Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN lực NGÀNH THUẾ THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.75 KB, 100 trang )

Trang
MỞ ĐẦU
3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
Chương 1
14
NGÀNH THUẾ Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1.

Quan niệm về nguồn nhân lực và phát triển nguồn
nhân lực
Nội dung và các nhân tố tác động đến phát triển nguồn
1.2.
nhân lực ngành thuế của Thành phố Hà Nội
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Chương 2
NGÀNH THUẾ THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN QUA
Khái quát về chức năng, nhiệm vụ và tổng quan tình hình
2.1.
hoạt động của ngành Thuế Thành phố Hà Nội trong thời
gian qua
Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân phát triển
2.2.
nguồn nhân lực ngành thuế Thành phố Hà Nội trong thời
gian qua
Những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển nguồn nhân
2.3.
lực của ngành thuế Hà Nội
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
Chương 3
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH THUẾ


THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
Những quan điểm cơ bản phát triển nguồn nhân lực của
3.1.
ngành thuế thành phố Hà Nội trong thời gian tới
Những giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực của
3.2.
ngành thuế thành phố Hà Nội trong thời gian tới

14
23
34

34

44
62

66
66
73

KẾT LUẬN

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

96



MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
nguồn nhân lực là nhân tố trung tâm, có vai trò quyết định đối với sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Nguồn nhân lực vừa là nguồn lực to lớn, vừa là
động lực tăng năng suất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản
phẩm, dịch vụ, của doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế, lại vừa là yếu tố
quyết định tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; chỉ có nguồn nhân lực mới
có khả năng tiếp thu và áp dụng tiến độ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới,
công nghệ cao, sử dụng hiệu quả các nguồn lực vật chất khác trong xã hội, trở
thành lực lượng xung kích đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập. Phát triển, phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn nhân
lực trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một trong
những giải pháp đột phá nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển ở tất
cả các ngành, các cấp góp phần thực hiện thắng lợi sự công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và tạo ra sự tăng trưởng bền vững của đất nước trong thới gian tới.
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, thuế đóng một
vai trò hết sức to lớn, là nguồn thu ngân sách chính, đồng thời là công cụ điều
tiết vĩ mô quan trọng của Nhà nước. Nó đã góp phần quan trọng trong quản lý
và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội, tạo
công ăn việc làm cho người lao động, ổn định chính trị xã hội, quốc phòng an
ninh được bảo đảm. Vì vậy, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã
giành nhiều sự quan tâm đến công tác đổi mới hệ thống thuế nhằm phát huy
vai trò to lớn của thuế đối với phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Phát huy vai trò của thuế cho phát triển kinh tế xã hội là vấn đề cần
thiết và cấp bách đối với sự nghiệp xây dựng đất nước trong bối cảnh toàn cầu
hoá và hội nhập quốc tế đang diễn ra sâu rộng, mạnh mẽ và Việt Nam đã trở
thành thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế. Vì vậy, việc sử
2



dụng thuế làm công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế không thể
tiếp tục thực hiện theo những nội dung mang tính truyền thống trước đây mà
cần có những sửa đổi bổ sung và phát huy tác động to lớn của thuế tới mọi
mặt của đời sống xã hội cho phù hợp và bảo đảm cho quá trình hội nhập kinh
tế đạt hiệu quả cao. Để đáp ứng yêu cầu trên một trong giải pháp quan trọng
cần phải quan tâm đó là phát triển nguồn nhân lực ngành thuế đủ sức hoàn tốt
chức năng nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trong những năm qua, mặc dù nền kinh tế đất nước gặp nhiều khó
khăn do tác động của suy thoái kinh tế thế giới. Tuy nhiên, với những lợi thế
riêng có của mình, Thành phố Hà Nội vẫn dữ được sự ổn định và phát triển về
mọi mặt. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thành công đó là Hà Nội
đã chú trọng phát triển nguồn nhân lực ngành thuế nhằm phát huy tốt vai trò
của thuế trong phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. Tuy nhiên, với yêu
cầu công việc ngày càng cao và yêu cầu nguồn nhân lực thuế của Thành phố
tăng cả quy mô, chất lượng, cơ cấu đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế nảy sinh nhiều
vấn đề mới trong nghiệp vụ thuế chưa được giải quyết kịp thời. Do vậy,
nguồn nhân lực thuế của Thành phố Hà Nội còn nhiều bất cập chưa theo kịp
với yêu cầu phát triển của Thành phố, chưa phát huy hết vai trò của thuế để
kích thích phát triển kinh tế xã hội, phát triển sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp và các thành phần kinh tế trên địa bàn.
Vì vậy, việc tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
phát triển nguồn nhân lực ngành thuế nói chung và ở thành phố Hà Nội nói
riêng để có những quan điểm và giải pháp thích hợp nhằm phát triển nguồn
nhân lực ngành thuế ở Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay là vấn đề
có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả chọn vấn
đề "Phát triển nguồn nhân lực ngành thuế ở Thành phố Hà Nội hiện nay" làm
đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ.

3


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế xã hội ở nước
ta nói chung và phát triển nguồn nhân lực ngành thuế ở Thành phố Hà Nội nói
riêng là vấn đề rất quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển kinh tế xã hội
của thành phố cũng như của đất nước. Do đó, vấn đề nguồn lực và phát triển
nguồn nhân lực đã thu hút được sự quan tâm của nhiều tổ chức, cá nhân
nghiên cứu về lĩnh vực này trên nhiều góc độ khác nhau, trong đó đáng chú ý
một số công trình tiêu biểu sau:
Luận án tiến sĩ kinh tế: “Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta”, tác giả Trần Kim Hải [19] . Luận án
phân tích nhiều góc độ về hiện trạng, yêu cầu và những vấn đề đang đặt ra
trong sử dụng nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở nước ta. Theo đó, NNL hiện
có còn chưa đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp CNH,
HĐH ở nước ta. Vì vậy quá trình khai thác sử dụng cần phải được đặt trong
mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với việc nâng cao chất lượng của NNL. Phải coi
nâng cao chất lượng NNL là một nội dung, một tiền đề cơ bản để nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho CNH, HĐH. Luận án khẳng định: Những
vấn đề bức xúc nhất của việc nâng cao chất lượng NNL nước ta là mở rộng
quy mô đào tạo trên cơ sở đa dạng hoá các nguồn vốn, điều chỉnh cơ cấu đào
tạo, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
NNL theo hướng CNH, HĐH, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và
chuyên gia, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em...Tất cả phải hướng tới mục
tiêu cung cấp NNL có chất lượng cao, đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi
khắt khe của thị trường sức lao động trong nước và quốc tế, phù hợp với yêu
cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Luận án tiến sĩ kinh tế: “Phát triển nguồn nhân lực quân sự chất lượng
cao đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội nhân dân Việt Nam”, tác giả Đỗ

Văn Dạo [13] . Đã đi sâu nghiên cứu về NNL trong một lĩnh vực đặc thù – NNL
4


có chất lượng cao trong lĩnh vực quân sự quốc phòng. Tác giả đã xây dựng được
một khung lý thuyết khá sâu sắc và toàn diện về vấn đề NNL quân sự, NNL
quân sự chất lượng cao và phát triển NNL quân sự chất lượng cao với những nội
dung và tiêu chí đánh giá sự phát triển. Tác giả cũng đã đi sâu khảo sát đánh giá
thực trạng phát triển NNL quân sự chất lượng cao để trên cơ sở đó đề ra những
quan điểm, giải pháp cơ bản để phát triển lực lượng này. Những giải pháp về
giáo dục đào tạo và thực hiện những cơ chế, chính sách đặc thù ở cả tầm vĩ mô
và vi mô đã được tác giả đề cập trong công trình để tạo ra sự đột phá mạnh mẽ
phát triển NNL quân sự chất lượng cao.
Luận án tiến sĩ kinh tế: “Phát triển nguồn nhân lực của Tập đoàn Điện
lực Việt Nam”, tác giả Đinh Văn Toàn [35] Đã đi sâu nghiên cứu về NNL
trong một tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam. Trong khung lý thuyết của
công trình, tác giả đã tiến hành khảo sát nhiều kinh nghiệm quý của một số
quốc gia về phát triển NNL trong ngành điện lực. Công trình cũng đã đi sâu
nghiên cứu khảo sát thực trạng phát triển NNL ở các công ty, các đơn vị
thành viên của Tập đoàn điện lực Việt Nam trong những năm qua để đề ra
một số giải pháp nhằm phát triển NNL, tạo sức bật mới trong quá trình tái cơ
cấu ngành điện lực theo đề án của Chính phủ.
Luận án tiến sĩ kinh tế:“Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp dầu
khí Việt Nam đến năm 2020”, tác giả Nguyễn Hoàng Thụy [36] . Đã đi sâu luận
giải những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển NNL ở ngành công nghiệp
dầu khí nước ta. Công trình cũng đã phân tích thực trạng phát triển NNL ở
ngành công nghiệp dầu khí với những thành tựu và hạn chế bất cập và đề xuất
một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển NNL trong ngành dầu khí. Trong đó
tác giả đặc biệt coi trọng đến việc cần phải có chiến lược liên kết đào tạo, hợp
tác quốc tế để phát triển NNL ngành dầu khí có chất lượng cao nhằm đem lại

năng suất, hiệu quả trong công việc khai thác, chế xuất dầu ở nước ta.

5


Luận văn thạc sĩ kinh tế: “Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở thành phố Hải Phòng và tác động của nó
đến tăng cường sức mạnh khu vực phòng thủ thành phố” tác giả Phạm Tiến
Điện[16] Tác giả đã luận giải cơ sở lý luận về phát triển NNL, từ đó xem xét
phát triển NNL theo hướng CNH,HĐH ở thành phố Hải Phòng; làm rõ tác
động của phát triển NNL ở thành phố Hải Phòng đến việc xây dựng khu vực
phòng thủ thành phố. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm phát triển NNL ở thành phố Hải Phòng gắn với việc tăng cường sức
mạnh khu vực phòng thủ thành phố.
Luận văn thạc sĩ kinh tế: “Tác động của đào tạo NNL trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến củng cố quốc phòng ở nước ta hiện nay”,
tác giả Bùi Thúc Vịnh [40] . Tác giả đã làm rõ tính cấp thiết của đào tạo NNL
cho CNH, HĐH và tác động của nó đối với củng cố nền quốc phòng. Trên cơ
sở đó, đề xuất các quan điểm, giải pháp cơ bản để công tác đào tạo NNL vừa
đáp ứng nhu cầu CNH,HĐH vừa đáp ứng nhu cầu củng cố nền quốc phòng
toàn dân.
Luận văn thạc sĩ kinh tế: “Phát triển thị trường sức lao động và tác
động của nó đến đảm bảo NNL cho Quân đội nhân dân Việt nam hiện nay” tác
giả Trần Văn Ban [1] . Đã phân tích sự phát triển của thị trường sức lao động
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và tác động của nó đến đảm bảo
NNL cho QĐNDVN. Trên cơ sở đó đề xuất quan điểm, giải pháp thúc đẩy sự
phát triển của thị trường lao động gắn với bảo đảm NNL cho quân đội trong giai
đoạn hiện nay.
Đề tài khoa học B2006 - 37 - 02TĐ. HN (2010), “Những vấn đề lý luận
cơ bản về phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam”, tác giả Nguyễn Lộc [23].

Đã xây dựng hệ thống lý luận cơ bản về NNL và phát triển NNL ở cấp độ quốc
gia. Với cách tiếp cận tổng thể, có sự so sánh kinh nghiệm quốc tế phong phú về
6


phát triển NNL, công trình đã cung cấp nhiều luận cứ khoa học về lý luận và
thực tiễn phát triển NNL nói chung ở nước ta.
Đề tài khoa học KX.02.24/06 (2010), “Nguồn nhân lực và nhân tài
cho phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam trong tiến trình
đổi mới”, tác giả Nguyễn Ngọc Phú [29]. Đã tập trung khái quát những vấn
đề lý luận chung về NNL, luận giải về cơ cấu, số lượng, chất lượng, nhu cầu,
thực trạng NNL và nhân tài. Đề xuất những quan điểm, giải pháp, chính sách
cho phát triển NNL, nhân tài.
Cuốn sách: Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hoá, hiện đại
hoá của Tiến sĩ Vũ Bá Thể [31]. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm phát
triển NNL của một số nước trên thế giới và thực trạng NNL ở nước ta, tác giả
đã đưa ra những quan điểm về NNL và phát triển NNL; vai trò của NNL đối
với tăng trưởng kinh tế và sự nghiệp CNH,HĐH ở Việt Nam. Đồng thời, đưa
ra định hướng và những giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người ở nước
ta hiện nay.
Cuốn sách: Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực
tiễn nước ta, của Tiến sĩ Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm [34] . Cuốn sách đã
khái quát những kinh nghiệm về phát triển NNL của các nước phát triển trên thế
giới. Tuy nhiên, cuốn sách chưa trình bày nội dung tổng quát của phát triển NNL
như chăm sóc sức khoẻ, nâng cao mức sống, việc làm… mà tập trung vào lĩnh
vực giáo dục đào tạo - yếu tố quyết định phát triển NNL.
Cuốn sách: Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, của Tiến sĩ Nguyễn Thanh [33]. Tác giả đã luận giải rõ:
phát triển NNL là yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH,HĐH,
đồng thời nêu lên một số thực trạng về phát triển NNL có chất lượng, trên cơ

sở đó đưa ra một số định hướng chủ yếu trong phát triển NNL cho CNH,HĐH
ở nước ta hiện nay.
7


Cuốn sách: Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông
tin khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, tác giả Tô Chí Thành [32] . Đã khảo
sát những kinh nghiệm trong phát triển NNL lĩnh vực công nghệ thông tin của
một số nước thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Tác giả cho rằng, đối
với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang rất cần học hỏi những kinh
nghiệm quốc tế về phát triển NNL nói chung, đặc biệt là NNL trong ngành
công nghệ thông tin trong đó có lĩnh vực truyền hình. Đối với một số nước ở
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam đã và đang có điều kiện để
hợp tác mạnh mẽ trong quá trình phát triển NNL công nghệ thông tin. Do vậy,
những bài học về phát triển NNL trong lĩnh vực này ở các nước khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương được các tác giả luận giải khá sâu sắc từ đó rút ra một
số bài học cụ thể đối với Việt Nam.
Báo khoa học: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
đổi mới và hội nhập quốc tế, của Tiến sĩ Phạm Công Nhất[28] . Đã khái quát
kết quả hơn hai mươi năm đổi mới đất nước và hơn một năm gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới, đồng thời chỉ rõ thực trạng phát triển NNL ở nước
ta và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng NNL đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.
Luận án Tiến sĩ kinh tế “Nâng cao vai trò của thuế - công cụ phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa ở Việt nam”, tác giả: Nguyễn Kim Quyến. Luận án
đã đề cập khá toàn diện vai trò của thuế đối với quá trình công nghiệp hóa ở
Việt Nam: Thuế là công cụ huy động nguồn tài chính cho ngân sách Nhà
nước để thực hiện quá trình công nghiệp hóa; là công cụ thu hút vốn đầu tư
trong và ngoài nước theo hướng chiến lược công nghiệp hóa; là công cụ điều
tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường theo chiến lược công nghiệp hóa. Đồng thời

luận án đề xuất một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn
nữa vai trò của thuế phục vụ công nghiệp hóa ở nước ta. Trong đó có 1 định
8


hướng, 2 giải pháp bàn về phát triển nguồn nhân lực để bảo đảm phát huy vai
trò của thuế.
Luận văn Thạc sĩ kinh tế “Thanh tra, kiểm tra thuế trong điều kiện thực
hiện cơ chế sản xuất, kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế ở Việt nam”, tác giả:
Thành Xuân Lý. Luận văn đã đánh giá được khái quát thực trạng kiểm tra,
thanh tra thuế trên các mặt: bộ máy, kết quả thu, quy trình nghiệp vụ, cơ sở dữ
liệu… và chỉ ra tồn tại chủ yếu là ở năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán
bộ, nhân viên trong ngành chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành,
đăc biệt là lực lượng kiểm tra, thanh tra thuế...
Luận văn thạc sĩ kinh tế “Hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong
quản lý Nhà Nước đối với doanh ngiệp công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt
nam”, tác giả: Phạm Thái Hà. Luận văn đã luận giải làm rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn về sử dụng công cụ thuế trong quản lý Nhà Nước đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Đề xuất quan điểm, giải pháp về chú trọng khâu bồi
dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ và thực hiện tốt chế độ đãi ngộ đối với cán bộ
ngành thuế nhằm nâng cao hiệu quả công cụ thuế trong quản lý Nhà Nước đối
với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ kinh tế “ Hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế
theo chương trình cải cách hiện đại hóa ngành thuế Việt nam đến năm 2010”,
tác giả: Phạm Thúy Hồng. Tác giả đã đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy của
kiểm tra, thanh tra thuế theo hai giai đoạn từ 1999-2004 và từ 2004-2006 qua
các mặt: trình độ của cán bộ thanh tra của ngành thuế, việc lập kế hoạch kiểm
tra, thanh tra thuế qua các năm.
Luận văn thạc sĩ kinh tế “ Thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao tính tuân
thủ của người nộp thuế trong điều kiện Việt nam hiện nay”, tác giả: Nguyễn

Chí Dũng. Đã phân tích kiểm tra, thanh tra thuế dưới giác độ tuân thủ của người
nộp thuế, nêu được một số vai trò của kiểm tra, thanh tra thuế đối với việc nâng
cao tính tuân thủ của người nộp thuế. Tác giả đã đề cập các giải pháp để nâng
9


cao tính tuân thủ của người nộp thuế, trong đó đã chú trọng đến khâu bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và hiểu biết pháp luật của cán bộ, viên
chức ngành thuế.
Luận văn thạc sĩ kinh tế “ Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra đối
tượng nộp thuế ở Việt nam hiện nay”, tác giả: Lê Thị Phương Thảo. Đã đánh
giá thực trạng kiểm tra, thanh tra thuế trên các nội dung: kiểm tra đăng ký
thuế; chấp hành chế độ kế toán sổ sách chứng từ, hóa đơn; kê khai, tính thuế
và nộp thuế. Qua đó, luận văn đã phân tích những ưu điểm và hạn chế của
khâu lập kế hoạch kiểm tra, thanh tra thuế các năm từ 2005-2008. Phần giải
pháp để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra thuế luận văn đã đề
cập đến giải pháp đột phá đó là nâng cao trình độ về mọi mặt đối với đội ngũ
cán bộ, viên chức ngành thuế đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành.
Phạm vi phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế xã hội nói
chung là một vấn đề rộng lớn, đã được nhiều nhà quản lý, nhà nghiên cứu đề
cập ở các khía cạnh khác nhau. Có công trình nghiên cứu phân tích dưới góc
độ tổng hợp, có công trình nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực gắn với từng
lĩnh vực cụ thể. Các tác giả đều đã nêu bật những yếu tố khách quan và chủ
quan tác động đến phát triển nguồn nhân lực, làm rõ những yêu cầu mới về
phát triển nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn
hiện nay và đề xuất một số quan điểm giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân
lực trong phát triển kinh tế xã hội nói chung và của ngành thuế nói riêng. Tuy
nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề "Phát triển nguồn nhân lực
ngành thuế ở Thành phố Hà Nội hiện nay" . Vì vậy, tôi đã lựa chọn vấn đề
trên làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ của mình.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn phát triển nguồn
nhân lực ngành thuế ở Thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó đề xuất một số quan
10


điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực ngành
thuế ở Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận về phát triển nguồn nhân lực ngành thuế ở
Thành phố Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực ngành thuế ở Thành
phố Hà Nội trong thời gian qua.
- Đề xuất các quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
nguồn nhân lực ngành thuế ở Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu:
Phát triển nguồn nhân lực ngành thuế ở Thành phố Hà Nội
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về nguồn nhân lực ngành thuế trên địa bàn Thành phố Hà
Nội. Số liệu khảo sát thực tế từ năm 2009 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Đề tài dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực nói chung và phát triển nguồn
nhân lực ngành thuế nói riêng.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy

vật lịch sử, luận văn sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác Lênin (trừu tượng hoá khoa học) và các phương pháp khác như: Kết hợp lôgíc
và lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
11


6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về
nguồn lực và phát triển nguồn nhân lực ngành thuế nói chung và phát triển
nguồn nhân lực ngành thuế ở Thành phố Hà nội nói riêng.
- Cung cấp những luận cứ khoa học cho Đảng bộ, chính quyền thành
phố Hà Nội tham khảo trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế xã
hội nói chung và trực tiếp là phát triển nguồn nhân lực ngành thuế của Thành
phố nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH THUẾ
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Nói tới nguồn nhân lực là nói tới con người; khi nói tới con người thì
có nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau. Chủ nghĩa Mác - Lênin, với
quan điểm duy vật về lịch sử đã khẳng định: Trong quá trình lao động sản
xuất vật chất, quá trình cải biến giới tự nhiên, con người đã làm ra lịch sử của

mình. Con người là sản phẩm của lịch sử đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch
sử của chính con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện tồn tại
của con người vừa là phương thức để biến đổi đời sống và kết cấu xã hội.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người làm biến đổi giới tự nhiên,
làm cho các vật thể có sẵn trong tự nhiên bộc lộ những thuộc tính vốn có của
nó để đáp ứng nhu cầu của con người. Không có hoạt động thực tiễn của con
người thì không thể xuất hiện và tồn tại của các quy luật xã hội, không có sự ra
đời và phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Những thập kỷ gần đây, dưới tác động mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ hiện đại, lao động sản xuất vật chất của con người đã có những thay đổi
về chất, hàm lượng trí tuệ chiếm giá trị rất lớn trong tổng giá trị hàng hoá và có
xu hướng ngày càng tăng cao. Những thiết bị, phương tiện hiện đại và công
nghệ tiên tiến đã làm cho năng suất lao động tăng nhanh. Do đó số lượng, chất
lượng chủng loại hàng hoá, dịch vụ đều tăng lên một cách mạnh mẽ. Từ thực
tiễn đó một số người đã dùng thuật ngữ: Rô bốt thông minh, nhà máy không
người, xã hội kỹ trị… để mô tả đặc trưng của nền sản xuất xã hội hiện tại.
Nhưng nhìn chung, các nhà nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn, khoa học
kinh tế, khoa học kỹ thuật và kể cả các học giả của giai cấp tư sản đều có
những đánh giá cao về vai trò của con người trong tất cả các lĩnh vực kinh tếchính trị- xã hội, quân sự và chiến tranh.
13


Theo lý luận của kinh tế học phát triển, con người được xem xét, đề
cập với tư cách là lực lượng sản xuất chủ yếu, là phương tiện để sản xuất hàng
hoá và dịch vụ, được xem như là lực lượng lao động cơ bản nhất trong xã hội;
nó là yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng sản xuất, dịch
vụ nhanh và bền vững.
Khai thác ở góc độ về nguồn lực cho sản xuất kinh doanh: thì yếu tố con
người được xem xét trước hết như là một bộ phận quan trọng và quyết định nhất
của quá trình sản xuất, một phương tiện để phát triển kinh tế xã hội. Lý luận về

"vốn người" còn được xem xét từ quan điểm nhu cầu về các nguồn lực cho sự
phát triển kinh tế xã hội. Đầu tư cho con người được phân tích với tính cách tương
tự như đầu tư vào các nguồn vật chất khác có tính đến tổng hiệu quả của các đầu
tư, hoặc thu nhập mà con người và xã hội thu được từ các đầu tư đó. Đây là cách
tiếp cận đang được nhiều người quan tâm hiện nay.[16]
Từ cách tiếp cận này, Ngân hàng thế giới cho rằng, nguồn nhân lực là
toàn bộ "vốn người", bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp…mà mỗi
cá nhân sở hữu. ở đây nguồn nhân lực được coi như là một nguồn vốn bên
cạnh các loại vốn vật chất khác như vốn tiền, vốn công nghệ, tài nguyên thiên
nhiên… Trong đó đầu tư cho con người giữ một vị trí trung tâm trong các loại
đầu tư và được coi là cơ sở không thể thiếu cho sự phát triển bền vững[16].
Cũng dựa trên cơ sở tiếp cận như trên, Tổ chức Hợp tác và phát triển của
Liên Hiệp Quốc (OECD) đã đưa ra khái niệm về nguồn nhân lực, cho rằng
nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người
có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Nguồn nhân lực được coi như một
yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc tạo ra, khai thác và không ngừng phát triển
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội[16].
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì “Nguồn nhân lực của một quốc
gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Nguồn
14


nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn
cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự
phát triển” [30]. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển
bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là
một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư
trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, là tổng thể các yếu tố
về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Theo một số nhà khoa học Việt Nam trong đề tài “Con người Việt

Nam- mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” mang mã số KX07 thì nguồn nhân lực được hiểu là dân số và chất lượng con người, bao gồm
cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và
phong cách làm việc[16].
Theo giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực của Đại học kinh tế Quốc dân,
nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Với tư cách là một nguồn lực của
quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng
sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện ra là số
lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định [3].
Nhân lực hay nguồn nhân lực xã hội là những cá nhân có nhân cách, có
khả năng lao động, sản xuất [5].
Nguồn nhân lực hay nguồn nhân lực tổ chức là nguồn lực con người,
nhân tố con người trong một tổ chức cụ thể. Nguồn nhân lực là toàn bộ người
lao động làm việc trong một tổ chức hoặc trong một ngành [34].
Nguồn nhân lực này do tổ chức tuyển dụng, đào tạo và phát triển và sử
dụng để thực hiện mục tiêu của tổ chức. Nguồn nhân lực là nguồn tài nguyên
nhân sự, là tài sản quan trọng nhất của tổ chức. Nói tới nguồn nhân lực là nói
về số lượng, cơ cấu và chất lượng của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực được
coi là hợp lý và được đánh giá cao khi có số lượng tương ứng với số lượng
công việc của tổ chức, có cơ cấu về chuyên môn, nghề nghiệp phù hợp với cơ
15


cấu của công việc. Người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp, kinh nghiệm công tác đáp ứng được những đòi hỏi của công việc [32].
Các định nghĩa trên cho thấy nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến
nguồn lực con người có khả năng lao động. Nguồn nhân lực được xem xét ở 2
khía cạnh số lượng (bao gồm cả kết cấu) và chất lượng nguồn nhân lực. Số
lượng nguồn nhân lực bao gồm số lượng người lao động làm việc cho tổ
chức, ngành, địa phương, quốc gia. Số lượng nguồn nhân lực còn được xem
xét ở cơ cấu của nguồn nhân lực đó có phù hợp với cơ cấu ngành, nghề của tổ

chức, ngành, địa phương, quốc gia (hiện tại và phát triển) hay không. Cơ cấu
nguồn nhân lực thường được xem xét trên một số chỉ tiêu như: cơ cấu theo
trình độ chuyên môn đào tạo, cơ cấu theo giới tính, cơ cấu theo nghề, cơ cấu
theo tuổi và thâm niên.
Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh khả năng lao động, sáng tạo của
nguồn nhân lực. Chỉ tiêu phản ánh chất lượng của Nguồn nhân lực bao gồm các
chỉ tiêu như: trình độ chuyên môn đào tạo, kỹ năng nghề nghiệp (công việc), kiến
thức, thái độ đối với tổ chức và công việc, sức khỏe, kinh nghiệm công tác...
Về phạm vi, nguồn nhân lực có thể được giới hạn ở phạm vi tổ chức
(đơn vị), ngành, địa phương (tỉnh, huyện, xã), quốc gia. Nguồn nhân lực của
tổ chức: bao gồm toàn bộ nguồn nhân lực làm việc cho tổ chức đó. Nguồn
nhân lực của ngành: bao gồm toàn bộ người lao động làm việc cho các tổ
chức, các đơn vị thuộc phạm vi ngành. Nguồn nhân lực của địa phương: bao
gồm toàn bộ người lao động trong phạm vi địa phương (tỉnh, huyện, xã).
Nguồn nhân lực của quốc gia: bao gồm toàn bộ người lao động trong phạm vi
quốc gia. Luận văn tập trung nghiên cứu nguồn nhân lực trong phạm vi một
ngành của Thành phố Hà Nội.
Từ những quan điểm trên có thể thấy rằng nguồn nhân lực được đề cập
như một nguồn vốn tổng hợp với hệ thống các yếu tố hợp thành: Sức lực và
trí tuệ, số lượng cùng với các đặc trưng về chất lượng lao động như trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp, thái độ và
16


phong cách làm việc…, ở đây nhân tố con người được xem xét với tư cách là
một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, là một nguồn lực chủ
yếu để phát triển kinh tế xã hội. Con người - nguồn nhân lực là vốn của mọi
nguồn vốn khác.
Từ cách tiếp cận về nguồn nhân lực nói chung như trên là cơ sở để
nghiên cứu về nguồn nhân lực của ngành thuế phố Hà Nội.

Nguồn nhân lực của ngành thuế Hà Nội hiện nay được hiểu là một
bộ phận nguồn nhân lực của ngành thuế, bao gồm những cán bộ, công chức
được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ về thuế và làm việc trong ngành. Đội
ngũ này gồm những cán bộ, công chức trong biên chế và lao động hợp
đồng được đào tạo từ các Học viện, Nhà trường, cơ sở đào tạo trong và ngoài
nước. Họ làm việc tại các chi cục thuế ở các quận, huyện, thị xã và các phòng
trực thuộc Cục thuế Thành phố Hà Nội.
Nguồn nhân lực này là những người trong độ tuổi lao động, có sức
khoẻ, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với từng chuyên ngành cụ
thể. Họ được đào tạo qua các chuyên ngành kế toán, tài chính, thanh tra, kiểm
tra, chuyên môn nghiệp vụ của ngành thuế có trình độ trung cấp, đại học, sau
đại học sau đó được bồi dưỡng hoặc đào tạo lại về chuyên môn nghiệp vụ của
ngành thuế. Họ cũng có thể được đào tạo ban đầu từ các ngành khác, trong
hoặc ngoài nước, sau đó được tuyển dụng vào ngành thuế và được đào tạo lại
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành.
Do vậy, Nguồn nhân lực của ngành thuế Hà Nội là bao gồm toàn bộ
các cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác trong ngành thuế ở các quận,
huyện và các phòng trực thuộc Cục thuế Thành phố Hà Nội.
1.1.2. Quan niệm và vai trò phát triển nguồn nhân lực
* Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực
Phát triển, theo cách hiểu chung nhất là làm cho biến đổi từ ít thành nhiều,
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Với cách hiểu như vậy có thể hiểu

17


phát triển nguồn nhân lực là làm cho số lượng và chất lượng nguồn nhân lực
ngày càng tăng lên với một cơ cấu hợp lý.
Như vậy: Phát triển nguồn nhân lực là làm gia tăng các giá trị cho con
người, cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như

những kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có
những năng lực và phẩm chất mới, cao hơn và có cơ cấu nguồn nhân lực một
cách hợp lý đáp ứng được những yêu cầu ngày càng tăng của sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Đây là một khái niệm rộng bao hàm sự phát triển toàn diện các giá trị
cả về vật chất và tinh thần, cả trí tuệ nói chung đến kỹ năng nghề nghiệp nói
riêng trong mỗi con người. Đồng thời cũng phải xây dựng một cơ cấu hợp lý
trong toàn bộ nguồn nhân lực.
Bên cạnh việc phát triển số lượng và nâng cao về chất lượng nguồn
nhân lực, đồng thời phải xác định một cơ cấu hợp lý, tránh được sự mất cân
đối, lãng phí trong quản lý, sử dụng nguồn nhân lực của ngành thuế Hà nội.
Vì vậy, có thể khái quát: Phát triển nguồn nhân lực của ngành thuế
Hà Nội là tổng thể các biện pháp mà ngành thuế Hà Nội thực hiện nhằm
biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của ngành thuế Hà Nội đặt ra.
Từ quan niệm trên thì các dấu hiệu nội hàm của quan niệm được biểu
hiện ở các nội dung cụ thể sau:
Về mục đích phát triển nguồn nhân lực của ngành thuế Hà Nội đó là:
đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành
thuế Hà Nội đặt ra.
Về chủ thể phát triển nguồn nhân lực của ngành thuế Hà Nội: Chủ thể
lãnh đạo là cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp của ngành thuế Hà Nội lãnh đạo
phát triển nguồn nhân lực thông qua Nghị quyết và triển khai thực hiện Nghị
quyết. Chủ thể quản lý là lãnh đạo Cục và các Chi cục, Thủ trưởng các cơ
18


quan chức năng của ngành thuế Hà Nội. Các cán bộ, công chức của ngành
thuế Hà Nội vừa là chủ thể vừa là đối tượng của quá trình phát triển nguồn
nhân lực.

Lực lượng tham gia phát triển nguồn nhân lực của ngành thuế Hà Nội
gồm: Cấp ủy Đảng, Ủy ban nhân dân Thành phố và các quận, huyện, thị xã
trên địa bàn Hà Nội. Các cơ quan chức năng cấp trên theo ngành dọc của
ngành thuế Hà Nội. Các cơ sở đào tạo, dạy nghề, các trung tâm bồi dưỡng
trong và ngoài nước có liên quan đến phát triển nguồn nhân lực của ngành
thuế Hà Nội.
Phương thức phát triển nguồn nhân lực của ngành thuế Hà Nội thông qua
nhiều hình thức như: Ngành thuế Hà Nội gửi cán bộ, công chức chức đi đào tạo
nâng cao trình độ về mọi mặt ở các cơ sở đào tạo, dạy nghề trong và ngoài nước.
Tổ chức các đợt tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, viên chức hàng
năm hoặc theo từng đợt. Tự đào tạo bồi dưỡng, rèn luyện của từng cán bộ, công
chức và của từng cơ quan đơn vị trong ngành. Thông qua tuyển dụng nhân lực
mới và đào thải những cán bộ, viên chức không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của
ngành. Thuê khoán chuyên gia làm việc ở những lĩnh vực mới, những lĩnh vực
khó mà cán bộ, công chức của ngành chưa đảm nhiệm được.
* Vai trò phát triển nguồn nhân lực
Khi đề cập đến vai trò phát triển nguồn nhân lực nhà kinh tế học
William Petty đã khẳng định: Đất là mẹ, lao động là cha của mọi của cải xã
hội. Lênin cho rằng: lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động. Do vậy, người lao động là chủ thể của của quá
trình lao động sản xuất. Người lao động với sức mạnh và kỹ năng lao động
của mình, sử dụng tư liệu lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản
xuất ra của cải vật chất. Mặc dù tư liệu sản xuất, vốn, khoa học - công nghệ là
những yếu tố cần thiết của quá trình sản xuất, song tất cả những thứ đó đều
phải thông qua hoạt động của con người mới phát huy tác dụng. Con người
19


tham gia vào quá trình này với tư cách là sức lao động, vừa với tư cách là chủ
thể của các quan hệ kinh tế. Trình độ ý thức và thái độ của người lao động đối

với sản xuất là những yếu tố quan trọng để sử dụng, khai thác tư liệu sản xuất.
Đề cập đến vai trò của người lao động trong mối quan hệ với tư liệu sản xuất
Ăng ghen đã nhấn mạnh: muốn nâng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp
lên mức độ cao mà chỉ có phương tiện cơ giới và hóa học phù trợ thì không
đủ, còn cần phải phát triển một cách tương ứng năng lực của con người sử
dụng những phương tiện đó nữa.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội Đảng ta đã xác định: Con người là trung tâm của chiến lược phát triển,
đồng thời là chủ thể phát triển. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011- 2020, Đảng ta xác định: Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những đột phá chiến
lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng tăng trưởng và lợi thế
cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững. Trên cơ sở quan niệm đúng đắn khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin
về vai trò của nguồn nhân lực đối với sản xuất; quan điểm của Đảng ta về vị
trí vai trò của nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, cho thấy nguồn nhân lực có vai trò rất to lớn trong
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta nói chung và đối với ngành thuế Hà Nội
nói riêng được biểu hiện ở các nội dung cụ thể sau:
Phát triển nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự thắng lợi của
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực và phát triển nguồn nhân lực là một tất yếu khách quan, là xu thế phát
triển của thời đại là yêu cầu tất yếu của quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hoá là sự cần thiết khách quan đối với đất nước nói chung và đối với các cơ
quan đơn vị nói riêng. Nguồn nhân lực có chất lượng cao là tiền đề, là cơ sở
20


quyết định sự thành bại trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hơn

nữa nguồn nhân lực chất lượng cao còn là nhân tố khắc phục được những hạn
chế của đất nước về tài nguyên thiên nhiên, môi trường, vị trí địa lý… Phát
triển nguồn nhân lực còn là cách duy nhất để đưa đất nước thoát khỏi cảnh
nghèo nàn lạc hậu, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh bền vững. Đối với
ngành thuế Hà Nội phát triển nguồn nhân lực là giải pháp quan trọng bảo đảm
cho ngành hoàn thành tốt nhiệm vụ trong tình hình mới.
Phát triển nguồn nhân lực góp phần đáp ứng nhu cầu lao động cho nền
kinh tế và giải quyết việc làm cho người lao động. Trong thời gian tới yêu cầu
phát triển của đất ngày càng tăng do nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng
lớn, ngày càng phong phú đa dạng. Điều đó tất yếu xã hội phải tạo ra nhiều
của cải đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội; lực lượng tham gia vào
các hoạt động của nền sản xuất xã hội phải ngày càng nhiều, chất lượng lao
động phải ngày càng nâng lên, phải nâng cao trình độ trí tuệ và sức sáng tạo
của con người hay nói cách khác phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để
tạo ra một đội ngũ lao động có trình độ ngày càng cao mới đáp ứng được yêu
cầu phát triển đó.
Phát triển nguồn nhân lực góp phần nâng cao dân trí, chất lượng cuộc
sống của nhân dân. Khi kinh tế phát triển ngày càng cao, xã hội được phát
triển hơn thì con người ngày càng được hoàn thiện. Đến lượt nó đòi hỏi việc
nâng cao trình độ tri thức của người lao động; chất lượng của nguồn nhân lực
sẽ tăng lên là điều tất yếu trong tiến trình phát triển của nền sản xuất xã hội.
Đặc biệt là sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, yêu cầu
khoa học của tính đồng bộ trong tiến trình phát triển. Đối với Việt Nam đang
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, chất lượng nguồn nhân
lực tăng lên không chỉ có ý nghĩa để sử dụng các thành tựu mới của khoa học
công nghệ mà còn có điều kiện để sáng tạo ra các tư liệu lao động mới. Hơn
thế quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa yêu cầu nguồn nhân lực phải có sự
21



chuyển biến về chất từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí
tuệ. Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ thì vai trò của đội ngũ trí thức, lao động chất xám ngày càng tăng và càng
có ý nghĩa quyết định. Tuy nhiên, tri thức chỉ thực sự trở thành nguồn lực khi
nó được con người tiếp thu, làm chủ và sử dụng chúng. Hơn nữa dù máy móc
công nghệ hiện đại đến đâu mà không có phẩm chất và năng lực cao, có tri thức
khoa học thì không thể vận hành để làm “sống lại” nó chứ chưa nói đến việc
phát huy tác dụng của nó thông qua hoạt động của con người.
Đối với phát triển nguồn nhân lực của ngành thuế Hà Nội có vị trí, vai
trò rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành và nó quyết định đến việc
nâng cao chất lượng hiệu quả công việc của cán bộ, viên chức của toàn ngành,
bảo đảm cho ngành thuế Hà Nội hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ của mình
trong tình hình mới. Từ những phân tích trên cho thấy, phát triển nguồn nhân
lực có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước cũng như đối với sự phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc
ở ngành thuế Hà Nội. Từ vai trò quan trọng của phát triển nguồn nhân lực, đòi
hỏi đất nước ta nói chung cũng như ngành thuế Hà Nội nói riêng phải coi
trọng sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình phát triển của mình.
1.2. Nội dung và các nhân tố tác động đến phát triển nguồn nhân
lực ngành thuế của Thành phố Hà Nội
1.2.1. Nội dung phát triển nguồn nhân lực ngành thuế của Thành phố Hà
Nội
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Thành phố trong
tình hình mới thì nguồn nhân lực của ngành thuế Hà Nội phải không ngừng
được hoàn thiện về mọi mặt, cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Về số lượng nguồn nhân lực của ngành thuế Hà Nội được xác định bao
gồm toàn bộ cán bộ, công chức của ngành, những người trong độ tuổi lao

22



động và tham gia lao động trong ngành đã qua đào tạo, có trình độ học vấn
và chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của ngành.
Ở ngành Thuế Hà Nội hiện nay, số lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ
cao so với các ngành khác của Thành phố, tuy nhiên số lượng nhân lực chất
lượng cao để đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành còn khá khiêm tốn. Trong
khi đó nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao trong một số lĩnh vực ngày
một tăng cao như: Tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế; Thanh tra; Kiểm tra
thuế... Đây là những ngành, lĩnh vực mà ngành thuế Hà Nội đang rất cần lực
lượng lao động chất lượng cao cho cả hiện tại và tương lai, đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay Thành phố Hà Nội cùng với cả nước đang hội nhập kinh tế quốc
tế ngày càng sâu rộng. Vì vậy, phát triển về số lượng nguồn nhân lực phù hợp
với yêu cầu của ngành là hết sức cần thiết. Số lượng nguồn nhân lực ở các cơ
quan thuộc Cục thuế Hà Nội và các Chi cục thuế ở các quận huyện thuộc
Thành phố Hà Nội phải biên chế đủ nhân lực sao cho đảm bảo vừa đáp ứng
được nhu cầu thường xuyên theo kế hoạch, vừa sẵn sàng đáp ứng nhân lực để
hoàn thành các nhiệm vụ đột xuất theo yêu cầu của trên. Số lượng cán bộ,
công chức của toàn ngành thuế Hà Nội phải tương ứng với chất lượng và cơ
cấu nguồn nhân lực.
Về chất lượng nguồn nhân lực của ngành thuế Hà Nội là nội dung tổng
hợp, bao gồm những đặc trưng về trạng thái thể lực (tình trạng sức khỏe); trí lực
(trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp); phẩm
chất tâm lý xã hội (đạo đức nghề nghiệp, lối sống, kỹ năng giao tiếp, ý thức kỷ
luật, tác phong lao động …) của người lao động. Trong đó trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, là quan trọng nhất. Vì nó không chỉ
là cơ sở để nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của người lao động, mà còn là yếu tố
hoàn thiện nhân cách, lối sống trong mỗi con người. Chất lượng nguồn nhân lực
có tác động làm tăng năng xuất lao động, chất lượng hiệu quả công việc của
người lao động được tăng lên.
23



Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải bằng tổng hợp các giải pháp,
sự vào cuộc của tất cả các cấp, các ngành, bằng cả hệ thống chính trị, trong đó
tập trung vào công tác giáo dục và đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, phát triển
thể lực, nâng cao chất lượng cuộc sống ... Trang bị cho họ có trình độ học vấn
và chuyên môn nghiệp vụ phù hợp, có khả năng thích ứng nhanh chóng với sự
phát triển của ngành tiến, có khả năng sáng tạo, có sức khoẻ và phẩm chất đạo
đức tốt, khát khao được làm việc, được cống hiến, có khả năng vận dụng sáng
tạo những tri thức, những kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ đã được đào tạo
vào hoạt động thực tiễn nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao,
đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội đặt ra.
Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực của ngành thuế Hà Nội ngoài việc đáp
ứng các yêu cầu đủ về số lượng, đa dạng về cơ cấu bộ phận, cân đối về tổ chức
biên chế giữa các bộ phận, các cơ quan, đơn vị của Cục thuế Hà Nội và các Chi
cục thuế của các Quận, Huyện, Thị xã thuộc thành phố Hà Nội với nguồn nhân
lực xã hội … thì nguồn nhân lực này nhất định phải có chất lượng ngày càng
cao. Yêu cầu về chất lượng đối với nguồn nhân lực của ngành thuế Hà Nội đòi
hỏi phải toàn diện, cả về lý thuyết lẫn năng lực thực thực hành, cả về trình độ
chuyên môn thể hiện qua trình độ học vấn, bằng cấp chuyên môn nghiệp vụ và
kinh nghiệm cũng như năng lực hoạt động thực tiễn của mỗi người.
Về cơ cấu nguồn nhân lực được thể hiện trên các phương diện như: cơ
cấu trình độ học vấn (trên đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp);
cơ cấu về giới tính; độ tuổi; cơ cấu lao động trong các bộ phận, các lĩnh vực
chuyên môn của ngành thuế...
Ở đây, cơ cấu nguồn nhân lực của ngành thuế Hà Nội hợp lý, tức là phát
triển hợp lý về số lượng, đào tạo theo cấp bậc (trình độ) phù hợp với nhu cầu

24



thực tiễn của các lĩnh vực, các ngành, các bộ phận của các cơ quan thuộc Cục
thuế Hà Nội và các Chi cục thuế Quận, Huyện, Thị xã thuộc Thành phố Hà Nội
phù hợp với qui hoạch phát triển chung của thành phố Hà Nội. Cơ cấu nguồn
nhân lực hợp lý sẽ tạo điều kiện bảo đảm cho ngành thuế Hà Nội hoạt động một
cách có chất lượng và hiệu quả.
Như vậy về cơ cấu nguồn nhân lực của Thành phố Hà Nội phải duy trì
một cách hợp lý cả về số lượng lẫn chất lượng, xây dựng được một cơ cấu
đồng bộ, cân đối hợp lý về: trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, độ tuổi, khu vực,
địa bàn…
Về trình độ phải cân đối giữa số lượng cán bộ quản lý và công chức,
giữa trình độ sau đại học, đại học và trung cấp. Về độ tuổi gồm nhiều thế hệ
kế tiếp nhau, đặc biệt ưu tiên đối với thế hệ trẻ, nhằm khai thác triệt để thế
mạnh của từng thế hệ. Về cơ cấu chuyên môn nghiệp vụ phải bảo đảm cân đối
giữa các bộ phận, các lĩnh vực... Cần thực hiện phương châm: "công tác đào
tạo phải đi trước một bước", kết hợp nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ, chú trọng đào tạo ở tất cả các bậc học. Gắn đào tạo với quy hoạch, sử
dụng, bố trí công tác và quản lý nhân sự, không ngừng nâng cao chất lượng
đào tạo. Nội dung đào tạo tập trung ưu tiên cho những chuyên môn đang
thiếu, đang yếu..

25


×