. Trong quá trình chế biến đó,
nhân cách con người được hình thành và phát triển. Học tập ở học sinh phổ
thông không phải là nhồi nhét, phải làm sao việc học trở thành một bộ phận
của đời sống tâm hồn phong phú của học sinh, là nhu cầu của chúng, có tác
dụng thúc đẩy làm cho trí tuệ học sinh thêm giàu có. “Học tốt” có nghĩa là
biết tận dụng sự giảng dạy và hướng dẫn của thầy, coi như một mô hình mẫu
của việc xử lý đối tượng nghiên cứu, đồng thời bám chắc vào nội dung trí dục
từ đó mà tự lực tổ chức việc lĩnh hội của bản thân.
Nội dung của HĐDH bao gồm các mặt: nội dung các môn học, tâm lý,
xã hội và nhân cách; việc thực hiện quá trình này đòi hỏi phải có sự thể hiện
tích cực của các chức năng tri giác, biểu cảm, giao tiếp, tổ chức và thiết kế
của người dạy. Thực chất của HĐDH là giúp đỡ người học tự học, kỹ thuật
nghiên cứu, tự điều chỉnh và suy cho cùng, chính người thầy đã giúp trò tự
hiểu bản thân mình và phấn đấu để trò ngày càng tiến bộ.
Theo quy định hiện hành, trường PTDTNT được tổ chức và hoạt động
theo quy định của Điều lệ trường THCS, trường THPT và trường phổ thông
có nhiều cấp học. Nhà nước thành lập trường PTDTNT cho con em các dân
tộc thiểu số, con em các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các
vùng này.
Trường PTDTNT là loại hình trường chuyên biệt mang tính chất phổ
thông, dân tộc và nội trú.


Từ cách tiếp cận trên cho thấy, HĐDH ở trường PTDTNT là hoạt động
chung của giáo viên và học sinh, bao gồm hoạt động dạy của giáo viên và
hoạt động học của học sinh. Hai hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ, gắn

bó mật thiết với nhau, phù hợp với tính chất, đặc điểm hoạt động của trường
PTDTNT, nhằm thực hiện mục tiêu, yêu cầu dạy học đã xác định.
Về vị trí, HĐDH ở Trường PTDTNT có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và củng cố an ninh, quốc phòng ở miền núi,
vùng dân tộc thiểu số.
Về nội dung dạy học, dạy học ở trường PTDTNT được thực hiện theo
mục tiêu, chương trình của các cấp học phổ thông tương ứng, có bổ sung kiến
thức về lịch sử, địa lý, ngôn ngữ, văn hoá dân tộc thiểu số và địa phương.
Thực hiện giáo dục hướng nghiệp và giáo dục nghề phổ thông: dạy nghề ngắn
hạn, nghề truyền thống phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội góp
phần đào tạo cán bộ ở địa phương.
Về tổ chức hoạt động giáo dục học sinh, Trường PTDTNT thực hiện
các hoạt động lao động, văn hoá, thể thao như: lao động công ích; sinh hoạt
văn nghệ, thể dục thể thao; các hoạt động theo chủ đề, chủ điểm; tham quan
du lịch; lễ hội, tết dân tộc; giao lưu văn hoá và các hoạt động xã hội khác
nhằm bảo tồn và phát huy bẳn sắc văn hoá các dân tộc, xoá bỏ các tập tục lạc
hậu, góp phần phát triển và hoàn thiện nhân cách học sinh.
Về chính sách, Trường PTDTNT được ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất,
thiết bị và ngân sách, lựa chọn bố trí cán bộ, GV, nhân viên để đảm bảo việc
nuôi, dạy học sinh.
Trường PTDTNT tổ chức bếp ăn tập thể đảm bảo dinh dưỡng theo
đúng chế độ, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, chăm sóc sức khoẻ học
sinh. Tổ chức các hoạt động tự học sau giờ lên lớp, lao động cải thiện điều
kiện sống; giáo dục học sinh tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, xây
dựng nếp sống văn minh cho học sinh.


1.1.2. Khái niệm quản lý hoạt động dạy học ở trường phổ thông dân
tộc nội
Quản lý là một hiện tượng xã hội. Nó xuất hiện từ khi con người bắt

đầu hình thành các nhóm để thực hiện những mục tiêu mà họ không thể đạt
tới với tư cách là những cá nhân riêng lẻ. Khi đó, dưới tác động của quản lý,
con người phối hợp với nhau, cùng nỗ lực để hướng tới mục tiêu chung.
Karx-Marx, trong bộ “Tư bản”, đã viết: “Bất kỳ lao động nào có tính xã hội
hay cộng đồng trực tiếp, được thực hiện với quy mô tương đối lớn đều ít
nhiều cần tới sự quản lý… Một con người chơi vĩ cầm riêng rẻ thì tự điều
khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng…” [5].
Thuật ngữ “quản lý” (tiếng Việt gốc Hán) gồm hai quá trình tích hợp
nhau: quá trình “quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”,
quá trình “lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đưa hệ vào thế “phát triển”. Nếu chỉ
“quản” thì tổ chức dễ trì trệ, nếu chỉ “lý” thì phát triển không bền vững. Do
đó trong “quản” phải có “lý” và ngược lại, nhằm duy trì cho hệ ở thế cân bằng
động, vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong môi trường tương tác
giữa các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.
Theo Harold-Koontz: “Quản lý là thiết kế và duy trì một môi trường
mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm để có thể hoàn
thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định”.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung – là
khách thể quản lý nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến” và “Quản lý
trường học là tập hợp những tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, huy
động, can thiệp) của chủ thể quản lý đến tập thể GV, học sinh và cán bộ
khác” [35].


Tác giả Trần Kiểm thì cho rằng: “Quản lý bao gồm những công việc
chỉ huy và tạo điều kiện cho những người khác thực hiện công việc và đạt
được mục đích của nhóm” [22].
Từ các quan niệm trên đây cho thấy, quản lý là một hoạt động mang
tính xã hội, đồng thời là hoạt động mang tính khoa học và tính nghệ thuật rất

cao. Hoạt động quản lý tất yếu nảy sinh khi con người lao động tập thể và
cùng hướng tới mục tiêu chung.
Bản chất của hoạt động quản lý là cách thức tác động (tổ chức, điều
khiển, chỉ huy) một cách có kế hoạch và hợp quy luật của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý trong một hệ thống, nhằm làm cho hệ thống này vận hành
đến mục tiêu mong muốn.
Chất lượng dạy học ở nhà trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó
quản lý HĐDH có vai trò rất quan trọng. Quản lý HĐDH được phân thành các
hoạt động cơ bản, cụ thể là: quản lý HĐDH trên lớp và quản lý HĐDH ngoài
giờ lên lớp.
Cùng với hoạt động học tập, hoạt động dạy là hoạt động trung tâm và
đặc trưng nhất ở trường phổ thông. Hoạt động giảng dạy được tiến hành với
mục đích tổ chức - điều khiển nhằm tối ưu hóa hoạt động học, giúp người học
chiếm lĩnh tri thức khoa học và qua đó hình thành nhân cách.
Quản lý HĐDH ở nhà trường PTDTNT là loại hình quản lý xã hội
mang tính đặc thù; đó là những tác động của chủ thể quản lý vào HĐDH
(được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của
các lực lượng xã hội) nhằm góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của trường PTDTNT.
Trường PTDTNT được tổ chức và hoạt động quy định của Điều lệ
trường trung học và các nhiệm vụ:
Tuyển sinh đúng đối tượng theo chỉ tiêu kế hoạch được giao hằng năm.


Giáo dục học sinh về truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số và đường lối, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước.
Giáo dục lao động và hướng nghiệp, giúp học sinh định hướng nghề
phù hợp với khả năng của bản thân và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương, giáo dục học sinh ý thức phục vụ quê hương sau khi tốt nghiệp.

Tổ chức đời sống vật chất, tinh thần cho học sinh PTDTNT.
Có kế hoạch theo dõi số học sinh đã tốt nghiệp nhằm đề ra các giải
pháp nâng cao hiệu quả giáo dục.
Theo đó, Quản lý hoạt động dạy học ở trường PTDTNT là tổng thể
những tác động hợp quy luật của chủ thể quản lý đến toàn bộ hoạt động dạy
học bằng các cách thức, biện pháp cụ thể nhằm đạt được mục đích, yêu cầu
đã xác định.
Quản lý HĐDH ở các trường PTDTNT là quản lý hoạt động sư phạm
của người giáo viên và hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh, để hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách người học. Thông qua những tác
động quản lý nhằm phát huy tác dụng của các phương tiện quản lý như: Chế
định giáo dục, bộ máy tổ chức và nhân sự; cơ sở vật chất, nguồn lực, vật lực;
thông tin và môi trường,... Vì vậy, quản lý HĐDH là hệ thống những tác
động sư phạm có tính hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên,
tập thể học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài trường nhằm huy
động sức lực và trí tuệ của họ hướng vào việc nâng cao chất lượng và hiệu
quả giáo dục.
Thực chất, quản lý HĐDH là những tác động của chủ thể quản lý vào
HĐDH (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc
lực của các lực lượng xã hội) nhằm góp phần hình thành và phát triển toàn
diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Mục đích của quản lý HĐDH ở các trường PTDTNT là nhằm bảo đảm
thực hiện đầy đủ các mục tiêu, kế hoạch đào tạo, chương trình, nội dung
giảng dạy theo đúng tiến độ và thời gian quy định và đạt kết quả cao.


Nội dung quản lý HĐDH ở các trường PTDTNT bao gồm, quản lý việc
thực hiện mục tiêu, chương trình dạy học, quản lý việc phân công giảng dạy
của GV, hoạt động học tập của học sinh và kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học.
Chủ thể trực tiếp quản lý HĐDH là cấp ủy đảng, Ban Giám hiệu và các

tổ trưởng chuyên môn ở các trường PTDTNT. Đó là tổng thể những tác động
của chủ thể quản lý thông qua hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra đánh giá hoạt động giảng dạy của giáo viên nhằm đạt được mục tiêu giáo dục
đã đề ra.
Ngoài ra, chủ thể gián tiếp quản lý HĐDH ở các trường PTDTNT là
CBQL các cơ quan chức năng thuộc Sở GD&ĐT.
Quản lý HĐDH chiếm phần lớn thời gian và công sức của các chủ thể
quản lý. Trong quá trình đó, các chủ thể quản lý chủ yếu tập trung vào quản lý
hoạt động dạy của GV và quản lý hoạt động học tập của học sinh.
Phương thức quản lý HĐDH ở trường PTDTNT được thực hiện bằng
nhiều cách thức, biện pháp khác nhau của các chủ thể quản lý nhằm tác động
đến đối tượng quản lý để giải quyết những vấn đề trong công tác quản lý, làm
cho hệ quản lý vận hành đạt mục tiêu mà chủ thể quản lý đã đề ra và phù hợp
với quy luật khách quan. Trong nhà trường, quản lý HĐDH được thực hiện
bằng những cách thức tổ chức, điều hành kiểm tra, đánh giá hoạt động dạy và
học của cán bộ, GV và học sinh nhằm đạt được kết quả cao nhất đề ra.
Trong giảng dạy và học tập, GV và học sinh tham gia vào rất nhiều mối
quan hệ xã hội. Do đó, quản lý HĐDH trong nhà trường phải đặt trong mối quan
hệ xã hội, thiết lập một sự liên kết tối ưu giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và
lợi ích xã hội. Để giáo viên thực hiện tốt vai trò dạy học của mình, CBQL các
nhà trường phải chú ý đến năng lực, phẩm chất, nhu cầu của giáo viên, tạo điều
kiện cho giáo viên phát huy khả năng bản thân với hiệu quả cao nhất.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động dạy học ở trường phổ thông dân
tộc nội trú
1.2.1. Quản lý thực hiện chương trình, nội dung dạy học


Chương trình dạy học là văn bản pháp lý do Bộ GD&ĐT ban hành,
là cơ sở để CBQL và giáo viên thực hiện trong năm. Ban Giám hiệu nhà
trường phải nắm vững quan điểm chỉ đạo của Bộ GD&ĐT trong việc thực
hiện chương trình, nội dung, tổ chức cho giáo viên thực hiện nghiêm túc,

không được tùy tiện thay đổi thêm bớt chương trình, nội dung dạy học;
thực hiện đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, đổi mới kiểm
tra, đánh giá HĐDH.
Chương trình, nội dung dạy học là tài liệu quan trọng, quy định phương
pháp, hình thức tổ chức, thời gian cho từng môn học: Số tiết giảng bài, số tiết
ôn tập, số tiết kiểm tra, số tiết thực hành... Chương trình dạy học ở trường
PTDTNT được thực hiện mục tiêu, chương trình của các cấp học phổ thông
tương ứng; đồng thời có bổ sung kiến thức về lịch sử, địa lý, ngôn ngữ, văn
hóa dân tộc thiểu số và địa phương. Vì vậy, quản lý thực hiện chương trình,
nội dung dạy học ở trường PTDTNT theo yêu cầu tạo nguồn đào tạo cán bộ
cho miền núi, cần nắm vững nguyên tắc cấu tạo chương trình, phạm vi kiến
thức của từng môn học; nắm vững đặc trưng phương pháp giảng dạy các môn
học và cách thức dạy học của từng môn học; nắm vững kế hoạch dạy học của
từng môn học, từng khối lớp trong cấp học...
Với trách nhiệm là người quản lý cao nhất ở nhà trường, hiệu trưởng tổ
chức cho giáo viên nghiên cứu kỹ chương trình, nội dung dạy học để có
những quyết định đúng đắn, phù hợp với nguyên tắc sư phạm, tác động tốt
đến HĐDH. Để quản lý tốt việc thực hiện chương trình, nội dung dạy học,
ngay từ đầu năm học hiệu trưởng phổ biến cho giáo viên những vấn đề đổi
mới trong chương trình, nội dung theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT. Giao cho
phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn tổ chức cho giáo viên thảo luận những
vấn đề mới trong chương trình và tìm biện pháp thực hiện. Định kỳ theo phân
cấp, CBQL tổ chức kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện, nhận xét, uốn nắn,
điều chỉnh những vấn đề nảy sinh trong dạy học.
Trong quản lý chương trình, nội dung dạy học, CBQL các cấp tập trung
chỉ đạo những công việc cụ thể sau đây:


- Hướng dẫn giáo viên lập kế hoạch dạy học bộ môn: Kế hoạch dạy
học phải phản ánh được hoạt động giảng dạy của giáo viên và hoạt động học

tập của học sinh; sau khi xây dựng xong kế hoạch dạy học, tổ chuyên môn
góp ý, Ban Giám hiệu nhà trường nghiên cứu phê duyệt để thực hiện.
- Quản lý thời gian dạy học: Thời gian dạy học đã được Bộ GD&ĐT và
Sở GD&ĐT quy định trong tổng số thời gian của năm học, nhà trường không
được sử dụng thời gian dạy học của giáo viên vào những hoạt động khác, tạo
điều kiện thuận lợi cho giáo viên thực hiện dạy đúng, dạy đủ thời gian quy định.
- Quản lý thực hiện nội dung dạy học: Tập trung quản lý hệ thống hồ sơ
giáo án, sổ báo giảng, sổ ghi đầu bài, sổ điểm, sổ dự giờ, thời khóa biểu; tăng
cường dự giờ thăm lớp, góp ý giờ dạy, kịp thời ngăn chặn những hiện tượng
cắt xén chương trình, nội dung; tăng cường kiểm tra, đánh giá việc thực hiện;
phân tích góp ý giờ dạy theo hướng tiếp cận hệ thống, chú ý ưu điểm nhược
điểm và tìm hướng giải quyết cho từng bài cụ thể trong chương trình; khắc
phục tình trạng dự giờ hình thức, đánh giá giờ dạy chung chung thiếu tính
khách quan. Thông qua các hoạt động quản lý xem xét điều chỉnh những vấn
đề liên quan ảnh hưởng đến việc thực hiện chương trình, nội dung.
1.2.2. Quản lý việc phân công giảng dạy đối với giáo viên
Phân công giảng dạy cho giáo viên thực chất là công tác tổ chức và
công tác cán bộ, đồng thời là nội dung quản lý HĐDH ở các trường PTDTNT.
Do cơ cấu tổ chức ở trường PTDTNT có tính chất đặc thù, ngoài các tổ
chức theo quy định của Điều lệ trường trung học, trường PTDTNT cấp tỉnh
được thành lập thêm tổ Giáo vụ và Quản lý học sinh, tổ Quản trị và Đời sống;
trường PTDTNT cấp huyện được thành lập thêm tổ Quản lý nội trú để phục
vụ cho các hoạt động giáo dục của trường; vì vậy, phân công giảng dạy cho
giáo viên hợp lý là một việc rất quan trọng, sẽ mang lại kết quả to lớn, ngược
lại sẽ phát sinh nhiều vấn đề phức tạp về tư tưởng, tình cảm và sẽ ảnh hưởng
không tốt đến các mặt hoạt động của nhà trường.
Trong quản lý phân công giảng dạy đối với giáo viên, CBQL cần quán
triệt quan điểm phân công giáo viên theo đúng khả năng, chuyên môn được



đào tạo và theo hướng phát triển kết hợp với nguyện vọng của từng giáo viên.
CBQL cũng cần tin vào khả năng vươn lên của từng giáo viên, không định
kiến với bất cứ người nào; mọi sự phân công đều cố gắng bảo vệ uy tín nhân
cách của giáo viên.
Trong phân công giảng dạy, phải xuất phát từ yêu cầu của việc giảng
dạy và quyền lợi học tập của toàn thể học sinh. Phân công giáo viên trước hết
phải vì sự tiến bộ của cả tập thể sư phạm, tạo điều kiện người giỏi kèm cặp
người chưa có kinh nghiệm, người còn yếu, đồng thời chú ý đúng mức đến
khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh.
Phân công giảng dạy cho đội ngũ giáo viên một cách hợp lý, phù hợp
với tình hình thực tế của nhà trường sẽ góp phần quyết định nâng cao chất
lượng giảng dạy.
Hình thức phân công giảng dạy rất đa dạng:
- Chuyên dạy một khối lớp trong nhiều năm;
- Dạy mỗi năm một khối lớp;
- Mỗi năm dạy nhiều khối lớp.
Mỗi hình thức phân công đều có mặt mạnh, mặt yếu, CBQL nên xem
xét cụ thể lực lượng đội ngũ (số lượng và trình độ tay nghề) mà lựa chọn hình
thức nào, hoặc kết hợp nhiều hình thức phân công giảng dạy trong nhà
trường. Để phân công giáo viên một cách khoa học, hợp lý cần dựa trên
những yêu cầu sau:
Yêu cầu của việc dạy: chuẩn này xuất phát từ nhận thức rằng căn cứ
vào công việc để chọn người thích hợp, hết sức tránh tình trạng ngược lại.
Năng lực và sở trường: năng lực đã đạt ở trình độ cao, kỹ năng tinh
thông và gần đạt tới mức kỹ xão, nếu giao đúng việc thì kết quả sẽ đạt tốt.
Thâm niên nghề nghiệp: Đối với nghề dạy học thì thâm niên có một ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Thâm niên nghề nghiệp thông báo cho người quản
lý biết vốn liếng nghề nghiệp mà người giáo viên đã tích lũy được. Tuy nhiên,
điều đó chỉ đúng với những người thật sự yêu nghề và tận tụy với nghề.



Nguồn đào tạo: Đội ngũ giáo viên khá đông và nguồn đào tạo rất đa
dạng, công tác bồi dưỡng thường xuyên chưa thật có hiệu quả. Vì vậy, nhiều
giáo viên còn lúng túng khi dạy theo chương trình mới. Trong việc phân công
giảng dạy cho giáo viên, CBQL cần thấy rõ điều này để tạo một bước chuẩn
bị cho giáo viên, giúp họ tiếp cận chương trình và giảng dạy tự tin hơn.
Hoàn cảnh gia đình và nguyện vọng cá nhân: Đây là nội dung cuối
cùng mà CBQL cần lưu ý. Tuy chuẩn này không lấn át các chuẩn trước,
nhưng CBQL cần xem xét từng trường hợp cụ thể để giải quyết hợp lý sao
cho tình nghĩa càng thêm ấm áp để từ đó bản thân người giáo viên được quan
tâm sẽ cố gắng nhiều hơn đối với công việc chung. Tất nhiên không được
quên việc thuyết phục, giải thích, động viên họ cùng chia sẻ khó khăn với mọi
người trong hoàn cảnh chung của nhà trường.
1.2.3. Quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên
Trên cơ sở lý luận về quản lý và yêu cầu nhiệm vụ của trường
PTDTNT, quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên gồm các nội dung:
Quản lý soạn bài và chuẩn bị bài lên lớp: Soạn bài là khâu quan trọng
chuẩn bị cho giờ lên lớp, là lao động sáng tạo thể hiện sự lựa chọn của giáo
viên về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học; lựa chọn thiết bị dạy học
phù hợp nội dung bài dạy, đúng yêu cầu, sát đối tượng học sinh và phù hợp
điều kiện thực tế của nhà trường. Quản lý soạn bài và chuẩn bị bài lên lớp của
giáo viên cần tập trung:
Hướng dẫn giáo viên kế hoạch soạn bài, dựa trên những yêu cầu, quy
định chung, đảm bảo sự thống nhất về nội dung, hình thức với tính chất chỉ
dẫn, không khuôn mẫu.
Tổ chức thảo luận, thống nhất nội dung và hình thức, trao đổi kinh
nghiệm soạn bài. Hiệu trưởng cùng phó hiệu trưởng thường xuyên kiểm tra,
theo dõi việc soạn bài của giáo viên thông qua nghiên cứu kiểm tra hồ sơ,
giáo án, phiếu báo giảng.
Để đảm bảo các điều kiện phục vụ cho giờ dạy trên lớp của giáo viên,

CBQL căn cứ vào kế hoạch dạy học kiểm tra điều kiện vật chất - kỹ thuật,


thiết bị dạy học; có kế hoạch mua sắm, bổ sung những thiết bị dạy học thiếu
và đề ra những quy định quản lý sử dụng.
CBQL nhà trường tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên thời gian soạn
bài và chuẩn bị bài trước khi lên lớp; chuẩn bị tốt bài giảng sẽ góp phần vào
sự thành công của giờ dạy.
Quản lý giờ dạy trên lớp của giáo viên : HĐDH ở trường PTDTNT
được thực hiện thông qua nhiều hình thức. Trong đó, dạy học trên lớp là hình
thức chủ yếu, vì giờ dạy của giáo viên quyết định chất lượng dạy học, học
sinh thu nhận kiến thức một cách có hệ thống. CBQL các cấp tìm mọi biện
pháp tác động trực tiếp đến giờ dạy; xây dựng các quy định quản lý giờ dạy,
dựa trên những quy định chung của ngành và đặc điểm riêng của trường để
xây dựng giờ chuẩn lên lớp. CBQL nhà trường căn cứ vào chuẩn giờ lên lớp
để kiểm tra, đánh giá, tư tưởng chỉ đạo quản lý giờ dạy của giáo viên là tác
động trực tiếp vào giờ dạy trên lớp càng nhiều càng tốt. Kiểm tra giờ dạy trên
lớp của giáo viên là biện pháp quan trọng trong các biện pháp quản lý. CBQL
nhà trường cần bình thường hóa việc dự giờ thăm lớp; dự giờ thành nền nếp
sẽ tạo bầu không khí thuận lợi để tiến hành kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo
viên như một hoạt động bình thường. Việc giáo viên tích cực dự giờ sẽ cung
cấp cho CBQL các cấp những thông tin giúp công tác quản lý đánh giá có độ
tin cậy hơn.
Quản lý đổi mới PPDH: PPDH là cách thức hoạt động của giáo viên
trong việc tổ chức dạy học. PPDH bao gồm cách thức dạy của giáo viên và
cách thức học của học sinh. PPDH có quan hệ chặt chẽ với các thành tố của
HĐDH (mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, kiểm tra, đánh giá...),
các thành tố này tương tác với nhau tạo thành một chỉnh thể. Trong đổi mới
giáo dục, sự đổi mới nội dung đòi hỏi phải đổi mới PPDH. Định hướng đổi
mới PPDH hiện nay là: “Khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành

nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương tiện tiên
tiến và các phương tiện hiện đại vào HĐDH” [6].


Định hướng trên được pháp chế hóa trong Luật Giáo dục: “Phương
pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo
của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê
học tập và ý chí vươn lên” [10, Điều 5.2]. Xu hướng dạy học ngày nay là đề
cao vai trò người học: “dạy học lấy học sinh làm trung tâm” và “phát huy
tính tích cực của học sinh”. PPDH tích cực là dạy học phát huy tính chủ động
sáng tạo, là cách dạy hướng tới việc học chủ động, dạy tích cực chống thói
quen thụ động trong quá trình học tập của học sinh.
PPDH tích cực, giáo viên dạy cho học sinh biết cách tự học, không chỉ
là biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu của HĐDH. Xã
hội hiện đại với sự phát triển công nghệ thông tin nhanh, giáo viên không thể
truyền thụ cho học sinh toàn bộ khối lượng kiến thức hiện có, mà phải dạy
cho học sinh cách học, rèn luyện cho học sinh kỹ năng, ý chí tự học, tạo cho
học sinh lòng ham học, phát huy khả năng vốn có trong mỗi học sinh.
Quản lý ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học: Trên cơ sở quy
định của Bộ GD&ĐT, Ban Giám hiệu nhà trường định hướng cho tổ chuyên
môn và giáo viên xác định nhu cầu ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi mới
PPDH, phù hợp với từng bài học, môn học trong chương trình.
Có kế hoạch đầu tư mua sắm các thiết bị công nghệ thông tin phục vụ
HĐDH, chú trọng những thiết bị hiện đại, tránh lãng phí trong mua sắm. Ban
Giám hiệu lựa chọn cử những giáo viên có chuyên môn nghiệp vụ tiếp thu
chuyển giao công nghệ, tham dự lớp tập huấn về ứng dụng công nghệ thông tin;
tổ chức hội nghị, hội thảo lấy ý kiến đội ngũ CBQL và giáo viên về tính hiệu quả
của công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý dạy học. Thường xuyên kiểm
tra, đánh giá việc sử dụng và khai thác thế mạnh của công nghệ thông tin cũng
như phần mềm hỗ trợ quản lý; đánh giá hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin

trong quản lý, rút ra bài học kinh nghiệm; tuyên dương khen thưởng tập thể cá
nhân thực hiện tốt, nghiêm khắc xử lý những cá nhân vi phạm.
Hệ thống thiết bị công nghệ thông tin phải được đầu tư đồng bộ; đội
ngũ kỹ thuật phải được đào tạo bồi dưỡng có chất lượng để quản lý hướng


×