Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

HỖ TRỢ KẾT NỐI HỌC NGHỀ VỚI VIỆC LÀM CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.25 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ ANH ĐẠT

HỖ TRỢ KẾT NỐI HỌC NGHỀ VỚI VIỆC LÀM CHO
NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ công tác xã hội với đề tài: “Hỗ trợ kết nối
học nghề với việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” là
nghiên cứu của tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong đề tài luận văn này là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Hồ Anh Đạt



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1 ..................................................................................................................... 9
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ KẾT NỐI HỌC NGHỀ VỚI VIỆC
LÀM CHO NGƯỜI NGƯỜI KHUYẾT TẬT ............................................................ 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của người khuyết tật ..................................... 9
1.2. Lý luận về hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật........... 14
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người
người khuyết tật ...................................................................................................... 24
1.4. Thể chế hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật ............... 27
Chương 2 ................................................................................................................... 32
THỰC TRẠNG HỖ TRỢ KẾT NỐI HỌC NGHỀ VỚI VIỆC LÀM CHO NGƯỜI
KHUYẾT TẬT TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ....................................................... 32
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu và khách thể nghiên cứu ................................. 32
2.2. Thực trạng hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật tại
thành phố Đà Nẵng ................................................................................................. 37
2.3. Thực trạng của các yếu tố ảnh hưởng đến kết nối học nghề với việc làm cho
người khuyết tật ...................................................................................................... 49
Chương 3 ................................................................................................................... 57
ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KẾT NỐI HỌC NGHỀ
VỚI VIỆC LÀM CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT ...................................................... 57
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................ 57
3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho
người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng .................................................. 57
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người
khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng ............................................................ 58
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 71
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 74



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTXH

Công tác xã hội

BTXH

Bảo trợ xã hội

DN

Dạy nghề

HN

Học nghề

VL

Việc làm

DVVL

Dịch vụ việc làm

International Labour Organization
ILO


(Tổ chức Lao động Quốc tế)

LĐTBXH

Lao động – Thương binh và Xã hội

LHQ

Liên hợp quốc

NKT

Người khuyết tật

PVS

Phỏng vấn sâu

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo số liệu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, hiện nay Việt Nam
có khoảng 7 triệu người khuyết tật, chiếm 7,8% dân số. Trong đó, có khoảng 28,9%
người khuyết tật đặc biệt nặng và nặng, 58% người khuyết tật là nữ, 28,3% người
khuyết tật là trẻ em, 10,2% người khuyết tật là người cao tuổi, 61,5% người khuyết
tật trong độ tuổi lao động và khoảng 10% người khuyết tật thuộc hộ nghèo [1].

Đà Nẵng là một trong những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của hậu quả
chiến tranh và chất độc hóa học để lại, do vậy, tỷ lệ người khuyết tật chiếm khá cao.
Theo số liệu điều tra thông tin người khuyết tật trên địa bàn toàn thành phố bằng
phương pháp phân loại khuyết tật của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2014 do
Hội trợ giúp người khuyết tật Việt Nam (VNAH) hỗ trợ thực hiện có 152.131
người khuyết tật, chiếm tỷ lệ 20,3% tổng dân số, trong đó có hơn 10.000 người
khuyết tật có mức độ khuyết tật đặc biệt nặng, nặng, nhẹ (đã được giám định mức
độ khuyết tật) được đưa vào diện mở hồ sơ quản lý trường hợp, theo dõi và có nhu
cầu cần trợ giúp, trong số đó có hơn 30% người khuyết tật đặc biệt nặng đang được
hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên. Phần lớn đời sống hộ gia đình người khuyết tật
đều có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thuộc diện hộ nghèo cần sự trợ giúp rất lớn của
xã hội và cộng đồng.
Trong quá trình thực hiện các chính sách và các hoạt động trợ giúp người
khuyết tật, hỗ trợ kết nối việc làm cho người khuyết tật sau khi được đào tạo nghề là
một vấn đề khó khăn và nan giải. Với người không khuyết tật, cơ hội tìm được việc
làm đã khó, với người khuyết tật tiếp cận, tìm kiếm được việc làm còn khó khăn
hơn rất nhiều. Việc làm và thu nhập của người khuyết tật còn nhiều rào cản. Theo
báo cáo thống kê của Cục Việc làm, số người khuyết tật có việc làm chỉ chiếm 1020% trong tổng số người khuyết tật [6], số người khuyết tật còn lại gặp nhiều khó
khăn, hầu hết phải sống dựa vào gia đình. Một bộ phận người khuyết tật tuy có việc
làm, nhưng công việc không ổn định và thu nhập còn rất thấp.

1


Ở Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng, chính quyền các cấp luôn chú
trọng đến công tác học nghề, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người khuyết tật.
Nhiều năm trở lại đây vấn đề này nhận được sự quan tâm lớn và tạo điều kiện thuận
từ phát triển hạ tầng cơ sở cho đến chính sách trợ giúp đối tượng tham gia học nghề
cũng như giáo viên dạy nghề. Luật Dạy nghề năm 2006 đã dành toàn bộ Chương
VII quy định dạy nghề cho người khuyết tật, với mục tiêu giúp đối tượng có năng

lực thực hành nghề phù hợp với khả năng lao động của mình để tự tạo việc làm
hoặc tìm được việc làm, ổn định đời sống. Đồng thời, Nhà nước cũng khẳng định,
hỗ trợ về tài chính và các chính sách ưu đãi khác đối với các cơ sở dạy nghề cho
người khuyết tật nhằm khuyến khích công tác dạy nghề cho người khuyết tật. Trong
Bộ luật Lao động, tại Điều 125 cũng nêu rõ: “Hàng năm, Nhà nước dành một khoản
ngân sách để giúp người khuyết tật phục hồi sức khoẻ, phục hồi chức năng lao
động, học nghề và có chính sách cho vay với lãi suất thấp để họ tự tạo việc làm, ổn
định đời sống”.
Thời gian qua đã có rất nhiều nghiên cứu liên quan đến vấn đề công tác học
nghề hay hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật. Các nghiên cứu này hầu hết thực
hiện nghiên cứu, đánh giá một cách đơn lẻ hai vấn đề học nghề, hỗ trợ việc làm. Vì
vậy, cần thiết có đề tài nghiên cứu về hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho
người khuyết tật.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm
cho người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1 Tình hình nghiên cứu quốc tế
Trong nghiên cứu của Acemoglu và Joshua (2010) có đề cập khía cạnh về các
chương trình bảo vệ và hỗ trợ người khuyết tật trong vấn đề việc làm [29]. Nghiên cứu
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm cũng như phân tích và đánh giá về các chính
sách liên quan đến việc làm của người khuyết tật. Từ đó đã có những đề xuất và giải
pháp định hướng cho việc xây dựng chính sách cho người khuyết tật trong lĩnh vực
này.
2


Một cuộc nghiên cứu tổng thể về các vấn đề việc làm của người khuyết tật trong
lĩnh vực hành chính công đã được Hirst (2004). Nghiên cứu này tác giả đã thu thập số
liệu và tập trung phân tích các vấn đề về việc làm của người khuyết tật dựa trên

những số liệu và thông tin từ rất nhiều các nghiên cứu khác nhau, ở các lĩnh vực khác
nhau [31].
2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
TS. Trần Thị Thúy Lâm đã có bài viết phân tích và đánh giá thực trạng pháp
luật Việt Nam hiện hành về học nghề, dạy nghề cho người khuyết tật trên các
phương diện: Chính sách đối với cơ sở dạy nghề, người khuyết tật học nghề và giáo
viên dạy nghề cho người khuyết tật; đồng thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả việc học nghề đối với người khuyết tật cả ở phương diện hoàn
thiện pháp luật và biện pháp tổ chức thực hiện [14].
Ths. Bùi Thái Hiền đã phân tích rõ thực trạng và vấn đề trong công tác đào tạo
nghề cho người khuyết tật tại trong nghiên cứu “Nâng cao chất lượng hiệu quả đào
tạo nghề cho người khuyết tật tại Trung tâm dạy nghề tàn tật tỉnh Bình Dương” từ
đó đề xuất các nhóm giải pháp nhằm cải thiện chất lượng đào tạo nghề và đề xuất
hướng giải pháp gắn kết học nghề và giải quyết việc làm tại trung tâm [10].
Trong luận văn thạc sĩ công tác xã hội “Hoạt động tạo việc làm cho người
khuyết tật huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình” của tác giả Ngô Thị Bích Phượng (2013)
đã tiến hành khảo sát nghiên cứu tại hai cơ sở tư nhân trên địa bàn xã Yên Thắng và
Khánh Thịnh [17]. Tác giả chỉ ra một trong những hoạt nhằm giải quyết việc làm
cho người khuyết tật bằng cách gắn kết nó với việc học nghề từ các lớp dạy nghề
địa phương hoặc của các doanh nghiệp. Thông qua những đặc điểm của người
khuyết tật như độ tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, tình trạng khuyết tật, hoàn
cảnh kinh tế gia đình, là một trong những yếu tố tác động đến quá trình học nghề và
tìm kiếm việc làm, tác giả đề xuất một số phương pháp, cách thức nhân viên Công
tác xã hội có thể sử dụng để hỗ trợ cho người khuyết tật tiếp cận được cơ hội việc
làm. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến những yếu tố khác có tác động đến việc làm
của người khuyết tật như yếu tố về môi trường, doanh nghiệp, chính sách.

3



Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thực hiện một cuộc nghiên cứu vấn đề việc
làm của người khuyết tật dựa trên cơ sở giới vào năm 2010 và đã đưa ra “Báo cáo
khảo sát về Đào tạo nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật tại Việt Nam” [12].
Báo cáo này cung cấp một cách nhìn tổng thể về các tổ chức của người khuyết tật,
các tổ chức đại diện cho người khuyết tật và các dịch vụ đào tạo nghề, việc làm và
phát triển doanh nghiệp cho người khuyết tật, đặc biệt tập trung vào các tổ chức của
phụ nữ khuyết tật và các dịch vụ dành riêng cho phụ nữ khuyết tật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận, thực trạng về việc học nghề, giải quyết việc làm cho người
khuyết tật và hoạt động kết nối học nghề với giải quyết việc làm tại thành phố Đà
Nẵng; các yếu tố ảnh hưởng đến việc kết nối học nghề với giải quyết việc làm cho
người khuyết tật. Từ đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc kết nối
học nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ các khái niệm về học nghề, việc làm cho người khuyết tật, về hỗ
trợ kết nối học nghề với việc làm đối với người khuyết tật.
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về kết nối học nghề với giải quyết việc làm
cho người khuyết tật.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm đối
với người khuyết tật.
- Phân tích đánh giá thực trạng về hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm đối với
người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ kết nối học nghề với việc
làm đối với người khuyết tật tại thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.


4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi về đối tượng
Nghiên cứu lý luận và thực trạng về hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho
người khuyết tật; cụ thể đó là hỗ trợ tư vấn, định hướng việc học nghề để phù hợp
với nhu cầu việc làm của xã hội, hỗ trợ giới thiệu việc làm sau khi học nghề, hỗ trợ
đào tạo nghề và giải quyết việc làm tại chỗ.
* Phạm vi về khách thể
Nghiên cứu tình hình học nghề của người khuyết tật, công tác kết nối học nghề
và kết nối việc làm tại Trung tâm giáo dục nghề nghiệp Đà Nẵng; hai cơ sở dạy nghề
cho người khuyết tật tư nhân là: Cơ sở dạy nghề Thanh Ngọc Minh, cơ sở dạy nghề
Dana Tre Đà Nẵng; 30/56 nhân viên Công tác xã hội tại 56 xã/phường của 7
quận/huyện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, những người trực tiếp làm công tác hỗ
trợ kết nối học nghề cho người khuyết tật và nghiên cứu trên 100 người khuyết tật
trên địa bàn thành phố.
Nghiên cứu khách thể gồm cán bộ quản lý, chuyên viên làm công tác hoạch
định kế hoạch hỗ trợ học nghề và tạo việc làm của người khuyết tật.
* Phạm vi về địa bàn: Nghiên cứu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận cho chúng ta biết cách thức tiếp cận một vấn đề xã hội cụ
thể, đó là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu, phương pháp nhận thức và
cải tạo hiện thực.
Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng, từ những đánh giá về thực trạng
học nghề, giải quyết việc làm cho người khuyết tật tại thành phố Đà Nẵng, rút ra
được những lý luận và đưa ra được những đề xuất về biện pháp để nâng cao hiệu
quả công tác kết nối học nghề với việc làm đối với người khuyết tật tại thành phố.
Những phát hiện của nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm cơ sở lý luận, khoa học

cũng như phát triển hệ thống các lý luận, phương pháp trong nghiên cứu về các vấn
đề liên quan như công tác xã hội, dịch vụ công tác xã hội và một số vấn đề lý luận
về người khuyết tật.
5


5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản
Tìm kiếm, nghiên cứu các tài liệu về các công ước quốc tế; các chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về người khuyết tật và vấn đề học
nghề, tạo việc làm đối với người khuyết tật như Luật người khuyết tật, Bộ luật lao
động, Luật việc làm, Luật dạy nghề, Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012
- 2020, Nghị định số 28/2012/NĐ-CP…
Bên cạnh đó nghiên cứu này có tham khảo số liệu từ các báo cáo, thống kê,
văn bản của các cơ quan, tổ chức có liên quan đến vấn đề người khuyết tật, học
nghề và tạo việc làm của người khuyết tật.
Nghiên cứu một số công trình của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề
học nghề, dạy nghề, việc làm đối với người khuyết tật.
5.2.2 Phương pháp phỏng vấn sâu
Nghiên cứu này tập trung chủ yếu vào phỏng vấn sâu 30 nhân viên công tác xã
hội trực tiếp làm công tác tư vấn, hỗ trợ người khuyết tật đến học tại các đơn vị đào
tạo nghề cũng như kết nối nguồn lực giải quyết việc làm cho người khuyết tật thời
gian vừa qua.
Phỏng vấn trực tiếp 70 đối tượng là người khuyết tật trên địa bàn thành phố để
có được những thông tin có chiều sâu về hoạt động học nghề, việc làm cũng như đánh
giá của người khuyết tật về công tác kết nối học nghề với việc làm.
Bên cạnh đó phỏng vấn sâu các nhân viên, cán bộ quản lý của cơ sở dạy nghề
cho người khuyết tật, các nhà quản lý tại các cơ quan, đơn vị như: Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng, Trung tâm dịch vụ việc làm, trung tâm
cung cấp dịch vụ công tác xã hội…để tìm hiểu sâu hơn, lý giải nguyên nhân về các

vấn đề nghiên cứu của đề tài.
5.2.3 Phương pháp quan sát
Trong đề tài, phương pháp quan sát được sử dụng để ghi lại những thái độ,
hành vi, cách cư xử, trao đổi của các giảng viên đào tạo nghề, nhân viên tư vấn, giới
thiệu việc làm cho người khuyết tật.

6


5.2.4. Phương pháp điều tra bảng hỏi
Là phương pháp điều tra xã hội học nhằm thu thập thông tin bằng cách lập một
bảng hỏi cho nhóm đối tượng cần nghiên cứu trong một không gian, thời gian nhất
định.
Đề tài sẽ điều tra bằng bảng hỏi 70 khách thể là người khuyết tật,
trên 56 xã/phường của 7 quận/huyện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu giúp làm sáng tỏ lý luận về công tác hỗ trợ kết nối học nghề với
việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, qua đó bổ sung và
làm phong phú thêm về cách nhìn nhận, đánh giá 2 hoạt động học nghề và tạo việc
làm cho người khuyết tật.
Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích tại các
cơ sở nghiên cứu và đào tạo về công tác xã hội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đối với người khuyết tật: Đánh giá rõ hơn tình hình học nghề, giúp khắc
phục những vấn đề, khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm nhất là sau khi đào tạo
nghề từ đó nâng cao số lượng và chất lượng giải quyết việc làm cho người khuyết
tật. Người khuyết tật sẽ ngày càng khẳng định được vai trò trong xã hội.
- Đối với các cơ quan, trung tâm, tổ chức cung cấp dịch vụ dạy nghề, hỗ trợ
kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật: Các phát hiện của nghiên cứu

sẽ góp phần làm sáng tỏ thực trạng về mức độ liên kết giữa việc học nghề với việc
làm cho người khuyết tật hiện nay tại thành phố từ đó đưa ra những giải pháp, định
hướng nhằm gia tăng chất lượng dịch vụ của các cơ sở giúp nâng cao hiệu quả hỗ
trợ người khuyết tật.
- Đối với các cơ quan quản lý: Giúp các cơ quan quản lý có những chính sách
hoạch định hiệu quả về vấn đề học nghề, dạy nghề, hỗ trợ kết nối học nghề với việc
làm cho người khuyết tật.
- Đối với xã hội: Việc giải quyết vấn đề việc làm cho người khuyết tật sẽ góp
phần giải quyết các vấn đề chung của người khuyết tật, góp phần khẳng định nỗ lực
7


trong việc thực hiện Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của người khuyết tật
mà Việt Nam đã ký kết.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương (ngoài phần phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục) như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho
người khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết
tật hiện nay tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ kết nối học nghề
với việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ KẾT NỐI HỌC NGHỀ VỚI VIỆC
LÀM CHO NGƯỜI NGƯỜI KHUYẾT TẬT

1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của người khuyết tật
1.1.1. Khái niệm người khuyết tật
* Khái niệm người khuyết tật
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về người khuyết tật cụ thể như:
“Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí
tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt
những rào cản có thể cản trợ sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của người khuyết tật
vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác” - Công ước của LHQ về
người khuyết tật (2006).
Định nghĩa về người khuyết tật của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) như sau:
“Khuyết tật là một thuật ngữ chung bao gồm các khiếm khuyết, hạn chế hoạt động
và hạn chế sự tham gia. Người khuyết tật là người gặp phải một vấn đề trong chức
năng hoặc cấu trúc cơ thể dẫn đến giới hạn hoạt động trong việc thực hiện một
nhiệm vụ hoặc hành động, hạn chế sự tham gia giải quyết, thực hiện một vấn đề của
chính cá nhân đó trong việc cuộc sống. Khuyết tật không chỉ là một vấn đề sức
khỏe. Đây là một hiện tượng phức tạp, phản ánh sự tương tác giữa các đối tượng
của cơ thể của một người và đặc điểm xã hội trong đó con người đang sống.”
Disabilites _ Retrieved 28/10/2016.
Theo Luật Người khuyết tật Việt Nam ban hành vào năm 2010: “Người khuyết
tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức
năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó
khăn” Đây là định nghĩa khá đầy đủ, tổng hợp được các cách hiểu khác nhau về
khuyết tật và phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam vì vậy trong phạm vi đề
tài, tác giả sử dụng định nghĩa này để hiểu về người khuyết tật.
* Dạng khuyết tật
Việc phân loại khuyết tật ở Việt Nam đã được cụ thể hóa trong Luật Người
khuyết tật năm 2010.
9



Căn cứ vào Khoản 1, Điều 2, Chương 1, Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày
10/4/2012 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật người khuyết tật, đã quy định 6 dạng khuyết tật cơ bản như sau:
Khuyết tật vận động: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ,
chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển.
Khuyết tật nghe, nói: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả
nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp,
trao đổi thông tin bằng lời nói.
Khuyết tật nhìn: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh
sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường.
Khuyết tật thần kinh, tâm thần: là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc,
kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường.
Khuyết tật trí tuệ: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu
hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải
quyết sự việc.
Khuyết tật khác: là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến
cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường
hợp được quy định tại các dạng trên.
* Các mức độ khuyết tật
Theo Luật người khuyết tật và Nghị định số 28/2012/NĐ-CP, người khuyết tật
được chia theo 3 mức độ khuyết tật sau đây:
- Người khuyết tật đặc biệt nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất
hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt
động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh
hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn.
Người khuyết tật đặc biệt nặng rất cần sự trợ giúp trong mọi mặt của đời sống,
người khuyết tật đặc biệt nặng thường không có khả năng học nghề hay lao động.
- Người khuyết tật nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện
một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày. Do khuyết tật dẫn đến
mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực

10


hiện một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục
vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày nên cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm
sóc. Mặc dù khó khăn trong các hoạt động hằng ngày tuy nhiên người khuyết tật
nặng hoàn toàn có học nghề hay lao động tạo thu nhập.
- Người khuyết tật nhẹ khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận có khả
năng tự phục vụ sinh hoạt hoặc suy giảm khả năng lao động dưới 61%. Người
khuyết tật nhẹ chiếm gần 50% trong tổng số người khuyết tật trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng. Người khuyết tật hoàn toàn có thể có khả năng tự phục vụ bản thân cũng
như học tập và làm việc.
Trong khuôn khổ luận văn này đối tượng nghiên cứu hướng đến là người
khuyết tật nặng và nhẹ vẫn còn khả năng học tập và lao động.
1.1.2. Đặc điểm và nhu cầu của người khuyết tật
* Đặc điểm tâm lý của người khuyết tật
Người khuyết tật là đối tượng thuộc nhóm yếu thế, họ gặp khó khăn về nhiều
mặt trong cuộc sống, trong đó có khó khăn về học tập, việc làm, hôn nhân, bị kỳ
thị... Những đặc điểm tâm lý cũng như thể chất của người khuyết tật luôn ảnh
hưởng đến hoạt động trợ giúp họ. Sự khiếm khuyết về thể chất dẫn tới khả năng
hoạt động chức năng của người khuyết tật có thể bị giảm sút, vì vậy họ gặp nhiều
khó khăn, trở ngại trong sinh hoạt, lao động, học tập… Chẳng hạn, do bị bệnh tật,
khó khăn đi lại hoặc giao tiếp nên hoạt động học tập, lao động, giao lưu của người
khuyết tật hạn chế hơn nhiều so với người không khuyết tật. Bên cạnh đó, sự thiếu
hụt về thể chất dẫn đến những cản trở trong sinh hoạt, lao động nên người khuyết
tật thường bị ức chế dẫn đến bi quan, chán nản, tự ti hay cáu gắt, nóng nảy…Vì thế,
người khuyết tật có đời sống nội tâm rất nhạy cảm và tế nhị.
Bộ phận, giác quan này mất đi thì một hoặc nhiều bộ phận hay giác quan
khác sẽ phát huy mạnh hơn vai trò hay thể hiện rõ nét hơn chức năng của nó. Các cơ
quan còn lại này rất phát triển và sự nhận biết thế giới xung quanh thực hiện chủ

yếu thông qua các giác quan đó. Ví dụ như người khiếm thị thường rất nhạy cảm
với các kích thích da, đôi tay; người khiếm thính nhạy cảm với kích thích rung
động, biểu cảm phong phú. Vì vậy, khi thực hiện các hoạt động đào tạo nghề cần
11


vận dụng tối đa sự tham gia của các cơ quan cảm giác còn lại (như dạy nghề cho
người khuyết tật nghe, nói cần tăng cường sử dụng hình ảnh trực quan, các động tác
tay chân để mô phỏng; ngược lại với người khiếm thị thì phải tích cực hỗ trợ bằng
các phương tiện nghe, sờ,…).
Người khuyết tật thường có tâm lý mặc cảm, tự ti, sống khép kín, ngại giao
tiếp với mọi người; họ cho rằng số phận mình không may mắn, là gánh nặng cho
người thân, gia đình. Do đó, họ dễ bị kích động, khó kiểm soát phản ứng khi bị
phân biệt đối xử và thiếu tôn trọng. Cộng đồng và xã hội cần giáo dục mọi người
tránh lời nói, cử chỉ, hành vi miệt thị, xa lánh; đồng thời, tạo điều kiện cho người
khuyết tật hòa nhập vào cuộc sống xã hội như những người bình thường. Nhân viên
tư vấn việc làm phải lưu ý đặc điểm này, khi giao tiếp tư vấn cho người khuyết tật
cũng như đánh giá khả năng làm việc của họ.
Người khuyết tật gặp khó khăn trong giao tiếp với môi trường xung quanh. Họ
có đời sống nội tâm rất nhạy cảm và tế nhị, dễ cảm thông với những người đồng
cảnh ngộ và biết ơn khi được quan tâm, giúp đỡ. Vì vậy, người khuyết tật là những
người hoạt động rất tích cực trong nhóm tự giúp nhau, vượt qua khó khăn, chia sẽ
kinh nghiệm trong cuộc sống, việc làm.
Một số người khuyết tật có ý chí, nghị lực cao, đặc biệt những người khuyết
tật về vận động nhưng trí tuệ phát triển bình thường hoặc thậm chí rất tốt. Họ
thường cố gắng học tập, tìm kiếm việc làm để không phụ thuộc vào người khác. Vì
vậy, với sự hỗ trợ của gia đình và cộng đồng, họ sẽ đạt được nhiều thành công trong
học tập và lao động sản xuất.
Trong mối quan hệ tương tác với người khác trong gia đình, cộng đồng, họ
thường có cảm xúc buồn, thất vọng, hay tự ái. Do đó, người khuyết tật thường thiếu

những kỹ năng xã hội cần thiết, ít tiếp cận được với các chính sách hỗ trợ, các trung
tâm tư vấn giới thiệu việc làm, các cơ sở dạy nghề hoặc ngân hàng chính sách xã
hội, thiếu thông tin từ các nhà tuyển dụng.
Nếu sống trong những gia đình khó khăn, người khuyết tật có cảm giác mình
bị bỏ rơi. Đa số người khuyết tật chưa được đi học hoặc học nghề đến nơi, đến chốn
là do tâm lý gia đình ít quan tâm đến nhu cầu đi học, việc làm của người khuyết tật.
12


* Nhu cầu của người khuyết tật
Nhu cầu là cái gì đó được cho là cần thiết, đặc biệt khi nó được coi là thiết yếu
cho sự sinh tồn của một con người, một tổ chức hay bất kỳ thứ gì khác [5, tr.4].
Theo quan điểm của nhà tâm lý học A. Maslow, con người có 5 bậc thang nhu cầu
được xếp theo thứ tự từ nhu cầu vật chất cơ bản cần thiết đến nhu cầu tinh thần nâng
cao như sau:
- Nhu cầu về sinh lý: đây là các nhu cầu cần thiết để con người sống và tồn tại
như ăn, uống, tình dục, không khí sạch,…khi các nhu cầu này được thoả mãn, thì
con người có xu hướng tìm kiếm các đáp ứng nhu cầu cao hơn.
- Nhu cầu về an toàn: đây là những nhu cầu giúp con người có cuộc sống an
toàn, bình yên, ổn định, được sống trong sự bình ổn về kinh tế, về pháp luật, về trật
tự xã hội, không bị đe dọa…, khi nhu cầu sinh lý được thỏa mãn mà nhu cầu an
toàn chưa được đáp ứng, thì các nhu cầu an toàn sẽ là động lực điều khiển hành
động của con người. Con người mong muốn một thế giới bình yên, mọi sự mất ổn
định đều làm cho người ta lo lắng sợ hãi.
- Nhu cầu về xã hội: đây là nhu cầu được yêu thương, được kết bạn, được giao
tiếp, được tham gia vào các nhóm gắn bó về tình cảm. Những nhu cầu này giúp con
người có cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc, con người thấy được giá trị của mình qua tương
tác với những người khác, và họ cũng học được qua người khác, hiểu và biết cách sống
chung cùng người khác, biết hoà nhập với mọi người, với cộng đồng, xã hội.
- Nhu cầu được tôn trọng: đây là nhu cầu giúp con người sống bình đẳng, tự

tin vào khả năng, nhu cầu về vị thế, uy tín, tôn trọng phẩm giá, không bị coi thường,
định kiến hoặc chối bỏ.
- Nhu cầu được thể hiện mình: đây là nhu cầu về thăng tiến, phát triển. Những
nhu cầu này giúp con người phấn đấu, vươn lên, hoàn thiện bản thân, tìm kiếm sự
hoàn hảo.
Các nhu cầu không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, gắn
kết, phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau. Trong cuộc sống, trước mắt con người mong
muốn thỏa mãn những nhu cầu bậc thấp, sau đó mới vươn tới những nhu cầu bậc
cao hơn.
13


Người khuyết tật có tất cả các nhu cầu như người bình thường và nhu cầu là
nguồn gốc thúc đẩy người khuyết tật hoạt động vươn tới những mục tiêu cho sự
phát triển của bản thân. Tuy nhiên, đối với người khuyết tật việc đáp ứng các nhu
cầu đó thường gặp khó khăn hơn, vì họ bị khiếm khuyết.
Vận dụng thuyết nhu cầu trong việc hỗ trợ kết nối học nghề với giải quyết
việc làm cho người khuyết tật sẽ giúp nhân viên xã hội nhận thức rằng dù là người
khuyết tật nhưng họ cũng có những nhu cầu cơ bản như những người bình thường
khác và một trong những nhu cầu đó là nhu cầu được học nghề, kiếm cách mưu sinh
từ đó hỗ trợ việc làm để ổn định cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng và phát triển
trong xã hội. Do đó sau khi hỗ trợ và đảm bảo những nhu cầu ở bậc thấp thì nhân
viên xã hội cũng cần có kế hoạch và chiến lược để hỗ trợ người khuyết tật. Ngoài ra
vận dụng thuyết nhu cầu cũng rất hữu ích với nhân viên xã hội trong việc biện hộ để
giúp người khuyết tật có được việc làm. Cụ thể là không riêng gì người khuyết tật
mà cả những người bình thường như lãnh đạo trong các cơ sở tuyển dụng cũng sẽ
có những nhu cầu này. Vậy vận dụng thuyết này chúng ta sẽ hiểu lãnh đạo và quản
lý các doanh nghiệp cũng sẽ có những nhu cầu như được thể hiện mình và được xã
hội công nhận tôn trọng. Do đó ngoài yếu tố pháp luật, nếu nhân viên xã hội khéo
léo vận dụng việc biện hộ để đáp ứng những nhu cầu này của các doanh nghiệp thì

khả năng người khuyết tật có được việc làm sẽ cao hơn nhiều.
1.2. Lý luận về hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật
1.2.1. Một số khái niệm
* Khái niệm học nghề
Từ điển Việt Nam định nghĩa về học như sau: “Học là thu nhận kiến thức,
luyện tập kĩ năng được truyền giảng hoặc từ sách vở” [16, tr.357].
Trong nghiên cứu của tác giả Ngô Thị Bích Phượng (2013) về Hoạt động tạo
việc làm cho người khuyết tật huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình, tác giả có đưa ra định
nghĩa về học nghề như sau “Học nghề được hiểu như là khái niệm chỉ việc học có
tính bài, có cơ sở dạy nghề, giáo viên, giáo cụ, theo một chương trình và phương
pháp căn bản, có dạy lý thuyết và thực hành nghề”.

14


Học nghề có thể hiểu là quá trình tiếp thu cái mới hoặc bổ sung, trau dồi
các kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, giá trị, nhận thức hoặc sở thích và có thể liên
quan đến việc tổng hợp các loại thông tin khác nhau từ sách vở hoặc sự truyền dạy
từ giáo viên, những người am hiểu về các ngành nghề.
* Khái niệm đào tạo nghề
Cuốn “Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam” của Viện Khoa học lao động và
Xã hội và Tổ chức GIZ phối hợp xây dựng đã định nghĩa: “Đào tạo nghề là việc
cung cấp kỹ năng, kiến thức một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho các cá nhân
có đủ khả năng thực hiện công việc, nghề nghiệp hoặc một nhóm công việc, nghề
nghiệp phù hợp” [28, tr.29]. Theo Luật giáo dục nghề nghiệp, “Đào tạo nghề
nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề
nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau
khi hoàn thành khóa học để nâng cao trình độ nghề nghiệp” [20]. Khái niệm “Đào
tạo nghề nghiệp” theo Luật giáo dục nghề nghiệp là một khái niệm mới, đầy đủ và
bao quát nhất.

* Khái niệm việc làm
Việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi người vì nhờ nó con
người tạo thu nhập để đảm bảo các nhu cầu vật chất, tinh thần của mìnhvà các thành
viên trong gia đình, đồng thời là điều kiện để con người tham gia vào các hoạt động
xã hội, quan hệ xã hội, qua đó khẳng định vai trò, giá trị xã hội của mình.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13, các nhà thống kê về lao động của Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra quan niệm về người có việc làm như sau: “Người
có việc làm là những người làm một việc gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận
hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động
mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không nhận tiền
công hay hiện vật” [2, tr.5]. Theo pháp luật của Việt Nam quy định tại Khoản 1
Điều 9 Chương 2 của Bộ luật lao động cũng như tại Khoản 2 Điều 3 của Luật việc
làm, đều định nghĩa: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị
pháp luật cấm” [22].

15


Như vậy, việc làm là hoạt động lao động của con người nhằm tạo ra thu nhập
hoặc lợi ích cho bản thân và gia đình mà không bị pháp luật ngăn cấm, bao gồm:
- Việc làm hưởng lương: Những người làm các công việc được trả tiền lương
hoặc tiền công bằng tiền hoặc hiện vật theo hợp đồng lao động (bằng văn bản hoặc
bằng lời nói) với một người khác, tổ chức hoặc doanh nghiệp. Người khuyết tật
thường phải đối mặt với nhiều rào cản để có được việc làm hưởng lương.
- Việc làm tự chủ: Những người làm các công việc tự làm hoặc các công việc
gia đình để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo ra thu nhập cho gia đình nhưng
không được trả công bằng tiền hoặc hiện vật cho các công việc đó. Việc làm tự chủ
là cơ hội kiếm sống chính cho người khuyết tật ở các nước thu nhập thấp.
* Khái niệm tư vấn việc làm
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Tư vấn là đóng góp ý kiến về những vấn đề được

hỏi đến, nhưng không có quyền quyết định” [16, tr.457]. Các hoạt động tư vấn trong
thực tế như tư vấn xây dựng, tư vấn pháp luật, tư vấn việc làm,...
Tư vấn việc làm được xem như là hoạt động cung cấp thông tin về thị trường
lao động, cho lời khuyên về học nghề, về công việc, trợ giúp những khó khăn tâm lí
hay hướng dẫn cho người lao động khi họ có nhu cầu tìm việc làm sau khi học nghề
hoặc chưa xác định được ngành nghề phù hợp để học.
* Khái niệm giới thiệu việc làm
Giới thiệu việc làm là hoạt động trong đó các tổ chức hoặc cá nhân có những
thông tin về chỗ việc làm còn trống và giới thiệu cho người tìm việc đến địa chỉ của
người sử dụng lao động để tìm hiểu và có thể đi đến thỏa thuận về việc làm; hoặc
thông tin về người có nhu cầu làm việc cung cấp cho người sử dụng lao động tiếp
xúc và có thể đi đến những thỏa thuận tuyển dụng [17, tr.32].
* Khái niệm kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật
Theo Từ điển tiếng Việt: “Kết nối là làm cho các phần đang tách rời nối liền
lại, gắn liền lại với nhau” [16, tr.576].
Trong công tác xã hội kết nối là một trong những vai trò quan trọng trong
các hoạt động trợ giúp của nhân viên công tác xã hội, có thể kể đến các hoạt động

16


cụ thể như khai thác, giới thiệu thân chủ tiếp cận tới các dịch vụ, chính sách nguồn
tài nguyên đang sẵn có trong cộng đồng.
Trên thế giới thuật ngữ kết nối học nghề với việc làm được hiểu theo nhiều
cách khác nhau. Như trong báo cáo tại hội nghị của ILO về phục hồi chức năng học
tập và làm việc cho người khuyết tật có đề cập đến việc trợ giúp kết nối học nghề
với việc làm: “các cá nhân, tổ chức, cộng đồng thực hiện các hình thức hỗ trợ khác
nhau nhằm phục hồi chức năng học tập của người khuyết tật từ đó bảo vệ, duy trì,
cải thiện sự tham gia làm việc, giúp người khuyết tật có thể hội nhập, đóng góp cho
xã hội”. [32, tr.4].

Tại Việt Nam, đã hình thành một số khái niệm, quan niệm về kết nối học
nghề với việc làm như Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Toản – Phó Cục trưởng Cục bảo trợ xã
hội đưa ra ý kiến như sau: “kết nối học nghề với việc làm đó là tạo điều kiện thuận
lợi từ phát triển hạ tầng cơ sở cho đến chính sách trợ giúp đối tượng tham gia học
nghề từ đó có được việc làm” [5, tr.8] . Hay theo Luật dạy nghề năm 2006 “giúp
đối tượng có năng lực thực hành nghề phù hợp với khả năng lao động của mình để
tự tạo việc làm hoặc tìm được việc làm, ổn định đời sống”
Kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật trong nghiên cứu này
được tác giả quan niệm là thực hiện các hoạt động nhằm giúp cho người khuyết tật
định hướng được ngành nghề học phù hợp và sau khi học nghề được hỗ trợ các
biện pháp nhằm có thể tìm kiếm việc làm, từ đó có thu nhập, ổn định cuộc sống.
1.2.2. Nguyên tắc hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm đối với người khuyết tật
Mỗi ngành nghề trong xã hội đều có những nguyên tắc hoạt động nhất định.
Nguyên tắc này chính là kim chỉ nam định hướng cho người thực hành nghề nghiệp.
Hoạt động chăm sóc người khuyết tật cũng có những nguyên tắc chung buộc nhân
viên công tác xã hội làm việc với người khuyết tật phải tuân theo [6, tr. 59].
Nguyên tắc thứ nhất, tôn trọng người khuyết tật
Người khuyết tật cũng giống như tất cả những người không khuyết tật khác, họ
cần được tôn trọng trong xã hội. Tôn trọng người khuyết tật là thái độ không phán xét,
không xem thường, miệt thị hoặc quá chú tâm đến sự khuyết tật của họ [6, tr. 59].

17


Bởi vì người khuyết tật thường mặc cảm, tự ti, họ rất nhạy cảm với thái độ, cư
xử của người khác cho nên nhân viên công tác xã hội cần có thái độ chân tình và
mong muốn sâu sắc được giúp đỡ người khuyết tật phát triển, hòa nhập xã hội. Đây
chính là biểu hiện sự tôn trọng của nhân viên công tác xã hội đối với thân chủ.
Nguyên tắc thứ hai, lắng nghe người khuyết tật
Nguyên tắc lắng nghe người khuyết tật thể hiện sự tôn trọng, quan tâm của

nhân viên công tác xã hội đến người khuyết tật, thể hiện khả năng đón nhận và hiểu
những thông điệp mà người khuyết tật truyền đạt. Lắng nghe ở đây có nghĩa là lắng
nghe với một thái độ tích cực để người khuyết tật cảm thấy họ an toàn và được tin
tưởng, đặt ra bên ngoài những định kiến của cá nhân (định kiến về giới tính, địa vị,
tôn giáo, vùng miền, việc làm...). Để lắng nghe người khuyết tật có hiệu quả thì cần
chú ý các yếu tố sau: Tập trung chú ý khi trò chuyện với người khuyết tật; Chú tâm
để hiểu quan điểm và ý nghĩa đằng sau lời nói của người khuyết tật (hiểu thật, hiểu
rõ con người họ); và Phản hồi để hiểu thêm thông tin, ý kiến và cảm xúc của người
khuyết tật [6, tr. 61]. Như vậy, có thể thấy lắng nghe người khuyết tật là một điều
kiện bắt buộc với nhân viên công tác xã hội.
Nguyên tắc thứ ba: trung thực, chân thành với người khuyết tật
Người khuyết tật thường gặp nhiều khó khăn trong việc thỏa mãn các nhu cầu
cũng như sự tự chủ so với người không khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật về trí
tuệ, khuyết tật vận động. Chính vì thế mà nhân viên công tác xã hội cần phải thực
hiện nguyên tắc trung thực, chân thành với người khuyết tật. Việc người khuyết tật
được nhận những thông tin đầy đủ, trung thực giúp họ có thể lường trước được
những khó khăn cũng như điều bất trắc có thể xảy ra với họ, để họ tăng cường giải
pháp đề phòng.
Đây là một số nguyên tắc cơ bản mà nhân viên công tác xã hội cần nắm vững
trong quá trình làm việc với người khuyết tật [6, tr. 62].
Nguyên tắc thứ tư: thỏa hiệp dựa trên sự đồng ý của các bên
Đây là nguyên tắc mà nhân viên công tác xã hội luôn luôn phải nhận thức và
chú trọng trong quá trình làm việc. Bởi thông thường người khuyết tật luôn mong
muốn nhân viên công tác xã hội giúp mình tìm việc làm với những yêu cầu vô lý
18


như công việc nhẹ nhàng, lương cao và điều kiện làm việc tốt, mát mẻ…. thậm chí
trong khi học nghề người khuyết tật còn đòi hỏi phải được nhận lương trong quá
trình đi học.

Tuy nhiên, hơn hết nhân viên công tác xã hội cần phải nêu rõ những yêu cầu
và quyền lợi mà người khuyết tật sẽ được nhận trong quá trình tham gia học nghề
cũng như làm việc. Thỏa hiệp với người khuyết tật trong quá trình hỗ trợ kết nối
học nghề với việc làm chính là hiểu rõ nhất hoàn cảnh, suy nghĩ, cảm xúc, những ưu
và khuyết điểm của người khuyết tật từ đó đề nghị những phương án để luôn tạo
mọi điều kiện thuận lợi giúp người khuyết tật ý thức được về mình và hiểu rõ được
những việc mình sẽ thực hiện, khuyến khích họ nỗ lực khắc phục, vượt qua những
trở ngại họ đang gặp phải để hoàn thành tốt việc học, sẵn sàng tham gia thị trường
lao động.
1.2.3. Nội dung hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm đối với người khuyết tật
Học nghề là hoạt động học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề
nghiệp cần thiết để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn
thành khoá học. Việc làm có thể là lao động chân tay, lao động trí óc hoặc có thể
cả lao động chân tay và lao động trí óc. Kết nối học nghề với việc làm cho người
khuyết tật là kết nối những kiến thức chuyên môn họ đã được học đến với công
việc phù hợp với những kiến thức đó, tạo môi trường để làm việc, phát huy năng
lực và tìm kiếm thu nhập. Người khuyết tật có việc làm hưởng lương thông qua
tuyển dụng của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân; hoặc có việc làm tự chủ
do bản thân người khuyết tật, gia đình người khuyết tật, nhóm người khuyết tật
tổ chức hoạt động sản xuất, dịch vụ, thương mại tự tạo việc làm.
Theo Từ điển Tiếng Việt, từ “hỗ trợ” được giải nghĩa là: “Giúp đỡ lẫn nhau,
giúp đỡ thêm vào” [16, tr.457]. Hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm là các hoạt
động trợ giúp để người khuyết tật có đã được học nghề có thể tìm kiếm được việc
làm. Có nhiều hoạt động hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người lao động
nói chung cũng như cho người khuyết tật nói riêng. Tuy nhiên, trong phạm vi Luận
văn này chỉ tập trung nghiên cứu 3 nội dung hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm
đối với người khuyết tật là: hỗ trợ tư vấn việc làm trước và sau khi học nghề, hỗ trợ
19



giới thiệu việc làm sau khi học nghề, hỗ trợ tìm kiếm nguồn lực để giải quyết việc
làm tại chỗ cho người khuyết tật sau đào tạo.
* Hỗ trợ tư vấn việc làm trước và sau khi học nghề
Trong nhiều trường hợp vì nhiều lý do khác nhau nên người khuyết tật còn e
ngại chưa quyết định xem có nên đi làm hay không. Một số người khuyết tật còn
chưa nắm được thông tin về loại hình công việc và tự kỳ thị về vấn đề khuyết tật
của mình nên e ngại trong các vấn đề việc làm. Hỗ trợ tư vấn việc làm nhằm giúp
người khuyết tật lựa chọn nghề, trình độ đào tạo, nơi học phù hợp với khả năng và
nguyện vọng; lựa chọn công việc phù hợp với khả năng và nguyện vọng; kỹ năng
thi tuyển; tạo việc làm, tìm việc làm. Do đó, hỗ trợ tư vấn việc làm rất quan trọng,
trước hết là để xóa bỏ những mặc cảm khiến người khuyết tật còn chưa muốn tiếp
cận với việc làm, thứ hai là để làm rõ các băn khoăn, thắc mắc cho người khuyết
tật từ đó khích lệ, động viên người khuyết tật về quyền của họ trong các hoạt động
việc làm.
Sau khi được học nghề đây cũng là giai đoạn khó khăn với người khuyết tật
vì họ không biết sẽ làm việc được không, môi trường làm việc như thế nào hay
làm thế nào họ có thể đi làm được. Nhiều vấn đề đặt ra cần sự tư vấn, hướng dẫn
của nhân viên công tác xã hội để họ có thể an tâm tìm kiếm và làm việc như
những người bình thường.
Trên thực tế hoạt động tư vấn việc làm hiện nay còn nhiều hạn chế do việc tư
vấn đòi hỏi sự kiên nhẫn, nhiệt tình và nhiều kiến thức kỹ năng chuyên môn mà
không phải cán bộ nhân viên nào cũng có. Tuy nhiên nếu người khuyết tật không
được tư vấn, không được gỡ bỏ những rào cản về tâm lý và những thiếu hụt về
thông tin thì kể cả họ “được” đi làm thì cũng mang tính chất ép buộc, bị động và sẽ
không duy trì được việc làm lâu dài.
Với các nội dung của hoạt động tư vấn, vai trò của nhân viên xã hội được thể
hiện một cách cụ thể như sau:
- Vai trò người tạo sự thay đổi: Nhân viên xã hội bằng các kiến thức và kỹ
năng chuyên môn sẽ đưa ra những can thiệp để giúp người khuyết tật nhận thức ra


20


vấn đề để có những thay đổi theo chiều hướng tích cực. Cụ thể là ở đây sẽ giúp
người khuyết tật đưa ra quyết định tham gia vào các hoạt động việc làm.
- Vai trò là người tư vấn: Nhân viên xã hội tư vấn, cung cấp thông tin cho
người khuyết tật về các vấn đề việc làm, làm việc với những nhà chuyên môn khác
trong lĩnh vực này để giúp người khuyết tật có được những dịch vụ tốt nhất.
- Vai trò là người tham vấn: Nhân viên xã hội trợ giúp gia đình và cá nhân tự
mình xem xét vấn đề, và tự thay đổi. Ví dụ như nhân viên xã hội tham gia tham vấn
giúp người khuyết tật và gia đình giải quyết các khó khăn về tâm lý, gỡ bỏ những
rào cản để họ có thể tiếp cận được tới dịch vụ hỗ trợ việc làm.
* Hỗ trợ giới thiệu việc làm sau khi học nghề
Sau hoạt động tư vấn việc làm, hoạt động giới thiệu việc làm là công cụ rất
hữu ích để hỗ trợ người khuyết tật có được việc làm. Hỗ trợ giới thiệu việc làm
nhằm giới thiệu người khuyết tật cần tìm việc làm với người sử dụng lao động cần
tuyển lao động. Trên thực tế, tư vấn để người khuyết tật có được tâm thế sẵn sàng
tham gia vào thị trường lao động đã khó. Tuy nhiên việc sau đó giúp họ có được
một công việc phù hợp và ổn định cũng là một thách thức không hề nhỏ vì trên thực
tế ngay cả người bình thường tìm được việc cũng đã khó. Với rất nhiều rào cản còn
đang tồn tại hiện nay thì việc người khuyết tật tự đi xin việc là rất khó khăn đối với
họ. Do đó rất cần thiết phải có một “cầu nối” giữa doanh nghiệp và người khuyết tật
để các bên đến được với nhau.
Để làm được việc này, cán bộ hỗ trợ cần phải nắm chắc được các thông tin
tuyển dụng của các doanh nghiệp, hiểu được những nhu cầu, mong muốn, những
đặc điểm riêng và năng lực của người khuyết tật để có thể giới thiệu họ tìm được
những công việc phù hợp. Trong nhiều trường hợp, ngay cả khi mong muốn của
doanh nghiệp và nhu cầu của người khuyết tật chưa hoàn toàn khớp nhau thì cán bộ
hỗ trợ sẽ giúp khỏa lấp những lỗ hổng đó để người khuyết tật có thể hưởng được
những lợi ích tốt nhất trong vấn đề việc làm.

Với các nội dung của hoạt động giới thiệu việc làm, vai trò của nhân viên xã
hội được thể hiện một cách cụ thể như sau:

21


×