Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN KINH tế NÔNG NGHIỆP ở TỈNH bắc NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.21 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1.1.
1.2.

NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH
Quan niệm về phát triển kinh tế nông nghiệp
Quan niệm, sự cần thiết và nội dung phát triển kinh tế

11
11

nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG

18

NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH

29

2.1.

Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội chi phối sự phát


29

2.2.

triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh -

Thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra hiện nay
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

33

3.1.
3.2.

KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH
Quan điểm phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh

53
53

Giải pháp phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
thời gian tới

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

56
78

79
86


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất xuất hiện từ rất sớm, gắn liền
với sự hình thành, phát triển xã hội loài người, trở thành ngành sản xuất vật
chất cơ bản. Không chỉ trước đây, khi ngành công nghiệp chưa phát triển, mà
cả hiện nay, ngay khi cách mạng khoa học và công nghệ (KH&CN) đang phát
triển mạnh mẽ với nhiều đột biến, mặc dù chiếm tỷ trọng không lớn, song sản
xuất nông nghiệp (SXNN) vẫn luôn là một ngành kinh tế có vai trò đặc biệt
quan trọng của nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ. Do đó phát triển kinh tế nông
nghiệp (KTNN) là khách quan, cần thiết đối với sự phát triển, đặc biệt đối với
một quốc gia có nền tảng nông nghiệp lâu đời như Việt Nam. Thành tựu phát
triển KTNN nước ta thời kỳ đổi mới đã khẳng định vai trò quan trọng của
KTNN đối với phát triển bền vững (PTBV), góp phần đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa (CNH,HĐH) và bảo vệ môi trường sinh thái.
Bắc Ninh là tỉnh ở vùng đồng bằng Sông Hồng, thuộc khu vực đồng
bằng Bắc Bộ với địa hình tương đối bằng phẳng, thời tiết khí hậu ôn hoà,
nguồn nước phong phú, đất đai màu mỡ do được bồi đắp phù sa của hệ
thống sông Hồng và sông Thái Bình, rất phù hợp cho sự sinh trưởng phát
triển của nhiều loại cây trồng, vật nuôi. Đây là tiền đề quan trọng, tạo thuận
lợi để nông nghiệp Bắc Ninh phát triển, nhất phát triển nông nghiệp phục
vụ công nghiệp và khu vực đô thị; cung cấp lương thực, thực phẩm sạch,
chất lượng cao cho các thị trường Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, nhất là
rau xanh, hoa tươi, cây cảnh, thuỷ sản, thịt lợn nạc, bò sữa… Thực tiễn
những năm qua cho thấy, KTNN đóng vai trò quan trọng trong tích lũy vốn
cho quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH của địa phương. KTNN thường xuyên
đóng góp trên 40% GDP và cung cấp nguyên liệu ổn định cho nhiều ngành

công nghiệp chế biến trên địa bàn. Đồng thời, giải quyết việc làm cho lực
lượng lớn lao động tại địa phương.
3


Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nhìn chung SXNN ở Bắc Ninh
còn phân tán, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản
thấp; cơ cấu kinh tế và lao động chuyển dịch chậm; kết cấu hạ tầng KT-XH
nông thôn kém, môi trường ô nhiễm nặng nề…Nguyên nhân chính của thực
trạng trên là do địa phương chưa phát huy triệt để, khai thác hiệu quả tiềm
năng và thế mạnh của Tỉnh về nông nghiệp.
Với mong muốn góp phần để KTNN Bắc Ninh PTBV hơn, học viên
chọn đề tài “Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh” làm nội dung
nghiên cứu của luận văn thạc sĩ, chuyên ngành kinh tế chính trị. Mặt khác,
đây còn là vấn đề đặt ra từ thực tiễn và yêu cầu tái cơ cấu ngành nông nghiệp
ở tỉnh Bắc Ninh. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Từ khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH,HĐH, thì
nông nghiệp và triển KTNN là một vấn mới, thu hút sự quan tâm nhiều hơn
của các cơ quan nghiên cứu và nhà khoa học. Cho đến nay, đã có nhiều công
trình nghiên cứu với nhiều cấp độ khác nhau về phát triển KTNN nhằm mục
đích và góc độ tiếp cận khác nhau liên quan trực tiếp đến nội dung nghiên cứu
của luận văn. Trong đó có các công trình điển hình như:
Đồng Thị Hạnh (2015), Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Đồng
Nai, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị, Học Viện chính trị, Hà
Nội. Trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận chung về KTNN và phát triển
KTNN; tác giả đã luận giải, làm rõ nội dung, vai trò phát triển KTNN cũng
như các nhân tố tác động đến phát triển KTNN. Đặc biệt, tác giả khái quát
tương đối rõ 5 bài học trên cơ sở kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của một

số nước có nền nông nghiệp phát triển như Thái Lan, Đài Loan, Hàn Quốc.
Trên cơ sở những vấn đề lý luận cơ bản như vậy, tác giả đã phân tích, làm rõ
thực trạng phát triển KTNN ở tỉnh Đồng Nai; trong đó làm rõ cả thành tựu và
4


hạn chế. Đồng thời từ thực trạng này, tác giả đã khái quát 3 vấn đề đặt ra vừa
mang ý nghĩa là hạn chế, yếu kém; vừa là những mâu thuẫn cần sớm được
giải quyết. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm
phát triển KTNN ở Đồng Nai trong thời gian tới. Mặc dù không gian, nhất là
điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội để phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh
Đồng Nai khác với tỉnh Bắc Ninh, nhưng một số vấn đề lý luận chung về
nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp là những nội dung có thể kế thừa, vận
dụng vào nghiên cứu về phát triển KTNN ở tỉnh Bắc Ninh.
Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2014), Kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Sơn La,
Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đã hệ thống hóa và luận giải rõ những vấn đề
lý luận về KTNN như: khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung cấu thành và
nhân tố ảnh hưởng đến KTNN ở tỉnh Sơn La. Đặc biệt, trên cơ sở kinh
nghiệm phát triển KTNN của tỉnh Yên Bái, Lào Cai và Thái Nguyên, tác giả
đã rút ra năm bài học kinh nghiệm về phát triển KTNN cho tỉnh Sơn La. Mặt
khác, tác giả đã khái quát, làm rõ bức tranh thực trạng về KTNN ở tỉnh Sơn
La; trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển KTNN tỉnh
Sơn La đến năm 2020. Có thể nói, tuy địa bàn cũng như mục đích và nhiệm
vụ nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp khác nhau, nhưng nhiều nội dung
nghiên cứu của công trình này, cả về lý luận và thực tiễn, có thể kế thừa để
nghiên cứu về phát triển KTNN ở tỉnh Bắc Ninh.
Nguyễn Duy Cường (2010), Phát triển KTNN, nông thôn trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, Luận văn
Thạc sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh [15]. Tác giả

luận văn đã phân tích, làm rõ thực trạng phát triển KTNN trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Can Lộc. Từ thực trạng và một số vấn
đề đặt ra về phát triển KTNN, nông thôn ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh trước
những năm 2010, tác giả đề ra quan điểm và giải pháp cơ bản để KTNN ở
huyện Can Lộc phát triển tốt hơn thời gian tới.
5


Đặng Kim Sơn - Chủ biên (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Việt Nam hôm nay và mai sau, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [37]. Tác giả
của công trình nghiên cứu này đã đánh giá, phân tích khá rõ vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam cả hiện tại và tương lai gần. Xuất phát
từ thực tiễn nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta hiện nay, tác giả đã
luận giải, làm rõ những vấn đề cấp bách cần thực hiện trong thời gian tới.
Trong đó có một số giải pháp về giải quyết mối quan hệ giữa nông nghiệp,
nông dân và nông thôn có thể tham khảo để nghiên cứu vấn đề phát triển
KTNN ở tỉnh Bắc Ninh.
Lê Bích Thủy (2009), Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở tỉnh Lào Cai,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [47]. Trên
cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hóa ở tỉnh
Lào Cai từ trước năm 2009, luận văn đã đề xuất một số giải pháp cơ bản và
cần thiết về phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Lào Cai những năm tiếp theo.
Tuy địa bàn khảo sát nghiên cứu khác nhau, nhưng luận văn có một số nội
dung liên quan có thể nghiên cứu, vận dụng.
Nguyễn Đình Phan, Trần Minh Đạo và Nguyễn văn Phúc - Đồng chủ
biên (2002), Những biện pháp thúc đẩy CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn
vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [34]. Trên cơ sở
làm rõ thực trạng phát triển nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông
Hồng, các tác giả đề xuất hệ thống giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng.

Với kết quả nghiên cứu này giúp cho nhiều địa phương có hướng đi đúng để
phát triển KTNN, nông thôn trong quá trình CNH,HĐH ở địa phương mình.
Tuy nhiên do phạm vi không gian nghiên cứu là vùng đồng bằng sông Hồng
nói chung, nên vấn đề phát triển KTNN ở tỉnh Bắc Ninh chưa được đề cập
nghiên cứu ở công trình này.
Hà Lệ Hằng, Lê Thị Anh Đào (2003), Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta, Tạp chí Sinh hoạt Lý
6


luận, số 5/2003 [21]. Ở công trình này, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội không chỉ đã được luận giải, làm rõ, mà các tác giả còn đưa
ra một số định hướng cơ bản vận dụng quan điểm của Người về việc phát
triển KTNN và xây dựng nông thôn ở nước ta hiện nay. Do giới hạn của một
bài báo khoa học cũng như mục đích nghiên cứu của các tác giả nên ở công
trình này các tác giả không đề cập nghiên cứu về KTNN nói chung, phát triển
KTNN ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
Hà Lệ Hằng (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa nông
nghiệp với công nghiệp, Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, số 2/2004 [22]. Tác giả đã
phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa nông nghiệp với
công nghiệp ở nước ta. Trên cơ sở đó đề xuất một số định hướng gắn công
nghiệp với nông nghiệp nhằm phát triển KTNN và kinh tế công nghiệp một
cách hài hòa, toàn diện. Như vậy, ở công trình này tác giả không đề cập phát
triển kinh tế nông nghiệp như một đối tượng nghiên cứu riêng mà đặt trong
mối quan hệ với phát triển kinh tế công nghiệp ở nước ta nói chung. Vì vậy,
tuy phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh không được đề cập nghiên
cứu ở công trình nay, nhưng một số nội dung liên quan đến nông nghiệp và
phát triển kinh tế nông nghiệp có thể kế thừa, phát triển.
Hà Công Nghĩa (2004): “Sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh

hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh [31]. Luận văn đã chỉ rõ thực trạng sử dụng đất nông nghiệp ở
tỉnh Bắc Ninh từ năm 1998 đến năm 2003. Đồng thời, tác giả đã đề xuất được
những giải pháp hữu ích cho việc sử dụng đất nông nghiệp đến năm 2010. Từ
đó có thể vận dụng để tỉnh Bắc Ninh có hướng sử dụng đất nông nghiệp đúng
mục đích và có hiệu quả.
Đào Công Nhanh (2000), Phát triển Kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Kiên
Giang, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh [32]. Về lý luận, tác giả đã luận giải làm rõ
một số vấn đề lý luận như: khái niệm về nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp.
7


Đặc biệt, trên cơ sở kinh tế học Mác - Lênin và kinh tế học hiện đại, tác giả đã
luận giải về vai trò của nông nghiệp trong phát triển kinh tế. Về thực tiễn, trên
cơ sở kết quả điều tra, khảo sát và đánh giá tương đối toàn diện cả thành tựu
và hạn chế của phát triển KTNN, tác giả luận văn đã đưa ra định hướng và
giải pháp phát triển nông nghiệp ở tỉnh Kiên Giang theo hướng nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và tính cạnh tranh của nông sản hàng hóa ở tỉnh
Kiên Giang. Như vậy, một số vấn đề lý luận về nông nghiệp, KTNN là kết
quả nghiên cứu của công trình này có thể kế thừa để nghiên cứu về phát triển
KTNN ở tỉnh Bắc Ninh.
Trần Xuân Châu (2000), Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh sự
phát triển nền nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh [6]. Tác giả luận án đã
phân tích, làm rõ bức tranh thực trạng về phát triển nông nghiệp hàng hóa ở
nước ta thời gian trước năm 2000. Đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm
phát triển nền nông nghiệp hàng hóa ở nước ta những năm tiếp theo. Đây là
một trong những công trình nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn, có thể ứng dụng
vào phát triển KTNN ở nhiều địa phương nước ta.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên tiếp cận ở nhiều khía cạnh

khác nhau về KTNN, phát triển KTNN, hay nghiên cứu sâu về nông nghiệp,
nông dân và nông thôn. Tuy có sự khác nhau về góc độ tiếp cận, nội dung và
phạm vi đề cập nhưng các công trình trên đều hướng tới giải quyết các vấn đề
về lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển KTNN trên phạm vi cả nước
hay một số địa phương.
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên tuy công bố gần đây và được
tiếp cận nghiên cứu từ nhiều chuyên ngành kinh tế khác nhau (kinh tế chính
trị, kinh tế kỹ thuật, kinh tế ngành, hay quản lý kinh tế...) với mục đích, nhiệm
vụ và không gian nghiên cứu khác nhau (cả nước, vùng miền, địa phương hay
lĩnh vực khác nhau), song chưa có công trình nào nghiên cứu về phát triển kết
KTNN ở tỉnh Bắc Ninh. Vì vậy, nghiên cứu “Phát triển kinh tế nông nghiệp
ở tỉnh Bắc Ninh” là nội dung mới, không trùng lặp với các công trình khoa
8


học đã công bố gần đây mà tác giả tiếp cận tìm hiểu. Đây là vấn đề mới, có ý
nghĩa thực tiễn, trực tiếp phục vụ phát triển KTNN ở tỉnh Bắc Ninh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển KTNN; đồng thời đánh
giá thực trạng phát triển KTNN ở tỉnh Bắc Ninh; trên cơ sở đó đề xuất quan
điểm và giải pháp phát triển KTNN ở tỉnh Bắc Ninh thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển KTNN.
Đánh giá thực trạng phát triển KTNN tỉnh Bắc Ninh thời gian qua.
Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển KTNN tỉnh Bắc Ninh thời
gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển KTNN.
* Phạm vi nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu sự phát triển KTNN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Luận văn khảo sát số liệu, tư liệu phát triển KTNN trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam, chủ trương, chính sách của
tỉnh Bắc Ninh về nông nghiệp, nông thôn, nông dân nói chung; về phát triển
KTNN nói riêng. Đồng thời kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu
khoa học có nội dung liên quan đến nội dung của đề tài trên phạm vi cả nước
và tình hình cụ thể của tỉnh Bắc Ninh.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử để nghiên cứu như: Phương pháp biện chứng, phương pháp trừu
tượng hóa khoa học; phương pháp logic kết hợp với lịch sử; phương pháp

9


diễn dịch, quy nạp. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp phương
pháp trừu tượng hoá khoa học và một số phương pháp cụ thể khác như khảo
sát, điều tra, phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh…
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần luận giải, làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về phát triển KTNN ở tỉnh Bắc Ninh.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu và giảng dạy môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin. Đây là căn cứ
khoa học để Bắc Ninh đề ra chủ trương, chính sách phù hợp nhằm đẩy mạnh
phát triển KTNN, góp phần phát triển KT-XH của tỉnh.
7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH
1.1. Một số vấn đề chung về phát triển kinh tế nông nghiệp
1.1.1. Nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất xuất hiện từ rất sớm, gắn liền
với sự hình thành và phát triển xã hội loài người. Nông nghiệp là khái niệm
được sử dụng vừa để chỉ ngành nghề hay sản nghiệp, vừa để phân biệt với các
ngành sản xuất vật chất khác như công nghiệp, dịch vụ. Theo Bách khoa toàn
thư Việt Nam, nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử
dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư
liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và một
số nguyên liệu cho công nghiệp. Theo nghĩa hẹp, nông nghiệp là ngành sản
xuất vật chất, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi nhằm cung cấp lương thực và
thực phẩm cho xã hội. Theo nghĩa rộng, nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn
nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp. Nông nghiệp có vai tṛ rất quan
trọng trong việc duy tŕ sự tồn tại của con người và sự phát triển của xã hội
loài người; đó là cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến và là thị trường rộng lớn của các ngành công nghiệp, dịch
vụ… Nếu xét trong mối quan hệ với kinh tế công nghiệp, phát triển KTNN là
tiền đề của phân công lao động xã hội; bởi theo C.Mác, trong lịch sử xã hội
loài người, chỉ đến khi nông nghiệp cung cấp đủ lương thực cho con người thì
nền sản xuất xã hội mới phân chia thành ngành nông nghiệp và công nghiệp.
Tuy nhiên, dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, thì nông nghiệp vẫn là ngành

sản xuất vật chất mà con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây
trồng và vật nuôi để sản xuất lương thực, thực phẩm… nhằm thỏa mãn nhu
cầu của con người và phát triển xã hội.

11


Khi luận giải về phân công lao động xã hội và sự hình thành các ngành
trong nền kinh tế quốc dân, C.Mác khẳng định, nông nghiệp là ngành sản xuất
vật chất. Theo C.Mác, sự phân công lao động trong nông nghiệp cũng như các
ngành kinh tế khác là cơ sở của sản xuất hàng hóa. Nguồn gốc của sự phân
công lao động trước hết, đó là sự tách rời giữa chăn nuôi và trồng trọt, giữa
nông nghiệp và công nghiệp; đó còn là sự xuất hiện của nhiều ngành kinh tế
khác và giữa thành thị với nông thôn. Tuy nhiên, sự tách rời giữa chăn nuôi
và trồng trọt, giữa nông nghiệp và công nghiệp hay sự xuất hiện của nhiều
ngành kinh tế khác chỉ xảy ra khi năng suất lao động đã được nâng cao, nhất
là trong nông nghiệp. Điều đó có nghĩa, sự phân công lao động xã hội chỉ xảy
ra khi nông nghiệp đạt tới trình độ phát triển nhất định.
V.I.Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo lý luận của C.Mác về
phân công lao động xã hội và sự hình thành các ngành kinh tế. Sự sáng tạo đó
thể hiện trong tác phẩm “Chủ nghĩa tư bản phát triển ở Nga”. Trong tác phẩm
này, V.I.Lênin phân tích sự giải thể của công xã nông thôn (hay sản xuất
truyền thống) là lý do dẫn đến sự phân hóa, phân tầng xã hội ở nông thôn, làm
cho SXNN hàng hóa được mở rộng và phát triển; do đó dẫn tới chủ nghĩa tư
bản trong nông nghiệp, nghĩa là phát triển nền nông nghiệp thương phẩm.
Từ góc độ kinh tế chính trị, ngoài nông nghiệp, KTNN, còn bao gồm
một số lĩnh vực khác liên quan và phục vụ nông nghiệp. Với cách hiểu khác,
KTNN là phức hợp các nhân tố cấu thành của lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, có quan hệ hữu cơ với
nhau trên địa bàn nông thôn.

Từ mấy vấn đề trên cho thấy, KTNN là một ngành kinh tế của nền kinh
tế quốc dân; vì vậy có thể hiểu KTNN là lĩnh vực sản xuất vật chất gắn liền
với các quá trình sinh học của cây trồng, vật nuôi, bao gồm nông nghiệp, lâm
nghiệp và ngư nghiệp, không chỉ đáp ứng nhu cầu thiết yếu về lương thực,
thực phẩm của con người, mà còn cung cấp nguyên liệu cho một số ngành
sản xuất vật chất khác.
12


Việt Nam nói chung, tỉnh Bắc Ninh nói riêng đang trong quá trình phát
triển, mà điểm khởi nguồn là từ phát triển KTNN. Do đó, trong xu thế phát
triển KT-XH, thì phát triển KTNN có ý nghĩa chiến lược cả về kinh tế, chính
trị, xã hội và môi trường.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế nông nghiệp
Mặc dù cũng là ngành sản xuất vật chất, nhưng so với nhiều ngành sản
xuất vật chất khác trong nền kinh tế quốc dân, KTNN có những đặc điểm
phản ánh tính đặc thù của ngành kinh tế này, đó là:
Thứ nhất, tài nguyên đất đai và tài nguyên nước là tư liệu sản xuất chủ
yếu, không thể thay thế. Đất đai tham gia vào mọi ngành sản xuất vật chất
trong xã hội như là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt; đồng thời là một trong
bốn yếu tố cơ bản của qúa trình sản xuất. Khác với nhiều ngành khác, trong
SXNN, tài nguyên đất đai và tài nguyên nước là tư liệu sản xuất chủ yếu, có
vai trò quan trọng, không thể thay thế. Nếu không có tài nguyên đất đai và tài
nguyên nước, hoặc thiếu một trong hai tài nguyên này, không thể trồng trọt,
chăn nuôi; nghĩa là KTNN không thể phát triển, thậm chí không có KTNN.
Tính chất đặc biệt của đất đai thể hiện ở vị trí cố định; diện tích không
gian bị giới hạn; vừa là tư liệu lao động vừa là đối tượng lao động, vừa là sản
phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm lao động của con người, vừa là bộ phận
của lãnh thổ quốc gia mà Nhà nước là người đại diện quản lý, vừa là kết quả
khai phá, cải tạo, bảo vệ của nhiều thế hệ; đất đai, nếu được sử dụng và sử

dụng hợp lý thì độ màu mỡ sẽ không ngừng tăng lên, sản phẩm mang lại cho
người lao động càng nhiều, thu nhập sẽ càng cao. Đặc trưng cho nông nghiệp
là tính chất thời vụ của những công việc quan trọng nhất về sản xuất, sản
phẩm, là sự tách rời khá lớn giữa thời gian sản xuất và thời kỳ làm việc do
đặc điểm của SXNN tạo nên. Vì vậy, chính sách quản lý, sử dụng, khai thác
tài nguyên đất đai và tài nguyên nước có vị trí quan trọng hàng đầu trong việc
nâng cao hiệu quả phát triển KTNN theo hướng bền vững. Do đó, cần khai
13


thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm hai tài nguyên đất đai, nhưng lại vừa duy trì
và nâng cao độ phì của đất và chống thoái hóa, xói mòn đất.
Trong điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa, tất yếu dẫn đến tích tụ và
tập trung ruộng đất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Do đó, phải có chính
sách phù hợp với quá trình này, nếu không sẽ hạn chế quá trình chuyển nông
nghiệp sang sản xuất hàng hóa, hạn chế khả năng tăng năng suất của đất đai
và thu nhập của người nông dân.
Thứ hai, đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi.
KTNN mang tính đặc thù của một ngành mà đối tượng sản xuất là sinh vật.
Trong sinh học và sinh thái học, sinh vật là tên gọi chung của các vật sống,
bao gồm động vật, thực vật, vi sinh vật,..có trao đổi chất với môi trường
ngoài, có sinh đẻ, lớn lên và chết. Điều đó cũng có nghĩa, sinh vật là cơ thể
sống(trong thực tế không phải mọi vật sống, hay sinh vật đều mang các đặc
trưng trên; một số sinh vật không có khả năng tự chuyển động và phản ứng
trực tiếp đối với môi trường; một số vi sinh vật không có khả năng tự sinh
sản). Như vậy, có thể hiểu đối tượng sản xuất của nông nghiệp là các vật
sống, bao gồm động vật, thực vật, vi sinh vật (gọi chung là cây trồng, vật
nuôi). Nói cách khác, đối tượng sản xuất của nông nghiệp là các vật sống, bao
gồm các loại cây trồng, vật nuôi.
KTNN gắn với các ngành kinh tế khác trên địa bàn nông thôn; đồng

thời chịu sự chi phối của nền kinh tế quốc dân. Cây trồng, vật nuôi có quy luật
sinh tồn độc lập với ý muốn con người. Cây trồng, vật nuôi chỉ phát triển tốt
nhất khi có điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất, nước, phân bón, môi trường phù
hợp. Từ đặc điểm của đối tượng SXNN là cây trồng, vật nuôi nên con người
sẽ có khả năng sử dụng các giải pháp sinh học trong phát triển KTNN.
Thứ ba, SXNN có tính thời vụ cao. Trong nông nghiệp, quá trình tái sản
xuất tự nhiên liên quan chặt chẽ với quá trình tái sản xuất, thời gian lao động
xen kẽ với thời gian sản xuất và không hoàn toàn trùng khớp với thời gian sản
14


xuất, làm cho SXNN có tính thời vụ trong việc sử dụng nguồn lực. Mặt khác,
như trên đã đề cập, do đối tượng sản xuất của nông nghiệp là các vật sống
(hay sinh vật); mà các vật sống có đặc trưng như chuyển động, trao đổi chất,
sinh trưởng, sinh sản và phản ứng trước tác động của môi trường bên ngoài.
Từ đặc trưng trao đổi chất, sinh trưởng, sinh sản… mà các vật sống có chu kỳ
sinh trưởng nhất định. Chính chu kỳ sinh trưởng đó đã làm cho SXNN có tính
thời vụ; và con người đã khai thác tính chất thời vụ của các vật sống để phát
triển KTNN phục vụ cho nhu cầu sống của con người.
Thứ tư, nông nghiệp và KTNN là lĩnh vực đòi hỏi đầu tư, rủi ro cao.
Đặc điểm của nông nghiệp và KTNN nước ta nói chung, tỉnh Bắc Ninh nói
riêng là gắn với địa bàn nông thôn, đời sống nông dân; trong khi đó nông thôn
là vùng rộng lớn, chiếm phần lớn diện tích và khoảng 70% dân số của tỉnh, cả
nước hiện có “25 triệu người làm nông nghiệp”[7], người dân nông thôn vốn
cần cù, chịu khó, nhưng cuộc sống vẫn chịu nhiều thua thiệt. Do đó đòi hỏi
phải phát triển KTNN, nông thôn. Tuy nhiên, để phát triển KTNN, đòi hỏi
phải bảo đảm đầy đủ nhiều yếu tố khác nhau; trong đó xây dựng kết cấu hạ
tầng KT-XH cho khu vực nông nghiệp, nông thôn là điều kiện thiết yếu, cần
thiết nhất và phải được tiến hành trước một bước. Tuy nhiên, để xây dựng kết
cấu hạ tầng KT-XH cho khu vực này đòi hỏi nguồn lực đầu tư lớn, hiệu quả

đầu tư thấp, thu hồi vốn chậm, lại thường xuyên phải đối phó với nhiều rủi ro
xảy ra bất cứ khi nào. Vì thế không nhiều nhà đầu tư mặn mà đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, nhất là các nhà đầu tư thuộc thành
phần kinh tế tư nhân. Do đó, không chỉ ở tỉnh Bắc Ninh, mà nhiều địa phương
trên cả nước, mặc dù đã 30 năm tiến hành đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, song phải thẳng thắn thừa nhận rằng, hệ thống kết cấu hạ
tầng KT-XH nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát
triển nông nghiệp, nông thôn; mà ngược lại, còn nhiều bất cập, thậm chí đang
là điểm nghẽn cản trở sự phát triển nói chung, phát triển KTNN nói riêng.
15


1.1.3. Quan niệm về phát triển kinh tế nông nghiệp
Cho đến nay, thuật ngữ phát triển đã trở nên quen thuộc không chỉ ở
nước ta, mà ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế, bởi thuật ngữ
này được sử dụng rất phổ biến ở nhiều lĩnh vực. Mặc dù thuật ngữ phát triển
được sử dụng rất phổ biến như vậy, nhưng chưa có khái niệm phát triển đầy
đủ, mà thuật ngữ này được sử dụng như một tiếp đầu từ. Trong lĩnh vực kinh
tế, “phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế.
Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ
cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống”. Với quan niệm này, để đánh giá
sự phát triển của nền kinh tế, của các vùng, miền, ngành, lĩnh vực, thành phần
kinh tế cần căn cứ vào các tiêu chí:
Thứ nhất, sự tăng trưởng kinh tế. Đó là sự gia tăng về quy mô sản
lượng của nền kinh tế, của các vùng, miền, ngành, lĩnh vực, thành phần kinh
tế trong một thời gian tương đối dài và ổn định.
Thứ hai, sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Sự thay đổi này thể hiện ở tỷ trọng
các vùng, miền, ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế... thay đổi; trong đó tỷ
trọng vùng nông thôn giảm tương đối so với tỷ trọng vùng thành thị, tỷ trọng
ngành dịch vụ, công nghiệp tăng, nhất là ngành dịch vụ.

Thứ ba, đời sống của đại bộ phận dân cư trong xã hội được chăm lo
nhiều hơn, môi trường sống được đảm bảo tốt hơn. Đây vừa là mục tiêu, vừa
là thành quả của phát triển kinh tế.
Thứ tư, quan điểm, nhận thức của các chủ thể về phát triển kinh tế, theo
đó là hệ thống cơ chế, chính sách phát triển kinh tế không ngừng được đổi
mới, ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn.
Phát triển kinh tế là một quá trình tiến hóa theo thời gian và do những
nhân tố nội tại quyết định đến toàn bộ quá trình phát triển đó. Theo quan điểm
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
Theo Đại Từ điển tiếng Việt, phát triển là sự “vận động, tiến triển theo chiều
hướng tăng lên”[67].
16


Tiếp cận phát triển với ý nghĩa như vậy, thì phát triển KTNN được hiểu
là một quá trình vận động, biến đổi lâu dài của ngành nông nghiệp trong qúa
trình phát triển. Thực chất của qúa trình phát triển KTNN là khả năng thích
ứng của KTNN trong các mô hình tổ chức sản xuất xã hội. Với nghĩa như vậy
thì phát triển KTNN không chỉ là sự tăng lên về lượng, mà là quá trình tăng
thêm về mọi mặt của KTNN; trong đó bao gồm sự tăng thêm về trình độ, quy
mô, số lượng, chất lượng, cơ cấu của KTNN và sự phù hợp, sự đổi mới, ngày
càng hoàn thiện của KTNN trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển
của ngành kinh tế này.
Từ quan niệm về KTNN; trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu về
KTNN và cách tiếp cận khái niệm phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin, có
thể quan niệm: Phát triển KTNN là tổng thể hoạt động của các chủ thể trong
hệ thống chính trị, sử dụng hệ thống cơ chế, chính sách, biện pháp nhằm
hoàn thiện, nâng cao trình độ, quy mô tổ chức, cơ cấu sản xuất KTNN phù
hợp với chiến lược phát triển KT-XH của quốc gia hay địa phương trong từng

thời kỳ.
KTNN là ngành sản xuất vật chất đặc biệt quan trọng đối với phát triển
xã hội. Với một nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Việt
Nam, thì phát triển KTNN càng có vai trò quan trọng hơn. Phát triển KTNN
phải phát triển toàn diện cả điều kiện vật chất và các quan hệ KT-XH của nó.
Trong nền kinh tế thị trường, phát triển KTNN bao gồm ba nhân tố cơ bản:
Một là, KTNN là một bộ phận của kinh tế hàng hóa; một kiểu tổ chức
KT-XH trong nông nghiệp, gắn với trình độ phát triển nhất định của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Đây là nhân tố xác định vị trí,
vai trò của KTNN trong nền kinh tế.
Hai là, sản phẩm của nông nghiệp dùng để trao đổi, mua bán trên thị
trường. Đây là yếu tố thể hiện tính chất cơ bản của KTNN, đáp ứng yêu cầu
cơ bản của nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường.
17


Ba là, sự trao đổi, mua bán sản phẩm nông nghiệp vừa thỏa mãn nhu
cầu tiêu dùng xã hội, vừa có lợi nhuận cho người sản xuất để tái sản xuất mở
rộng, hiện đại hóa nông nghiệp. Đây là nhân tố nói lên mục đích của KTNN.
Lịch sử phát triển KT-XH cho thấy, sự ra đời và phát triển KTNN là tất
yếu, một bước phát triển tiến bộ của lịch sử nhân loại; nấc thang phát triển mà
mọi quốc gia, vùng lãnh thổ đều trải qua. Vì thế, với quốc gia, vùng lãnh thổ
chủ yếu dựa vào KTNN, thì phát triển KTNN là nhiệm vụ quan trọng.
1.2. Quan niệm, nội dung và sự cần thiết phát triển kinh tế nông
nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
1.2.1. Quan niệm phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
Phát triển KTNN ở tỉnh Bắc Ninh là một quá trình tác động có chủ
đích, có định hướng của các chủ thể trong hệ thống chính trị và nhân dân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự quản lý của chính quyền các cấp của tỉnh
nhằm huy động nguồn lực phù hợp với đặc điểm KT-XH của tỉnh làm chuyển

biến các yếu tố cấu thành của KTNN theo hướng ngày càng hoàn thiện, nâng
cao hiệu quả hoạt động, đóng góp tích cực vào phát triển KT-XH của tỉnh.
Mặt khác, từ những khái quát có liên quan đến KTNN, từ quan niệm về
KTNN; đồng thời trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu về KTNN và
phát triển KTNN có thể đưa ra quan niệm: Phát triển KTNN ở tỉnh Bắc Ninh
là tổng thể cơ chế, chính sách, biện pháp của các chủ thể trong hệ thống
chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự quản lý của chính quyền Tỉnh
nhằm hoàn thiện, nâng cao chất lượng toàn diện KTNN cả về trình độ phát
triển, quy mô tổ chức, cơ cấu sản xuất phù hợp với chiến lược phát triển KTXH của Tỉnh trong từng thời kỳ.
Quan niệm trên thể hiện các yếu tố liên quan đến lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp; đồng thời thể hiện đặc thù của
tỉnh Bắc Ninh. Những thành tố trong nội hàm quan niệm phát triển KTNN
tỉnh Bắc Ninh trên đây là những nội dung căn bản có quan hệ biện chứng, tác
18


động qua lại lẫn nhau trong quá trình phát triển KTNN. Trong đó sự phát triển
về trình độ của KTNN là đòi hỏi khách quan từ nền sản xuất tự cung, tự cấp
sang nền kinh tế thị trường; sự phát triển về quy mô SXNN là yêu cầu then
chốt, sự biến đổi hợp lý về cơ cấu sản xuất là điều kiện đảm bảo. KTNN chỉ
có thể phát triển khi nào các nguồn lực cho sự phát triển này được chuẩn bị
một cách đầy đủ, đồng bộ.
Như vậy, với quan niệm trên, phát triển KTNN là trách nhiệm chung
của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự quản lý của chính
quyền các cấp, mà trực tiếp là nông dân với vai trò là lực lượng lao động chủ
yếu trong nông nghiệp; đối tượng của sự phát triển bao gồm các yếu tố thuộc
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng trong nông nghiệp mà trước
hết là người lao động, nguồn nhân lực trong nông nghiệp, tư liệu sản xuất
trong nông nghiệp và các hình thức tổ sản xuất kinh doanh thuộc các thành
phần kinh tế trong nông nghiệp; mục đích của hoạt động này nhằm nâng cao

trình độ phát triển, mở rộng quy mô sản xuất, có cơ cấu nông nghiệp hợp lý.
1.2.2. Nội dung phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
Trên cơ sở cách tiếp cận về phát triển KTNN và đặc điểm KTNN.
Đồng thời, xuất phát từ quan điểm của Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông
dân và nông thôn thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; căn cứ vào
Nghị quyết số: 75/2013/NQ-HĐND17 ngày 23-4-2013 của Hội đồng nhân
dân tỉnh Bắc Ninh về Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Bắc Ninh
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; căn cứ Kế hoạch số 1203/QĐUBND ngày 18-11-2014 về thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp và Kế
hoạch số 1085/QĐ-UBND ngày 16-10-2014 về thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Bắc Ninh năm 2015 và giai đoạn
2016-2020, có thể xác định nội dung phát triển KTNN ở Bắc Ninh như sau:
Thứ nhất, KTNN tăng trưởng theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và
PTBV. Tăng trưởng kinh tế “là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tiến bộ,
19


mở rộng qui mô về mặt số lượng của các yếu tố của nền kinh tế trong một
thời kỳ nhất định nhưng trong khuôn khổ giữ nguyên về mặt cơ cấu và chất
lượng”. Thực tiễn cho thấy lựa chọn mô hình tăng trưởng sẽ có ý nghĩa quyết
định đến sự PTBV của KTNN. Vì vậy tăng trưởng theo hướng nâng cao giá
trị gia tăng và PTBV là nội dung quan trọng để phát triển KTNN ở tỉnh Bắc
Ninh. Đó là mô hình tăng trưởng kết hợp hài hòa giữa giải quyết các vấn đề
quan trọng, cấp bách với các vấn đề cơ bản, dài hạn, hướng đến mục tiêu
PTBV; ưu tiên mục tiêu trung và dài hạn, chất lượng tăng trưởng. Theo đó,
Bắc Ninh chủ trương “Duy trì tăng trưởng kinh tế nông nghiệp ổn định, hiệu
quả, bền vững và nâng cao khả năng cạnh tranh các sản phẩm nông nghiệp
thông qua tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng; đáp ứng tốt hơn nhu
cầu, thị hiếu của người tiêu dùng trong tỉnh, trong vùng vùng kinh tế trọng
điểm Bắc bộ và tiến tới xuất khẩu một số sản phẩm có lợi thế cạnh tranh”[60];
thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều

rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy
mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững. Nghĩa là
thay đổi động lực của tăng trưởng kinh tế; năng suất lao động, hiệu quả sử
dụng các nguồn lực phải được cải thiện để thay thế số lượng đầu tư, lao động,
tài nguyên thiên nhiên và trở thành động lực của tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, cơ cấu KTNN hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển KTXH của tỉnh trong từng thời kỳ. Nông nghiệp là một ngành cơ bản của nền
kinh tế cả nước, vừa chịu sự chi phối chung của nền kinh tế quốc dân, vừa gắn
bó mật thiết với các ngành khác trên địa bàn nông thôn, đồng thời lại phản
ánh những nét riêng biệt mang tính đặc thù của một ngành mà đối tượng sản
xuất là các vật sống (cây trồng, vật nuôi). Vì vậy, có thể hiểu cơ cấu KTNN là
tổng thể các bộ phận hợp thành kết cấu KTNN trong quá trình tăng trưởng sản
xuất. Các bộ phận đó gắn bó với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện
ở các quan hệ tỷ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng trong không gian
20


và thời gian nhất định, phù hợp với điều kiện KT-XH nhất định nhằm đạt hiệu
quả KT-XH cao.
Phát triển KTNN theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và PTBV là mục
tiêu phấn đấu của các chủ thể KTNN ở tỉnh Bắc Ninh. Để thực hiện được mục
tiêu đó tỉnh Bắc Ninh cần thiết phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Trong đó xác định rõ vai trò, tỷ trọng và mối quan hệ hợp thành giữa các lĩnh
vực KTNN, giữa các địa bàn và các thành phần kinh tế của tỉnh. Các yếu tố
hợp thành cơ cấu kinh tế phải thể hiện cả về mặt số lượng cũng như chất
lượng và được xác định trong mỗi giai đoạn nhất định, phù hợp với những đặc
điểm tự nhiên, kinh tế xã hội cụ thể của tỉnh Bắc Ninh qua từng thời kỳ.
Cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp là cơ cấu có khả năng tạo ra quá trình
tái sản xuất mở rộng, đáp ứng yêu cầu: phù hợp quy luật khách quan; phản
ánh khả năng khai thác sử dụng các nguồn lực, đáp ứng yêu cầu hội nhập
nhằm tạo ra sự cân đối, PTBV; phù hợp với chiến lược phát triển KT-XH của

tỉnh và xu thế kinh tế, chính trị trong nước và thế giới. CDCC KTNN được
coi là tiến bộ, hiện đại khi tỷ trọng giá trị giữa các lĩnh vực của KTNN (cơ
cấu nông, lâm, ngư nghiệp; cơ cấu giữa chăn nuôi và trồng trọt; tỷ trọng giá
trị nông sản xuất khẩu trong cơ cấu giá trị xuất khẩu....) phát triển hài hòa,
hợp lý, góp phần bảo đảm PTBV. Để CDCC KTNN theo hướng tiến bộ phải
chuyển nông nghiệp từ sản xuất độc canh sang sản xuất tập trung quy mô lớn,
tạo sự PTBV của KTNN.
Cơ cấu kinh tế là biểu hiện nội dung, mục tiêu định hướng của chiến
lược phát triển KT-XH. Nhà nước tuy không trực tiếp sắp đặt ngành nghề,
lĩnh vực quy định tỉ lệ của cơ cấu kinh tế, nhưng tác động gián tiếp bằng cách
định hướng phát triển. Định hướng phát triển không chỉ nhằm khuyến khích
lực lượng sản xuất xã hội đạt mục tiêu đề ra, mà còn thu hút mọi thành phần
kinh tế tham gia, nếu không đạt được thì nhà nước trực tiếp tổ chức sản xuất,
đảm bảo sự cân đối giữa các sản phẩm, các ngành, lĩnh vực trong KTNN.
21


Mục tiêu phát triển KT-XH là định hướng chung cho mọi thành phần
kinh tế, phấn đầu thực hiện dưới sự điều tiết của nhà nước thông qua hệ thống
luật pháp và các quy định, thể chế chính sách của nhà nước. Sự điều tiết của
nhà nước gián tiếp dẫn dắt các ngành, lĩnh vực và thành phần kinh tế phát
triển, đảm bảo tính cân đối, đồng bộ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế.
Thứ ba, trình độ phát triển KTNN, trong đó KH&CN nông nghiệp là
yếu tố then chốt.KH&CN có vai trò ngày càng quan trọng trong mọi lĩnh vực
sản xuất và đời sống xã hội. Bản chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xét
về mặt trình độ phát triển lực lượng sản xuất là sự thay đổi trình độ công nghệ
của sản xuất theo hướng hiện đại. Trong nông nghiệp, KH&CN giữ vai trò rất
quan trọng, quyết định năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính cạnh tranh của
hàng hóa nông sản. Vì vậy, trình độ của KH&CN phục vụ nông nghiệp được
đánh giá trên một số yếu tố như: trình độ cơ giới hóa, điện khí hóa, thủy lợi

hóa, sinh học hóa. Thành tựu KH&CN, sự bùng nổ thông tin, tạo điều kiện
cho các chủ thể KTNN nắm bắt thông tin, tìm hiểu thị trường và đối tác. Từ
đó giúp các chủ thể này định hướng sản xuất, thay đổi cơ cấu sản xuất, kinh
doanh phù hợp với xu thế hợp tác đan xen, khai thác thế mạnh của nhau, cùng
nhau phân chia lợi ích từ phát triển KTNN.
Thứ tư, đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu
quả trong nông nghiệp. Trong lĩnh vực nông nghiệp, các hình thức tổ chức,
sản xuất, kinh doanh là biểu hiện của quan hệ sản xuất. Các quan hệ này trước
hết là mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với các nguồn
lực. Nông nghiệp là lĩnh vực đặc thù có trình độ phát triển lực lượng sản xuất
không đều và chậm so với các lĩnh vực khác, tương ứng với nó là sự tồn tại
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, bao gồm: kinh tế hộ gia
đình, kinh tế tiểu chủ, kinh tế hợp tác xã, kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
22


Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp. Để phát triển KTXH cũng như phát triển KTNN, nguồn nhân lực là bộ phận của nguồn lực
phát triển KTNN, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu của quá trình tái sản
suất nông nghiệp; mặt khác đó còn là một bộ phận của dân số, được hưởng lợi
từ sự phát triển KTNN. Phát triển kinh tế nói chung, KTNN nói riêng, suy đến
cùng là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đời sống cho người nông dân cũng
như cư dân nông thôn. Vai trò của nguồn nhân lực với tăng trưởng KTNN
được xem xét thông qua chỉ tiêu về số lượng lao động, trình độ chuyên môn,
sức khoẻ và sự kết hợp giữa nguồn nhân lực và các yếu tố đầu vào khác. Theo
đánh giá, chất lượng của nguồn nhân lực nông nghiệp kém cả về thể lực và trí
lực. Về trí lực, cả khía cạnh trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, kỹ thuật
đều thấp. Về trình độ học vấn, có khoảng cách khá xa giữa nguồn nhân lực
nông nghiệp và nguồn nhân lực của các khu vực kinh tế khác, tỷ lệ người
chưa biết chữ của lao động nông nghiệp cao hơn so với trung bình của cả

nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, thì việc nâng cao
trình độ chuyên môn, kỹ thuật cho nguồn nhân lực nông nghiệp là điều kiện
cơ bản để phát triển KTNN. Do đó, cần đẩy mạnh giáo dục, đào tạo; đặc biệt
là thực hiện phổ cập giáo dục ở bậc học cần thiết cho nông dân, đáp ứng yêu
cầu phát triển KTNN.
Thứ sáu, hệ thống cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với lĩnh
vực nông nghiệp. Mọi sự hoạt động của nền kinh tế đều có sự điều tiết của
nhà nước, song không phải nhà nước can thiệp trực tiếp vào qúa trình sản xuất
kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, dù theo học
thuyết kinh tế nào, cũng thừa nhận nguyên lý Nhà nước tất yếu phải can thiệp
vào nền kinh tế. Tuy nhiên, cách thức, mức độ can thiệp như thế nào, tùy
thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước. Nhà nước điều hành thông qua hệ
thống pháp luật và các chính sách kinh tế. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, các
chính sách như thuế, chính sách đất đai, chính sách tín dụng… có tác dụng rất
23


lớn thúc đẩy phát triển KTNN. Đây là những yếu tố có ý nghĩa quyết định đối
với sự phát triển KTNN ở nước ta nói chung, ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Theo
đó, sản phẩm nào, lĩnh vực nào trong nông nghiệp cần khuyến khích thì nhà
nước giảm thuế, hoặc quy định thuế suất thấp để người nông dân có lợi nhuận
cao; đối với sản phẩm nào, lĩnh vực cần hạn chế thì đánh thuế cao, người sản
xuất ít lợi nhuận, sẽ hạn chế đầu tư phát triển. Ngược lại, ngành nghề, lĩnh
vực không ai muốn đầu tư sản xuất, nhưng sản phẩm của ngành nghề, lĩnh
vực đó lại rất cần cho xã hội thì nhà nước đầu tư, tổ chức sản xuất. Sự tác
động của cơ chế quản lý sẽ thực hiện được cơ cấu sản xuất, cơ cấu dân cư, tạo
ra sự cân đối lực lượng lao động và thu nhập giữa các vùng và giảm bớt
khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
1.2.3. Sự cần thiết phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
Vì vậy, phát triển KTNN là việc làm cần thiết đối với mọi quốc gia,

vùng lãnh thổ. Ở nước ta hiện nay, phát triển KTNN là nội dung quan trọng
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh nói riêng, góp
phần đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Với tỉnh Bắc Ninh sự cần thiết, cấp bách phải phát
triển KTNN xuất phát từ mấy vấn đề sau:
Thứ nhất, phát triển KTNN là xuất phát từ vai trò của KTNN đối với
phát triển KT-XH tỉnh Bắc Ninh. Nông nghiệp Việt Nam nói chung, nông
nghiệp Bắc Ninh nói riêng, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế, xã hội cũng như nâng cao đời sống nhân dân; đặc biệt đối với nông
dân. Mà “Muốn nâng cao đời sống của nhân dân thì trước hết phải giải quyết
tốt vấn đề ăn (rồi đến vấn đề mặc và các vấn đề khác). Muốn giải quyết tốt
vấn đề ăn thì phải làm thế nào cho có đầy đủ lương thực. Mà lương thực là do
nông nghiệp sản xuất ra. Vì vậy, phát triển nông nghiệp là việc cực kỳ quan
trọng”[27; tr.375]. Nói rộng hơn, để “phát triển kinh tế nói chung phải lấy
24


việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”[25; tr.180]. Về vai trò của
nông nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Việt Nam là một nước sống về
nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây
dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông
nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh
thì nước ta thịnh”[24; tr.246]. Đây là cơ sở khoa học để Đảng ta xác định
CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp
CNH,HĐH đất nước. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ nền KTNN nên
từ khi thành lập chính quyền công nông sau Cách mạng Tháng Tám đến nay,
trong các chủ trương phát triển kinh tế nói chung, Đảng và Nhà nước ta luôn
lấy phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính, và là nhiệm vụ quan trọng
được ưu tiên. Như vậy, ở phạm vi quốc gia, phát triển KTNN có vai trò đặc

biệt quan trọng đối với phát triển KT-XH; đối với một địa phương có truyền
thống SXNN lâu đời như tỉnh Bắc Ninh, thì phát triển KTNN lại càng quan
trọng và cần thiết hơn.
Thứ hai, phát triển KTNN xuất phát từ tác động khách quan của cách
mạng KH&CN đối với KTNN ở tỉnh Bắc Ninh. KH&CN là yếu tố quan trọng,
không thể thiếu đối với sự PTBV ở mọi quốc gia, vùng lãnh thổ. Theo Đảng
ta thì “KH&CN là nền tảng và động lực cho PTBV đất nước”[43]. Thật vậy,
thành tựu của cách mạng KH&CN đang xâm nhập sâu rộng vào quá trình sản
xuất ở mọi lĩnh vực, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Có thể nói,
KH&CN tác động toàn diện đến mọi ngành, mọi lĩnh vực đời sống xã hội,
trong đó nông nghiệp và SXNN là lĩnh vực tuy bị tác động muộn hơn, nhưng
hiệu quả nhanh hơn, dễ nhận thấy.
Thứ ba, phát triển KTNN xuất phát từ những tồn tại, hạn chế của
chính ngành KTNN tỉnh Bắc Ninh. Mọi quốc gia có truyền thống nông
nghiệp, trong đó có Việt Nam, để phát triển và trở thành nước phát triển,
không thể không chú trọng ưu tiên phát triển KTNN. Vì vậy, với một nền
KTNN có truyền thống lâu đời như nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh nhưng trình
25


độ phát triển còn thấp, chủ yếu lao động thủ công; quy mô nhỏ lẻ, manh mun;
cơ cấu tuy đã từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nhưng chưa hợp lý hợp lý, thì yêu cầu phát triển KTNN càng cần thiết,
cấp bách hơn.
Thứ tư, KTNN phát triển sẽ tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Bắc Ninh. Nông nghiệp
có vai trò thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế, trước hết là công nghiệp. Vốn
bắt nguồn từ cái nôi nông nghiệp, nhưng khi công nghiệp đã trở thành ngành
kinh tế độc lập thì mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp đã có sự
thay đổi, nghĩa là hai ngành sản xuất này đã trở thành những thực thể kinh tế

độc lập gắn bó mật thiết với nhau và tác động qua lại, thúc đẩy sự phát triển
của nhau. Mặt khác, nếu xét nông nghiệp trong mối quan hệ với các ngành
kinh tế khác, nhất là với công nghiệp, thì công nghiệp và nông nghiệp quan hệ
với nhau rất chặt chẽ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Công nghiệp và nông
nghiệp như hai chân của con người. Hai chân có mạnh thì đi mới vững chắc.
Nông nghiệp không phát triển thì công nghiệp cũng không phát triển được.
Ngược lại, không có công nghiệp thì nông nghiệp cũng khó khăn. Công
nghiệp và nông nghiệp quan hệ với nhau rất khăng khít. Nông nghiệp ở nước
ta là vô cùng quan trọng. Nếu nông nghiệp không phát triển thì không đủ
lương thực để cung cấp cho công nhân, bộ đội, cán bộ, nhân dân thành thị và
thanh niên. Thí dụ: Nhà máy dệt mà không có bông thì nhà máy không có
việc làm, cho nên nông nghiệp là cơ sở cho công nghiệp”[26; tr.469]. Do đó,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp cũng chính là
giải quyết mối quan hệ giữa hai giai cấp công nhân và nông dân, là cơ sở kinh
tế để thực hiện liên minh công nông, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
KTNN phát triển góp phần tích lũy vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, thông qua đóng thuế, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp; hoặc

26


×