Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh kon tum

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (842.98 KB, 113 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGA

QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƢỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN
TỈNH KON TUM
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60. 90. 01. 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Phạm Hữu Nghị.
Việc sử dụng các số liệu, các kết quả hoạt động, kết quả điều tra, nghiên cứu
của một số cơ quan, tổ chức tại tỉnh Kon Tum đã được chú dẫn đầy đủ, trung thực
trong Luận văn.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên

Nguyễn Thị Nga



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT .......................................................................... 13

1.1. Người khuyết tật: Khái niệm, đặc điểm, nhu cầu .............................................. 13
1.2. Lý luận về quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật ........................... ..17
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật .. ..24
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI
KHUYẾT TẬT TẠI TỈNH KON TUM… ............................................................... 30

2.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh Kon Tum ảnh hưởng đến quản
lý Công tác xã hội đối với người khuyết tật .............................................................. 30
2.2. Thực trạng về người khuyết tật tại tỉnh Kon Tum ............................................ 32
2.3. Thực trạng quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật tại tỉnh Kon Tum .... 33
2.4. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý công tác xã hội đối với người
khuyết tật tại tỉnh Kon Tum… .................................................................................. 51
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ
HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT TỈNH KON TUM ................................... 63

3.1. Nhóm giải pháp chung ...................................................................................... 63
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả các hoạt động quản lý công tác xã hội đối với
người khuyết tật......................................................................................................... 69
3.3. Một số kiến nghị cụ thể ...................................................................................... 76
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 81
PHỤ LỤC .................................................................................................................. 85



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASXH

An sinh xã hội

BTXH

Bảo trợ xã hội

CB,CC

Cán bộ, công chức

CTXH

Công tác xã hội

KT

Khuyết tật

LĐTBXH

Lao động - Thương binh và Xã hội

NKT


Người khuyết tật

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội

NXB

Nhà xuất bản

PHCN

Phục hồi chức năng

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt do hậu quả chiến tranh, thảm họa
thiên tai nên số NKT ở Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số. Theo Báo cáo số
4313/BC-UBVĐXH, ngày 12/10/2015 của Ủy ban về các vấn đề xã hội, của Quốc
hội khóa XIII, về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về khuyết
tật, cho thấy: Hiện nay cả nước có khoảng 7 triệu NKT, chiếm 7,8% dân số NKT
đặc biệt nặng và nặng chiếm khoảng 28,9%, khoảng 58% NKT là nữ, 28,3% NKT
là trẻ em, 10,2% NKT là người cao tuổi, khoảng 10% NKT thuộc hộ nghèo (Phụ lục
1). Đây là bộ phận dân cư chịu thiệt thòi, ít có điều kiện tiếp cận dịch vụ xã hội cơ
bản, do vậy đời sống vật chất tinh thần luôn gặp khó khăn. Để bảo đảm quyền của

NKT, năm 2011, Quốc hội đã ban hành Luật NKT và hệ thống luật pháp chính sách
quy định về quyền của NKT, trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan tổ chức và gia
đình trong việc bảo đảm quyền của NKT. Chính phủ đã ban hành và thực hiện hệ
thống chính sách chăm sóc, trợ giúp NKT trên các lĩnh vực: giáo dục, chăm sóc sức
khỏe, phục hồi chức năng, việc làm, văn hóa thể thao, đời sống và hỗ trợ hòa nhập.
Đồng thời Nhà nước đã huy động các nguồn lực để triển khai thực hiện các chế độ
chính sách và các giải pháp trợ giúp NKT. Các chế độ đối với NKT được hưởng
chính sách BTXH sống tại cộng đồng, trung tâm BTXH được thực hiện đúng quy
định. Hiện nay, cả nước có khoảng 70 cơ sở trợ giúp NKT cung cấp các dịch vụ
CSSK, phục hồi chức năng, lao động, dạy nghề, thể dục thể thao, văn hóa và nuôi
dưỡng đối với khoảng hơn 18.000 NKT.
Trong quá trình thực hiện chính sách, bên cạnh những mặt tích cực đạt được
cũng bộc lộ nhiều hạn chế, khó khăn: nhiều cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa
phương chưa quan tâm đúng mức đến NKT, công tác tuyên truyền nâng cao nhận
thức và chăm lo đời sống NKT chưa đi vào chiều sâu; một số chính sách, quy định
được hướng dẫn thi hành chậm nên việc thực hiện trợ giúp không đồng bộ, có
những qui định vẫn chưa được thi hành, tổ chức thực hiện. Bên cạnh đó là những
khó khăn về nguồn lực hỗ trợ, mặc dù ngân sách nhà nước đầu tư ngày càng cao

1


nhưng vẫn thiếu nguồn kinh phí thực hiện, đội ngũ cán bộ làm công tác trợ giúp
NKT còn thiếu về số lượng và yếu về chuyên môn nghiệp vụ, cơ sở vật chất của các
Hội, hiệp hội, tổ chức tự lực, cơ sở sản xuất kinh doanh của NKT còn gặp nhiều khó
khăn chưa được trợ giúp.
Kon Tum có hơn 5.300 NKT, chiếm hơn 10% dân số của tỉnh (trong đó nữ
chiếm trên 44%). Số NKT mức độ đặc biệt nặng là gần 1.000 người; mức độ nặng
trên 3.000 người và mức độ nhẹ là trên 1.000 người. NKT đang hưởng trợ cấp hàng
tháng tại cộng đồng là hơn 4.200 người và đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc

nuôi dưỡng gần 1.000 người; toàn tỉnh có 04 cơ sở bảo trợ xã hội đang chăm sóc
nuôi dưỡng gần 100 NKT, trong đó chủ yếu tập trung tại Trung tâm Bảo trợ và
CTXH thuộc Sở LĐTBXH tỉnh (Phụ lục 2). CTXH đối với NKT cuả tỉnh bước đầu
đã phát huy hiệu quả trong việc cung cấp các dịch vụ can thiệp và hỗ trợ vì các hoạt
động CTXH không chỉ kết nối họ tới các dịch vụ về y học, thể chất mà còn can
thiệp và chăm sóc các yếu tố tinh thần, xã hội để họ có thể phục hồi chức năng và
hòa nhập vào cộng đồng. CTXH đối với NKT nói riêng đã đạt được những kết quả
nhất định. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Kon Tum còn nhiều khó
khăn, nên các dịch vụ CTXH đối với NKT trên địa bàn tỉnh càng khó hơn so với các
tỉnh, thành phố khác trong cả nước. Đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý CTXH đối
với NKT còn nhiều tồn tại, vướng mắc. Để từng bước nâng cao hiệu quả CTXH đối
với NKT thì yếu tố quản lý trong CTXH đóng vai trò quan trọng, then chốt trong
bối cảnh ở Việt Nam hiện nay.
Từ những lý do như trình bày trên đây, trên cở sở lý thuyết, lý luận và những
phương pháp, kỹ năng CTXH đã được trang bị trong Chương trình Cao học CTXH
kết hợp với phân tích thực tiễn, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Quản lý công tác xã
hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Kon Tum” làm luận văn Thạc sĩ
CTXH . Kết quả nghiên cứu sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao
hiệu quả về quản lý CTXH đối với NKT trên địa bàn tỉnh Kon Tum, hướng tới một
xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây, NKT và các vấn đề liên quan đến NKT nhận được sự
quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các chuyên gia, học giả
trong và ngoài nước. Trong phạm vi nghiên cứu luận văn này, tác giả lựa chọn và
phân tích một số công trình nghiên cứu, bài viết, tạp chí tiêu biểu.
Thứ nhất, các nghiên cứu về pháp luật, chính sách xã hội đối với người khuyết tật

Việc bảo đảm quyền của NKT đã trở thành một trong những yêu cầu quan
trọng để bảo đảm công bằng, vì con người và phát triển bền vững của quốc gia.
Chính vì thế, có nhiều công trình nghiên cứu về khung pháp lý nhằm bảo đảm
quyền của NKT, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
TS. Trần Thái Dương (2014), Trường Đại học Luật Hà Nội đã nghiên cứu về
những điểm khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế, đặc biệt là
những quy định của Công ước về quyền của NKT trong việc bảo đảm quyền tiếp
cận công lý, quyền được trợ giúp pháp lý của NKT, từ đó đề xuất một số ý kiến
nhằm hoàn thiện pháp luật, thực hiện trọn vẹn nghĩa vụ quốc gia khi Việt Nam phê
chuẩn và trở thành thành viên chính thức của Công ước [9].
TS. Trần Thị Thúy Lâm (2013) đã có bài viết phân tích và đánh giá thực trạng
pháp luật Việt Nam hiện hành về dạy nghề cho NKT trên các phương diện: Chính
sách đối với cơ sở dạy nghề, NKT học nghề và giáo viên dạy nghề cho NKT; đồng
thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc học nghề đối với NKT
cả ở phương diện hoàn thiện pháp luật và biện pháp tổ chức thực hiện [19].
Tác giả Nguyễn Hồng Ngọc - Vụ các vấn đề xã hội, Văn phòng Quốc hội đã
có bài viết phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về thúc
đẩy hòa nhập dành cho NKT và Người cao tuổi tại Việt Nam qua việc thực hiện các
quyền của NKT và Người cao tuổi. Trên cơ sở đánh giá việc thực hiện các quyền
của NKT, tác giả chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân, kiến nghị với Chính phủ và
địa phương các nội dung nhằm thực hiện tốt các chính sách đối với NKT.
Ngoài ra, còn có các đề tài luận văn, luận án ngành luật học nghiên cứu về vấn
đề lý luận và thực tiễn để bảo đảm cho quyền của NKT được thực hiện của tác giả

3


Nguyễn Thị Báo (2008), Hoàn thiện pháp luật về quyền của NKT ở Việt Nam hiện
nay [4]; Đỗ Minh Nghĩa (2012), “Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động dưới
góc độ pháp luật lao động” [23]; …

Thứ hai, các nghiên cứu lý luận phục vụ đào tạo công tác xã hội đối với người
khuyết tật
Về vấn đề nghiên cứu lý luận phục vụ đào tạo CTXH đối với NKT, chúng ta
có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
Công trình nghiên cứu của TS. Hà Thị Thư (2012) đã trình bày một cách tổng
quát nhất về CTXH đối với NKT, các mô hình hỗ trợ, các phương pháp tiếp cận,
các chương trình chính sách của nhà nước đối với NKT, vai trò của NVCTXH đối
với NKT, các kỹ năng làm việc với NKT. Đây là giáo trình đào tạo CTXH ở hệ
trung cấp nghề [31].
PGS. TS Nguyễn Thị Kim Hoa (2014) cũng đã nghiên cứu và xây dựng giáo
trình đào tạo CTXH với NKT ở bậc Đại học và Sau đại học với ba nội dung chính. Đó
là tổng quan về NKT; trải nghiệm khuyết tật và các kỹ năng thực hành CTXH [13].
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội (9/2011), có tham luận
"Mô hình CTXH đối với NKT ở Úc" gửi Hội thảo về đổi mới CTXH trong nền kinh
tế thị trường, tác giả chia sẻ kinh nghiệm: CTXH đối với NKT nói chung và với trẻ
khuyết tật nói riêng ở Úc được phát triển theo đúng định hướng nghề chuyên môn ở
quốc gia này, và dựa trên các định hướng chung về CTXH trên thế giới. Các điều
kiện về mặt chính sách xã hội, dịch vụ xã hội, lịch sử phát triển nghề CTXH và
cách nhìn nhận vấn đề khuyết tật là những yếu tố thuận lợi cho hoạt động nghề
nghiệp này. Ngoài ra, định hướng xây dựng một xã hội hòa nhập là điều kiện hết
sức quan trọng có tác động trở lại với phát triển nghề CTXH nói chung và phát
triển CTXH nói riêng [38].
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, Khoa Xã hội học –Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) phối hợp các giảng viên nòng cốt
giảng dạy CTXH đối với NKT của các trường Đại học hiện triển khai chương trình
đào tạo CTXH tại Hà Nội để biên soạn cuốn sách chuyên khảo “Công tác xã hội với

4



người khuyết tật ” với sự tài trợ của Tổ chức hỗ trợ NKT do PGS. TS. Nguyễn Thị
Kim Hoa (chủ biên). Cuốn sách được biên soạn phục vụ cho công tác nghiên cứu,
công tác đào tạo đại học và sau đại học chuyên ngành CTXH đối với NKT tại các
trường đào tạo CTXH trong cả nước [13].
Ngoài ra, Cục Bảo trợ xã hội, Bộ LĐTBXH còn xây dựng tài liệu hướng đến
cung cấp cho cán bộ xã hội những kiến thức và kỹ năng cần thiết trong công tác trợ
giúp cho NKT, tăng cường các chức năng xã hội của NKT để họ có thể hòa nhập
cộng đồng một cách bền vững [6].
Thứ ba, các nghiên cứu về các hoạt động thực hành công tác xã hội đối với
người khuyết tật
Các đề tài luận văn thạc sĩ ngành CTXH trong những năm gần đây có xu
hướng chuyên sâu nghiên cứu về thực trạng của CTXH đối với NKT tại các trung
tâm bảo trợ, tại cộng đồng. Từ đó, vận dụng các phương pháp CTXH với cá nhân,
phương pháp CTXH với nhóm để thúc đẩy hoạt động trợ giúp cho NKT mang tính
chuyên nghiệp hơn như: Đề tài của Phùng Thị Thu Duyên (2014) "Vận dụng những
kiến thức, kỹ năng CTXH nói chung và CTXH với NKT nói riêng trong can thiệp,
trợ giúp một NKT cụ thể" [8].
Th.S Nguyễn Thụy Diễm Hương và Th.S Tạ Thị Thanh Thủy (trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh) cũng có bài viết nhấn mạnh đến
việc thực hành CTXH đối với NKT có thể sử dụng các phương pháp “Tăng quyền
lực”, “Dựa trên quyền” và “Điểm mạnh” để có thể làm tăng năng lực cho NKT, giúp
cho họ tham gia vào xã hội, đồng thời chống lại những rào cản do phân biệt đối xử và
thành kiến gây nên [17].
Hội thảo khoa học với chủ đề: “Quản lý trường hợp với NKT tại Việt Nam”
do Khoa CTXH của Học viện Khoa học xã hội tổ chức vào ngày 22/10/2015. Đây là
hội thảo khoa học mang nhiều ý nghĩa khi nội dung nghiên cứu, thảo luận hướng
đến vấn đề “Quản lý trường hợp với NKT” – đây là hướng đi mới hỗ trợ NKT đang
được triển khai ở nhiều địa phương theo Thông tư 01/TT-Bộ LĐTB &XH về công
tác Quản lý trường hợp với NKT nhưng còn nhiều khó khăn như khó khăn về kinh


5


phí, nguồn nhân lực, nhận thức của chính quyền địa phương các cấp về công tác
này. Đồng thời, thông qua các bài báo cáo của các chuyên gia và phần hỏi - đáp,
thảo luận đã gợi mở những định hướng nghiên cứu cho học viên cao học, nghiên
cứu sinh lựa chọn để làm chủ đề, phát triển nghiên cứu của đề tài luận văn cao học.
Ngày 18/7/2015, Học viện Khoa học xã hội đã tổ chức buổi sinh hoạt khoa
học với chủ đề: “Cơ sở lý luận và thực tiễn ngành CTXH với NKT” do TS. Hà Thị
Thư – Phó Trưởng khoa Khoa CTXH làm diễn giả. Trong bài thuyết trình của mình,
diễn giả đã đề cập và làm rõ một số vấn đề về thực tiễn ngành CTXH đối với NKT,
diễn giả đã làm rõ một số nội hàm khái niệm cơ bản liên quan đến NKT, CTXH đối
với NKT có những đặc thù nhất định so với hoạt động CTXH chung.
Các nghiên cứu đã dần mở ra nhiều hướng tiếp cận mới trong vấn đề thực hành
CTXH đối với NKT, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận về CTXH đối với NKT.
Thứ tư, các báo cáo khoa học về người khuyết tật và các hoạt động trợ giúp
đối với người khuyết tật
Nghiên cứu về NKT luôn là mối quan tâm của cộng đồng quốc tế nói chung và
Việt Nam nói riêng. Vì thế, trong những năm qua, có nhiều báo cáo khoa học nghiên
cứu về NKT và các hoạt động trợ giúp họ trong đời sống xã hội, tiêu biểu như:
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thực hiện một cuộc nghiên cứu vấn đề việc
làm của NKT dựa trên cơ sở giới vào năm 2010 và đã đưa ra “Báo cáo khảo sát về
Đào tạo nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật tại Việt Nam”. Báo cáo này cung
cấp một cách nhìn tổng thể về các tổ chức của NKT, các tổ chức đại diện cho NKT
và các dịch vụ đào tạo nghề, việc làm và phát triển doanh nghiệp cho NKT, đặc biệt
tập trung vào các tổ chức của phụ nữ khuyết tật và các dịch vụ dành riêng cho phụ
nữ khuyết tật [29].
“Báo cáo thường niên năm 2013 về hoạt động trợ giúp người khuyết tật Việt
Nam” của Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ NKT Việt Nam (NCCD). Báo cáo đã
tổng kết những hoạt động và kết quả chủ yếu về hỗ trợ NKT đã triển khai trong năm

của các Bộ, ngành, cơ quan chức năng, tổ chức xã hội với sự điều phối của NCCD,
đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại, nguyên nhân, bài học kinh

6


nghiệm và định hướng cho các hoạt động hỗ trợ NKT trong năm 2014 của các cơ
quan, tổ chức thành viên NCCD. [3]
“Hội thảo Quốc tế về Công ước quyền người khuyết tật và vai trò của các Hội
người khuyết tật” do Bộ Ngoại giao chủ trì vào ngày 10/12/2013. Đây là hoạt động
trong khuôn khổ Dự án về “Tăng cường năng lực bảo đảm các quyền con người của
Việt Nam” do Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tài trợ. Qua quá trình
trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm từ thực tiễn của các Hiệp hội NKT trong toàn quốc
đã cho thấy Công ước về quyền NKT đã mở ra một cách nhìn nhận, tiếp cận mới
của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng đối với NKT. Công ước thúc đẩy
việc bảo đảm NKT được thụ hưởng các quyền và tự do cơ bản như tất cả mọi người.
Hội thảo “Thúc đẩy cộng đồng: Tăng quyền cho người khuyết tật” được diễn
ra vào ngày 26/3/2015 tại Hà Nội. Hội thảo nhằm giới thiệu dự án Rights Now ,
đánh giá thực trạng thực thi quyền của người khuyết tật sau khi Công ước quốc tế
về quyền của người khuyết tật được phê chuẩn tại Việt Nam, đồng thời cũng là cơ
hội để chia sẻ kỹ năng, công cụ, kinh nghiệm và tài liệu hỗ trợ nâng cao năng lực
cho Hội/nhóm/tổ chức của hoặc vì người khuyết tật Việt Nam trong tương lai.
Chương trình do MIUSA (tổ chức vận động quốc tế Hoa K ), DREDF (Quỹ Bảo vệ
và Giáo dục Quyền của NKT), IFES (Quỹ quốc tế về hệ thống bầu cử Hoa K ),
USICD (Hội đồng Quốc tế về NKT) và Trung tâm Hành động vì sự phát triển cộng
đồng (ACDC) đồng tổ chức.
Thứ năm, các công trình nghiên cứu về quản lý công tác xã hội
Có thể nói nghiên cứu về quản lý công tác xã hội là loại đề tài mới. Trước đây,
các cơ sở đào tạo sau đại học về công tác xã hội chưa giao cho các học viên thực
hiện loại đề tài này.

Năm 2016, Học viện Khoa học xã hội đã giao cho các học viên cao học ngành
Công tác xã hội liên kết với Học viện xã hội Châu Á Philippin khóa 1 thực hiện một
số đề tài về quản lý công tác xã hội. Chẳng hạn, học viên Đặng Thị Phấn đã thực
hiện đề tài:“Quản lý công tác xã hội đối với người có công với cách mạng từ thực
tiễn tỉnh Ninh Thuận”. Trong luận văn này, tác giả Đặng Thị Phấn giải quyết các
vấn đề sau đây:

7


- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý công tác xã hội, quản lý công
tác xã hội đối với người có công với cách mạng.
- Đi sâu vào tìm hiểu, đánh giá thực trạng đời sống của người có công với cách
mạng, thực trạng quản lý công tác xã hội đối với người có công với cách mạng cũng
như các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý công tác xã hội đối với người có công với
cách mạng trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
- Dựa trên cơ sở phân tích đánh giá, tìm hiểu các thực trạng, các yếu tố ảnh
hưởng để đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý công tác xã hội đối với
người có công với cách mạng [26].
Trong các luận văn về đề tài quản lý công tác xã hội cũng có nội dung tương tự
như: Nguyễn Huy (2015), "Quản lý CTXH đối với NKT từ thực tiễn tỉnh Quảng
Nam" [15]; Trần Thanh Hồng (2015), "Quản lý CTXH đối với người tâm thần từ
thực tiễn Trung tâm Xã hội tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu" [14]. Trên cơ sở đánh giá thực
trạng về quản lý công tác xã hội và các yếu tố ảnh hưởng đến CTXH đối với NKT,
người tâm thần tại địa phương, các tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý CTXH đối với NKT tại tỉnh Quảng Nam và nâng cao hiệu quả
quản lý CTXH đối với người tâm thần tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Các kết quả nghiên cứu của các đề tài về quản lý công tác xã hội của các học
viên khóa 1, lớp cao học Công tác xã hội liên kết với Học viện xã hội Châu Á
Philippin là những tài liệu tham khảo rất hữu ích cho tôi thực hiện đề tài Quản lý

công tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Kon Tum.
Qua quá trình tổng quan một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài,
có thể thấy rằng NKT luôn là mối quan tâm của cộng đồng quốc tế và của Đảng,
Nhà nước Việt Nam. Tuy vậy, tiếp cận từ góc nhìn CTXH đối với NKT còn hạn chế
về số lượng và chất lượng, đặc biệt tại tỉnh Kon Tum, một địa phương có số lượng
NKT không nhiều nhưng đa số có hoàn cảnh khó khăn còn trên 23% hộ nghèo và có
trên 53% dân số của tỉnh là người Dân tộc thiểu số. Đó cũng là một trong những lý
do chính để tôi thực hiện nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận quản lý
CTXH đối với NKT và thực tiễn về quản lý CTXH đối với NKT tại tỉnh Kon Tum.
Từ đó, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý CTXH đối với NKT tại tỉnh
Kon Tum.

8


Để đạt được mục đích trên đây, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Lý giải những vấn đề lý luận về quản lý CTXH đối với NKT; phân tích các
yếu tố ảnh hưởng đến quản lý CTXH đối với NKT;
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý CTXH đối với NKT tại tỉnh
Kon Tum; phân tích thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý CTXH đối với
NKT tại tỉnh Kon Tum;
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý CTXH đối
với NKT tại tỉnh Kon Tum trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là quản lý CTXH đối với NKT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu tập trung vào nội dung đánh giá thực trạng

quản lý CTXH với nhóm đối tượng NKT trên địa bàn tỉnh Kon Tum.
- Phạm vi khách thể: Đề tài nghiên cứu trên 3 nhóm khách thể chính đó là:
+ Cán bộ, công chức lãnh đạo Sở (bao gồm lãnh đạo Sở và Phòng Bảo trợ xã
hội thuộc Sở); Cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý Phòng LĐTBXH các huyện,
thành phố; cán bộ quản lý, lãnh đạo trực tiếp trong các cơ sở chăm sóc NKT và
Trung tâm Bảo trợ và CTXH tỉnh,
+ Nhân viên CTXH tại Trung tâm Bảo trợ và CTXH tỉnh; Công chức
LĐTBXH cấp xã,
+ Một số Người khuyết tật và gia đình NKT tại địa phương.
- Phạm vi về không gian: Tại tỉnh Kon Tum.
- Phạm vi về thời gian: Giai đoạn 2011-2015 và năm 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để phân tích, đánh giá
các hoạt động quản lý CTXH nói chung và trong lĩnh vực chăm sóc NKT nói riêng.
Các cứ liệu được xem xét từ nhiều chiều cạnh, nhiều góc độ. Những lập luận đều có
căn cứ cơ sở khoa học và thực tiễn.

9


Những phát hiện của nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm cơ sở lý luận, khoa học
cũng như phát triển hệ thống các lý luận, phương pháp trong nghiên cứu về các vấn
đề liên quan như CTXH, quản lý CTXH và một số vấn đề lý luận về NKT.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu; Phương pháp chuyên gia; Phương
pháp quan sát; Phương pháp phỏng vấn sâu; Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
- Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu: Là phương pháp thu thập thông
tin từ các công trình nghiên cứu và các tài liệu có sẵn của các tác giả trong và ngoài
nước. Phương pháp này được áp dụng phân tích các tài liệu như: Các văn bản pháp

luật liên quan đến CTXH và NKT của cả nước và của tỉnh Kon Tum; Các quy định,
chính sách của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý CTXH đối với NKT,…
Ngoài ra luận văn còn phân tích một số báo cáo khoa học, khoá luận tốt nghiệp có
liên quan;
Đọc và Phân tích số liệu báo cáo từ các đơn vị như báo cáo tổng kết của Sở
LĐTBXH tỉnh Kon Tum, báo cáo giám sát thực hiện Luật NKT của Quốc hội; báo cáo
của các cơ sở bảo trợ xã hội, báo cáo tổng kết của phòng LĐTBXH một số huyện, thành
phố cung cấp, báo cáo của Hội Bảo trợ NKT và Trẻ mồ côi tỉnh Kon Tum,..
- Phương pháp chuyên gia: Tham vấn ý kiến của các chuyên gia là những
người triển khai thực hiện chính sách (Lãnh đạo tỉnh và lãnh đạo Sở LĐTBXH tỉnh
Kon Tum), 02 cán bộ Quản lý và 05 chuyên gia liên quan (thuộc Trung tâm Bảo trợ
và CTXH của tỉnh).
- Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động thực tiễn của công chức, viên
chức quản lý, nhân viên chăm sóc NKT và gia đình của họ.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại được
lặp đi lặp lại giữa nhà nghiên cứu và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu thực
trạng, những mong muốn nguyện vọng, kinh nghiệm và nhận thức của người cung
cấp thông tin thông qua chính ngôn ngữ, thái độ của người ấy. Trong luận văn này,
phương pháp phỏng vấn sâu là phương pháp chính nhằm thu thập những thông tin
cần thiết để từ đó đưa ra những khuyến nghị và giải pháp về nội dung quản lý
CTXH đối với NKT. Trong đó:
+ Nghiên cứu sẽ tập trung phỏng vấn 15 cán bộ là lãnh đạo, quản lý CTXH đối
với NKT để đánh giá về:
- Các hoạt động quản lý CTXH đối với NKT đang được triển khai như thế nào?

10


- Những khó khăn nào mà cán bộ quản lý đang phải đối mặt trong việc thực
hiện quản lý CTXH đối với NKT?

- Những yếu tố nào tác động, ảnh hưởng tới hoạt động này và hiệu quả của
những hoạt động này?
- Những đề xuất và giải pháp nào để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý
CTXH đối với NKT?
+ Nghiên cứu cũng sẽ phỏng vấn 15 cán bộ, nhân viên của Trung tâm Bảo trợ
và CTXH, đơn vị chăm sóc, can thiệp với NKT và công chức LĐTBXH cấp xã để
tìm hiểu về:
- Tác động, hiệu quả của hoạt động quản lý tới công việc của họ,
- Những bất cập, thuận lợi ở khía cạnh quản lý ảnh hưởng tới công việc của họ,
- Những đề xuất khuyến nghị của họ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý CTXH
đối với NKT từ đó giúp cho công việc của họ được thực hiện tốt hơn.
+ Nghiên cứu cũng sẽ phỏng vấn 10 NKT tại Trung tâm Bảo trợ và CTXH
tỉnh và tại cộng đồng để tìm hiểu về:
- Thực trạng tình hình quản lý CTXH đối với NKT tại địa phương,
- Những mong muốn, nhu cầu và kiến nghị của NKT tại địa phương.
+ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Tiến hành điều tra bằng bảng hỏi với
50 người (trong đó: 15 cán bộ quản lý và nhân viên CTXH; 15 gia đình tại cộng
đồng có người thân là NKT; 20 NKT ở Trung tâm Bảo trợ và CTXH tỉnh và ngoài
cộng đồng).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Kết quả của đề tài sẽ đóng góp một phần vào hệ thống kiến thức về một số lý
luận về quản lý nói chung và quản lý CTXH nói riêng. Hơn nữa các kết quả cũng
góp phần bổ sung thêm vào hệ thống những giải pháp trong việc nâng cao hiệu quả
quản lý CTXH đối với NKT, một khía cạnh còn được ít nhà nghiên cứu, chuyên gia
trong nước quan tâm.
- Đề tài còn là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đóng góp cho những nghiên
cứu, phát triển ý tưởng khoa học cho những nhà khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên
gia và các bạn học viên quan tâm đến lĩnh vực CTXH nói chung và quản lý CTXH
đối với NKT nói riêng.


11


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đối với đội ngũ quản lý
Trên thực tế, hoạt động CTXH là một hoạt động còn mới phát triển nên các
công việc trong lĩnh vực này sẽ gặp nhiều khó khăn trong đó bao gồm cả hoạt động
quản lý. Do đó với những phát hiện cũng như đề xuất của nghiên cứu sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả quản lý CTXH đối với NKT.
- Đối với nhân viên
Là những người làm việc trong lĩnh vực này nên hiệu quả của hoạt động quản lý sẽ
ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả công việc của họ. Do đó với những đề xuất trong luận
văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý của đội ngũ nhân viên.
- Đối với người khuyết tật
Mặc dù trong nghiên cứu này không nghiên cứu trực tiếp về NKT, tuy nhiên
về bản chất, các hoạt động quản lý CTXH sẽ có tác động gián tiếp tới NKT. Cụ thể
là các hoạt động quản lý sẽ nâng cao hiệu quả trong các hoạt động trợ giúp NKT.
Nếu quản lý tốt sẽ tạo điều kiện cho nhân viên làm việc tốt, từ đó, mang lại hiệu quả
công việc tốt và NKT sẽ được nhận nhiều dịch vụ hiệu quả với chất lượng cao.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, Luận văn được
kết cấu thành 3 chương như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý công tác xã hội đối với người
khuyết tật.
- Chương 2: Thực trạng quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật tại
tỉnh Kon Tum.
- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý công tác xã hội đối với
người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Kon Tum.


12


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Ngƣời khuyết tật: Khái niệm, đặc điểm, nhu cầu
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm khuyết tật
Có nhiều cách hiểu cũng như nhiều định nghĩa khác nhau về khuyết tật, tuy
nhiên mỗi cách hiểu đều xét trên những mục đích và quan điểm khác nhau.
Từ “khuyết tật” có nguồn gốc từ “disability” trong tiếng Anh. Theo nguyên
ngữ từ này có nghĩa là sự hàm ý hạn chế hoặc thiếu khả năng thực hiện một hoạt
động gì đó do có khiếm khuyết.
Trong hệ thống “Phân loại Quốc tế về hoạt động chức năng, giảm khả năng và
sức khỏe” (ICF) (năm 2001) của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra định nghĩa
khuyết tật như sau: “Khuyết tật là thuật ngữ chung chỉ tình trạng khiếm khuyết, hạn
chế vận động và tham gia, thể hiện những mặt tiêu cực trong quan hệ tương tác
giữa cá nhân một người (về mặt tình trạng sức khỏe) với các yếu tố hoàn cảnh của
người đó (bao gồm yếu tố môi trường và các yếu tố cá nhân khác)” [30, tr. 26]. Với
khái niệm này có thể hiểu “khuyết tật” chỉ đơn giản là bị khiếm khuyết mà không
phải xác định nguyên nhân của một dạng khuyết tật.
* Khái niệm người khuyết tật
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về NKT. Theo Công ước quốc tế về quyền
của NKT - 2006 thì "NKT bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể
chất, trí tuệ, thần kinh hoặc giác quan mà khi tương tác với các rào cản khác nhau
thì có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ trong xã hội, trên một nền
tảng công bằng như những người khác trong xã hội"
Trong phạm vi đề tài, tác giả sử dụng định nghĩa về NKT theo Luật NKT Việt
Nam ban hành vào năm 2010. Đây là định nghĩa khá đầy đủ, tổng hợp được các

cách hiểu khác nhau về khuyết tật và phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam,
đó là: “NKT là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm

13


chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp
khó khăn” [27, tr. 10].
1.1.2. Đặc điểm của người khuyết tật
NKT đương nhiên là đối tượng thuộc nhóm yếu thế cần sự giúp đỡ của toàn xã
hội, đây cũng là nhóm đối tượng đặc thù trong hoạt động CTXH. Họ gặp khó khăn
về nhiều mặt trong cuộc sống, trong đó có khó khăn về học tập, việc làm, hôn nhân,
bị k thị... Những đặc điểm tâm lý cũng như thể chất của NKT luôn ảnh hưởng đến
hoạt động trợ giúp họ. Sự khiếm khuyết về thể chất dẫn tới khả năng hoạt động
chức năng của NKT có thể bị giảm sút, vì vậy họ gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong
sinh hoạt, lao động, học tập… Chẳng hạn, do bị bệnh tật, khó khăn đi lại hoặc giao
tiếp nên hoạt động học tập, lao động, giao lưu của NKT hạn chế hơn nhiều so với
người không khuyết tật. Bên cạnh đó, sự thiếu hụt về thể chất dẫn đến những cản
trở trong sinh hoạt, lao động nên NKT thường bị ức chế về tinh thần dẫn đến bi
quan, chán nản, tự ti hay cáu gắt, nóng nảy…Vì thế, NKT có đời sống nội tâm rất
nhạy cảm và tế nhị. NKT cần sự đồng cảm, chia sẻ chứ không phải là sự thương hại
của mọi người.
Trong quá trình tương tác xã hội, khi NKT tiếp xúc và nhận biết được thái độ k
thị hay những hành vi phân biệt đối xử của những người xung quanh xuất phát từ sự
khác biệt bên ngoài của họ, NKT có thể đánh mất ý thức về con người thực sự của
mình, khiến cho họ hoài nghi về giá trị bản thân, tự nhìn nhận bản thân thông qua hình
thể bên ngoài thay vì nhân cách bên trong. Điều đó có thể làm họ mất tự tin vào bản
thân và có thái độ tiêu cực trong gặp gỡ, giao tiếp với mọi người. Vì vậy khi tiếp xúc
với NKT cần chú ý đến hành vi, lời nói, cử chỉ để tránh hiểu lầm.
Bên cạnh đó, một số NKT với những suy nghĩ tiêu cực: Họ là gánh nặng của

gia đình, của xã hội, của cộng đồng nên họ có tính tự ty cao, không tin vào bản thân,
xa rời cộng đồng, việc tiếp cận khó khăn. Một số NKT có thái độ ỷ lại, trông chờ
vào người khác hỗ trợ, điều này làm cho việc hỗ trợ NKT khắc phục khó khăn,
vươn lên hòa nhập xã hội hết sức khó khăn.
Đồng thời, NKT với những suy nghĩ tiêu cực: Họ là gánh nặng của gia đình,
của xã hội, của cộng đồng nên họ có tính tự ty cao, không tin vào bản thân, xa rời
cộng đồng, việc tiếp cận khó khăn. Một số NKT có thái độ ỷ lại, trông chờ vào

14


người khác hỗ trợ, điều này làm cho việc hỗ trợ NKT khắc phục khó khăn, vươn lên
hòa nhập xã hội hết sức khó khăn. Nhưng hiện nay có một số NKT có ý chí vươn
lên hoàn cảnh, số phận của mình, họ có thể tự chủ được trong công việc và cuộc
sống. Họ là người rất giàu về nghị lực để vượt qua khó khăn của tật nguyền. Với sự
hỗ trợ thích hợp của gia đình và xã hội, một số NKT đã đạt được nhiều thành tích
cao trong lao động và học tập, nhiều NKT trở thành tấm gương sáng, thành nguồn
động lực cho nhiều người noi theo.
1.1.3. Nhu cầu của người khuyết tật
Nhu cầu của NKT là những đòi hỏi cần được đáp ứng để tồn tại và phát triển.
NKT cũng có những nhu cầu cơ bản như mọi người trong xã hội và nhu cầu là
nguồn gốc thúc đẩy NKT hoạt động vươn tới những mục tiêu cho sự phát triển của
bản thân.
Theo quan điểm của nhà tâm lý học A.Maslow, con người có 5 loại nhu cầu cơ
bản được sắp xếp theo bậc thang từ thấp tới cao. Các nhu cầu có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Trước tiên, NKT cần được đáp ứng các nhu cầu ở mức thấp nhất. Sau
đó mới tìm đến sự đáp ứng các nhu cầu ở bậc thang cao hơn.
+ Nhu cầu thể lý (sinh lý): Đây là các nhu cầu cần thiết để con người sống và
tồn tại như: hô hấp, ăn, uống, tình dục, không khí sạch,.. khi các nhu cầu này được
thỏa mãn, thì con người có xu hướng tìm kiếm cách đáp ứng nhu cầu ở bậc cao hơn.

+ Nhu cầu an toàn: Đây là những nhu cầu giúp con người có cuộc sống an
toàn về thân thể, việc làm, tinh thần, sức khỏe, về kinh tế, pháp luật, về trật tự xã
hội, không bị đe dọa,.. khi nhu cầu thể lý được thỏa mãn mà nhu cầu an toàn chưa
được đáp ứng, thì các nhu cầu an toàn sẽ là động lực điều khiển hành động của con
người. Con người mong muốn một thế giới bình yên, mọi sự mất ổn định đều làm
cho người ta lo lắng, sợ hãi.
+ Nhu cầu giao lưu tình cảm: Đó là nhu cầu được yêu thương, được kết bạn,
được giao tiếp, được tham gia vào các nhóm gắn bó về tình cảm. Đây là những nhu
cầu giúp con người có cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc, con người thấy được giá trị của
mình qua tương tác với những người khác và họ cũng học được qua người khác

15


hiểu và biết cách sống chung cùng người khác, biết hòa nhập với mọi người, với
cộng đồng, với xã hội
+ Nhu cầu được quý trọng: Đây là nhu cầu được tôn trọng, kính mến, được tin
tưởng,.. nó giúp con người sống bình đẳng tự tin vào khả năng, nhu cầu về vị thế,
uy tín, tôn trọng phẩm giá, không bị coi thường, định kiến hoặc chối bỏ…
+ Nhu cầu tự thể hiện bản thân: Đây là nhu cầu về sự sáng tạo, thăng tiến,
phát triển bản thân, nó giúp con người phấn đấu vươn lên, hoàn thiện bản thân, tìm
kiếm sự hoàn hảo.

Trong cuộc sống, trước mắt con người luôn mong muốn thỏa mãn những nhu
cầu bậc thấp, sau đó mới vươn tới những nhu cầu bậc cao. Các nhu cầu bậc càng
cao bao nhiêu càng xuất hiện muộn bấy nhiêu trong sự phát triển của con người.
Nhu cầu càng cao bao nhiêu thì nó càng ít quan trọng bấy nhiêu đối với cuộc sống
đơn thuần, nó dễ bị hoãn lại, nó thực sự chưa bức bách so với sự sống còn, thậm chí
nó có thể bị lãng quên.


16


NKT có tất cả các nhu cầu như người bình thường, nhưng việc đáp ứng các
nhu cầu đó thường gặp khó khăn nhất định, vì họ bị khiếm khuyết về trí tuệ, vận
động,.. Ví dụ, người bình thường, khi đói có thể tự vận động tìm thức ăn để đáp
ứng, khi khát tự tìm nước uống, còn NKT, đặc biệt là NKT nặng, khi đói muốn ăn,
họ phải trông chờ vào sự trợ giúp của người khác. Tuy nhiên họ có thể phát tín hiệu
như nhìn vào bát, nhìn vào cốc nước, mấp máy môi, phát ra tiếng kêu,.. Chỉ những
người chăm sóc thường xuyên, có kinh nghiệm quan sát mới dễ dàng nhận biết
thông tin đó để đáp ứng.
Thực tế cho thấy, hiện nay một số nhu cầu bậc cao của NKT ít có cơ hội để
hiện thực hóa. Vì NKT gặp khó khăn trong việc học tập, tìm kiếm việc làm, tiếp cận
các dịch vụ xã hội,.. NKT rất cần sự trợ giúp phù hợp từ gia đình, cộng đồng, xã hội
để họ có thêm cơ hội đáp ứng các nhu cầu, để họ có cuộc sống bình thường, được
phát triển và hòa nhập.
1.2. Lý luận về quản lý công tác xã hội đối với ngƣời khuyết tật
1.2.1. Khái niệm về quản lý công tác xã hội
* Khái niệm quản lý
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả trong và
ngoài nước đã đưa ra giải thích không giống nhau về quản lý. Do vậy cho đến nay
vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Đặc biệt kể từ thế kỷ 21, các
quan niệm về quản lý lại càng phong phú. Các trường phái quản lý học đã đưa ra
những định nghĩa về quản lý như sau:
Nhà khoa học nổi tiếng về quản lý là Tailor có nhận định: "Làm quản lý là bạn
phải biết rõ: Muốn người khác làm việc gì và hãy chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế
nhất mà họ làm " .
Hard Koont: "Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp con
người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định".
Peter F Druker: "Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó không

nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó không nằm ở sự logic mà ở
thành quả, quyền uy duy nhất của nó là thành tích".

17


Fayel cũng là một nhà khoa học tiền bối về quản lý nhận định: "Quản lý là một
hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu
tố tạo thành là: Kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là
thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”. Trong định nghĩa
quản lý Fayel đã trực tiếp chỉ ra rằng: Quản lý chính là lập kế hoạch, tổ chức, thực
hiện, chỉ huy, tiến hành, kiểm soát; và nếu lý giải một cách đơn giản như vậy thì quản
lý lại trở thành một hành động cụ thể mà mất đi bản chất thống nhất của nó. Định
nghĩa quản lý nên phản ánh khách quan đặc trưng cơ bản của hoạt động quản lý, thể
hiện bản chất quản lý, hay có thể nói, trong định nghĩa về quản lý nhất định phải đề
cập đến bản chất của quản lý là theo đuổi năng suất, hiệu quả. Theo ông, quản lý
không đơn giản chỉ là khái niệm, nó là sự thống nhất của ba yếu tố:
Thứ nhất, thông qua tập thể để thúc đẩy tính tích cực của cá nhân.
Thứ hai, điều hoà quan hệ giữa người với người, giảm mâu thuẫn các bên.
Thứ ba, tăng cường hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, thông qua hỗ trợ để làm được
những việc mà một cá nhân không thể làm được, thông qua hợp tác tạo ra giá trị lớn
hơn giá trị cá nhân - giá trị tập thể.
Một khái niệm rất gẫn gũi với quản lý là lãnh đạo. Nhiều người đã lầm tưởng
hai khái niệm này là như nhau, tuy nhiên quản lý và lãnh đạo là hai thuật ngữ khác
nhau, thuộc 2 tầng hoạt động khác nhau song chúng có mối quan hệ thống nhất chặt
chẽ với nhau. Hoạt động lãnh đạo tập trung vào việc đưa ra quyết sách, xác định
mục tiêu, kế hoạch phấn đấu, vạch ra chính sách tương ứng và phương hướng lãnh
đạo khu vực, ban ngành, đơn vị tiến lên phía trước… Còn quản lý tập trung giữ
vững và tăng cường hoạt động của tổ chức để bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu mà
lãnh đạo đã xác định.

* Khái niệm công tác xã hội
Theo Hiệp hội Quốc gia NVCTXH Mỹ (NVCTXH) (NASW): CTXH là hoạt
động nghề nghiệp giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng nhằm nâng cao hay
khôi phục tiềm năng của họ để giúp họ thực hiện chức năng xã hội và tạo ra các
điều kiện xã hội phù hợp với các mục tiêu của họ (Zastrow, 1996: 5).

18


Theo Hiệp hội NVCTXH Quốc tế 7/2000 tại Montreal, Canada (IFSW),
CTXH được định nghĩa như sau: “CTXH thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn
đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải phóng cho người dân
nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý
thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, CTXH tương tác vào những điểm
giữa con người với môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các
nguyên tắc cơ bản của nghề”.
CTXH tồn tại để cung cấp các dịch vụ xã hội mang tính hiệu quả và nhân đạo
cho cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng và xã hội giúp họ tăng năng lực và cải thiện
cuộc sống (Zastrow, 1999.).
Theo Liên đoàn Chuyên nghiệp Xã hội Quốc tế (IFSW) tại Hội nghị Quốc tế
Montreal, Canada, vào tháng 7/2000: CTXH chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã
hội, tiến trình giải quyết vấn đề trong mối quan hệ con người, sự tăng quyền lực và
giải phóng cho con người, nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái và
dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và các hệ thống xã hội.
CTXH can thiệp ở những điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ.
Theo Nguyễn Thị Oanh (2004). Định nghĩa cổ điển: CTXH nhằm giúp cá
nhân và cộng đồng tự giúp. Nó không phải là một hành động ban bố của từ thiện mà
nhằm phát huy sứ mệnh của hệ thống thân chủ (cá nhân, nhóm và cộng đồng) để họ
tự giải quyết vấn đề của mình [25].
PGS.TS Bùi Thị Xuân Mai (2010) đưa ra một khái niệm về CTXH như sau:

CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia
đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã
hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm
giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội
góp phần bảo đảm ASXH [21].
Để cụ thể hóa khái niệm trên, tại Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25
tháng 3 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nghề CTXH
giai đoạn 2010-2020 (Đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ) cũng khẳng định CTXH
là góp phần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con người và con người. Hạn chế

19


phát sinh các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã hội,
hướng tới một xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân và xây dựng
nhân cách sống đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc mang tính thuần phong mỹ tục.
* Công tác xã hội đối với người khuyết tật
Từ định nghĩa về CTXH như trên thì có thể hiểu: CTXH đối với NKT là hoạt
động chuyên nghiệp của NVCTXH giúp đỡ những NKT tăng cường hay khôi phục
việc thực hiện các chức năng xã hội của họ, huy động nguồn lực, xác định những
dịch vụ cần thiết để hỗ trợ NKT, gia đình và cộng đồng triển khai hoạt động chăm
sóc trợ giúp họ một cách hiệu quả, vượt qua những rào cản, bảo đảm sự tham gia
đầy đủ vào các hoạt động xã hội trên nền tảng sự công bằng như những người khác
trong xã hội.
* Mục đích, vai trò của công tác xã hội đối với người khuyết tật
Từ cách hiểu về CTXH đối với NKT cũng như xem xét mục đích của CTXH
nhận thấy mục đích và vai trò của CTXH đối với NKT là nhằm: Hỗ trợ cá nhân và
gia đình NKT; Quản lý ca với NKT; Hỗ trợ xây dựng tổ chức của NKT; Tham gia
vào việc xây dựng, phản biện chính sách, luật pháp đối với NKT; Biện hộ cho
quyền và lợi ích của NKT. Như vậy, có thể nhìn nhận mục đích của CTXH đối với

NKT bao gồm những hoạt động cụ thể như sau:
- Trợ giúp, khuyến khích, thúc đẩy và tăng cường việc thực hiện chức năng xã
hội của cá nhân, nhóm, các tổ chức và các cộng đồng NKT bằng cách giúp họ,
phòng ngừa, chữa trị và giảm nhẹ những đau buồn do khuyết tật mang lại và biết
cách sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả.
- Tham gia vào việc hoạch định, xây dựng và thực thi các chính sách xã hội,
các dịch vụ xã hội, các nguồn tài nguyên và các chương trình để đáp ứng những nhu
cầu của NKT và hỗ trợ cho sự phát triển của họ.
- Theo đuổi những chính sách, dịch vụ, tài nguyên và chương trình thông qua
công tác biện hộ trong phạm vi cơ sở hay trong phạm vi quản trị cơ sở hoặc hành
động chính trị để tăng quyền lực cho NKT nhằm bảo đảm sự công bằng và sự tham
gia đầy đủ của họ vào các hoạt động xã hội.

20


* Quản lý công tác xã hội
Theo Kidneigh: "Quản lý CTXH là một tiến trình chuyển đổi chính sách xã
hội thành các dịch vụ xã hội... trong một tiến trình hai chiều: (1) chuyển đổi chính
sách thành các dịch vụ xã hội cụ thể và (2) dùng kinh nghiệm để khuyến nghị sửa
đổi điều chỉnh chính sách" (Skidmore, 1990).
Vậy quản lý CTXH có thể hiểu là một tiến trình hành động liên tục của
NVCTXH trong việc sử dụng các kiến thức, kỹ năng quản lý để chuyển đổi các
chính sách xã hội thành các dịch vụ xã hội. Nó bao gồm hoạt động của những người
lãnh đạo tổ chức và tất cả những nhân viên trong tổ chức để hoàn thành mục đích
chung của tổ chức. Tiến trình căn bản bao gồm các yếu tố: quản lý, tổ chức, lãnh
đạo và kiểm tra.
* Khái niệm quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật
Trên cơ sở nghiên cứu các quan niệm về quản lý công tác xã hôi, chúng ta có
thể hiểu: Quản lý CTXH đối với NKT là một tiến trình hoạt động bao gồm lập kế

hoạch, tổ chức, chỉ đạo triển khai thực hiện kế hoạch và kiểm tra các hoạt động
CTXH trong quá trình trợ giúp NKT.
Tính chuyên môn của quản lý CTXH đối với NKT được thể hiện ở những
khía cạnh sau:
- Về chủ thể: Là lãnh đạo các cơ quan, đơn vị được phân cấp thẩm quyền
quản lý Nhà nước và chịu trách nhiệm về kết quả điều hành theo quy định pháp luật.
- Về khách thể: Là công chức, viên chức, người lao động,.. những người dưới
quyền chịu trách nhiệm thực thi nhiệm vụ theo sự kiểm soát quản lý của chủ thể và
chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ chức trách được giao theo quy định
pháp luật.
- Về đối tượng: Là các hoạt động liên quan đến lập kế hoạch, tổ chức, lãnh
đạo, kiểm tra,…
Quá trình quản lý phải tuân thủ theo nguyên tắc của CTXH, mà ở đó cần
nhấn mạnh: Tôn trọng nhu cầu và thực tại của thân chủ; Bảo đảm quyền và sự tham
gia của NKT, hay gia đình họ vào mọi quá trình dù là lên kế hoạch hay giám sát, tổ

21


×