Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục QUẢN lý HOẠT ĐỘNG GIÁO dục HƯỚNG NGHIỆP CHO học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG HUYỆN mỹ XUYÊN, TỈNH sóc TRĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.55 KB, 115 trang )

1
CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Cán bộ quản lý

CBQL

Cha mẹ học sinh

CMHS

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CNH - HĐH

Giáo dục công dân

GDCD

Giáo dục - đào tạo

GD - ĐT

Giáo dục hướng nghiệp

GDHN


Giáo dục phổ thông

GDPT

Giáo viên chủ nhiệm

GVCN

Hướng nghiệp

HN

Kinh tế - xã hội

KT - XH

Trung cấp chuyên nghiệp

TCCN

Trung học cơ sở

THCS

Trung học phổ thông

THPT


2

MỞ ĐẦU
Chương 1
1.1.
1.2.
1.3.
Chương 2

2.1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG
Các khái niệm công cụ
Các yếu tố tác động hướng nghiệp cho học sinh Trung học
phổ thông
Quản lý hoạt động GDHN cho học sinh Trung học phổ thông
THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH
SÓC TRĂNG
Thực trạng hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
trung học phổ thông tại huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng

2.2. Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh Trung học phổ thông tại huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc
Trăng
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh Trung học phổ thông tại Huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc
Trăng
Chương 3

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG
3.1. Các biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
Trung học phổ thông tại huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng
3.2. Mối quan hệ giữa các biện pháp quản lý giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông tại huyện Mỹ
Xuyên, tỉnh Sóc Trăng
3.3. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản
lý giáo dục hướng nghiệp

Trang
3
13
13
16
18
31

31
34

52

57

57
85
87


MỤC LỤC
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

93
97
101


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định rằng
“Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu chuẩn hóa, hiện đại
hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập và tạo điều kiện cho mọi công dân được
học tập suốt đời”. GDHN là một bộ phận của sự nghiệp GD - ĐT con người, đương
nhiên GDHN cũng phải đổi mới căn bản và toàn diện. Theo logic đó, có thể hiểu đổi
mới căn bản GDHN là đổi mới về các phương diện nội dung, chương trình, sách giáo
khoa, sách tham khảo, phương pháp HN và cả quản lý HN khi hệ thống GDHN không
còn nguyên dạng trước đây nữa. Hơn nữa, HN là hệ thống những biện pháp dựa trên
cơ sở tâm lý học sinh học, sinh lý học, y học và nhiều khoa học khác để giúp đỡ học
sinh chọn nghề phù hợp với những năng lực, sở trường và điều kiện tâm sinh lý cá
nhân, nhằm mục đích phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả nhất lực lượng dự trữ có
sẵn của đất nước.
Trong bối cảnh chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế, CNH - HĐH hiện nay, để
chọn được cho mình một công việc ổn định và phù hợp để sinh sống và phát triển là
một việc không dễ. Trên thực tế, hiện tượng có rất nhiều người phải thất nghiệp hay
phải làm việc không đúng với chuyên môn là khá phổ biến, họ thấy khó khăn trong

việc đáp ứng những yêu cầu của nghề đặt ra, không cảm thấy hứng thú và muốn gắn
bó với nghề nghiệp mà mình đã chọn. Điều này đã gây nên sự lãng phí nhân lực rất lớn
và phân bố nhân lực không hợp lý.
Mỗi HS trong quá trình học tập bậc THPT và sau khi tốt nghiệp cuối bậc học,
đều lựa chọn cho bản thân một ngành nghề nhất định. Nếu chọn ngành nghề phù hợp
với đặc điểm bản thân, thì các em phát huy được năng lực, sở trường để cống hiến sức
lao động, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội.
Khi chuẩn bị chọn cho mình một nghề trong tương lai, các em thường bỡ ngỡ
trước thế giới nghề nghiệp rất phức tạp và đa dạng vì các em thiếu hiểu biết về ngành
nghề, không đánh giá bản thân mình chính xác, nên việc chọn nghề không phù hợp.
Muốn khắc phục tình trạng này, các cấp giáo dục cần làm tốt công tác GDHN trong
nhà trường.


4
HN ở bậc THPT có hiệu quả sẽ giúp cho học sinh không những định hướng
chọn nghề mà còn giúp cho các em tự điều chỉnh, phấn đấu vươn lên trong học tập.
Hoạt động HN nhằm đáp ứng những mục tiêu cá nhân của học sinh, của gia đình các
em và các quan hệ đến kế hoạch phát triển của cộng đồng, của quốc gia. Nói cách
khác, công tác giáo dục HN ở các trường THPT chưa thực sự được coi trọng.
Song song đó, tư vấn HN được xem là một vấn đề nóng hiện nay, nhất là trong
trường phổ thông. Khi được định hướng đúng đắn về nghề, con người sẽ yên tâm với
nghề mình đã lựa chọn, có thái độ chủ động, tích cực học tập, rèn luyện để có thể hoạt
động tốt lĩnh vực nghề nghiệp trong tương lai. Nếu chọn được đúng nghề phù hợp, con
người càng có nhiều cơ hội để thành đạt sau này. Nhìn tổng quát về công tác tư vấn
HN hiện nay thì vấn đề này còn nhiều nội dung chưa được quan tâm hoặc chưa làm
đến nơi đến chốn. Thường thì chỉ khi gần đến kỳ thi tuyển sinh hàng năm, các trường
đại học, cao đẳng và trung cấp mới kết hợp với các cơ quan truyền thông, các tổ chức
chính trị-xã hội để tổ chức đi tư vấn tuyển sinh ở các trường THPT. Điều này chỉ mới
cung cấp được một số thông tin cơ bản về trường thi, khối thi, điểm chuẩn, nguyện

vọng…, chưa đủ cơ sở để giúp các em học sinh có những quyết định đúng đắn trong
việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai.
Tỉnh Sóc Trăng nói chung, Huyện Mỹ Xuyên nói riêng cũng nằm trong thực
trạng chung đó; là một tỉnh vùng sâu ven biển thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, cũng
là huyện có đông đồng bào dân tộc Khmer, chính vì vậy việc tiếp cận thông tin nghề
nghiệp cũng như các hoạt động tư vấn HN dành cho học sinh rất khó khăn. Trong khi
đó, nhu cầu cần được tư vấn của học sinh là rất cao, các em luôn tìm đến thầy cô, các
đoàn thể cũng như các tổ chức khác có liên quan để được giải đáp mọi thắc mắc về
nghề nghiệp mà các em sẽ chọn. Tuy nhiên, hiện tượng học sinh gặp nhiều khó khăn
trong việc chọn trường, chọn nghề luôn xảy ra; đa số các em đều có mong muốn được
vào các trường Đại học, Cao đẳng hoặc TCCN để có một nghề nghiệp nhất định. Thế
nhưng sự hiểu biết của các em về nghề nghiệp mà học sinh chọn thì rất mơ hồ và hạn
chế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình học tập và nghề nghiệp của các em
sau này. Có những học sinh theo đuổi ngành học của mình cho đến khi đi thực tập thì
mới phát hiện mình không thích hợp với nghề nghiệp đã chọn; sinh viên ra trường làm
việc trái với ngành nghề chuyên môn hoặc không thể xin được việc ngày càng nhiều.
Tình hình trên có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Do học sinh thiếu các


5
thông tin cần thiết nên chọn nghề chưa phù hợp với thị trường lao động, chưa đáp ứng
được nhu cầu của xã hội. Về mặt chủ quan, nhìn chung, đa số học sinh có nhu cầu tư
vấn HN, nhưng nhu cầu này còn phiến diện, học sinh chỉ mới quan tâm chủ yếu đến
các nghề có thu nhập cao, chưa quan tâm tìm hiểu các khía cạnh khác như năng lực,
hứng thú cá nhân, những yêu cầu của nghề đối với người lao động, triển vọng phát
triển của nghề ở địa phương và nhu cầu nhân lực... Đây là những nội dung thật sự cần
thiết nhưng học sinh chưa ý thức được để có nhu cầu tư vấn HN. Mặt khác, trong thực
tế hiện nay, các nhà trường phổ thông chỉ mới dừng lại ở việc cung cấp thông tin tối
thiểu về các ngành nghề tuyển sinh của các trường Đại học, Cao đẳng và TCCN mà
không hề quan tâm đến những yếu tố có liên quan khác. Một số trường có tổ chức cho

học sinh tham quan các trường Đại học hoặc khu công nghiệp, các xí nghiệp, nhà máy,
cơ sở sản xuất… nhưng hoạt động này không nhiều, và cũng chưa đạt hiệu quả như
mong muốn.
Trong nhiều năm qua các trường THPT huyện Mỹ Xuyên đã góp phần không
nhỏ vào việc tạo nguồn cán bộ cho huyện nhà và thị trường lao động, nhiều thế hệ học
sinh của các nhà trường đã trưởng thành cung cấp nguồn nhân lực cho công cuộc phát
triển KT - XH của huyện, tỉnh. Trong thời gian gần đây khi yêu cầu chất lượng đào tạo
được nâng cao để đáp ứng nguồn lao động có tay nghề ở vùng sâu, vùng đặc biệt khó
khăn của huyện hay để đáp ứng được sự phát triển KT - XH, giữ vững ổn định trật tự
chính trị của địa phương và sự đổi mới mạnh mẽ về nội dung, chương trình, phương
thức đào tạo trong hệ thống giáo dục THPT thì cần phải có những biện pháp quản lý
GDHN phù hợp và hiệu quả hơn mới đáp ứng được những yêu cầu của huyện, của
tỉnh.
Từ những vấn đề nêu trên, đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh Trung học phổ thông huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng” được thực
hiện nhằm góp phần phản ánh thực trạng và đề xuất một số biện pháp nhằm tăng
cường việc quản lý hoạt động GDHN ở bậc THPT, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Tổng quan về lịch sử nghiên cứu
HN là một bộ phận quan trọng của nền giáo dục phổ thông. Đổi mới phương
pháp quản lý, nội dung GDHN trong nhà trường hiện nay là một yêu cầu ngày càng


6
cấp thiết, vì công tác GDHN phải đóng góp hơn nữa vào việc giải quyết việc làm hiện
nay cho thanh niên. Vấn đề đặc ra ở đây không phải tạo ra việc làm thật nhiều cho thế
hệ trẻ, mà là định hướng cho thế hệ trẻ vào những ngành nghề phù hợp với khả năng
và nhu cầu phát triển chung của đất nước, tạo cho mỗi thanh niên nhiều cơ hội để lựa
chọn ngành nghề thích hợp, thành thạo một nghề “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”.

Vấn đề chọn nghề của thanh niên không những ảnh hưởng quyết định đến tương lai,
hạnh phúc, cuộc đời của các em mà còn gắn liền đến sự phát triển kinh tế, xã hội của
đất nước liên quan đến “quốc kế dân sinh”.
* Công tác HN ở một số nước trên thế giới
- Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ:
Bước vào Thế kỹ XXI, Hoa Kỳ đang có nhiều nỗ lực để nâng cao hơn nữa chất
lượng giáo dục, tăng cường kết quả học tập của học sinh nhằm đảm bảo cung cấp một
lực lượng lao động có trình độ, có khả năng cạnh tranh và thích ứng linh hoạt trong
điều kiện nền kinh tế toàn cầu…Người ta đã đưa ra nhiều hướng giải quyết và đưa ra
các nội dung cần tăng cường với các chiến lược quan trọng, trong đó có tăng cường
mối liên hệ giữa trường trung học với doanh nghiệp theo hướng chuyển dần thành
trường đào tạo nghề chuyên nghiệp. Một phần của chiến lược này là tạo cơ hội cho
học sinh tham gia làm việc bán thời gian tại xí nghiệp. Đây là một hình thức GDHN
trong nhà trường phổ thông là “học đi đôi với hành, học gắn liền với lao động sản
xuất”.
- Nhật Bản:
Các trường THPT được nhóm thành: chương trình phổ thông, chương trình dạy
nghề và chương trình phối hợp toàn diện. Năm thứ nhất của trường THPT được dành
cho giáo dục phổ thông cho tất cả học sinh. Năm thứ hai, chương trình được chia
thành dự bị đại học và dạy nghề. Năm thứ ba, chương trình dành cho học sinh sẽ lên
học đại học lại được chia thành khoa học nhân văn và xã hội, khoa học và công nghệ.
Vì vậy, ngay cả các trường THPT chung cũng có ba chuyên ngành sau khi tốt nghiệp.
Các chương trình dạy nghề dành ít thời gian hơn cho các môn văn hoá và tất nhiên
nhấn mạnh các môn hướng vào các nghề đặc thù. Khi đủ 15 tuổi các em nhập học
THPT và sẽ quyết định sẽ theo chương trình phổ thông, dạy nghề hay chương trình
phối hợp toàn diện… Ngay ở lớp học đầu tiên bậc THPT, nền giáo dục Nhật Bản đã


7
quan tâm đến công tác HN cho các em học sinh, tuỳ theo chương trình mà có môn học

đặc thù để các em hướng vào nghề nghiệp tương lai.
- Hàn Quốc:
Chương trình của cấp trung học bậc trung gồm có 11 môn cơ sở, các môn tự
chọn, các hoạt động ngoại khoá. Trong các môn tự chọn có các khoá đào tạo kỹ thuật
nghề nhằm tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo dục và nghề nghiệp cho học sinh.
Về GDHN, quan điểm của UNESCO cũng cho rằng giáo dục trung học là giai
đoạn mà thế hệ trẻ lựa chọn cho mình con đường bước vào cuộc sống lao động thực
sự. HN tạo điều kiện cho học sinh lựa chọn một trong nhiều con đường khác nhau.
* Công tác HN ở Việt Nam
THPT là bậc học cuối của hệ thống giáo dục phổ thông, là giai đoạn chuẩn bị
tích cực, trực tiếp cho thế hệ trẻ đi vào cuộc sống lao động sản xuất và cuộc sống xã
hội, làm nghĩa vụ công dân, đồng thời là giai đoạn chuẩn bị cho một bộ phận thanh
niên học sinh học tiếp lên bậc cao hơn. GDHN là một bộ phận quan trọng của nền giáo
dục phổ thông, có một vị trí đặc biệt quan trọng nhằm bồi dưỡng, hướng dẫn học sinh
chọn nghề phù hợp với thể lực, năng khiếu, sở thích của cá nhân và nhu cầu của xã
hội. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác HN trong nhà trường phổ thông,
ngày 19/3/1981 của Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 126/CP về “Công tác
HN trong nhà trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý học sinh các cấp phổ thông
trung học tốt nghiệp ra trường”. Trong Quyết định nêu rõ vai trò, vị trí, nhiệm vụ
công tác HN, phân công cụ thể chính quyền các cấp, các ngành kinh tế, văn hoá từ
Trung ương đến địa phương có nhiệm vụ tạo mọi điều kiện trực tiếp giúp đỡ các
trường phổ thông trong việc đào tạo, sử dụng hợp lý và tiếp tục bồi dưỡng học sinh
phổ thông sau khi ra trường; và Thông tư 31-TT của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT hướng
dẫn thực hiện Quyết định 126/CP của Hội đồng Chính phủ. Nội dung Thông tư nêu rõ
mực đích, nhiệm vụ và hình thức HN cho học sinh trong nhà trường phổ thông, đồng
thời phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên đang công tác tại trường phổ
thông, cho dù đang đảm nhận chức vụ công tác nào đều phải hoàn thành nhiệm vụ
được giao trong công tác GDHN. Vấn đề HN, chọn nghề của học sinh bậc THPT
không phải là vấn đề mới. Đây là một vấn đề được tất cả các cấp, ban ngành, đoàn thể
trong xã hội, từ Trung ương đến địa phương, từ các nhà quản lý giáo dục đến CMHS

và các em học sinh thực sự quan tâm. Hiện nay, từ cấp độ quản lý, các nhà giáo dục


8
vẫn chưa giải quyết tốt vấn đề này. Vì thế, đây là một vấn đề thực sự nóng bỏng mà
các nhà khoa học giáo dục trong thời gian qua thực sự quan tâm; có nhiều đề tài
nghiên cứu, tài liệu, báo cáo khoa học bàn về hoạt động hướng nghiệp, như:
- Đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm tâm lý của học sinh phổ thông trung học
tại thành phố Hồ Chí Minh và bước đầu xây dựng bộ trắc nghiệm HN và chọn nghề”.
Quang Dương (chủ nhiệm đề tài), Viện nghiên cứu GD - ĐT phía Nam, thaønh phoá Hoà
Chí Minh 1998.
Đề tài đã đánh giá thực trạng nguồn nhân lực tại thaønh phoá Hoà Chí Minh ở vào
thời điểm cuối những năm 1990 của thế kỷ XX mất căn đối rất nghiêm trọng về trình
độ kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ giữa bậc Đại học, Cao đẳng với công nhân kỹ
thuật. Bên cạnh đó, các tác giả cũng khảo sát thực trạng tâm lý chọn nghề của HS lúc
bấy giờ chủ yếu là thi vào các trường Đại học. Trong việc chọn nghề, các em còn lúng
túng và chọn theo cảm tính. Chỉ có số ít các en có phân tích, căn nhắc, tìm hiểu thông
tin trước khi chọn trường, chọn nghề. Qua đó cho thấy công tác HN trong nhà trường
phổ thông cần xem xét lại một cách đầy đủ hơn.
- Đề tài: “Quản lý công tác HN cho học sinh phổ thông bậc trung học tại các
trung tâm giáo dục thường xuyên trên địa bàn thaønh phoá Đà Nẵng. Thực trạng và giải
pháp”. Luận văn thạc sĩ của học viên Huỳnh Thị Tam Thanh.
Đề tài nêu ra thực trạng quản lý công tác GDHN học sinh tại các trung tâm giáo
dục thường xuyên trên địa bàn thaønh phoá Đà Nẵng và đưa ra những giải pháp nhằm
tăng cường quản lý công tác này. Ưu điểm của đề tài là xác định được các đầu việc
quản lý của lãnh đạo nhà trường trong quản lý GDHN và đưa ra những biện pháp tăng
cường hiệu quả của công tác này. Bên cạnh đó, đề tài chưa xây dựng được một cơ sở
lý luận hoàn chỉnh để làm nền tảng cho việc giải quyết phần nội dung, đề tài cần phải
nghiên cứu thêm về tâm lý lứa tuổi của học sinh thanh niên. Trong quá trình thực hiện
các nhiệm vụ công tác GDHN cần quán triệt vấn đề: Mức độ nội dung hình thức và

phương pháp HN phải phù hợp với lứa tuổi đề tài chưa nêu rõ vai trò trách nhiệm của
từng Cán bộ, giáo viên của trung tâm trong công tác HN. Tuy trách nhiệm chính trong
quản lý ở nhà trường là Hiệu trưởng, nhưng GVCN lớp cũng chịu trách nhiệm trực
tiếp trước tập thể lớp mình phụ trách.


9
Ngoài ra còn một số đề tài nghiên cứu của các sinh viên quan tâm đến đề tài
này:
- Luận văn tốt nghiệp của sinh viên Ngô Thị Kim Ngọc với đề tài “Tìm hiểu
hiện trạng và nguyên nhân chọn nghề của học sinh lớp 11 và 12 nội thành thành phố
Hồ Chí Minh”. Năm 1996.
- Luận văn tốt nghiệp của sinh viên Phạm Thị Thiều Anh với đề tài “Tìm hiệu
động cơ chọn nghề của học sinh lớp 12 ở một số trường THPT nội thành thành phố Hồ
Chí Minh”. Năm 1996.
- Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành tâm lý học của sinh viên Vũ Anh Tuấn với
đề tài “Tìm hiểu việc chọn nghề của học sinh lớp 12 tại một số trường THPT nội thành
thành phố Hồ Chí Minh”. Năm 1998.
- Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Tâm lý học của sinh viên Nguyễn Thị
Uyên Thi với đề tài “Tìm hiểu kỳ vọng thành đạt của Cha Mẹ với con cái và mối liên
hệ với kết quả học tập và định hướng nghề nghiệp của học sinh cuối cấp THPT tại một
số trường nội thành thành phố Hồ Chí Minh”. Năm 2002.
Thời gian gần đây, vấn đề HN chọn nghề cho học sinh phổ thông được các nhà
làm công tác giáo dục đặc biệt quan tâm, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, nhiều đề tài
nghiên cứu:
- Đề tài “Đề xuất giải pháp tăng cường công tác tư vấn giáo dục truyền thông về
HN; triển khai ứng dụng và hoàn thiện một số trắc nghiệm HN cho học sinh phổ thông
theo yêu cầu thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh”. Lý Ngọc Sáng làm chủ
nhiệm đề tài. Thành phố Hồ Chí Minh tháng 2/2003.
Hội thảo khoa học về “Nghiên cứu giải pháp khả thi công tác tư vấn nghề cho

HS phổ thông trong địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”. Trung tâm Kỹ thuật - Hướng
nghiệp Thủ Đức. 1998. Hội thảo khoa học về “Tổ chức giáo dục lao động. HN theo
yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông”. Sở GD - ĐT thành phố Hồ Chí Minh, tháng
11/2001.
Hội thảo khoa học về “Nhu cầu tư vấn học đường tại các trường THPT trong
thành phố Hồ Chí Minh”. Viện nghiên cứu giáo dục - Trường Đại học Sư Phạm thành
phố Hồ Chí Minh, tháng 9/2003.
Hiện tại tỉnh Sóc Trăng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề
“Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông


10
huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng”. Do đó, đề tài tác giả lựa chọn không trùng lập với
các công trình đã được công bố, đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Đánh giá đúng thực trạng quản lý hoạt động GDHN của các trường THPT tại
huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Từ đó đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng và
hiệu quả quản lý hoạt động GDHN ở các trường THPT tại huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc
Trăng.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận về công tác quản lý hoạt động GDHN.
Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động GDHN ở các trường THPT tại huyện Mỹ
Xuyên, tỉnh Sóc Trăng trong thời gian vừa qua.
Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động GDHN ở trường THPT, nhằm
hướng cho học sinh lựa chọn ngành nghề phù hợp với khả năng, đáp ứng được yêu cầu
phát triển KT - XH của địa phương.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động GDHN ở các trường THPT tại huyện Mỹ Xuyên,

tỉnh Sóc Trăng.
* Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng công tác quản lý hoạt động GDHN của các trường THPT tại huyện
Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận, thực tiễn và đề xuất một số biện pháp quản lý
hoạt động GDHN của cán bộ quản lý, giáo viên thuộc ba trường THPT tại huyện Mỹ
Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
Các số liệu điều tra từ năm 2013 đến nay, khảo sát thực tế hoạt động GDHN tại
trường THPT Hòa Tú, THPT Văn Ngọc Chính, THPT Ngọc Tố của huyện Mỹ Xuyên,
tỉnh Sóc Trăng.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu thực hiện đồng bộ và có biện pháp quản lý công tác GDHN của ba trường
THPT huyện Mỹ Xuyên, tỉnh sóc Trăng có hiệu quả, thì việc phân luồng học sinh sau


11
THCS (vừa học văn hóa, vừa học nghề thì sau 03 năm các em có được nghề nhất định
để đi làm) hoặc tốt ngiệp THPT đi vào lao động sản xuất hay tiếp tục lựa chọn con
đường học tập cao hơn sẽ đúng hướng và hợp với nguyện vọng hơn. Giả thuyết này
khả thi sẽ góp phần nâng cao lực lượng lao động lành nghề để thúc đẩy phát triển KT XH của tỉnh Sóc Trăng nói chung và huyện Mỹ Xuyên nói riêng.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
- Quan điểm hệ thống - cấu trúc
Vấn đề được nghên cứu một cách toàn diện, khách quan: Quản lý hoạt động
GDHN ở các trường THPT huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng phải được xem xét trong
mối quan hệ với các hoạt động khác trong nhà trường với việc thực hiện đồng bộ bốn
con đường GDHN, việc giảng dạy hoạt động GDHN cho HS THPT cũng như việc bồi
dưỡng đội ngũ tham gia hoạt động GDHN ở các trường THPT trong phạm vi toàn
quốc so với mục tiêu giáo dục và đào tạo chung.

- Quan điểm thực tiễn
Qua điều tra, nghiên cứu thực tế, phân tích để phát hiện những tồn tại trong quản
lý hoạt động GDHN cho HS ở các trường THPT huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng, trên
cơ sở đó, đề ra những giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động GDHN ở các
trường THPT.
- Quan điểm lịch sử, logic
Tìm hiểu sự hình thành và phát triển của hoạt động GDHN trên thế giới và ở Việt
Nam. Đồng thời, xem xét xu thế phát triển KT-XH và nhu cầu nguồn nhân lực của đất
nước và trên địa bàn huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng trong những năm vừa qua cùng
với những thành tựu cần phát huy và những tồn tại cần khắc phục.
* Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp phân tích - tổng hợp, phân loại, hệ thống hóa những vấn đề lý
luận trong các văn bản, tài liệu, sách báo, thông tin trên mạng Internet có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu, từ đó xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát


12
Người nghiên cứu tiến hành quan sát có chủ định cách tổ chức, tiến hành quản
lý hoạt động GDHN ở các trường THPT, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương
tiện dạy học phục vụ cho công tác GDHN ở các trường THPT… nhằm thu thập thông
tin về thực trạng công tác quản lý hoạt động GDHN ở các trường THPT huyện Mỹ
Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
Phương pháp phỏng vấn
Người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn hoặc trao đổi với cán bộ quản lý, giáo
viên về công tác quản lý hoạt động GDHN ở các trường THPT huyện Mỹ Xuyên, tỉnh
Sóc Trăng.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động

Nghiên cứu các kế hoạch hoạt động GDHN, kế hoạch bài dạy GDHN ở các
trường THPT huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng nhằm thu thập thông tin về quản lý
hoạt động GDHN.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh Trung học
phổ thông huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng” mong muốn tìm ra những yếu tố chi
phối, tác động tới lựa chọn nghề của học sinh THPT. Từ đó, khái quát và tìm hiểu xu
thế chung của giới trẻ trong việc lựa chọn ngành nghề của họ. Bên cạnh đó, đề tài còn
mong muốn tìm hiểu nhận thức của học sinh về nghề nghiệp mà mình lựa chọn và
muốn có được trong tương lai, nguyên nhân dẫn tới sự nhận thức đó. Từ đó, có thể đưa
ra cho học sinh THPT những biện pháp có khả năng hữu ích, giúp họ định hướng cho
bản thân trong việc lựa chọn những việc làm nghề nghiệp thích hợp.
Qua đề tài, tác giả muốn làm rõ thực trạng chọn ngành nghề trong tương lai của
học sinh THPT trên địa bàn huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Thông qua đó chỉ ra
những điều bất cập, những vấn đề còn tồn tại, còn chưa phù hợp trong xu hướng lựa
chọn của họ. Ngoài ra, đề tài còn làm rõ nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa
chọn nghề nghiệp của học sinh. Từ đó, đưa ra những giải pháp mang tính thực tiễn
giúp cho các nhà quản lý có thêm những cơ sở khoa học, để hoạch định chính sách cho
phù hợp hơn với thực tế, đặc biệt là những chính sách GD - ĐT.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn có cấu trúc gồm 03 phần, ngoài phần mở đầu; phần nội dung của luận
văn gồm 03 chương; phần kết luận và kiến nghị; danh mục tài liệu tham khảo; phụ lục.


13


14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC

HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH CỦA BA TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Quản lý
Theo F.Taylor: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người
khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất và rẻ nhất”.
Theo Harold Koolz: Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối
hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của
mọi nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có
thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất
mãn cá nhân ít nhất.
Theo các nhà Tâm lý học thì: “Quản lý là hoạt động đặc biệt của con
người trong xã hội, mọi hoạt động rất phức tạp và đa dạng. Đó là sự tác động
toàn diện vào một nhóm người, một tập thể người, điều khiển họ hoạt động
nhằm đạt tới mục đích nhất định đã được đề ra từ trước”.
Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội: quản lý
gồm những công việc chỉ huy và tạo điều kiện cho những người khác thực hiện
công việc và đạt được mục đích của nhóm. Nói một cách đơn giản, dễ hiểu thì
quản lý là sự tác động liên tục, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức của chủ thể
quản lý đến tập thể những người lao đông (nói chung là khách thể quản lý có
liên quan) nhằm đạt được những mục tiêu dự kiến.
1.1.2 Quản lý trường học
Quản lý nhà trường là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp
với quy luật của chủ thể quản lý nhà trường, làm cho nhà trường vận hành theo
đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được mục tiêu kế hoạch đào
tạo của nhà trường, góp phần thực hiện mục tiêu chung của giáo dục: nâng cao



15
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quản lý nhà trường bao gồm hai loại tác động quản lý: tác động của
những chủ thể quản lý bên trong và bên ngoài nhà trường, tác động của chủ thể
quản lý bên trong nhà trường.
Quản lý nhà trường là những tác động quản lý của các cơ quan quản lý
giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy,
giáo dục, học tập của nhà trường.
Quản lý nhà trường cũng bao gồm những chỉ dẫn, quyết định của các thực
thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên quan trực tiếp với nhà trường như cộng
đồng được đại diện dưới hình thức Hội đồng nhân dân, nhằm định hướng sự
phát triển của nhà trường và hỗ trợ tạo điều kiện cho việc thực hiện phương
hướng phát triển đó.
Quản lý nhà trường do chủ thể quản lý bên trong nhà trường (Hiệu
trưởng) bao gồm các hoạt động: quản lý giáo viên, quản lý học sinh, quản lý quá
trình dạy học - giáo dục, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, quản
lý tài chính trường học, quản lý lớp học như nhiệm vụ của giáo viên, quản lý
quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng.
Như vậy, quản lý nhà trường còn được coi là tập hợp những tác động tối
ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp) của chủ thể quản
lý tới tập thể giáo viên, học sinh và cán bộ, công nhân viên khác trong nhà
trường, nhằm tận dụng các nguồn lực do Nhà nước đầu tư, do xã hội đóng góp
và do nhà trường tạo ra để hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà
trường mà trọng tâm là hoạt động dạy học – giáo dục.
1.1.3 Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp là một nội dung của quản lý
trường học, là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ
thể quản lý đến hoạt động giáo dục hướng nghiệp để đạt mục đích giáo dục
hướng nghiệp. Vậy, quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp được coi là tập

hợp những tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can


16
thiệp) của chủ thể quản lý tới tập thể giáo viên, học sinh và cán bộ, công nhân
viên khác trong nhà trường, nhằm tận dụng các nguồn lực do Nhà nước đầu tư,
do xã hội đóng góp và do nhà trường tạo ra để hướng vào việc đẩy mạnh mọi
hoạt động của nhà trường mà trọng tâm là hoạt động dạy học - giáo dục.
1.1.4. Nghề nghiệp
Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức lao động vật chất và tinh thần
của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân công lao
động xã hội mà có). Nó tạo cho con người khả năng sử dụng lao động của mình
để thu lấy những phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát triển.
1.1.4. Lựa chọn
Thuật ngữ “lựa chọn” được dùng để nhấn mạnh việc phải cân nhắc, tính
toán để quyết định sử dụng loại phương thức hay cách thức tối ưu trong số
những điều kiện hay cách thức hiện có để đạt được mục tiêu trong các điều kiện
khan hiếm nguồn lực.
Các em học sinh lớp 12 trước khi chuẩn bị tốt nghiệp thường được nhà
trường, gia đình, người thân tư vấn trong việc chọn trường, ngành học phù hợp
với mục tiêu nghề nghiệp và học lực. Sau khi chọn ngành, nghề mình thích, căn
cứ vào các tiêu chí: năng lực bản thân, điểm chuẩn, chỉ tiêu tuyển, nhu cầu xã
hội, việc làm sau khi ra trường, điều kiện vị trí địa lý... Học sinh xác định cấp
học phù hợp với năng lực rồi chọn trường và làm các thủ tục đăng ký dự thi.
Trong nghiên cứu này, khái niệm chọn trường được hiểu là quyết định chọn
trường Đại học, Cao đẳng (Học viện) để đăng ký dự thi và theo học sau khi tốt
nghiệp THPT.
1.1.4. Hướng nghiệp
Tuỳ thuộc vào đặc trưng cho mỗi lĩnh vực hoạt động khoa học mà khi
xem xét hoạt động HN có thể có những quan điểm khác nhau về khái niệm này.

Các nhà tâm lý học cho rằng đó là hệ thống các biện pháp sư phạm, y học giúp
cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu của xã hội và năng lực của bản
thân; các nhà kinh tế học thì cho rằng đó là những mối quan hệ kinh tế giúp cho
mỗi thành viên xã hội phát triển năng lực đối với lao động và đưa họ vào một


17
lĩnh vực hoạt động cụ thể, phù hợp với việc phân bố lực lượng lao động xã hội...
Trong nghiên cứu này, dưới góc độ giáo dục phổ thông, HN là sự tác động của
một tổ hợp các lực lượng xã hội, lấy sự chỉ đạo của hệ thống sư phạm làm trung
tâm vào thế hệ trẻ, giúp cho các em có những hiểu biết cơ bản về một số ngành
nghề phổ biến để khi tốt nghiệp ra trường, các em có thể lựa chọn cho mình một
cách có ý thức nghề nghiệp tương lai.
1.1.5. Tư vấn Hướng nghiệp
Tư vấn HN là tư vấn về sự hỗ trợ khách quan và cả cách nỗ lực chủ quan
trong quá trình HN. Nó có lợi cho người đang cần tư vấn HN và cũng lợi cho cả
người cần dẫn dắt người khác HN (như phụ huynh, thầy cô, bạn bè…) Như vậy,
tư vấn HN là một quá trình hoạt động tích cực, tự giác của học sinh dưới sự
hướng dẫn của nhà trường, của gia đình cùng sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội để
giúp học sinh tìm hiểu về thế giới nghề nghiệp và chọn được ngành nghề phù
hợp trong tương lai.
1.2. Các yếu tố tác động hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông
1.2.1. Yếu tố GDHN của nhà trường
Về mặt lí luận, GDHN trong nhà trường phải đóng vai trò chủ đạo trong
việc định hướng và lựa chọn nghề nghiệp của học sinh. HN cho học sinh trong
trường phổ thông được thể hiện như là một hệ thống tác động sư phạm nhằm
giúp cho các em lựa chọn được nghề nghiệp một cách hợp lý. Trong nhà trường,
GDHN là một trong những hình thức hoạt động học tập của học sinh. Thông qua
hoạt động này, mỗi học sinh phải lĩnh hội được những thông tin về nghề nghiệp
trong xã hội, nắm được hệ thống các yêu cầu của từng nghề cụ thể mà mình

muốn chọn, phải có kĩ năng tự đối chiếu những phẩm chất, những đặc điểm tâm
- sinh lý của mình với hệ thống yêu cầu của nghề đang đặt ra cho người lao
động... Như vậy, thông qua việc tổ chức hoạt động GDHN, nhà trường sẽ giúp
cho học sinh lựa chọn nghề nghiệp một cách phù hợp về nhu cầu, hứng thú, sở
trường, đặc điểm tâm - sinh lý của mỗi học sinh, đồng thời phù hợp với điều kiện
của mỗi học sinh cũng như nhu cầu về nhân lực của xã hội đối với nghề. Từ đó
giúp điều tiết hợp lý việc chuẩn bị nguồn lực lao động cho xã hội, đáp ứng tốt


18
nhu cầu về nguồn nhân lực của đất nước trong quá trình CNH - HĐH. Từ đó có
thể khẳng định, GDHN và tư vấn HN học đường là không thể thiếu trong các
hoạt động giáo dục ở trường phổ thông. Là một trong các mặt giáo dục phát
triển toàn diện cho học sinh, hơn nữa nó còn mang ý nghĩa KT - XH rất lớn.
1.2.2. Yếu tố bạn bè
Mở rộng các mối quan hệ xã hội trong đó có quan hệ bạn bè là một đặc
điểm tâm lý quan trọng của lứa tuổi học sinh THPT. Quan hệ bạn bè là một nhu
cầu không thể thiếu và được các em rất coi trọng, bởi vì thông qua mối quan hệ
này các em có thể giải bày tâm sự, nguyện vọng, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, kể
cả những điều thầm kín, riêng tư những dự định về nghề nghiệp, về tương lai.
Trong mối quan hệ này các em có thể tự khẳng định được khả năng, vị trí của
mình, được giúp đỡ bạn bè. So với tình bạn của lứa tuổi học sinh THCS thì tình
bạn của học sinh THPT có nhiều sự khác biệt, các em chọn bạn trên cơ sở của sự
phù hợp về nhiều mặt và sự cân nhắc, vì vậy, mối quan hệ này thường khá bền
chặt và tồn tại suốt cuộc đời các em. Chính vì vậy bạn bè cùng lớp, cùng trường
cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của học
sinh THPT.

1.2.3. Yếu tố các phương tiện thông tin đại chúng và các tổ chức xã hội
Trong thời đại bùng nổ của thông tin và các phương tiện thông tin đại

chúng như hiện nay đã tác động không nhỏ tới việc lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh. Với sự hỗ trợ của sách, báo, phim ảnh, truyền hình đặc biệt là kho
thông tin khổng lồ - mạng Internet, các em dễ dàng nắm bắt, tiếp thu các thông
tin đa dạng về mọi mặt của các lĩnh vực đời sống xã hội. Tuy nhiên, dù đa dạng
đến mức nào thì đây cũng là những dạng thông tin một chiều, ít có cơ hội để các
em trao đổi và nhận được sự tư vấn cần thiết đặc biệt là trong vấn đề tư vấn HN.
Tuy nhiên cũng cần được phải khẳng định rằng trong điều kiện GDHN trong các
nhà trường và gia đình đang có nhiều bất cập như hiện nay thì các phương tiện
thông tin đại chúng giữ vai trò quan trọng, đã phần nào cung cấp cho học sinh
các thông tin về nghề nghiệp trong xã hội, các yêu cầu của nghề... giúp cho học
sinh tự định hướng trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Bên cạnh đó các tổ chức


19
khác như: Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh, các trung tâm tư
vấn... có tác động đáng kể đến việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh ở địa
phương, đặc biệt là ở các địa phương có nghề truyền thống. Các tổ chức xã hội
này đóng vai trò là tư vấn, cung cấp cho các em thông tin về nghề, các yêu cầu
của nghề, hỗ trợ học nghề và việc làm... Trên các phương tiện thông tin đại
chúng gần đây (truyền hình, báo chí...) cũng đã có các chương trình về HN và tư
vấn mùa thi tuy nhiên nội dung vẫn chủ yếu xoay quanh việc giải đáp các thắc
mắc của học sinh khi đi thi, làm bài thi... Hàng năm Bộ GD - ĐT xuất bản cuốn
sách hướng dẫn tuyển sinh khá chi tiết nhưng nội dung cũng chỉ đề cập đến việc
giới thiệu trường, mã trường, môn thi, chỉ tiêu tuyển sinh, địa điểm trường... mà
thiếu hẳn phần giới thiệu sâu về các trường, các ngành học, các đặc điểm, yêu
cầu của ngành đó đối với người học, và nhiều thông tin cần thiết khác như
hướng dẫn các em nên học trường nào, ngành nghề gì là phù hợp với khả năng
và điều kiện của mỗi học sinh, thiếu các trắc nghiệm (test) khách quan giúp học
sinh bước đầu tìm ra sự phù hợp của bản thân với những ngành nghề mà các em
đang lựa chọn.

1.3. Quản lý hoạt động GDHN cho học sinh trung học phổ thông
1.3.1. Định nghĩa
GDHN là một bộ phận của giáo dục toàn diện. Thông qua GDHN, mỗi
học sinh có sự hiểu biết về tính chất và đòi hỏi của ngành nghề mà mình hướng
tới, biết phân tích thị trường hoạt động và sự đào tạo nghề tương ứng, tự sàng
lọc những nguồn tư vấn để tự mình tháo gỡ vướng mắc hoặc rèn luyện bản thân.
Từ đó, mỗi học sinh tự xác định được đâu là nghề nghiệp phù hợp hoặc không
phù hợp với mình.
1.3.2. Quản lý hoạt động GDHN
GDPT là một tiểu hệ thống trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam.
Hệ thống này có một vai trò và vị trí rất quan trọng trong quá trình giáo dục hình
thành nhân cách con người Việt Nam mới. Cơ sở GDPT gồm trường tiểu học,
trường THCS, trường THPT, trường phổ thông có nhiều cấp học, trung tâm kỹ
thuật tổng hợp - HN. Mục tiêu giáo dục ở trường THPT đã được Luật giáo dục


20
2009 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu lên ở điều 27: “Giúp
HS củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn
phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và HN, có điều kiện
phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học,
cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”.
HN ở trường phổ thông là bước khởi đầu quan trọng trong quá trình phát
triển nguồn nhân lực. Vì vậy quản lý GDHN ở trường THPT trong giai đoạn
hiện nay là quản lý các thành tố và mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc của
quá trình GDHN nhằm đạt mục tiêu GDHN. Các thành tố và mối quan hệ này
được biểu diễn bằng sơ đồ 1.1 sau đây:

Mục tiêu GDHN


Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc
Nộiquá
dungtrình
GDHNGDHN
của

Trong công tác HN, nhà trường cần phải hình thành bộ máy tổ chức từ
Phương pháp GDHN

Môi
lãnh đạoMôi
nhà trường và các bộ phận phụ trách đến đội ngũ giáo
viên giảng dạy.
trường
trường

Cụ thể làtựthành lập Ban HN Phương
bao gồm
tiểu ban như: HN, xãtư vấn nghề, lao
tiện các
GDHN
hội

động kỹnhiên
thuật.

GDHN
Qua kết quả điều tra tạiLực
ba lượng
trường

THPT của huyện Mỹ Xuyên thì chỉ có

12.6% cho rằng có cán bộ chuyên trách, 82.1% là bán chuyên trách, 5.3% cán
Hình thức GDHN

bộ, giáo viên chưa có kiến thức đầy đủ về hoạt động GDHN.
1.3.3. Nội dung quản lý HN

Kết quả GDHN

Bao gồm 3 nội dung:
- Định hướng nghề nghiệp.
- Tư vấn nghề nghiệp.
- Tuyển chọn nghề là xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu của nghề để tuyển
nghề phù hợp vào học hay làm việc.


21
Ba nội dung này có mối liên hệ với nhau, hỗ trợ nhau, trong đó Tư vấn
nghề nghiệp là cầu nối giữa Định hướng nghề nghiệp và Tuyển chọn nghề, được
biểu diễn theo sơ đồ 1.2 sau:

Định hướng nghề nghiệp

Tư vấn nghề nghiệp

Tuyển chọn nghề nghiệp
1.2 Mối quan hệ của nội dung GDHN

Từ ba nội dung trên bổ sung thêm ba nội dung khác tạo thành sáu thành tố

trong nội dung GDHN được biểu diễn bằng sơ đồ Platônôp dưới đây:

Định hướng nghề

1

2

3

Đặc điểm yêu cầu hệ thống
Nghề xã hội cần phát triển
Tư vấn nghề

Thị trường lao động

Phẩm chất năng lực, hoàn cảnh cá nhân

1.3.4. Nội dung GDHN
Nội dung cụ thể GDHN ở trường THPT được bố trí như sau:

Tuyển chọn nghề


22
Lớp

10

Bài

1

Lựa chọn nghề nghiệp tương lai

2

Năng lực bản thân và truyền thống gia đình

3

Tìm hiểu nghề dạy học

4

Giới tính ghề nghiệp

5

Tìm hiểu một số nghề thuộc Nông - Lâm - Ngư nghiệp

6

Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành Y - Dược

7

Tham quan một số đươn vị sản xuất công hoặc nông nghiệp

8


Tìm hiểu một số ngành xây dựng

9

Nghề tương lai của tác giả

1

Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành Giao thông - Địa chất

2

Tìm hiểu một số nghề thuộc lĩnh vực kinh doanh dịch vụ

3

Tìm hiểu một số nghề thuộc lĩnh vực an ninh quốc phòng

4
11

5

Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành năng lượng, bưu chính
viễn thông, công nghệ thông tin
Giao lưu với điển hình về sản xuất kinh doanh giỏi, những
gương vượt khó

6


Nghề nghiệp với nhu cầu của thị trường lao động

7

Thảo luận: Tác giả muốn đạt được ước mơ của mình

8
12

Nội dung

Tham quan một số trường Đại học, Cao đẳng, TCCN, dạy
nghề

1

Định hướng phát triển kinh tế của đát nước, của địa phương

2

Thảo luận: những điều kiện để thành đạt trong nghề

3

Tìm hiểu hệ thống trường TCCN và đào tạo nghề của trung
ương và địa phương


23
4


Tìm hiểu hệ thống đào tạo Đại học, Cao đẳng

5

Thảo luận: Thanh niên lập thân, lập nghiệp

6

Tư vấn nghề

7

Hướng dẫn học sinh chọn nghề cụ thể để làm hồ sơ tuyển sinh

8

Tham quan hoặc tổ chức hoạt động văn hóa theo chủ đề
hướng nghiệp

1.3.4.1. Các hình thức tư vấn HN
1) Tư vấn thông tin hướng dẫn: nhằm giới thiệu nghề, nhóm nghề mà
thanh thiếu niên định chọn qua các bản mô tả nghề. Ở đây, người cán bộ tư vấn
sẽ giới thiệu về những yêu cầu do nhóm nghề đề ra đối với những phẩm chất cá
nhân của con người, đồng thời chỉ ra con đường để đạt được nghề nghiệp và
triển vọng nâng cao tay nghề.
2) Tư vấn chẩn đoán trên cơ sở nghiên cứu và đo đạc nhân cách con
người một cách toàn diện được thực hiện bằng các test như: tìm hiểu hứng thú
xu hướng nghề; tìm hiểu kiểu thần kinh khí chất; trắc nghiệm tư duy; trắc
nghiệm trí nhớ; trắc nghiệm trí tưởng tượng không gian; trắc nghiệm chú ý; trắc

nghiệm khả năng giao tiếp; trắc nghiệm khả năng kinh doanh... để tìm hiểu hứng
thú, thiên hướng, năng lực và những phẩm chất nghề chuyên biệt của con người.
Mục đích của tư vấn chẩn đoán là xác định trong những lĩnh vực hoạt động nào
con người có thể lao động thành công nhất, tức là đem lại lợi ích tối đa cho xã
hội, đồng thời cũng đem lại niềm vui và sự hài lòng cho bản thân người lao
động.
3) Tư vấn y học: người làm tư vấn đo đạc các chỉ số tâm sinh lý như thị
giác, thính giác, xúc giác, sự phối hợp cảm giác vận động, sự phối hợp hành
động. Nếu như người được tư vấn mắc một trong những bệnh thuộc loại chống
chỉ định của nghề thì người cán bộ tư vấn sẽ khuyên nên chọn một nghề khác
gần gũi với thiên hướng và hứng thú, đồng thời phù hợp với trạng thái sức khoẻ
của người đó. Chẳng hạn, những người rối loạn sắc giác sẽ không được chọn


24
những ngành nghề giao thông vận tải, thông tin tín hiệu...
4) Tư vấn hiệu chỉnh: được tiến hành trong trường hợp ý định nghề
nghiệp của con người không phù hợp với khả năng và năng lực thực tế của họ.
Trong trường hợp này, kế hoạch nghề nghiệp của cá nhân cần được xem xét và
uốn nắn lại cho phù hợp với tình hình. Ví dụ: trên cơ sở những cứ liệu thu được
khi nghiên cứu nhân cách con người, cán bộ tư vấn sẽ khuyên thanh thiếu niên
nên chọn một nghề khác, phù hợp với những đặc điểm tâm sinh lý của mình
hơn.
Ngoài ra, người ta có thể chia tư vấn HN thành 2 loại: tư vấn sơ bộ và tư
vấn chuyên sâu:
1) Tư vấn sơ bộ: loại này đơn giản có thể thực hiện ở nhiều trường vì
không đòi hỏi phải có thiết bị, các phương tiện kỹ thuật. Chẩn đoán những phẩm
chất nhân cách của học sinh không cần đòi hỏi phải có đội ngũ chuyên gia tư vấn
HN có tay nghề cao, am hiểu sâu sắc các lĩnh vực tâm sinh lý, giáo dục học, y
học, kinh tế học. Ở đây, giáo viên (chủ nhiệm hoặc bộ môn) đóng vai trò “nhà

tư vấn” cần có những hiểu biết về yêu cầu của một số ngành nghề ở một số
trường hoặc ở địa phương, về nhu cầu nhân lực, về năng lực của học sinh. Từ đó
cho học sinh lời khuyên nên học nghề gì và học ở đâu. Hoặc là qua những điều
giảng giải của giáo viên để học sinh tự trả lời được 3 câu hỏi: Em có muốn
(thích) học nghề đó không? Em có khả năng làm nghề đó không? Xã hội, địa
phương có cần nghề đó không?
2) Tư vấn chuyên sâu: loại này phức tạp vì việc tư vấn được tiến hành
trên cơ sở khoa học thực sự, đảm bảo độ chính xác cao nhờ một số máy móc
hiện đại (ví dụ máy đo độ chính xác của các cử động, sự khéo léo vận động của
2 tay...). Điều kiện để tư vấn HN chuyên sâu là phải có đội ngũ chuyên gia tư
vấn HN được đào tạo có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao gồm các nhà tâm lý
học, giáo dục học, kinh tế học, bác sĩ có kinh nghiệm thực tế. Họ phải được
huấn luyện nghiêm chỉnh để có kiến thức về thế giới nghề nghiệp, về yêu cầu
của nghề, về nhân cách, trước hết về động cơ, hứng thú, khuynh hướng và năng
lực nghề nghiệp của học sinh, về kinh tế, về nhu cầu phát triển nhân lực của các


25
ngành nghề kinh tế quốc dân và địa phương. Đặc biệt phải có kiến thức sâu sắc
về HN, tư vấn HN chọn nghề, kỹ thuật tư vấn HN, biết sử dụng thành thạo các
phương pháp test chẩn đoán khả năng trí tuệ, khả năng vận động và nhân cách
của học sinh. Đương nhiên, kèm theo các phương pháp này là những máy móc,
thiết bị, những phương tiện kỹ thuật.
1.3.4.2. Các nội dung tư vấn HN
1) Giúp học sinh tìm hiểu thế giới nghề nghiệp: Học sinh được tính đa
dạng phong phú của nghề, xu hướng phát triển của nghề, các yêu cầu của nghề,
đặc biệt là các yêu cầu về tâm sinh lý, những điều kiện học nghề và vào nghề…
Đồng thời, qua quá trình tìm hiểu nghề, ở học sinh sẽ xuất hiện và phát triển
hứng thú nghề nghiệp. Từ đó hình thành ở học sinh những biểu tượng đúng đắn
về những nghề cần phát triển; hình thành và rèn luyện cho các em phương pháp

tìm thông tin. Một số thông tin cụ thể như: thông tin về ngành, nhóm nghề và
nghề cụ thể; thông tin về cơ sở đào tạo; thông tin về nghề nghiệp và cơ sở đào
tạo mà bản thân học sinh thích.
2) Giúp học sinh tìm hiểu thông tin về định hướng phát triển KT - XH, về
thị trường lao động ở địa phương, cả nước và xa hơn nữa là trong khu vực và thế
giới; giúp học sinh tiếp cận dần về hệ thống thông tin về đào tạo nhân lực và việc
làm, giúp các em quen dần với những tính chất, quy luật của thị trường lao
động; giúp các em thấy được đòi hỏi mới về nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá để các em có trình độ tự chủ cao hơn, có kỹ năng giao
tiếp, tinh thần trách nhiệm và sáng kiến trong lao động. Do tính biến động của
thị trường lao động, người lao động cũng cần thể hiện tính năng động, thích ứng
qua việc không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn hoá. Và
những nội dung này cũng có tính đến đặc điểm nhận thức, tâm sinh lý lứa tuổi.
Các nội dung cụ thể: thông tin về phương hướng phát triển KT - XH; thông tin
về thị trường lao động.
3) Giúp học sinh tự đánh giá hứng thú và năng lực nghề nghiệp của bản
thân: Hứng thú là một động lực hết sức quan trọng để con người gắn bó với
nghề; hứng thú được coi như một chỉ số quan trọng hàng đầu để xét sự phù hợp


×