Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN đầu RA CHO THỊ TRƯỜNG NÔNG sản ở TỈNH hải DƯƠNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.79 KB, 96 trang )

Phát triển thị trờng đầu ra cho nông sản
ở tỉnh hải dơng

CHUYấN NGNH: KINH T CHNH TR
M S: 60 31 01 02

H NI - 2015


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp chế biến
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hợp tác xã
Kinh tế - xã hội
Nhà xuất bản
Thương nghiệp nhà nước
Thương nghiệp tư nhân
Thị trường đầu ra
Trung tâm xúc tiến thương mại
Vệ sinh an toàn thực phẩm
Xã hội chủ nghĩa
Xúc tiến thương mại

Chữ viết tắt
CNCB
CNH, HĐH
HTX
KT - XH
Nxb


TNNN
TNTN
TTĐR
TTXTTM
VSATTP
XHCN
XTTM


MỤC LỤC

Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
12

1.1.

ĐẦU RA CHO NÔNG SẢN Ở TỈNH HẢI DƯƠNG
Thị trường, thị trường đầu ra cho nông sản và phát triển thị

12

1.2.

trường đầu ra cho nông sản
Quan niệm, nội dung, vai trò và các yếu tố tác động đến phát


triển thị trường đầu ra cho nông sản ở tỉnh Hải Dương
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐẦU

22

RA CHO NÔNG SẢN Ở TỈNH HẢI DƯƠNG NHỮNG
38

2.1.

NĂM QUA
Thành tựu, hạn chế trong phát triển thị trường đầu ra cho

38

2.2.

nông sản ở tỉnh Hải Dương thời gian qua
Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt
ra trong phát triển thị trường đầu ra cho nông sản ở tỉnh

Hải Dương
Chương 3: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

55

PHÁT TRIỂN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐẦU
RA CHO NÔNG SẢN Ở TỈNH HẢI DƯƠNG THỜI
64


3.1.

GIAN TỚI
Quan điểm cơ bản định hướng phát triển thị trường đầu ra

64

3.2.

cho nông sản ở tỉnh Hải Dương
Một số giải pháp chủ yếu phát triển thị trường đầu ra cho
nông sản ở tỉnh Hải Dương

71
89
90
95

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đến nay về cơ bản Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với gần 70%
dân số và hơn 60% lực lượng lao động sinh sống bằng nghề nông. Vì vậy, sự phát
triển của ngành sảnxuất nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển kinh tế,

an ninh lương thực quốc gia và sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Quá trình chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN, ngành nông nghiệp cũng như các ngành
kinh tế khác ở Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn. Từ một nước
thiếu lương thực thường xuyên, chúng ta đã chẳng những đảm bảo được an
ninh lương thực quốc gia mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo thứ hai
thế giới. Ngành sản xuất nông nghiệp đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước
và cung cấp nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu ra nước ngoài với số lượng
ngày càng tăng, thu về một lượng ngoại tệ không nhỏ, một mặt vừa bảo đảm
nâng cao đời sống nhân vừa khẳng định giá trị và thương hiệu hàng nông sản
Việt Nam, đồng thời phục vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiên quá trình sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở nước ta hiện nay còn
đang ở trình độ thấp. Lượng nông sản hàng hóa tuy chưa nhiều và đa dạng nhưng
hiện tượng ứ đọng sản phẩm và ách tắc trong khâu lưu thông thường xuyên diễn
ra; giá cả hàng nông sản lên xuống thất thường. Tình trạng được mùa mất giá diễn
ra hàng năm ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất và đời sống của hàng chục triệu hộ
nông dân, tới sự phát triển sản xuất nông nghiệp và cả nền kinh tế. Do vậy, ở góc
độ quốc gia và ở từng địa phương, việc giải quyết vấn đề “đầu ra” cho nông sản
hàng hóa là vấn đề cấp bách, được bàn thảo thường xuyên tại các cuộc họp, hội
nghị của tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước ở các cấp.
Hải Dương là một tỉnh nằm ở vị trí trung tâm của Đồng bằng sông
Hồng, trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và tam giác tăng trưởng kinh tế
Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển
nông nghiệp hàng hóa đa dạng về sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường
trong và ngoài nước. Sau gần 30 năm đổi mới cùng đất nước, bên cạnh những
3


thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói
riêng, thực tiễn đang đặt ra rất nhiều thách thức đối với việc sản xuất và tiêu

thụ hàng nông sản của Tỉnh.
Sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở Hải Dương còn manh mún, quy mô
nhỏ lẻ, phân tán làm cho tỷ suất nông sản hàng hóa thấp, không tập trung,
khó khăn cho việc thu mua nông sản; quá trình CNH, HĐH nông nghiệp ở
Tỉnh diễn ra chậm làm cho năng suất lao động và giá trị gia tăng của hàng
nông sản còn thấp làm hạn chế khả năng cạnh tranh của nông sản trên thị
trường; chất lượng hàng nông sản còn nhiều hạn chế lại không đồng đều,
chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn về ATVSTP gây khó khăn cho việc mở
rộng không gian thị trường; TTĐR cho nông sản của Tỉnh còn mang nặng
tính tự phát, hệ thống lưu thông hàng nông sản hoạt động kém hiệu quả,
TNNN và thương nghiệp HTX chưa phát huy được vai trò định hướng và
điều tiết thị trường, còn để TNTN thao túng thị trường và ép giá đối với
người nông dân vào mỗi vụ thu hoạch, làm cho lợi ích kinh tế của người
nông dân không được đảm bảo và gây khó khăn cho công tác quản lý Nhà
nước đối với TTĐR cho nông sản. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập
AFTA, gia nhập WTO, sắp tới là gia nhập TPP, khi hàng rào thuế quan và
phi thuế quan phải dỡ bỏ, nước ta sẽ phải mở cửa thị trường cho hàng nông
sản của các nước trong khuôn khổ các hiệp định và tổ chức nói trên. Bối
cảnh đó làm cho hàng nông sản của Tỉnh phải cạnh tranh gay gắt không chỉ
ở thị trường khu vực, thị trường thế giới mà ngay tại thị trường trong Tỉnh
và trong nước. Vì vậy, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và đề xuất
quan điểm, giải pháp phát triển TTĐR cho nông sản ở tỉnh Hải Dương là
vấn đề mang tính thời sự, cấp thiết.
Do đó, tác giả lựa chọn vấn đề “Phát triển thị trường đầu ra cho nông
sản ở tỉnh Hải Dương” làm luận văn cao học kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận văn
Vấn đề phát triển TTĐR cho nông sản thu hút rộng rãi sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, trên từng khía cạnh và phạm vi khác
4



nhau. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này được đăng
tải trên sách, báo, tạp chí.
Một số công trình nghiên cứu về thị trường tiêu thụ hàng nông sản ở
Việt Nam nói chung và từng vùng - lãnh thổ nói riêng
Tác giả Trần Đình Hiền (1992), Những vấn đề kinh tế chủ yếu của
thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, luận án PTS Kinh tế,
Đại học Kinh tế quốc dân [29]. Dưới góc độ quản lý kinh tế và kế hoạch
hóa nền kinh tế quốc dân, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận chung về
thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ở Việt Nam sau hơn 5 năm thực
hiện đường lối đổi mới, đánh giá thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp của nước ta, tập trung vào một số loại nông sản chủ lực như
lúa gạo, cà phê, sao su, hạt điều, thủy sản,... trên cơ sở đó đưa ra những
quan điểm định hướng và các giải pháp chủ yếu dưới góc độ quản lý nhà
nước về kinh tế và kế hoạch hóa nền kinh tế nhằm quản lý thị trường tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp ở nước ta. Tuy nhiên, do góc độ nghiên cứu
nên tác giả chưa đề cập đến những vấn đề kinh tế chính trị của thị trường
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Tác giả Đặng Phong Vũ (2000), Thị trường tiêu thụ nông phẩm của
Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay - đặc điểm và phương hướng phát triển,
luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [52]. Dưới góc độ
kinh tế học chính trị, tác giả đã phân tích làm nổi bật đặc điểm của thị trường
tiêu thụ nông phẩm của Đồng bằng sông Cửu Long và vai trò của thị trường
này đối với sự phát triển KT - XH của vùng; phân tích thực trạng thị trường
tiêu thụ nông phẩm của Đồng bằng sông Cửu Long, làm rõ những mâu thuẫn
đặt ra cần giải quyết để phát triển thị trường tiêu thụ nông phẩm của vùng
trong thời gian tới, trên cơ sở đó tác giả đề ra phương hướng và phải pháp
phát triển thị trường tiêu thụ nông phẩm của Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy
nhiên, do giới hạn về phạm vi nội dung nghiên cứu nên tác giả chưa đề cập


5


đến những nhân tố tác động đến việc phát triển thị trường tiêu thụ nông sản và
các nội dung phát triển thị trường tiêu thụ nông sản.
Tác giả Hoàng Thị Ngọc Loan (2005), Thị trường tiêu thụ hàng nông
sản của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AFTA, luận án Tiến sĩ Kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [34]. Tác giả đã khái quát lý luận
chung về thị trường, đặc điểm và các yếu tố tác động lên thị trường nông
sản, làm rõ thời cơ và thách thức đối với thị trường tiêu thụ hàng nông sản
của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực; phân tích thực
trạng thị trường tiêu thụ nông sản của Việt Nam từ khi gia nhập AFTA từ
đó đề ra một số quan điểm và giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ nông
sản của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AFTA dưới góc độ kinh tế học
chính trị. Song do phạm vi nghiên cứu nên tác giả chưa bàn đến khái niệm
phát triển thị trường tiêu thụ hàng nông sản của Việt Nam, chưa chỉ rõ mục
đích, chủ thể, nội dung và cách thức phát triển thị trường này.
Tác giả Bùi Hữu Đức (2008), “Phát triển thị trường nông sản nước ta
trong điều kiện gia nhập Tổ chức thương mại thế giới”, Tạp chí Cộng sản (số
788) [26]. Tác giả đã đánh giá những cơ hội mở ra khi gia nhập WTO như:
việc mở rộng thị trường về quy mô và không gian; cơ hội đổi mới công nghệ
sản xuất và chế biến nông sản; sự gia tăng đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực
nông nghiệp... Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ rõ những thách thức với thị
trường nông sản Việt Nam là: khả năng cạnh tranh khốc liệt của hàng nông
sản sản xuất trong nước với nông sản có chất lượng cao; thị trường thế giới
vẫn tồn tại những hàng rào phi thương mại áp dụng với nhiều mặt hàng nông
sản; công nghệ sau thu hoạch của nước ta còn khá lạc hậu; sản xuất nông
nghiệp nước ta còn manh mún, nhỏ bé; sự dao động về giá cả nông sản trên
thị trường thế giới luôn ở mức độ cao và xảy ra thường xuyên. Từ đó tác giả
đưa ra một số kiến nghị đối với các cơ quan nhà nước và với các chủ thể sản

xuất kinh doanh nông sản nhằm phát triển thị trường nông sản ở Việt Nam.

6


Song do giới hạn dung lượng của một bài báo khoa học nên tác giả chỉ phân
tích thị trường nông sản nói chung, chưa có sự tách bạch thị trường đầu vào
và thị trường đầu ra để làm nổi bật vai trò của thị trường đầu ra đối với quá
trình tái sản xuất nông nghiệp.
Một số công trình khoa học nghiên cứu về sự phát triển nông
nghiệp, nông thôn ở nước ta
Tác giả Bùi Bằng Đoàn và Bùi Thị Mai Linh (2013), “Nghiên cứu giải
pháp tăng cường kết nối sản xuất với thị trường của hộ nông dân các tỉnh
vùng trung du miền núi Đông Bắc”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (số 2) [25].
Các tác giả đã nêu ra những bất lợi trong việc tiếp cận với thị trường của nông
dân các tỉnh trung du miền núi Đông Bắc và nguyên nhân của nó; chỉ ra một
số cách thức thực hiện kết nối của hộ nông dân với thị trường như: nông dân
trực tiếp đem sản phẩm của mình tiêu thụ trên thị trường; thông qua tư
thương, thương lái, người thu gom; thông qua hớp tác xã và các hộ sản xuất
khác. Từ đó các tác giả đưa ra môt số giải pháp tăng cường sự kết nối sản
xuất với thị trường cho hộ nông dân các tỉnh Đông Bắc gồm: đẩy mạnh và
thực hiện có hiệu quả sự “liên kết 4 nhà”; quy hoạch lại vùng sản xuất, phát
động phong trào xây dựng cánh đồng mẫu lớn sản xuất hàng hóa đối với các
loại sản phẩm chủ yếu; phát triển mạnh các hình thức hợp tác trong sản xuất
và tiêu thụ, hình thành các HTX theo từng ngành hàng ở các địa phương; tổ
chức tốt hệ thống tư thương; tăng cường công tác dự báo thị trường.
Tác giả Phạm Thành Công (2013), “Định hướng phát triển thương
hiệu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam hiện
nay”. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (số 11) [11]. Trong bài này tác giả đã nêu
lên những đặc điểm của hàng nông sản xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của

hàng mặt hàng này; vai trò của thương hiệu trong vấn đề nâng năng lực cạnh
tranh của hàng nông sản xuất khẩu; phân tích thực trạng phát triển thương
hiệu hàng nông sản Việt Nam trong những năm gần đây. Trên cơ sở đó đề

7


một số hướng đi đối với nhà nước và đối với doanh nghiệp nhằm nâng cao
hình ảnh thương hiệu hàng nông sản Việt Nam trong tương lai.
Tác giả Trần Thanh Hà (2013), “Nông dân bỏ ruộng, đúng hay sai
quy luật phát triển” Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (số 16) [28]. Bài báo đánh
giá thực chất nguyên nhân của tình trạng nông dân bỏ ruộng không phải là
một sự cải thiện nào đó về việc làm và thu nhập của người nông dân hay vì
nông dân đã có nghề khác để sinh nhai mà vì đồng lúa đang trở thành gánh
nặng khi phải chịu nhiều khoản thu khác nhau. Để giải quyết vấn đề nông
dân bỏ ruộng, tác giả Trần Thanh Hà đưa ra khuyến nghị cơ chế chính sách
của Nhà nước phải tập trung tháo gỡ vướng mắc ở ba khâu: đầu vào, đầu ra
và khâu sản xuất để nông dân được hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế do đổi
mới và hội nhập kinh tế quốc tế đem lại.
Một số công trình khoa học nghiên cứu về thị trường tiêu thụ từng
mặt hàng nông sản
Tác giả Ninh Đức Hùng và Đỗ Kim Chung (2011), “Nâng cao năng
lực cạnh tranh của ngành rau quả” Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (số 6) [30].
Các tác giả nêu lên quan niệm chung về năng lực cạnh tranh; phân tích làm rõ
nội dung của nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành rau quả; một số đặc
điểm, chỉ tiêu và những nhân tố ảnh hưởng năng cao năng lực cạnh tranh của
ngành rau quả. Từ sự phân tích trên kết hợp với nghiên cứu kinh nghiệm nâng
cao năng lực cạnh tranh của ngành rau quả của một số nước trên thế giới tác
giả cho rằng để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành rau quả cần: quy
hoạch phát triển các vùng trồng rau quả hợp lý để phát huy lợi thế so sánh;

nâng cao năng lực công nghệ, phát triển đa dạng sản phẩm; nâng cao vai trò
quản lý của Nhà nước, đẩy mạnh đầu tư công vào phát triển kết cấu hạ tầng,
thực hiện tốt các dịch vụ công và nâng cao năng lực tiếp thị.
Tác giả Trần Đình Thao và Nguyễn Thị Minh Thu (2012), “Rủi ro
trong ngành chăn nuôi lợn ở Việt Nam” Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (số 11)
[39]. Dựa trên phương pháp điều tra chọn mẫu theo vùng, tỉnh trọng điểm về
rủi ro trong chăn nuôi lợn ở 7 tỉnh, đại diện cho 7 vùng sinh thái ở nước ta,
8


các tác giả đã định vị các rủi ro chính của ngành chăn nuôi lợn ở nước ta là rủi
ro dịch bệnh và rủi ro thị trường; phân tích nguyên nhân gây ra rủi ro, nhấn
mạnh nguyên nhân phát sinh rủi ro từ việc chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ và liền kề
các khu dân cư; đánh giá mức độ thiệt hại của các rủi ro đối với ngành chăn
nuôi, trong đó đánh giá sự biến động lệch pha giữa giá đầu vào và giá đầu ra
gây ảnh hưởng lớn đối với lợi nhuận của các chủ thể chăn nuôi. Từ đó, các tác
giả đề xuất các biện pháp quản lý rủi ro của các tác nhân chăn nuôi như: vệ
sinh phòng bệnh dịch, khử trùng, tiêm phòng, chủ động con giống, tham gia
bảo hiểm trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi theo hợp đồng…
Tác giả Nguyễn Quang Thuấn và Đào Thị Hoàng Mai (2013), “Một số
vấn đề về cơ chế, chính sách đối với các mặt hàng nông sản chủ lực ở Đồng
bằng sông Cửu Long” Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (số 3) [38]. Bài viết phân
tích thực trạng sản xuất và tiêu thụ một số mặt hàng nông sản chủ lực ở Đồng
bằng sông Cửu Long, đi sâu vào phân tích cơ chế chính sách của Nhà nước
đối với việc sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng nông sản chủ lực của vùng. Từ
đó kiến nghị việc đổi mới cơ chế chính sách theo hướng: tạo môi trường và
điều kiện thuận lợi để tăng tính chủ động hơn cho người đầu tư sản xuất;
nghiên cứu cơ chế và hình thức đẩy mạnh liên kết trong sản xuất và phân
phối, tiêu thụ; có cách tiếp cận theo chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực, thúc đẩy
liên kết vùng để phát huy lợi thế so sánh và lợi thế quy mô kinh tế.

Tóm lại: Các công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề
khác nhau, trên các khía cạnh đối tượng, phạm vi khác nhau, đây là những tài
liệu quan trọng làm cơ sở để tác giả tham khảo kế thừa, phát triển trong triển
khai nghiên cứu luận văn này. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu vấn đề “Phát triển thị trường đầu ra cho nông sản ở tỉnh Hải
Dương”, dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy, luận văn mặc dù có kế thừa
những kết quả nghiên cứu của các công trình trước đó, song không trùng
lặp với bất cứ một công trình khoa học nào đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
9


Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về phát triển TTĐR cho nông
sản ở tỉnh Hải Dương, đề xuất những quan điểm, pháp nhằm phát triển
TTĐR cho nông sản ở tỉnh Hải Dương.
* Nhiệm vụ:
Luận giải cơ sở lý luận phát triển TTĐR cho nông sản ở tỉnh Hải
Dương hiện nay và vai trò của nó đối với sự phát triển KT - XH của Tỉnh.
Đánh giá thực trạng phát triển TTĐR cho nông sản ở tỉnh Hải
Dương trong những năm qua và những mâu thuẫn đặt ra cần giải quyết
trong thời gian tới
Đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu phát triển
TTĐR cho nông sản của ở tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Phát triển thị trường đầu ra cho nông sản.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: luận văn tập trung nghiên cứu phát triển TTĐR cho
các sản phẩm nông sản của tỉnh Hải Dương.

Về thời gian: thời gian khảo sát từ năm 2006 đến nay.
Về nội dung: luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu phát triển TTĐR đối
với các sản phẩm nông sản chủ lực của tỉnh Hải Dương.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
* Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả kết hợp phương pháp lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh, trừu tượng hóa cùng một số phương pháp khác đang được
vận dụng trong nghiên cứu các vấn đề của kinh tế chính trị. Trong đó chú
trọng phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Luận văn cũng tập trung nghiên
cứu, phân tích các tư liệu, dữ liệu, thông tin từ các nguồn khác nhau của các
cơ quan chức năng, các đề tài, tạp chí mà tác giả có điều kiện tiếp cận.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về phát
triển TTĐR cho nông sản ở tỉnh Hải Dương.

10


Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu giảng dạy môn kinh tế chính trị Mác - Lênin, làm tài liệu tham
khảo để các địa phương xây dựng chủ trương, biện pháp phát triển TTĐR
cho nông sản.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm có: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và các phụ lục.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐẦU RA
CHO NÔNG SẢN Ở TỈNH HẢI DƯƠNG

1.1. Thị trường, thị trường đầu ra cho nông sản và phát triển thị trường
đầu ra cho nông sản
1.1.1. Thị trường
Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hóa. Do
đó cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nội hàm khái niệm thị trường
trong khoa học kinh tế cũng thay đổi.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì thị trường chỉ địa điểm hay không gian của
trao đổi hàng hóa, đó là nơi gặp gỡ giữa người bán, người mua, hàng và tiền
và ở đó diễn ra các hoạt động mua bán. Đây là cách hiểu thị trường gắn liền
với yếu tố địa lý. Nơi mua bán xảy ra đầu tiên là ở chợ, sau này mở rộng hơn
về không gian thì khái niệm nơi mua bán rộng hơn như ở cửa hàng, cửa hiệu
cố định, siêu thị, trung tâm thương mại…
Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thị trường là sự phản ánh các hiện tượng
kinh tế thông qua trao đổi và lưu thông hàng hóa cùng với các quan hệ kinh tế
11


giữa người với người trong quá trình trao đổi, mua bán hàng hóa và các dịch vụ.
Thị trường được hiểu là tổng thể các quan hệ kinh tế gắn kết người sản xuất với
người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ dựa trên sự điều tiết của các quy luật kinh tế
khách quan. Như vậy, thị trường không nhất thiết phải là một địa điểm cụ thể
như cách hiểu theo nghĩa hẹp ở trên. Người bán và người mua có thể không trực
tiếp trao đổi, mà qua các phương tiện khác để thiết lập nên thị trường.
Để hiểu rõ về thị trường cần tiếp cận trên những khía cạnh sau:
Thị trường là nơi chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng sản phẩm,
dịch vụ hoặc tiền tệ, nhằm thỏa mãn nhu cầu của hai bên cung và cầu về một
loại sản phẩm nhất định theo các thông lệ hiện hành, từ đó xác định rõ số

lượng và giá cả cần thiết của các sản phẩm, dịch vụ.
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán một loại hàng hóa
nào đó. Với nghĩa này có thị trường có thị trường gạo, thị trường cao su, thị
trường chứng khoán …
Thị trường là nơi có các quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa vô số
những người bán và người mua có quan hệ cạnh tranh với nhau, bất kể là ở
địa điểm nào, thời gian nào.
Như vậy, trong từng thời kỳ khác nhau thì quan niệm về thị trường
cũng có sự khác nhau. Song xét về mặt bản chất, thị trường là tổng thể các
yếu tố và điều kiện để thực hiện hàng hóa, các yếu tố và điều kiện này liên hệ,
tác động lẫn nhau theo những qui luật khách quan, phản ánh các quan hệ kinh
tế giữa các chủ thể tham gia thị trường.
Trên thị trường, người bán là người sở hữu hàng hóa. Mục đích của họ
đến thị trường là để bán hàng. Vì vậy, đối với họ, thị trường là tổng hợp
những điều kiện, yếu tố, môi trường để thực hiện giá trị của hàng hóa, nhằm
thu về chi phí sản xuất và lợi nhuận dưới hình thái tiền. Còn người mua là
người sở hữu tiền, họ đến thị trường với mục đích là mua hàng hóa, chi phối
giá trị sử dụng của hàng hóa. Đối với họ, thị trường là tổng hợp những điều
kiện, yếu tố, môi trường giúp họ tìm thấy hàng hóa có giá trị sử dụng phù hợp
với nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán của họ.

12


Việc thực hiện hành vi mua bán trên thị trường chị sự điều tiết của cơ
chế thị trường và đòi hỏi phải có những điều kiện vật chất nhất định như: cửa
hàng, kho tàng, phương tiện vận chuyển, phương tiện đo lường, đường sá,
thông tin, các dịch vụ thanh toán, quảng cáo…Các điều kiện trên đây phục vụ
trực tiếp cho quá trình lưu thông và mua bán hàng hóa. Do đó, mức độ hoàn
hảo hay không hoàn hảo của nó có ảnh hưởng lớn tới thời gian và quá trình

mua bán, đến nhịp độ hoạt động của thị trường.
1.1.2. Thị trường đầu ra cho nông sản
* Nông sản
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Nông sản là những sản phẩm
hoặc bán thành phẩm của ngành sản xuất hàng hóa thông qua gây trồng và
phát triển của cây trồng” [54].
Quan niệm trên chỉ đề cập đến nông sản với tư cách là sản phẩm của
ngành trồng trọt, không bao hàm sản phẩm của ngành chăn nuôi, thủy sản. Quan
niệm này chưa phù hợp với thực tiễn phát triển nông nghiệp ở nước ta hiện nay.
Tác giả Nguyễn Mạnh Khải quan niệm: “Nông sản là danh từ chung
để chỉ sản phẩm nông nghiệp, chúng bao gồm sản phẩm cây trồng (thóc,
ngô, đậu đỗ, khoai, sắn, rau, hoa, quả…), sản phẩm vật nuôi (thịt, trứng,
sữa, da, xương…) và một số sản phẩm nuôi trồng đặc biệt (nấm, ba ba, ốc,
ếch…”[32, tr.8]. Theo quan niệm trên, nông sản là những sản phẩm nông
nghiệp theo nghĩa hẹp, chưa bao hàm sản phẩm của của ngành lâm nghiệp,
ngư nghiệp và diêm nghiệp.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn tác giả quan niệm: nông sản
là sản phẩm do ngành nông nghiệp sản xuất ra (bao gồm sản phẩm của
ngành trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản) Khi nông nghiệp phát triển theo
hướng nông nghiệp hàng hóa, tức là các sản phẩm của ngành nông nghiệp
được sản xuất ra để trao đổi mua bán trên thị trường, thì TTĐR cho nông
sản cũng xuất hiện.
* Thị trường đầu ra cho nông sản

13


Thị trường đầu ra cho nông sản là một bộ phận của thị trường hàng hóa
dịch vụ, hình thành và phát triển khi sản xuất nông nghiệp chuyển sang sản xuất
hàng hóa, nơi diễn ra các hoạt động mua và bán sản phẩm đầu ra của ngành

nông nghiệp.
Do sản xuất nông nghiệp và hàng nông sản có những tính chất và đặc
điểm khác biệt so với các ngành sản xuất và mặt hàng khác nên TTĐR cho nông
sản cũng có đặc điểm riêng.
Đặc điểm của TTĐR cho nông sản
Một là, cung nông sản có tính thời vụ.
Nguồn cung của thị trường nông sản thường chỉ tập trung vào vụ thu
hoạch và tiếp sau vụ thu hoạch từ một đến hai tháng, điều đó làm cho lượng
cung thường tăng cao hơn so với lượng cầu khiến cho giá của sản phẩm trong
giai đoạn này thấp và sau đó tăng lên đáng kể cho tới vụ thu hoạch tiếp theo
Tuy nhiên, tính mùa vụ của TTĐR cho nông sản là khác nhau với các nông
sản khác nhau. Các biện pháp kéo dài và tạo ra nhiều vụ thu hoạch, đa dạng
lịch thu hoạch, lưu kho, thực hiện tốt việc bảo quản… là biện pháp quan trọng
góp phần ổn định nguồn cung, từ đó có thể khắc phục được những tác động
tiêu cực của tính mùa vụ đối với cung nông sản trên thị trường.
Tính thời vụ của TTĐR cho nông sản làm cho thu nhập và mức sống của
người nông dân có sự chênh lệch đáng kể giữa trong và ngoài vụ thu hoạch.
Điều này vừa tạo điều kiện để họ tập trung vốn cho chu kỳ sản xuất tiếp theo,
vừa đặt ra yêu cầu phải cân đối tiêu dùng một cách hợp lý để đảm bảo cho hoạt
động sản xuất và sinh hoạt bình thường ở các thời điểm trong năm.
Hai là, giá cả của nông sản dễ biến động trong thời gian ngắn.
Giá của các nông sản có thể thay đổi đáng kể và đột ngột trong vòng một
tuần và thậm chí một ngày. Sự biến đổi giá nhanh chóng thường diễn ra với các
mặt hàng dễ hỏng như hoa quả, rau, cá tươi. Những nông sản này không thể bảo
quản lâu và phải bán đi nhanh chóng. Do đó, giá của những nông sản đó có xu
hướng giảm nhiều, nhiều khi thấp hơn chi phí sản xuất vào cuối thời điểm buôn
bán hoặc khi có một lượng hàng lớn đột ngột xâm nhập thị trường.

14



Sự biến động của giá cả nông sản trong thời gian ngắn làm tăng tính rủi
ro đối với chủ thể sản xuất và tiêu thụ nông sản, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi
ích kinh tế của nông dân và thương nhân khi tham gia thị trường, gây khó
khăn cho việc tiến hành chu kỳ sản xuất và kinh doanh tiếp theo.
Thứ ba, TTĐR cho nông sản mang tính khu vực và tương đối phân tán.
Nhu cầu tiêu dùng nông sản của con người rất phong phú, đa dạng về
số lượng, chất lượng và chủng loại. Nhưng xét về nguồn cung nông sản, mỗi
loại nông sản chỉ thích hợp và cho hiệu quả kinh tế cao trong những điều kiện
tự nhiên nhất định về đất đai, thời tiết, khí hậu. Những điều kiện này không
phải ở nơi nào cũng giống nhau. Cho nên, mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ
của một nước chỉ có thể sản xuất và đưa ra thị trường một số loại nông sản
nhất định mà họ có lợi thế. Điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu còn tạo cho một số
vùng có những loại nông sản đặc trưng mà nếu trồng ở nơi khác thì sẽ không
thu được nông sản cùng chủng loại về chất lượng. Đặc điểm này lý giải vì sao
một số loại nông sản luôn đi kèm với tên một địa danh nhất định. Ví dụ như ở
nước ta có vải thiều Thanh Hà, nhãn lồng Hưng Yên, chè Thái Nguyên, cam
Canh, bưởi Diễn… Ngày nay, sự phát triển của khoa học công nghệ, người ta
đã có thể trồng một số loại sản phẩm đặc sản ở nhiều nơi. Tuy nhiên, hương
vị riêng có, gắn với quê hương của đặc sản thì vẫn không thể có được. Chính
vì vậy, thị trường nông sản ở mỗi vùng có nét đặc trưng riêng gắn liền với các
chủng loại sản phẩm nông nghiệp của từng vùng. Đặc điểm này có ảnh hưởng
lớn tới giá cả và quan hệ cung - cầu nông sản trên thị trường.
Do hàng nông sản được sản xuất ở rất nhiều vùng khác nhau, tính chất
của hàng nông sản là hàng tươi sống, khó bảo quản, nên sự phát triển CNCB
và liên kết nông nghiệp với công nghiệp và thương mại dịch vụ trên từng địa
bàn, hình thành những tổ hợp nông - công - thương mại dịch vụ trên từng địa
bàn là một đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển nông nghiệp hàng hóa.
Thứ tư, cung cầu trên TTĐR cho nông sản ít co dãn.
Cung về nông sản là khối lượng hàng nông sản mà người sản xuất, kinh

doanh bán ra thị trường trong một thời điểm nhất định. Sản xuất nông nghiệp
mang tính mùa vụ cho nên khi vào vụ thu hoạch, do tính chất tươi sống của
15


nông sản nên người sản xuất buộc phải bán nông sản ra thị trường bất kể giá
nông sản trên thị trường cao hay thấp. Cùng một thời điểm tất cả các nhà sản
xuất cùng đưa nông sản ra bán trên thị trường đã làm cho cung vượt quá nhu
cầu của xã tội tại thời điểm bán. Cung lớn hơn cầu làm cho giá nông sản
giảm, có khi thấp hơn chi phí sản xuất, người sản xuất bị lỗ vốn nhưng họ
không thể giữ sản phẩm của mình lại để chờ đến khi nào giá trên thị trường
tăng mới đưa ra bán. Ngược lại, khi cung nông sản ít hơn cầu, giá cả nông sản
tăng, nhưng không vì thế mà cung nông sản tăng bao nhiêu cũng được. Điều đó
là do thời vụ thu hoạch và do cây trồng vật nuôi cần phải có thời gian sinh
trưởng nhất định.
Cũng như cung về hàng nông sản, độ co dãn của cầu về nông sản cũng có
điểm khác biệt so với cầu hàng công nghiệp. Cầu về nông sản là khối lượng
hàng nông sản mà người tiêu dùng cần mua và có thể mua được với một giá nhất
định vào một thời điểm nhất định trên thị trường.
Nông sản là mặt hàng đáp ứng nhu cầu cơ bản, thiết yếu hàng ngày cho
cuộc sống con người. Nhu cầu của từng người với mặt hàng này tùy thuộc vào
đòi hỏi sinh lý nhất định, vào thể trạng của mỗi người. Dù giá nông sản có tăng
cao nhưng nhu cầu về lương thực, thực phẩm cũng không thể cắt giảm đáng kể.
Ngược lại khi giá nông sản xuống thấp, nhu cầu về nông sản cũng không thể
tăng đáng kể vì khả năng tiêu thụ có hạn của từng người.
Các yếu tố cấu thành TTĐR cho nông sản
Một là, cung nông sản.
Cung nông sản là khối lượng nông sản hàng hóa mà những người sản xuất
và kinh doanh bán ra thị trường ở một thời điểm nhất định. Khối lượng nông sản
đưa ra thị trường được quyết định bởi các nhân tố chủ yếu sau đây:

Tỷ suất nông sản hàng hóa và khối lượng sản phẩm nông nghiệp: Nếu tỷ
suất nông sản hàng hóa không đổi thì cung về nông phẩm hàng hóa sẽ tăng lên khi
khối lượng sản phẩm nông nghiệp tăng lên. Nếu khối lượng sản phẩm nông nghiệp
không đổi thì cung về nông sản sẽ tăng lên khi tỷ suất nông sản hàng hóa tăng lên.
Thời vụ thu hoạch: khi đến vụ thu hoạch, cung nông phẩm tăng lên; trái
lại, vào thời điểm giáp hạt, giáp vụ, trái vụ lượng cung sẽ giảm xuống.

16


Giá cả nông sản: cung nông sản biến đổi cùng chiều với giá cả nông
sản. Khi giá nông sản trên thị trường tăng thì cung nông sản có khuynh hướng
tăng và ngược lại.
Ngoài ra cung về nông sản còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố thuộc trình
độ công nghệ được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp, giá cả các yếu tố đầu vào
của việc sản xuất nông sản, dự báo giá cả nông sản trong tương lai, chính sách
thuế và các quy định của chính phủ đối với sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự
nhiên (nắng hạn, bão lũ, dịch bệnh), chính sách nhập khẩu nông sản của Nhà
nước... Về phương diện xã hội, cung nông sản được biểu hiện thông qua người
sản xuất nông sản thuộc thành phần kinh tế khác nhau ở một thời điểm nhất định.
Hai là, cầu nông sản.
Cầu về nông sản là khối lương lượng nông sản hàng hóa mà người tiêu
dùng cần mua và có thể mua được với mỗi mức giá khác nhau, trong một thời
điểm nhất định trên thị trường.
Cầu về nông sản của xã hội rất đa dạng: cầu nguyên liệu cho CNCB, cầu
cho tiêu dùng cá nhân trong nước, cầu nông sản phục phụ xuất khẩu. Cầu về
nông sản được chia thành hai loại: cầu thực tế của xã hội và cầu có khả năng
thanh toán. Cầu thực tế của xã hội là cầu về nông sản được tính theo quy mô dân
số; cầu có khả năng thanh toán là hình thức biểu hiện bằng tiền của cầu thực tế,
nó biểu hiện thông qua khả năng thanh toán của người tiêu dùng nông sản. Cầu

có khả năng thanh toán đôi khi không phản ánh đúng cầu thực tế của xã hội vì nó
được thực hiện gắn với giá cả và thu nhập, tức gắn với quan hệ thị trường. Do
vậy, cầu có khả năng thanh toán chịu tác động bởi các nhân tố chủ yếu sau:
Giá cả nông sản trên thị trường và thu nhập của dân cư: thông thường
nhu cầu nông phẩm của người tiêu dùng vận động ngược chiều với giá cả và
cùng chiều với mức thu nhập của họ.
Ở mỗi mức giá, nhu cầu có khả năng thanh toán về nông sản sẽ phụ
thuộc vào quy mô nhân khẩu tiêu dùng nông sản và sức mua của đồng tiền.
Ngoài ra, cầu có khả năng thanh toán của nông sản còn chịu ảnh hưởng
của các yếu như: giá cả của hàng nông sản trong tương lai, quy mô của thị
trường, các yếu tố thuộc về sở thích và khẩu vị của người tiêu dùng đối với
từng loại nông sản, sự giới hạn về mặt tín ngưỡng, tôn giáo trong tiêu dùng
một số loại nông sản nhất định. Trên bình diện xã hội, cầu về nông sản biểu
17


hiện thông qua người tiêu dùng nông sản (tiêu dùng sản xuất hoặc tiêu dùng
cá nhân) thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Ba là, giá cả hàng nông sản trên thị trường.
Giá cả của hàng nông sản là biểu hiện bằng tiền giá trị hàng nông sản. Nó
được hình thành một cách khách quan trên thị trường. Giá cả hàng nông sản chịu
sự chi phối của các nhân tố như: chi phí để sản xuất ra nông sản; quan hệ cung
cầu của nông sản trên thị trường; chất lượng và uy tín của nông sản trên thị
trường; mức độ cạnh tranh hay độc quyền về nông sản trên thị trường.
Trong cơ chế thị trường, sự biến động về giá cả nông sản làm cho mức
cung về nông sản thay đổi qua từng vụ, luôn tạo ra mất cân đối giữa cung và
cầu nông sản. Sự vận động khách quan này tạo ra hai mặt tác động ngược
chiều nhau đối với người sản xuất và tiêu dùng nông sản, nó thể hiện ở chỗ:
một mặt nó kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển tăng cung, xã hội có
nhiều sản phẩm để tiêu dùng nhưng giá nông phẩm lại giảm xuống, người

nông dân bị thiệt. Mặt khác, nó có tác dụng thu hẹp sản xuất, cung nhỏ hơn
cầu, giá nông sản tăng, người nông dân được hưởng lợi, nhưng người tiêu
dùng nông sản bị thiệt. Sự lên xuống của giá cả nông sản trên thị trường phản
ánh mức độ cân đối của cung - cầu nông sản, là tín hiệu cho các chủ thể sản
xuất, kinh doanh nông sản điều chỉnh các hoạt động cho phù hợp.
Bốn là, cạnh tranh của thị TTĐR cho nông sản.
Cạnh tranh là một thuộc tính của thị trường hàng hóa nói chung, trong đó
bao gồm TTĐR cho nông sản. Đây là một trong những nhân tố tác động lớn đến
sự phát triển hay trì trệ, ổn định hay rối loạn của TTĐR cho nông sản.
Cạnh tranh của TTĐR cho nông sản là sự ganh đua của các bên tham gia
TTĐR cho nông sản nhằm giành về mình những điều kiện có lợi.
Cạnh tranh của TTĐR cho nông sản được diễn ra giữa các bên cung
nông sản với nhau và các bên cầu nông sản với nhau, giữa bên cung - cầu
trong khu vực với địa bàn bên ngoài. Cạnh tranh giữa nguồn cung nông sản
với nhau là quá trình người sản xuất nông sản sử dụng các biện pháp để dành
nơi đầu tư sản xuất có lợi hoặc áp dụng các biện pháp cái tiến kỹ thuật, quản
lý để nâng cao năng suất lao động, hạ thấp giá trị sản phẩm nông sản hơn giá
trị thị trường của nông sản. Cạnh tranh giữa nguồn cầu nông sản với nhau là
18


quá trình người mua sử dụng các biện pháp nhằm mua được hàng nông sản với
số lượng, chất lượng và giá cả hợp lý nhất nhằm đạt được mục đích thu lợi
nhuận hoặc thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng với chi phí thấp nhất.
Năm là, kết cấu hạ tầng của TTĐR cho nông sản.
Để TTĐR cho nông sản hoạt động và phát triển cần phải có kết cấu hạ
tầng của TTĐR cho nông sản. Đây là khâu kết nối giữa cung và cầu nông sản.
Các yếu tố kết cấu hạ tầng của TTĐR cho nông sản càng đa dạng và vận hành
trôi chảy thì TTĐR cho nông sản càng phát huy tốt hiệu quả.
Biểu hiện kết cấu hạ tầng của TTĐR cho nông sản gồm: hệ thống

đường giao thông, vận tải, hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, hội
chợ tiêu dùng hàng nông sản, trung tâm xúc tiến thương mại, thông tin về thị
trường, dự báo thị trường…
1.1.3. Phát triển thị trường đầu ra cho nông sản
* Quan niệm về phát triển.
Phát triển, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin là khái niệm
dùng để khái quát những vận động theo chiều hướng tiến lên, từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Cái mới ra
đời thay thế cái cũ, cái tiến bộ ra đời thay thế cái lạc hậu.
* Quan niệm về phát triển TTĐR cho nông sản.
Phát triển TTĐR cho nông sản là sự vận động theo chiều hướng đi lên
ngày càng hoàn thiện hơn của các yếu tố cấu thành TTĐR cho nông sản, nâng
cao hiệu quả hoạt động góp phần đảm bảo cho quá trình tái sản xuất nông
nghiệp diễn ra trôi chảy và đảm bảo lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường
Khái niệm phát triển TTĐR cho nông sản được hiểu trên các khía cạnh sau:
Phát triển TTĐR cho nông sản là làm cho các yếu tố cấu thành của nó
phát triển, đảm bảo sự tác động qua lại giữa các yếu tố một cách ăn khớp,
nhịp nhàng; phát huy tốt chức năng, vai trò của từng yếu tố cấu thành để thúc
đẩy quá trình phát triển TTĐR cho nông sản.
Phát triển TTĐR cho nông sản phải được tiến hành một cách toàn diện,
trong đó chú trọng các yếu chất lượng, số lượng và cơ cấu các yếu tố cấu thành.
Về chất lượng:
Nâng cao chất lượng cung về nông sản. Đây được coi là đầu kéo cho
TTĐR cho nông sản phát triển. Chất lượng cung nông sản phụ thuộc chủ yếu
vào chủ thể sản xuất. Trong đó, việc áp dụng các thành tựu khoa học - công
19


nghệ hiện đại, các quy trình sản xuất tiên tiến vào sản xuất nông sản hàng hóa
là yếu tố quyết định nâng cao chất lượng cung nông sản trên thị trường.

Nâng cao chất lượng cầu nông sản, hướng tới những thị trường của các
địa phương, các nước phát triển, có thu nhập cao. Chất lượng cầu nông sản
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: giá cả nông sản, thu nhập của dân cư; sự phát
triển của hệ thống lưu thông hàng nông sản và các hình thức giao dịch nông
sản; việc quảng bá sản phẩm, xây dựng thương hiệu; quá trình toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế… Do đó, để nâng cao chất lượng cầu nông sản
cần phải tính đến sự tác động tổng hợp của các yếu tố này.
Nâng cao tính cạnh tranh của các nhân tố cung nông sản và cầu nông
sản, đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh, đúng pháp luật, dựa trên các quy
luật của thị trường.
Làm chuyển biến sâu sắc về kết cấu hạ tầng của TTĐR cho nông sản,
phát huy vai trò của hệ thống giao thông vận tải, hệ thống thương mại, hội
chợ; nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động xúc tiến thương mại,
nghiên cứu thị trường và thông tin thị trường trong quá trình kết nối cung cầu nông sản.
Về số lượng:
Tăng cung nông sản một cách hợp lý trên cơ sở bám sát cầu về nông sản,
phù hợp với điều kiện phát triển của từng địa phương, từng vùng. Chú trọng tăng
cung những mặt hàng nông sản có chất lượng cao, có thương hiệu, đảm bảo tiêu
chuẩn VSATTP đáp ứng nhu cầu của các thị trường khó tính.
Tăng lượng cầu nông sản trên cơ sở giảm giá bán nông sản một cách
hợp lý bằng cách tăng năng suất lao động trong nông nghiệp; đẩy mạnh các
hoạt động quảng bá sản phẩm, xây dựng thương hiệu, liên kết tiêu thụ nông
sản với các vùng trong nước và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản.
Tăng nhanh số lượng kết cấu hạ tầng của TTĐR cho nông sản bảo đảm
phù hợp với mức tăng cung và cầu nông sản, đáp ứng nhu cầu kết nối cung
cầu nông sản một cách thuận lợi.
Về cơ cấu:
20



Chuyển dịch cơ cấu cung nông sản theo hướng tăng tỷ trọng nguồn cung
các sản phẩm của ngành chăn nuôi, thủy sản, giảm tỷ trọng nguồn cung các sản
phẩm của ngành trồng trọt để hạn chế tính mùa vụ của thị trường; tăng tỷ trọng
hàng nông sản có chất lượng cao phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Có chiến lược sản phẩm và chiến lược phát triển thị trường phù hợp, đảm
bảo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nông sản của thị trường trong nước và thị trường
ngoài nước, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Đa đạng hóa thị trường,
không để lệ thuộc vào thị trường của bất kỳ một khu vực, quốc gia nào.
1.2. Quan niệm, nội dung, vai trò và các yếu tố tác động đến phát
triển thị trường đầu ra cho nông sản ở tỉnh Hải Dương
1.2.1. Quan niệm phát triển thị trường đầu ra cho nông sản ở tỉnh
Hải Dương
* Thị trường đầu ra cho nông sản của tỉnh Hải Dương
Thị trường đầu ra cho nông sản ở tỉnh Hải Dương là một bộ phận trong hệ
thống TTĐR cho nông sản của cả nước, vừa mang những đặc điểm chung song
lại có tính đặc thù do nguồn lực phát triển nông nghiệp, truyền thống văn hóa,
tâm lý, tập quán... của người sản xuất nông nghiệp trong Tỉnh chi phối.
Thị trường đầu ra cho nông sản ở tỉnh Hải Dương là thị trường mới
phát triển song nguồn cung nông sản khá đa dạng, phong phú, có giá trị kinh
tế cao, chất lượng tốt. Hải Dương có nhiều mặt hàng đặc sản gắn liền với các
địa danh trong Tỉnh. Tiêu biểu là: vải thiều Thanh Hà, gạo nếp cái hoa vàng
Kinh Môn, táo má hồng Gia Lộc, gà Mạnh Hoạch Kim Thành… Những sản
phẩm nông sản này đã người tiêu dùng trong nước biết đến, một số sản phẩm
đã từng bước vươn ra thị trường các nước trong khu vực ASEAN và trên thế
giới như Mỹ, Nhật, Nga, Úc, Trung Quốc…
Tuy nhiên, TTĐR cho nông sản của Hải Dương còn ở trình độ thấp và
chưa hoàn thiện, sự phối hợp giữa cung và cầu thiếu hiệu quả, còn mang nặng
tính tự phát, cung nông sản của Tỉnh vừa thừa lại vừa thiếu. Thừa những sản
phẩm nông sản không đạt tiêu chuẩn về chất lượng và VSATTP nhưng thiếu
sản phẩm nông sản sạch, có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu người tiêu dùng


21


và các cơ sở CNCB trong Tỉnh; giá cả thị trường biến động thất thường đặc
biệt là các mặt hàng trái cây và rau màu vụ đông; khả năng cạnh tranh của
hàng nông sản trên thị trường còn thấp; hệ thống thương nghiệp chuyên
doanh hàng nông sản chưa được tổ chức chặt chẽ, hoạt động kém hiệu quả.
Chính vì vậy phải có quan niệm đúng đắn về quá trình phát triển TTĐR cho
nông sản ở tỉnh Hải Dương, làm cơ sở cho việc phân tích thực trạng và xác
định hệ thống quan điểm, giải pháp thúc đẩy quá trình này.
* Phát triển TTĐR cho nông sản ở tỉnh Hải Dương
Là một quá trình tác động có mục đích, của Đảng bộ, chính quyền các cấp
và nhân dân trong Tỉnh nhằm huy động các nguồn lực phù hợp với đặc điểm KT XH của địa phương làm chuyển biến các yếu tố cấu thành của TTĐR cho nông
sản theo hướng ngày càng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động đảm bảo
cho quá trình tái sản xuất nông nghiệp diễn ra trôi chảy và lợi ích kinh tế của các
chủ thể tham gia thị trường.
Nội hàm khái niệm phát triển TTĐR cho nông sản ở tỉnh Hải Dương được
hiểu trên một số nội dung cơ bản sau đây:
Mục đích phát triển TTĐR cho nông sản ở Hải Dương: là nhằm tạo dựng
TTĐR cho nông sản phong phú đa dạng về loại hình với quy mô ngày càng lớn.
Tăng cung nông sản có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của thị trường; thúc đẩy
mạnh mẽ cầu về nông sản ở thị trường trong và ngoài nước; tạo sự cạnh tranh
mạnh mẽ, lành mạnh trên TTĐR cho nông sản; xây dựng và vận hành tốt kết cấu
hạ tầng của TTĐR cho nông sản nhằm phát huy cao hiệu quả kết nối cung - cầu
nông sản để TTĐR cho nông sản đóng góp tích cực thúc đẩy quá trình tái sản xuất
mở rộng trong nông nghiệp của Tỉnh diễn ra một cách trôi chảy, giải quyết hài hòa
lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường.
Chủ thể và các đối tượng tham gia phát triển TTĐR cho nông sản ở tỉnh
Hải Dương: Chủ thể là tổ chức Đảng, chính quyền, các tổ chức trong bộ máy

chính quyền địa phương các cấp trong Tỉnh, các doanh nghiệp, các tổ chức chính

22


trị xã hội và nhân dân. Các đối tượng tham gia thị trường bao gồm cung, cầu, giá
cả, cạnh tranh, kết cấu hạ tầng của TTĐR cho nông sản.
Phương thức phát triển TTĐR cho nông sản ở tỉnh Hải Dương. Hoạt
động của TTĐR cho nông sản của Tỉnh có sự tham gia của nhiều chủ thể. Vì
vậy, phương thức biện pháp phát triển TTĐR cho nông sản đối với mỗi chủ
thể là không giống nhau, cụ thể:
Đối với Đảng bộ, chính quyền, các cơ quan, ban, ngành chức năng trong
Tỉnh cần sử dụng các công cụ và chính sách tác động vào quá trình sản xuất và
lưu thông nông sản nhằm đảm bảo cho TTĐR cho nông sản hoạt động hiệu
quả, giải quyết hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường
Đối với người sản xuất nông sản thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau nắm vững chủ trương, chính sách của tổ chức Đảng và chính quyền các
cấp; thông tin thị trường, tổ chức sản xuất đúng quy hoạch, đúng quy trình kỹ
thuật nhằm nâng cao năng xuất, chất lượng và tính cạnh tranh của nông sản
đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Đối với người tiêu dùng nông sản thuộc các thành phần kinh tế cần
nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở các cấp, thông tin
thị trường và kế hoạch của người sản xuất để mua, thu mua nông sản cho của
nông dân, đảm bảo kịp thời vụ, với giá cả hợp lý nâng cao hiệu quả kết nối
cung - cầu nông sản của Tỉnh trên thị trường.
1.2.2. Nội dung phát triển thị trường đầu ra cho nông sản ở tỉnh
Hải Dương
Một là, tăng cung nông sản.
Nhân tố đóng vai trò chủ yếu cho sự phát triển của TTĐR cho nông
sản là cung về nông sản. Số lượng (quy mô), chất lượng cung nông sản thị

trường phụ thuộc tất yếu vào sự phát triển của ngành sản xuất nông nghiệp.
Do đó, để phát triển TTĐR cho nông sản ở tỉnh Hải Dương trước tiên cần
phải phát triển mạnh kinh tế nông nghiệp hàng hóa, nâng cao tỷ suất nông
sản hàng hóa trong tổng khối lượng sản phẩm nông nghiệp của Tỉnh để
tăng cung nông sản trên thị trường.

23


Điều kiện tự nhiên của Hải Dương thuận lợi cho phát triển sản xuất
nông nghiệp. Song hiện nay, sản xuất nông nghiệp của Tỉnh chậm chuyển
sang sản sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, chưa tạo được
vùng sản xuất hàng hóa lớn, có chất lượng cao. Do đó, cần đẩy nhanh tốc độ
phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa để tăng cung nông sản trên thị
trường một cách hợp lý, có chất lượng cao, đồng đều, đảm bảo VSATTP
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong Tỉnh, trong nước, nhu
cầu nguyên liệu cho phát triển CNCB và phục vụ xuất khẩu.
Mặc dù cung về nông sản của Tỉnh trên thị trường có xu hướng gia tăng
về số lượng. Tuy nhiên chất lượng nông sản trên thị trường còn nhiều hạn
chế, không đồng đều, cơ cấu sản phẩm còn chưa thực sự hợp lý. Thực tế cho
thấy, những năm xảy ra hiện tượng ách tắc, ứ đọng trong khâu tiêu thụ một
vài loại hàng nông sản của Tỉnh trên thị trường như: vải thiều, ổi, cà rốt không
phải do sản xuất thừa, mà chủ yếu do chất lượng nông sản không đáp ứng
được yêu cầu cao của thị trường nên người tiêu dùng lựa chọn các sản phẩm
của tỉnh khác, nước khác hoặc các mặt hàng thay thế.
Để tăng số lượng, nâng cao chất lượng và đảm bảo cơ cấu cung nông sản
trên thị trường một cách hợp lý cần đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông
nghiệp, ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, các quy
trình sản xuất tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp; xây dựng các vùng chuyên
canh sản xuất hàng hóa trên quy mô lớn; phát triển và nhân rộng các mô hình sản

xuất “nông nghiệp công nghệ cao” để sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao,
“nông sản sạch”, an toàn; có biện pháp phù hợp kêu gọi, thu hút các doanh nhân
trong và ngoài Tỉnh và doanh nhân nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp,
hình thành các công ty nông nghiệp chuyên sản xuất nông sản hàng hóa.
Hai là, tăng cầu về nông sản.
Cầu về hàng nông sản rất đa dạng, bao gồm cầu cho tiêu dùng cá nhân,
cầu về nguyên liệu cho CNCB và cầu phục vụ xuất khẩu.
Cầu đối với mặt hàng nông sản của tỉnh Hải Dương phụ thuộc vào các
yếu tố như: chất lượng và giá cả các mặt hàng nông sản, mức sống và thu nhập
của người dân trong Tỉnh, trong nước, sự phát triển của các cơ sở công nghiệp
24


×