Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đề tài : Các yếu tố ảnh hưởng đến mức cung tiền Việt nam trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.39 KB, 20 trang )

Đề tài:
Phân tích các yếu tố tác động đến mức cung tiền tệ và ảnh hưởng của sự biến
động mức cung tiền đến tổng cầu (tổng chi tiêu dự kiến). Hãy phân tích sự thay đổi
mức cung tiền của Việt Nam trong những năm gần đây và cho biết sự thay đổi này
tác động như thế nào đến sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.


Mục lục:
I.Các yếu tố ảnh hưởng đến mức cung tiền tệ
1.Khái niệm mức cung tiền tệ
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức cung tiền tệ
II.Ảnh hưởng của mức cung tiền đến tổng cầu
1.Ảnh hưởng của mức cung tiền đến chi tiêu đầu tư
2. Ảnh hưởng của mức cung tiền đến chi tiêu tiêu dùng
3. Ảnh hưởng của mức cung tiền đến xuất khẩu ròng
III. Mức cung tiền Việt Nam những năm gần đây
IV. Tác động của sự thay đổi mức cung tiền đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam


Lời mở đầu
Kinh tế học đã chỉ ra rằng, tiền tệ là một phạm trù kinh tế khách quan
gắn liền với sự ra đời và sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Hiểu theo nghĩa
đơn giản nhất, tiền tệ là vật ngang giá chung,là phương tiện thanh toán dùng để
trao đổi hàng hóa dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu con người.
Tiền tệ là phương tiện không thể thiếu trong xã hội hiện tại, bất kỳ ai
cũng đều cần có tiền tệ, dù ít hay nhiều họ đều cần phải có tiền để có thể trang
trải được cuộc sống của mình.
Ở vai trò vĩ mô và thị trường xã hội, không tiền mọi giao dịch sẽ bị ách
động không thể thực hiện được, không có sự lưu hành của tiền tệ trong thị
trường thì mọi giao dịch và trao đổi đồng loạt sẽ bị gián đoạn. Nền kinh tế sẽ bị
lũng đoạn và sự trị trệ cũng như khủng hoảng sẽ kéo đến khi đồng tiền mất giá


hàng loạt vấn đề sẽ phát sinh, giá cả hàng hóa tăng cao, lạm phát xuất hiên và
làm xã hội đi vào thời kì đen tối từ kinh tế đến chính trị.
Vì vậy tiền tệ đóng vai trò rất quan trọng trong cả nền kinh tế vi mô lẫn
vĩ mô. Với vai trò của mình, để ổn định nền kinh tế vĩ mô nhà nước đã tác động
vào cung tiền tệ thông qua chính sách tiền tệ . Sự thay đổi mức cung tiền có tác
động trực tiếp đến lãi suất thị trường của tiền tệ và qua lãi suất tác động đến tiêu
dùng, đầu tư, xuất khẩu hay chính là tổng cầu. Ở Việt Nam, cung tiền trong
những năm qua luôn là một trong các yếu tố tác động đến hiệu quả điều hành
chính sách kinh tế của đất nước
Để hiểu rõ hơn về vai trò, chức năng của tiền tệ và sự ảnh hưởng của các nhân
tố đến mức cung tiền nhóm chúng em xin đưa ra những phân tích sau đây:


I. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CUNG TIỀN TỆ
1. Khái niệm mức cung tiền tệ
Mức cung tiền tệ là lượng tiền được cung ứng nhằm thoả mãn các nhu cầu
thanh toán và dự trữ của các chủ thể trong nền kinh tế. Mức cung tiền phải tương
ứng với mức cầu về tiền tệ. Sự thiếu hụt hay dư thừa của cung tiền tệ so với cầu
đều có thể dẫn tới những tác động không tốt cho nền kinh tế.
Ta có công thức tính mức cung tiền
1+s
MS=

――――*H
s+Ra

trong đó:
H: Tiền cơ sở
s: sự ưa thích tiền mặt
Ra: tỷ lệ dự trữ

2.Các yếu tố ảnh hưởng đến cung tiền tệ
Từ công thức tính mức cung tiền ta có thể thấy rõ các yếu tố ảnh hưởng trực
tiếp đến mức cung tiền là: H, s và Ra. Chúng ta sẽ lần lượt phân tích các tác nhân
gây ra ảnh hưởng đến các yếu tố đó:
Ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng thương mại, nó sẽ giữ
các khoản dự trữ của các ngân hàng thương mại, thực hiện tiến trình thanh toán
cho các ngân hàng thương mại và hoạt động như người cho vay của phương sách
cuối cùng đối với các ngân hàng thương mại trong trường hợp khẩn cấp.
a.

Ngân hàng chính phủ: Ngân hàng trung ương giữ các tài khoản cho chính phủ,
nhận tiền gửi và cho vay đối với kho bạc nhà nước, hỗ trợ chính sách tài khóa của
chính phủ bằng việc mua bán tín phiếu của chính phủ.
Ngân hàng trung ương kiểm soát mức cung tiền tệ để thực hiện chính sách
tiền tệ nhằm ổn định và phát triển kinh tế, hỗ trợ, giám sát và điều tiết hoạt.


Ngân hàng trung ương điều chỉnh mức cung tiền và các tỷ lệ lãi suất bằng
nhiều công cụ khác nhau, nhằm tác động vào lượng tiền mạnh (H) và số nhân tiền
tệ.
Các công cụ quản lý tiền tệ thường dùng của Ngân hàng trung ương là:
+ Hoạt động thị trường mở:
Muốn tăng mức cung tiền ngân hàng trung ương mua trái phiếu ở thị trường
mở. Kết quả là họ đã đưa thêm vào thị trường một lượng tiền cơ sở bằng cách tăng
dự trữ của các ngân hàng thương mại, dẫn đến tăng khả năng cho vay, tăng mức
tiền gửi nhờ số nhân tiền tệ. Kết quả cuối cùng là mức cung tiền đã tăng gấp bội so
với số tiền mua tín phiếu của ngân hàng trung ương. Để có kết quả ngược lại, ngân
hàng trung ương sẽ bán trái phiếu của chính phủ.
+ Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc:

Ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất được phép ra quyết định về tỷ lệ dự
trữ bắt buộc đối với ngân hàng thương mại. Tỷ lệ dữ trữ càng thấp, số nhân tiền
gửi càng lớn là điều kiện thuận lợi để mở rộng tín dụng, tăng nhanh mức cung tiền.
+ Lãi suất chiết khấu:
Lãi suất chiết khấu là lãi suất quy định của Ngân hàng trung ương khi họ cho
Ngân hàng thương mại vay tiền. Khi lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất thị trường
và điều kiện cho vay thuận lợi, sẽ là tín hiệu khuyến khích các Ngân hàng thương
mại vay tiền để tăng dự trữ và mở rộng cho vay, dẫn đến mức cung tiền sẽ tăng lên.
Vì vậy, Ngân hàng trung ương có nhiều khả năng thực tế để ấn định mức cung
tiền theo dự kiến, có thể tăng hoặc giảm bớt nó bằng các công cụ điều tiết của
mình, chủ động thực hiện chính sách tiền tệ đã hoạch định.
Tóm lại, Ngân hàng trung ương tác động vào mức cung tiền tệ thông qua
việc tác động vào tiền cơ sở (H) , tỷ lệ dự trữ bát buộc(Rb) và lãi suất chiết
khấu
b.

Hoạt dộng của các ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại là một một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và môi
giới tài chính.


Hoạt động của nó cũng giống như các môi giới taì chính khác như quỹ tín
dụng,công ti bảo hiểm… Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian, đứng ra thu
nhận tiền của người gửi (doang nghiệp, cá nhân, tổ chức,..)ch là những khoản tiền
để dành cho tương lai hoặc số tiền nhàn rỗi khác trong xã hội để đem cho nhưng
người cần sử dụng trong hiện tại vay. Từ đó ngân hàng sẽ kiếm được lợi nhuận trên
cơ sở lãi suất cho vay lớn lãi suất tiền gửi.
Mỗi một ngân hàng thì sẽ giữ trữ cho mình một khoản tiền gửi cố định (ví dụ
10%). Số tiền này dùng để đảm đảm khả năng chi trả tiền gửi cho khách hàng. Mỗi

ngân hàng thương mại thì sẽ có một tỉ lệ dự trữ khác nhau.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ là:
rb= Rb/ D
Trong đó: rb – tỉ lệ dự trữ bắt buộc
Rb– dự trữ (tiền) bắt buộc
D – tiền gửi
Một khoản tiền gửi mới đưa vào hệ thống ngân hàng sẽ tạo thêm một khoản dự trữ
mới ( ) Và cho phép tạo một lượng tối đa kho↓↓ản cho vay mới. Những khoản cho
vay được đưa trở lại hệ thống ngân hàng, lại trở thảnh những khoản tiền gửi mới
( D) bằng 1/rb.
Tuy nhiên trong thực tế, các ngân hàng thương mại không chỉ dự trữ theo quy định
bắt buộc của NHTW mà thường dự trữ nhiều hơn quy định bắt buộc:
Ra=Rb+Re
Ra: tỷ lệ dự trữ thực tế
Rb: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Re: Tỷ lệ dự trữ bổ sung
Re càng lớn thì Ra càng lớn và làm cho mức cung tiền càng nhỏ
Nhờ có sự phát triển của hệ thống thánh toán ngân hàng đã cho phép ngân hàng
phải lưu trữ quá nhiều thông tin tiền vào, tiền ra ,à hệ thông sẽ tự trừ và cuối ngày


chỉ tổng sự chênh lẹch sữ khoản tiền gửi và tiền rút. Điề này đã mở ra khả năng hạ
thấp mức dự trữ của NHTM, tăng tốc độ thanh toán, đẩy nhanh các hoạt động giao
dịch, sự thanh toán ngân hàng không chỉ diễn ra trong một nước. Sự liên kết giữa
các chi nhánh nước này mở ra ở nước khác và với công nghệ ngân hàng diện đại đã
giúp quá trình thanh toán nhanh gọn và ít rủi ro hơn
Ngân hàng thương mại tác động vào mức cung tiền thông qua tác động vào Re
c.

Sự ưa thích tiền mặt của dân chúng

Dân chúng thường không dự trữ hết tiền trong ngân hàng mà trong
thực tế còn dự trữ một lượng tiền mặt ở ngoài để tiêu dùng, dự phòng
hoặc đầu cơ. Số lượng tiền dự trữ này tùy thuộc vào quan điểm và suy
nghĩ của mỗi cá nhân cũng có khi bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như
lãi suất, thói quen sử dụng tiền mặt,…
1+S
Trong công thức tính MS=m*H , số nhân tiền tệ m=――――
S+Ra
Vì vậy, S cũng góp một phần trong sự thay đổi mức cung tiền.
+ Nếu S tăng thì m tăng→ MS↑
+ Nếu S giảm thì m giảm→MS↓

II.Ảnh hưởng mức cung tiền đến tổng cầu
Tổng cầu




Tổng cầu bao gồm 4 bộ phận cấu thành:
 Chi tiêu tiêu dùng (C): tổng cầu về hàng tiêu dùng và dịch vụ.
 Chi tiêu đầu tư có kế hoạch (I): tức tổng chi tiêu theo kế hoạch của
các hãng kinh doanh về nhà xưởng, máy móc và những đầu vào khác
của sản xuất.
 Chi tiêu của Chính phủ (G).
 Xuất khẩu ròng (NX) tức chi tiêu của nước ngoài ròng về hàng hoá
dịch vụ trong nước.
Tổng cầu bị tác động đồng thời bởi các yếu tố:
 Hiệu ứng của cải
 Hiệu ứng lãi suất
 Hiệu ứng tỉ giá

1.

Ảnh hưởng của mức cung tiền (MS) đối với chi tiêu đầu tư (I)




Thông qua chi phí đầu tư:
 Việc thu hẹp mức cung tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương (NHTW)
sẽ đẩy lãi suất tăng lên, chi phí tài trợ cho các hoạt động đầu tư có thể
tăng lên dẫn tới giảm lượng đầu tư, tổng cầu suy giảm làm giảm sản
lượng và giá

sản lượng & giá
mức cung tiền

lãi suất

MS 

r

đầu tư

tổng cầu

I

AD 


tài trợ đầu tư



Y
P

Ngược lại, khi NHTW mở rộng tiền tệ, lãi suất cân bằng của thị trường giảm
đi, chi phí đầu tư rẻ hơn có thể mở rộng đầu tư, tổng cầu tăng làm tăng sản lượng
và giá cả.



sản lượng & giá
mức cung tiền

lãi suất

tài trợ đầu tư

MS 

r



đầu tư

tổng cầu


I

AD 

Y
P




Thông qua sự có sẵn của các nguồn vốn:
 Khi chính sách tiền tệ là thắt chặt, mức cung tiền giảm, mặc dù lãi
suất có thể thay đổi rất ít nhưng khả năng cho vay của các ngân hàng
có thể giảm (rD tăng).



lãi suất

vay ngân hàng

MS 

r

rD 

Việc hạn chế tín dụng của các ngân hàng thương mại làm cho chi tiêu
đầu tư giảm xuống dẫn tới tổng cầu giảm. Khi NHTW mở rộng tiền tệ
có thể làm tăng khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại, làm

cho chi tiêu đầu tư tăng lên.

Tuy nhiên khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại được mở
rộng không đồng nghĩa với việc nguồn vốn này sẽ được tận dụng
ngay, nó còn tuỳ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.
 Việc hạn chế khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng có tác dụng
tốt hay không còn tuỳ thuộc giới hạn của việc kiểm soát vốn quốc tế.
 Ngoài ra, sự thay đổi của cung tiền tệ có tác dụng đến giá cổ phiếu,
chi tiêu vào thị trường cổ phiếu có thể tăng lên làm tăng giá cổ phiếu;
giá trị ròng của các hãng tăng lên có nghĩa là những người cho vay sẽ
được đảm bảo nhiều hơn cho các khoản vay của mình, như vậy
khuyến khích cho vay để tài trợ cho chi tiêu đầu tư, tổng cầu tăng thúc
đẩy sự gia tăng sản lượng và giá cả.
Thông qua mức cung tiền M2:
 Cung tiền M2 là tổng toàn bộ lượng tiền Việt Nam đồng trong toàn xã
hội của Chính phủ, doanh nghiệp và cá nhân.
 Cuối năm 2014, tổng cung tiền M2 tại Việt Nam ở mức khoảng 5 triệu
tỷ.




mức cung tiền


Theo vietstock.vn





Trong hai năm 2005 và 2006, GDP của Việt Nam tăng trưởng 17% trong khi
đó M2 tăng tới 73%. Trái lại, trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung
Quốc tăng 22% trong khi M2 chỉ tăng có 36%. Tăng trưởng của Việt Nam
thấp hơn của Trung Quốc nhưng tốc độ tăng cung tiền lại cao gần gấp đôi.
Trong giai đoạn 2002-2007, cung tiền tăng liên tục với tốc độ ngày một
nhanh hơn; tại cực điểm trong năm 2007 cung tiền M2 đã đạt mức tăng
trưởng tới 47% /năm. Và ngay sau đó, trong giai đoạn 2008, tốc độ tăng
trưởng cung tiền lại giảm mạnh rồi tăng mạnh vào năm 2009 và 20112. Chi
tiêu tiêu dùng

– Ảnh hưởng đối với lãi suất
Do chi tiêu tiêu dùng hàng lâu bền thường được tài trợ một phần bằng đi vay, do
vậy lãi suất thấp hơn sẽ khuyến khích người tiêu dùng tăng chi tiêu tiêu dùng lâu
bền. Sự ảnh hưởng của tiền tệ tới tổng cầu như sau:

ng tương tự như đối với ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư, sự ảnh hưởng của lãi suất
đến chi tiêu tiêu dùng lâu bền có thể là nhỏ.
– Ảnh hưởng đến thị trường cổ phiếu


Chi tiêu tiêu dùng cho hàng hoá lâu bền và dịch vụ của dân cư phụ thuộc rất
lớn vào thu nhập cả đời của họ chứ không phải chỉ là thu nhập hiện tại. Khi giá cổ
phiếu tăng lên, giá trị tài sản tài chính tăng lên làm thu nhập cả đời của người tiêu
dùng và tiêu dùng sẽ tăng.
Cơ chế tác động này như sau:
M
ặt khác, khi giá cổ phiếu tăng, giá trị các tài sản tài chính tăng, người tiêu dùng có
khả năng tài chính đảm bảo hơn sẽ đánh giá những khó khăn tài chính ít xảy ra
hơn. Việc chi tiêu về hàng hoá lâu bền của người tiêu dùng bị ảnh hưởng bởi
những khó khăn tài chính có thể xảy ra trong tương lai. Khi những khó khăn này

xảy ra, họ sẽ phải bán các tài sản của mình để tăng thêm tiền mặt, việc bán các tài
sản tài chính như cổ phiếu sẽ thuận lợi cho việc bán các hàng hoá tiêu dùng lâu bền
như vật dụng tiêu dùng, phương tiện đi lại, nhà ở…Do vậy giá cổ phiếu tăng có thể
khuyến khích người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn cho hàng tiêu dùng lâu bền. Cơ
chế tác động sẽ là :

3.Xuất khẩu ròng
Trong bối cảnh nền kinh tế mở của các quốc gia và việc áp dụng chế độ tỷ giá
thả nổi, sự ảnh hưởng này thông qua tác động vào tỷ giá hối đoái. Khi lãi suất
trong nước giảm (lạm phát chưa thay đổi) tiền gửi bằng nội tệ sẽ kém hấp dẫn hơn
so với tiền gửi ngoại tệ, kết quả là nhu cầu về ngoại tệ cao hơn so với nội tệ làm
cho giá đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ và làm cho hàng nội địa rẻ hơn so với
hàng ngoại, xuất khẩu ròng tăng lên và vì vậy tổng cầu tăng lên. Cơ chế tác động
này được tóm tắt:

Như vậy: Sự thay đổi của mức cung tiền tệ có tác động tới các hoạt động
kinh tế thông qua các tác động tới những bộ phận của tổng cầu như chi tiêu


đầu tư, chi tiêu tiêu dùng, xuất khẩu ròng. Tuy nhiên sự tác động này mạnh hay
yếu còn tuỳ thuộc vào sự phản ứng của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế đang trong
giai đoạn phát triển và linh hoạt thì chính sách tiền tệ có hiệu quả lớn hơn.
Trong trường hợp nền kinh tế trì trệ, các nguồn tài chính được tạo ra có thể
không được tận dụng đầy đủ và chính sách tiền tệ ít có hiệu lực hơn.
III. Sự thay đổi mức cung tiền của Việt Nam trong những năm gần đây
từ 2010 đến 2016
Trong những năm gần đây tốc độ tăng cung tiền ở nước ta đã có những dấu
hiệu tích cực nhờ vào những nỗ nực kiểm soát của ngân hàng trung ương.
Năm
2010

2011
2012
2013
2014
2015
2016

Mức cung tiền( đv. Tỷ đồng)
2,789,184
3,125,961
3,519,375
4,400,692
5,179,216
5,528,083
6,309,523

Ta có thể hình dung sự tăng lên nhanh chóng của mức cung tiền qua biểu đồ
sau đây:
Năm 2010, tốc độ tăng cung tiền lên đến 33%, tốc độ tăng còn tiếp tục trong
những năm tiếp theo gây ra tình trạng lạm phát cao, mức đỉnh vào năm 2011 là
18,13 %.
Để khống chế mức lạm phát và hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ngân
hàng trung ương đã thực hện chính sách tài khóa chặt tuy mức cung tiền vẫn tiếp
tục tăng trong năm 2012 và 2013 nhưng tình trạng lạm phát đã giảm đáng kể .Nếu
lạm phát của năm 2012 là 6,81% thì lạm phát của năm 2013 chỉ ở mức 6,04% mức thấp nhất trong vòng 10 năm trở về trước. Cuối 2014 tổng cung tiền ở mức
khoảng 5 nghìn tỷ
Chỉ tiêu/Năm

2010


2011

2012

2013

2014

2015

2016

M2( %)

33,3

12,5

22,38

18,5

17,69

6,73

14,14


Tình hình tăng mức cung tiền M2

Tốc độ tăng cung tiền cuối năm 2015 chạm ngưỡng 6 nghìn tỷ và tốc độ tăng
còn nhanh hơn nữa trong năm 2016
IV.Tác động sự thay đổi mức cung tiền đén tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Cung tiền là một trong những công cụ của Ngân hàng Nhà nước nhằm duy
trì ổn định kinh tế vĩ mô.
Với việc vận dụng các kiến thức về cung tiền từ đó đưa ra các chính sách tiền
tệ cá điều hành tiền tệ thận trọng, linh hoạt và có nhiều đổi mới sáng tạo đã truyền
dẫn hiệu quả đến nền kinh tế. Kết quả đó được thể hiện rõ nét qua từng năm với
những dấu ấn đáng ghi nhận, cụ thể:
Chỉ tiêu/Năm

2010

2011

2012

2013

2014

Lạm phát

11,8

18,13

6,81

6,04


7

Tăng trưởng

6,78

6,24

5,25

5,42

5,8

M2( %)

33,3

12,5

22,38

18,5

17,69

Tín dụng

31,19


14,45

8,91

12,5

2015

2016

6,73

14,14

Diễn biến tăng trưởng, lạm phát, M2 và tín dụng (2010-2016) Đơn vị: %

1.

Tốc độ tăng trưởng GDP

Giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng GDP bình quân năm ước đạt 5,88% và là
mức tăng thấp nhất kể từ năm 2000 tới nay (giai đoạn 2006-2010, tăng trưởng bình
quân đạt 7% , giai đoạn 2001-2005 là 7,51%)
Nhờ tăng lượng cung tiền làm cho tổng cầut ăng lên và theo đó là sự tăng lên
của GDP
2.

Tỷ lệ lạm phát được kiềm chế, giảm đều và hiện đang ở mức thấp



Tỷ lệ lạm phát sau khi tăng cao trong nửa đầu năm 2011 đã giảm xuống và
diễn biến ổn định cho tới nay. Cụ thể, từ mức đỉnh 18,13% năm 2011 xuống còn
6,81% năm 2012, 6,04% năm 2013 và dưới 2% giai đoạn 2014-2015. Ngoài ra,
tăng trưởng cung tiền và tín dụng kể từ năm 2012 đến nay không tạo áp lực tăng
lạm phát như những thời kỳ trước đó do đã được tập trung hướng vào các lĩnh
vực sản xuất trọng tâm của nền kinh tế
Từ năm 2011 đến nay, NHNN đã điều hành quyết liệt, chủ động và đồng bộ
các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết lượng tiền cung ứng phù hợp với mục
tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức
hợp lý. Theo đó, kỷ luật, kỷ cương thị trường được củng cố vững chắc, thanh
khoản của toàn hệ thống từng bước được ổn định và đảm bảo an toàn; thị trường
tiền tệ ổn định và thông suốt;
Lãi suất nhanh chóng hạ nhiệt, hỗ trợ hợp lý cho khu vực sản xuất
Nhờ vào việc tăng cung tiền mức lãi suất cho vay trở lên thấp hơn đó là một
thuận lợi cho việc mở rộng sản xuất
3.

Tính cho đến thời điểm hiện tại, mặt bằng lãi suất cho vay trung và dài hạn
bằng khoảng 47% so với cuối năm 2011 và tương đương mức lãi suất của giai
đoạn 2005-2006 (giai đoạn kinh tế phát triển ổn định), góp phần hỗ trợ giảm chi
phí vốn vay của doanh nghiệp và hộ dân. Với những nỗ lực trong công tác điều
hành lãi suất, chỉ trong thời gian ngắn, lãi suất cho vay đã giảm hơn một nửa, từ
20%/năm (thậm chí 24%/năm) xuống chỉ còn 9%-11% và còn khoảng 6,5%/năm
đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Bên cạnh các khoản vay mới với lãi suất thấp, NHNN cũng yêu cầu các
TCTD đưa lãi suất của các khoản vay cũ về mức 15%/năm và sau đó là 13%/năm,
góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và tạo điều kiện giải phóng kênh tín
dụng.
Bên cạnh đó, lãi suất cho vay USD cũng được điều hành giảm ổn định theo

hướng không để tồn tại khoảng cách chênh lệch đáng kể với lãi suất cho vay VND,
hiện lãi suất cho vay USD ngắn hạn ở mức 3%-5,5% và dài hạn từ 5,5%-6,7%.
Có thể nói, với mặt bằng lãi suất hiện nay đã góp phần làm giảm giá thành sản
phẩm, tăng thêm khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp trên thị
trường và bước đầu đã tháo gỡ hàng tồn kho để chuẩn bị chu kỳ sản xuất
4.

Tăng trưởng kinh tế tổng phương diện thanh toán


Thể hiện rõ xu thế phục hồi, tính chung trong cả giai đoạn duy trì ở mức
khá, chất lượng được cải thiện Bình quân giai đoạn 20112015, tốc độ tăng trưởng
kinh tế ước đạt khoảng 5,91%, mặc dù thấp hơn so với giai đoạn 2006-2010,
nhưng đặt trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nhiều
Bình quân giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt khoảng
5,91%, mặc dù thấp hơn so với giai đoạn 20062010, nhưng đặt trong bối cảnh nền
kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và kinh tế thế giới thường
xuyên xuất hiện nhiều nhân tố bất lợi thì đây vẫn là mức tăng tương đối tốt. Hơn
thế nữa, xu hướng phục hồi kinh tế ngày càng rõ nét kể từ năm 2013, tốc độ tăng
trưởng năm sau cao hơn năm trước. Tăng trưởng năm 2015 đạt 6,68%, vượt mục
tiêu đề ra là 6,2% và là mức cao nhất trong cả giai đoạn 2011-2015; trong đó, công
nghiệp và xây dựng với tốc độ tăng 9,64% là ngành đóng góp nhiều nhất vào tăng
trưởng năm 2015. Bên cạnh đó, GDP bình quân đầu người cũng tăng hơn 40%, từ
1.532 USD/người năm 2011 lên 2.171 USD/người năm 2015, trong bối cảnh lạm
phát được duy trì ở mức thấp đã góp phần nâng cao mức sống thực tế của người
dân.
Trên thị trường tiền tệ, lãi suất được điều hành linh hoạt, về cơ bản phù hợp
với diễn biến kinh tế vĩ mô và tiền tệ, đặc biệt là diễn biến lạm phát trong từng thời
kỳ. Sau một số năm lãi suất tăng cao do thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để
kiềm chế lạm phát, từ năm 2012 đến nay mặt bằng lãi suất huy động đã giảm

mạnh, tạo điều kiện cho việc tiếp cận vốn của khu vực doanh nghiệp thuận lợi hơn.
Bên cạnh đó, tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế giảm đáng kể nhờ thực hiện
đồng bộ các chính sách khác nhau (duy trì chính sách lãi suất thấp đối với tiền gửi
ngoại tệ, thắt chặt các biện pháp quản lý ngoại hối phù hợp). Tỷ lệ tiền gửi ngoại
tệ/tổng phương tiện thanh toán cuối năm 2014 giảm xuống còn khoảng 10,88%
(cuối năm 2011 là 15,8%, cuối năm 2012 là 12,36%) và dự báo năm 2015 còn
khoảng 9-10%
Tăng trưởng đầu tư của Việt Nam (theo giá so sánh năm 2010) giai đoạn
2011 - 2014 chỉ đạt 3,85%, thấp hơn đáng kể so với giai đoạn trước đó (giai đoạn
2006 - 2010 đạt 13,42%) do tác động không thuận lợi của kinh tế trong nước và
quốc tế. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt khoảng 31,7% GDP, thấp hơn so với
mục tiêu đã được Quốc hội thông qua đầu nhiệm kỳ (là 33,5% đến 35%). Năm
2015, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo giá hiện hành ước tăng 12%,
tương đương 32,6% GDP và vượt kế hoạch đề ra.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, vốn FDI thực hiện đạt 59,96 tỷ USD, vốn cấp
mới và tăng thêm đạt 96,39 tỷ USD, đều vượt mục tiêu đã đề ra (mục tiêu kế hoạch


giai đoạn 2011-2015 là 57,3 - 58 tỷ USD vốn thực hiện, vốn cấp mới và tăng thêm
là 86 tỷ USD) nhờ nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là trong
lĩnh vực thuế, phí và hải quan...
Cơ cấu thu chi ngân sách đã có những chuyển biến tích cực theo hướng bền
vững hơn. Trong thu ngân sách, tỷ trọng thu nội địa đã tăng từ 58% giai đoạn
2006-2010 lên khoảng 68% giai đoạn 2011-2015, đến năm 2015 ước chiếm
khoảng 74% tổng thu NSNN. Trong khi đó, sự phụ thuộc vào nguồn thu từ dầu
thô, thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đang có xu hướng giảm dần.
Trong cơ cấu thu nội địa, nguồn thu từ sản xuất kinh doanh đã trở thành nguồn thu
giữ vai trò quan trọng của NSNN
Thị trường chứng khoán tiếp tục phát triển theo hướng ổn định và tích cực
hơn so với giai đoạn trước đó. Các quy định về tái cấu trúc 4 trụ cột của thị trường

chứng khoán là cơ sở hàng hóa, cơ sở nhà đầu tư, tổ chức kinh doanh chứng khoán
và hệ thống thị trường ngày càng được hoàn thiện. Năm 2015, mức vốn hoá TTCK
tính đến ngày 31/12 đạt khoảng 1,3 triệu tỷ đồng (ước đạt 31% GDP của năm
2015), tăng 16% so với cuối năm 2014; dư nợ thị trường trái phiếu tăng khoảng
2,19 lần, lên mức 23,7% GDP; thanh khoản thị trường được cải thiện; số lượng nhà
đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư có tổ chức tăng mạnh; năng lực và tính chuyên
nghiệp trên thị trường được nâng cao... Đồng thời, quy mô và vai trò của thị trường
bảo hiểm được nâng cao, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm được
tăng cường, số lượng sản phẩm phát triển đa dạng. Giai đoạn 2011 - 2015, doanh
thu toàn thị trường ước tăng trung bình 17%/năm (đến năm 2015, tương đương
khoảng 2% GDP); tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế tăng bình quân khoảng
16,5%/năm, đạt 152.543 tỷ đồng, tăng gấp 1,93 lần năm 2010
.
5.

Tăng trưởng tín dụng hợp lý, đạt được mục tiêu điều hành, phù hợp với tốc
độ tăng trưởng kinh tế hàng năm.


Nếu như trong năm 2011, NHNN phải nhanh chóng áp dụng các chính
sách chặt chẽ để kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức cao trên 30% xuống
còn trên 14% để hỗ trợ công tác kiểm soát lạm phát, thì ngay trong năm 2012 khi
tăng trưởng tín dụng có dấu hiệu "ngưng trệ" ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế,
NHNN đã nhanh chóng thay đổi mục tiêu điều hành theo hướng tăng trưởng tín
dụng nhưng thận trọng. Điều này nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, song
phải theo nguyên tắc đảm bảo chất lượng tín dụng, hạn chế phân bổ vốn vào khu
vực không khuyến khích có nguy cơ gây ra lạm phát cao và tăng trưởng thiếu bền
vững trong tương lai. Nhờ đó, tăng trưởng tín dụng đã có sự phục hồi qua các năm,
cụ thể: năm 2012 là 8,85%; năm 2013 là 12,51%; năm 2014 là 14,16%; 6 tháng
đầu năm 2015 tăng 7,83%. Trong giai đoạn này, tín dụng tăng bình quân khoảng

13%/năm, thấp hơn so với mức tăng bình quân 33,3%/năm giai đoạn 2006-2010,
nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn đạt mức hợp lý.
Ngoài ra, cơ cấu tín dụng có sự chuyển hướng tích cực sang các lĩnh vực ưu
tiên theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, tốc độ tăng trưởng tín dụng trong các lĩnh
vực ưu tiên trong giai đoạn 2012–2015 nhìn chung cao hơn so với tốc độ tăng
trưởng chung của toàn ngành, như: nông nghiệp nông thôn có tốc độ tăng trưởng
bình quân tín dụng giai đoạn 2011–2014 đạt 15%/năm; Doanh nghiệp ứng dụng
công nghệ cao, tăng trên 20%/năm; Công nghiệp ưu tiên phát triển tốc độ, tăng xấp
xỉ 12%. Sự chuyển hướng tích cực của cơ cấu tín dụng như vậy đã góp phần quan
trọng vào việc thực hiện mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế .
6.

Tỷ giá và thị trường ngoại hối ổn định góp phần cải thiện cán cân thanh toán
tổng thể, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, nâng cao vị thế đồng tiền Việt
Nam, hỗ trợ tích cực cho lộ trình chống đô la hóa


Nhu cầu ngoại tệ hợp lý, hợp pháp của doanh nghiệp và cá nhân được các
TCTD đáp ứng đầy đủ do các nguồn ngoại tệ được tập trung vào hệ thống các
TCTD. Nếu như trước đây tỷ giá thường xuyên biến động, ảnh hưởng không tốt
đến tâm lý của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thì từ cuối năm 2011 đến nay,
điều hành tỷ giá đã luôn nằm trong định hướng chỉ đạo của NHNN. Chênh lệch tỷ
giá của thị chính thức và thị trường tự do thu hẹp đáng kể. Trong diễn biến của thị
trường, những xáo trộn xuất hiện chủ yếu do yếu tố tâm lý và đã nhanh chóng ổn
định sau các biện pháp đồng bộ của NHNN, vị thế và lòng tin vào đồng Việt Nam
ngày càng được củng cố.
Đáng kể là tình trạng đô la hóa đã giảm mạnh, tỷ lệ giữa tiền gửi ngoại
tệ/tổng phương tiện thanh toán giảm từ trên 30% trong những năm 1990 xuống
15,8% cuối năm 2011, đến nay còn khoảng 12%; Cán cân thanh toán tổng thể, đặc
biệt là các cân thương mại đã thặng dư trở lại sau nhiều năm nhập siêu; Lượng kiều

hối gia tăng mạnh trở lại từ cuối năm 2011; Dự trữ ngoại hối nhà nước gia tăng;
NHNN đã mua được một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước,
góp phần tăng tiềm lực tài chính và uy tín của quốc gia trên trường quốc tế. Bên
cạnh đó, diễn biến lạm phát có xu hướng giảm tốc đã giúp ổn định tâm lý thị
trường, kỳ vọng về sự giảm giá VND được hạn chế, khắc phục phần nào hiện
tượng găm giữ đầu cơ ngoại tệ trong giai đoạn trước.

Kết luận:
Với những phân tích ở trên về sự tác động của các yếu tố đến mức cung tiền
tệ và ảnh hưởng của sự biến động mức cung tiền đến tổng cầu chúng ta có thể thấy
được vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng của mức cung tiền, tổng cầu đối với sự
phát triển của nền kinh tế nước ta. Để từ đó nhà nước có thể đưa ra được những
chính sách phù hợp trong mỗi hoàn cảnh cụ thể giúp nền kinh tế định hướng
đúng ,luôn ổn định và tăng trưởng qua mỗi giai đoạn.
Trong bối cảnh quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng và sự phát triển
không ngừng nghỉ của nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thì sự


cần thiết của những chính sách vĩ mô đối với mức cung tiền càng được khẳng định
hơn nữa và chắc chắn rằng trong thời gian tới mức cung tiền tệ của Việt Nam sẽ
đóng ghóp một vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển đất nước và từng
bước giúp đất nước ta ta nâng cao được vị thế của mình trong mắt bạn bè quốc tế
về nhiều mặt .
Mặc dù nhóm chúng em đã rất cố gắng tuy nhiên bài thảo luận không thể
tránh khỏi những thiếu sót, nhóm chúng em rất mong nhận được những đóng góp ý
kiến từ phía cô, các nhóm cùng đề tài thảo luận cũng như các nhóm khác trong lớp.
Nhóm 4 xin chân thành cảm ơn!




×