Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.81 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………….
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
I. Những lý luận chung về đầu tư phát triển………………………………
1. Khái niệm chung về đầu tư…………………………………………………...
2. Khái niệm về đầu tư phát triển……………………………………………….
3. Phân loại đầu tư phát triển……………………………………………………
4. Đặc điểm của đầu tư phát triển……………………………………………….
5. Vai trò của đầu tư phát triển………………………………………………….

II. Những lý thuyết chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:........................
1. Khái niệm cơ cấu kinh tế...............................................................................
2. Phân loại cơ cấu kinh tế................................................................................
3. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế...........................................................
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.................
5. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch của nó.................................
III. Tác động của đầu tư đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:............................
1.Đầu tư là tác nhân thiết yếu dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế................
2. Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư tác động tới chuyển dịch
cơ cấu kinh tế..............................................................................................................
2.1. Các chỉ số đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế...........................................
2.2. Các hệ số đánh giá tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế......


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ
ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TẠI BÌNH ĐỊNH
I. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Bình Định...............................
1. Xét theo ngành kinh tế.
2. Xét theo thành phần kinh tế.
3. Xét theo vùng lãnh thổ.


II Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại Bình Định………...
1. Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế…….
2 .Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu theo các thành phần
kinh tế…………………………………………………………………………………..
3. Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế………….
III- Đánh giá kết quả và hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế do tác
động của đầu tư tại Bình Định………………………………………………………….
1. Đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành……………………………...
2. Đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ…………………………………
3. Đầu tư với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế…………………….

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÁC ĐỘNG
CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ..................................
I. Đối với cơ cấu kinh tế theo ngành..................................................................
II. Đối với cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ ...................................................
III. Đối với cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế...........................................

LỜI NÓI ĐẦU


Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT) là một yêu cầu tất yếu trong quá trình
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta hiện nay, vì để xây dựng và phát
triển một nền kinh tế ổn định, vững chắc, với tốc độ nhanh đòi hỏi phải xác định được
một CCKT hợp lý, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các ngành kinh tế quốc dân,
giữa các vùng lãnh thổ và giữa các thành phần kinh tế. CCKT có ý nghĩa thiết thực
trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển đa dạng, năng động, phát huy các lợi thế, tiềm
năng về nguồn nhân lực, vật lực và tài lực. Cơ cấu kinh tế (CCKT) quốc dân có nhiều
loại và tùy theo mục đích nghiên cứu, quản lý có thể xem xét dưới các góc độ khác
nhau. Nhưng dù thuộc loại nào, CCKT quốc dân cũng là sản phẩm của phân công lao
động xã hội, nó được biểu hiện cụ thể dưới hai hình thức cơ bản nhất là phân công lao

động theo ngành và phân công lao động theo lãnh thổ.
Hiện nay, cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, lĩnh vực đầu
tư ngày càng được chú trọng và phát triển, kể cả đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài. Nhờ đó, nền kinh tế có đà tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tiếp, đồng thời
Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực.
Vậy tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế như thế nào, thông qua
những chính sách gì, thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả tác động của đầu tư đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ra sao… Đề tài này sẽ làm rõ thêm những vướng mắc còn
tồn tại. Do chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế nên chắc chắn đề tài còn gặp nhiều thiếu
sót, mong cô và các bạn góp ý để đề tài của nhóm sẽ ngày càng hoàn thiện hơn!

CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ.


I. Những lý thuyết chung về đầu tư phát triển:
1. Khái niệm chung về đầu tư:

Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai, lớn hơn các nguồn lực
đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của các công cuộc đầu tư là đạt
được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh
chịu khi tiến hành đầu tư.
2. Khái niệm về đầu tư phát triển:

Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bả của đầu tư, là hoạt động sử dụng vốn trong
hiện tại, nhằm tạo ra những tài sản vật chất và trí tuệ mới, năng lực sản xuất mới và duy
trì những tài sản hiện có, nhằm tạo ra việc làm và vì mực tiêu phát triển.
Mục đích của đầu tư phát triển là sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia, cộng
đồng và nhà đầu tư. Do đó, ở góc độ vĩ mô, đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp

phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội. Ở góc
độ vi mô, đó là tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh
và chất lượng nguồn nhân lực… Hình thức đầu tư này đóng vai trò quan trọng đối với
tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế tại mỗi quốc gia.
3. Phân loại đầu tư:

Có thể phân loại đầu tư phát triển theo các tiêu chí sau:
-

Theo bản chất của các đối tượng đầu tư, gồm có :
+ Đầu tư cho các đối tượng vật chất như: Đầu tư cho tài sản vật chất

hoặc tài sản thực như nhà xưởng , máy móc thiết bị,…
+ Đầu tư cho các tài sản chính: cổ phiếu, trái phiếu…
+ Đầu tư cho đối tượng phi vật chất như: Đầu tư vào trí tuệ và nguồn nhân lực, nghiên

cứu khoa học…
Theo tính chất và quy mô đầu tư:
+ Đầu tư phát triển chia thành đầu tư theo các dự án quan trọng cấp quốc gia, dự án nhóm
A, B, C.Tùy theo tính chất và quy mô đầu tư của dự án mà phân thành dự án quan trọng


cấp quốc gia, dự án nhóm A, B, C, trong đó dự án quan trọng cấp quốc gia do Quốc hội
quyết định, dự án nhóm B do Thủ tướng Chính phủ quyết định, dự án nhóm B, C do Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương quyết định.
Theo lĩnh vực hoạt động của các kết quả đầu tư:
Có thể phân chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật và
xã hội)…

Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư:
+ Đầu tư cơ bản : nhằm tái sản xuất các tài sản cố định.
+ Đầu tư vận hành : nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất kinh doanh
-

dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu đông cho các cơ sở hiện có, duy trì hoạt
-

động của cơ sở vật chất – kỹ thuật không thuộc các doanh nghiệp.
Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đâu tư trong qua trình tái sản xuất xã hội,

bao gồm:
+ Đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của
các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, vốn vận động nhanh, độ mạo hiểm thấp
do trong thời gian ngắn tính bất định không cao, lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ
chính xác cao.
+ Đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn (5;10;20 năm hoặc lâu hơn), vốn đầu tư lớn, thu
hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, vì tính kỹ thuật của đầu tư
phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tuơng lai không thể dự
đoán hết và dự đoán chính xác được.
- Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư, bao gồm :
+ Đầu tư dài hạn là việc đầu tư xây dựng các công trình đòi hỏi thời gian đầu tư kéo dài,
khối lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lớn lâu. Đó là các công trình thuộc lĩnh vực
sản xuất, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng… Đầu tư dài hạn
thường chứa đựng những yếu tố khó lường, rủ ro lớn, do đó, cần có những dự báo dài
hạn, khoa học.


+ Đầu tư ngắn hạn là loại đầu tư tiến hành trong một thời gian ngắn, thường do những


chủ đầu tư it vốn thực hiện, đầu tư vào những hoạt động nhanh chóng thu hồi vốn. Tuy
nhiên, rủi ro đối với hình thức đầu tư này cũng rất lớn.
Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, bao gồm :
+ Đầu tư gián tiếp: trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá
trình thức hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Người có vốn thông qua các tổ chức tài
chính trung gian để đầu tư phát triển. Đó là việc các chính phủ thông qua các chương
trình tài trợ không hoàn lại hoặc cá hoàn lại với lãi suất thấp cho các chính phủ của các
nước khác vậy để phát triển kinh tế xã hội; là việc các cá nhân, các tổ chức mua các
chứng chỉ có giá trị như cổ phiếu, trái phiếu…để hưởng lợi tức (gọi là đầu tư tài chính).
Đấu tư gián tiếp là phương thức huy động vốn cho đầu tư phát triển.
+ Đầu tư trực tiếp: Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư, trong đó người bỏ vốn trực tiếp
tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực
tiếp được thực hiện bởi người trong nước và cả nước ngoài. Do vậy, việc cân đối giữa
hai luồng vốn đầu tư ra và vào và việc coi trọng cả hai luồng vốn này là hết sức cần
thiết. Hoạt động của đầu tư trực tiếp được chia thành: đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát
triển.
• Đầu tư dịch chuyển là một phương thức của đầu tư trực tiếp trong đó quá trinh đầu tư
chỉ làm dịch chuyển quyền sở hữu giá trị tài sản mà không làm gia tăng giá trị vằ năng
lực sản xuất phục vụ của tài sản.
• Đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp trong đó quá trình đầu tư làm
gia tăng giá trị và năng lực sản xuất, năng lực phục vụ của tài sản. Thông qua hành vi
đầu tư này, năng lực sản xuất và năng lực phục vụ của nền kinh tế cũng gia tăng.
Chính sự điều tiết của bản thân thị trường và các chính sách khuyến khích đầu tư
của nhà nước sẽ hướng việc sử dụng vốn của các nhà đầu tư theo định hướng của nhà
nước, từ đó tạo nên được một cơ cấu đầu tư phục vụ cho việc hình thành cơ cấu kinh tế
hợp lý.
-

Theo nguồn vốn trên phạm vi quốc gia, gồm có :



+ Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước: các hoạt động đầu tư được tài trợ tư nguồn vốn tích

lũy của ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư.
+ Đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài: hoạt đông đầu tư được thực hiện bằng các nguồn
vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp nước ngoài.
Cách phân loại này có tác dụng chỉ rõ vai trò từng nguồn vốn trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội đất nước. Trong đó, phải thống nhất quan điểm: vốn trong nước là
quyết định, vốn đầu tư nược ngoài là quan trọng.
Theo vùng lãnh thổ:
Chia thành đầu tư phát triển của các vùng lãnh thổ, các vùng kinh tế trọng điểm,
-

đầu tư khu vực thành thị và nông thôn… Cách phân chia này phản ánh tình hình đầu tư
của từng tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển
kinh tế - xã hôi ở từng địa phương. Ngoài ra, trong thực tế, để đáp ứng yêu cầu quản lý
và nghiên cứu kinh tế người ta còn phân chia đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo quy mô
và theo các tiêu thức khác nữa.
4. Đặc điểm của đầu tư phát triển:

4.1.

Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát

triển thường rất lớn:
Vốn đầu tư lớn lại nằm khuê đọng trong suốt quá trình đầu tư. Quy mô đầu tư lớn
đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lí, xây dựng các chính sách, quy
hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lí chặc chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn thoa tiến
đọ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm.
Lao động cần sử dụng cho các dự án lớn đặc biệt đối với các trọng điểm quốc gia.

Đo đó công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ cần tuân thủ một kết hoạch
định trước sao cho đáp ứng tót nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng
thời hạn chế mức thấp nhất những ảnh hưỡng tiêu cực do vấn đề hậu dự án tạo ra việc
bố trí lại lao động giải quyết lao động dôi dư...
a. Thời kì đầu tư kéo dài:


Thời kỳ đầu tư được tính từ khi khởi công thực hiện dự án cho đến khi dự án
hoàn thành và đưa vào hoạt động. Do quy mô các dự án đầu tư thường rất lớn nên thời
gian hoàn thành các dự án thường tốn rất nhiều thời gian, có khi tới hàng chục năm như
các công trình thuỷ điện, xây dựng cầu đường...
Thời gian thực hiện các dự án đầu tư dài kéo theo sự ảnh hưởng đến tiến độ
nghiệm thu công trình và đưa vào sử dụng, do đó có thể làm giảm hiệu quả đầu tư, thời
gian thu hồi vốn chậm.Thời gian đầu tư càng dài thì rủi ro cũng như chi phí đầu tư lại
càng lớn, hơn nữa, nó còn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do
vốn lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu
quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung
hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch vốn
đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhằm hạn
chế thấp nhất những mặt tiêu cực có thể xảy ra trong thời kỳ đầu tư.
b. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài:

Thời gian vận hành các kết quả đầu tư được tính từ khi đưa vào hoạt động cho
đến khi hết hạn sử dụng và đào thải công trình. Trong quá trình vận hành các kết quả
của đầu tư phát triển chịu tác động cả hai mặt, tích cực và tiêu cực của nhiêù yếu tố tự
nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội... Do đó, yêu cầu đặt ra đối với công tác đầu tư là rất
lớn, nhất là về công tác dự báo về cung cầu thị trường sản phẩm đầu tư trong tương lai,
quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa thành quả đầu tư đưa vào sử dụng,
hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình, chú ý
đến cả độ trễ thời gian trong đầu tư. Đây là đặc điểm có ảnh hưởng rất lớn đến công tác

quản lý hoạt động đầu tư.
c. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng

thường phát huy tác dụng ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá trình thực
hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của
các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng:


Hoạt động đầu tư phát triển cần phải quán triệt các đặc điểm này trên một số nội
-

dung sau:
Cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng. Đầu tư cái gì, công suất bao

-

nhiêu là hợp lí ... cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, dựa trên những căn cứ khoa học
Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lí. Để lựa chọn địa điểm đầu tư đúng phải dựa trên căn
cứ khoa học dựa vào một số hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường,
văn hóa…Cần xây dựng một số tiêu chí khác nhau và nhiều phương án so sánh để lựa

chọn vùng lãnh thỗ và địa điểm đầu tư hợp lí nhất.
d. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao:
Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết
quả đầu tư cũng kéo dài... nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường rất
cao. Rủi ro đầu tư có nhiều nguyên nhân:
-

Nguyên nhân chủ quan: từ các nhà đầu tư như quản lí kém, chất lượng sản phẩm không


-

đạt yêu cầu..
Nguyên nhân khách quan: giá nguyên vật liệu tăng. Giá bán sản phẩm giảm, công suất
sản xuất không đạt...
Như vậy, để quản lí hoạt động đầu tư phát triển hiệu quả, cần phải thực hiện các
biện pháp quản lí rủi ro bao gồm:
Nhận diện rủi ro đầu tư.
Đánh giá mức độ rủi ro.
Xây dựng các biện pháp phòng và chông rủi ro.
Vai trò của đầu tư phát triển:
 Đối với nền kinh tế:
Tác động đến tổng cầu của nền kinh tế
Tác động đến tổng cung của nền kinh tế
Tác động đến tăng trưởng kinh tế
Tác động đến khoa học công nghệ
Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đối với xã hội:
Nâng cao mức sống cũng như chất lượng cuộc sống của các thành viên trong xã hội.
Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng lao động.
Nâng cao chất lượng y tế, giáo dục , phát triển văn hóa .... góp phần bảo vệ môi trường.
-

5.
+
+
+
+
+


+
+
+


II. Những lí thuyết chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế:

Cơ cấu kinh tế là cơ cấu của tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ
chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tùy thuộc vào mục tiêu
phát triển của nền kinh tế.
2. Phân loại cơ cấu kinh tế:

Cơ cấu kinh tế theo ngành:

2.1.

Là tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ
hữu cơ và sự tác động qua lại về mặt số lượng và chất lượng giữa các ngành với nhau.
Vai trò: Là bộ phận quan trọng nhất trong phân tích CCKT vì nó phản ánh sự
phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Dưới góc độ ngành, cơ cấu có thể xem xét dựa trên 3 hình thức:
2.2.

Nông- lâm- ngư nghiệp.
Công nghiệp và xây dựng.
Dịch vụ.
Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế:
Đây là kết quả tổ chức kinh tế theo các hình thức sở hữu kinh tế, gồm nhiều
thành phần kinh tế tác động qua lại lẫn nhau:


2.3.

Kinh tế Nhà nước.
Kinh tế ngoài Nhà tế.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ:
Nền kinh tế quốc dân là một không gian thống nhất được tổ chức chặt chẽ, là sản
phẩm của quá trình phân công lao động theo lãnh thổ. Những khác biệt về điều kiện tự
nhiên, điều kiện kinh tế-xã hội, lịch sử… đã dẫn đến sự phát triển không giống nhau
giữa các vùng. Ứng với mỗi cấp phân công lao động theo lãnh thổ có cơ cấu lãnh thổ
nhất định và khác nhau giữa các quốc gia.

3. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế:


Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu
thành nền kinh tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng
đều về qui mô, tốc độ giữa các ngành, vùng. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, mỗi quốc gia hay mỗi ngành kinh tế, hay mỗi một ngành kinh tế, hay mỗi vùng, địa
phương có thể đưa vào cơ cấu kinh tế những ngành mới (sản phẩm, dịch vụ mới) hay có
thể loại ra cơ cấu kinh tế những sản phẩm, những ngành không phù hợp.
Tương ứng với 3 loại cơ cấu kinh tế ta cũng xét sự chuyển dịch của 3 cơ cấu này:
4.
-

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng.
Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

4.1.
Các nhân tố ở trong nước đó là:
Các lợi thế về tự nhiên của đất nước cho phép có thể phát triển ngành sản xuất nào một
cách thuận lợi; quy mô dân số của quốc gia; trình độ nguồn nhân lực; những điều kiện

-

kinh tế, văn hóa của đất nước.
Ngoài ra, nhu cầu của từng xã hội, thị trường ở mỗi giai đoạn lại là cơ sở để sản xuất
phát triển đáp ứng nhu cầu không chỉ về số lượng mà cả chất lượng hàng hóa, từ đó dẫn

-

đến những thay đổi về vị trí, tỷ trọng của các ngành nghề trong nền kinh tế.
Mục tiêu, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế của từng quốc gia có tác động quan
trọng đến sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế vì mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính khách
quan, tính lịch sử xã hội nhưng lại chịu tác động, chi phối rất lớn bởi mục tiêu của Nhà
nước. Nhà nước có thể tác động gián tiếp lên tỷ lệ của cơ cấu ngành kinh tế bằng các
định hướng phát triển, đầu tư, những chính sách khuyến khích hay hạn chế phát triển
các ngành nghề nhằm bảo đảm sự cân đối của nền kinh tế theo mục đích đề ra trong

-

từng giai đoạn nhất định.
Cuối cùng, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nước cho phép sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm, hiệu quả đến mức nào...
4.2.

Những nhân tố tác động từ bên ngoài:



-

Xu hướng chính trị, kinh tế, xã hội của khu vực và thế giới. Sự biến động của chính trị,
kinh tế, xã hội của một nước, hay một số nước, nhất là các nước lớn sẽ tác động mạnh
mẽ đến dòng hàng hóa trao đổi, từ đó ảnh hưởng đến nguồn thu hút vốn đầu tư, chuyển
giao công nghệ... buộc các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế, cơ cấu
kinh tế của mình nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia và sự phát triển trong động thái chung
của thị trường thế giới.

-

Xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế hiện nay có tác động rất mạnh mẽ đến sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của từng nước, vì chính sự phân công lao động diễn ra trên phạm vi
quốc tế ngày càng sâu sắc và cơ hội thị trường rộng lớn được mở ra trong quá trình toàn
cầu hóa kinh tế quốc tế, cho phép các nước có khả năng khai thác những thế mạnh của
nhau để trao đổi các nguồn lực, vốn, kỹ thuật, hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả...
Quá trình đó vừa bắt buộc, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nước thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự phân công lao động trên quy mô toàn thế giới.

-

Những thành tựu của cách mạng khoa học, kỹ thuật, đặc biệt sự bùng nổ của công nghệ
thông tin tạo nên những bước nhảy vọt trong mọi lĩnh vực sản xuất góp phần đẩy nhanh
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước vì thông tin nhanh chóng làm cho sản
xuất, kinh doanh được điều chỉnh nhanh nhạy, hợp lý hơn, dẫn đến cơ cấu sản xuất
được thay đổi phù hợp hơn với thị trường và lợi ích của từng nước.
Dưới tác động tổng hợp của các nhân tố trên, các ngành kinh tế (thông thường
bao gồm 3 ngành chính: nông, lâm nghiệp, thủy sản - còn gọi là nông nghiệp; công
nghiệp, xây dựng - còn gọi là công nghiệp; và dịch vụ) phát triển một cách không đồng

đều, tạo nên những tỷ lệ khác nhau trong cơ cấu ngành kinh tế của các nước.

5. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch của nó:

5.1. Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách khách quan:
Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách khách quan của quá trình phân công lao
động xã hội và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Sự khác nhau về điều


kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, về hoạt động của các quy luật kinh tế đặc thù của các
phương thức sản xuất sẽ quyết định tính khác biệt về cơ cấu kinh tế của mỗi vùng, mỗi
nước. Vì vậy, cơ cấu kinh tế phản ánh tính quy luật chung của quá trình phát triển,
những biểu hiện cụ thể phải phù hợp với đặc thù của mỗi nước, mỗi vùng tự nhiên, kinh
tế và lịch sử, không có một cơ cấu mẫu chung cho nhiều nước, nhiều vùng khác nhau.
Mỗi quốc gia, mỗi vùng có thể và cần thiết lựa chọn cơ cấu kinh tế phù hợp với mỗi
giai đoạn phát triển.
5.2. Cơ cấu kinh tế luôn luôn biến đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện.
Sự biến đổi đó gắn liền với sự biến đổi không ngừng của khoa học kỹ thuật, công
nghệ thông tin cũng như các yếu tố kinh tế, các quá trình vận động và phát triển của các
yếu tố kinh tế đó trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu cũ dần dần chuyển dịch
và hình thành cơ cấu mới. Cơ cấu mới ra đời thay thế cơ cấu cũ theo hướng tiến bộ hơn.
Cứ như thế cơ cấu vận động, biến đổi không ngừng từ giản đơn đến phức tạp, từ ít hoàn
thiện đến hoàn thiện. Sự biến đổi đó của cơ cấu kinh tế chịu sự tác động thường xuyên
của các quy luật kinh tế - xã hội, do sự phát triển không ngừng của loài người.
5.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình mang tính kế thừa và phát
triển lịch sử.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình tích luỹ về lượng một cách
tuần tự. Sự biến đổi về mặt lượng đến một mức độ nào đó dẫn đến sự biến đổi về chất.
Nếu như trong quá trình chuyển dịch mà mang tính nóng vội hay trì trệ đều tạo nên một
sức cản rất nguy hiểm cho quá trình phát triển kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

không mang tính tự phát mà chịu sự tác động, điều tiết của các nhà lãnh đạo và quản lý
kinh tế. Bằng cảm nhận và kinh nghiệm của mình, loài người nhận biết được những gì
có thể xảy ra trong tưong lai mà từ đó tác động vào đâu, ở chỗ nào để mang lại hiệu quả
kinh tế cao nhất cho xã hội.

III. Tác động của đầu tư đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:


Đầu tư là tác nhân thiết yếu dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành:

1.
1.1.

Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích, có định
hướng và dựa trên phân tích đầy đủ có căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng với việc áp
dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu ngành từ trạng thái này qua
trạng thái khác, hợp lý và hiệu quả hơn. Việc đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn là bao
nhiêu, đồng vốn được sử dụng như thế nào đều tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến sự
phát triển của ngành nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Do vậy, hệ quả tất yếu
của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành là làm thay đổi tỷ trọng đóng góp
vào GDP của các ngành và thay đổi số lượng các ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Cùng với quyết định đầu tư, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ khiến cho
các ngành công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ chất lượng cao phát triển mạnh hơn
trong khi một số ngành khác lại giảm vai trò, tỷ trọng do nhu cầu của xã hội giảm hoặc
không còn sức cạnh tranh. Do đó tỷ trọng các ngành, tiểu ngành trong cơ cấu kinh tế có
sự thay đổi, thứ tự ưu tiên khác nhau và kết quả là hình thành nên một cơ cấu ngành
mới. Chính sách đầu tư vào các ngành có tốc độ phát triển khác nhau sẽ tạo ra sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế tuỳ mức độ chuyển đổi cơ cấu đầu tư và hiệu quả đầu tư
khác nhau; cụ thể như sau:

-

Đối với khu vực công nghiệp:
Đầu tư được thực hiện gắn liền với sự phát triển các ngành theo hướng da dạng
hóa, từng bước hình thành một số ngành trọng điểm và mũi nhọn, có tốc độ phát triển
cao, thuận lợi về thị trường, có khả năng xuất khẩu. Tỷ trọng của khu vực công nghiệp
trong GDP tăng dần thực sự trở thành động lực cho phát triển kinh tế quốc dân. Chuyển
dịch của khu vực công nghiệp theo hướng hình thành, phát triển một số ngành và sản
phẩm mới thay thế nhập khẩu, cung cấp cho thị trường nội địa nhiều mặt hàng có chất
lượng cao…
-

Đối với ngành dịch vụ:


Đầu tư giúp phát triển các ngành thương mại, dịch vụ vận tải hàng hóa, mở rộng
thị trường trong nước và hội nhập quốc tế. Đầu tư còn tạo nhiều thuận lợi trong việc
phát triển nhanh các ngành dịch vụ bưu chính viễn thông, phát triển du lịch, mở rộng
các dịch vụ tài chính tiền tệ…
-

Đối với các ngành nông lâm nghiệp:

Đầu tư tác động nhằm đẩy nhanh công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn bằng cách xây dựng kết cấu kinh tế xã hội nông nghiệp nông thôn, tăng
cường khoa học công nghệ…
1.2. Đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ:
Đầu tư phát triển có tác dụng giải quyết những sự mất cân đối về phát triển giữa
các vùng lãnh thổ, đưa vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối
đa lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị… của những vùng có khả

năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
Nguồn vốn đầu tư thường tập trung vào những vùng kinh tế trọng điểm nhằm
phát huy đươc thế mạnh và tiềm năng của vùng, góp phần vào sự phát triển chung của
cả nước, làm đầu tàu kéo kinh tế chung của cả nước đi lên, khi đó các vùng kinh tế khác
mới có điều kiện phát triển, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
Nguồn vốn đầu tư cũng thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn có khả năng phát
triển, giúp họ có đủ điều kiện khai thác, phát huy tiềm năng của họ, giải quyết những
vướng mắc tài chính, cơ sở hạ tầng cũng như phương hướng phát triển, tạo đà cho nền
kinh tế vùng, giảm bớt sự chênh lẹch kinh tế với các vùng khác. Thống nhất quy hoạch
phát triển trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh, thành phố, tạo sự liên kết trực tiếp về sản
xuất, thương mại, đầu tư, giúp đỡ kỹ thuật và nguồn nhân lực; nâng cao trình độ dân trí
và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng và khu
vực.
Nếu xét cơ cấu lãnh thổ theo góc độ thành thị và nông thôn thì đầu tư là yếu tố
đảm bảo chất lượng dô thị hóa. Việc mở rộng các khu đô thị dựa theo quyết định của


chính phủ sẽ chỉ là hình thức nếu không đi kèm với các khoản đầu tư hợp lý. Đô thị hóa
không thể gọi là thành công thậm chí cản trở sự phát triển nếu cơ sở hạ tầng không đáp
ứng được các nhu cầu của người dân.
1.3. Đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế:
Sự tác động của đầu tư tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu thành phần
kinh tế. Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế như thế nào chủ yếu
phụ thuộc vào chiến lược phát triển của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định
thành phần nào là chủ đạo; thành phần nào được ưu tiên phát triển; vai trò, nhiệm vụ
của các thành phần trong nền kinh tế…Ở đây đầu tư đóng vai trò nhân tố thực hiện. Đầu
tư có tác động tạo ra những chuyển biến vào tỷ trọng đóng góp vào GDP của các thành
phần kinh tế.
Việc phát triển kinh tế nhiều thành phần có tác động về nhiều mặt: giải phóng sức
sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tạo ra cạnh tranh - động lực

của tăng trưởng; thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc,
huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế - xã hội; là con đường xây dựng,
hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất...
Bên cạnh đó, đầu tư còn tạo ra sự đa dạng phong phú về nguồn vốn đầu tư. Sự
xuất hiện của các thành phần kinh tế mới là nguồn bổ sung một lượng vốn không nhỏ
vào tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, tạo nên một nguồn lực mạnh mẽ hơn trước để nâng
cao tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc có thêm các thành phần kinh tế đã huy động
và tận dụng các nguồn lực trong xã hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích mọi cá
nhân tham gia đầu tư làm kinh tế.
Tóm lại, đầu tư là tác nhân chủ yếu dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Những
quyết định đầu tư sẽ làm ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế trong tương lai. Nó làm thay đổi
số lượng, tỷ trọng của từng bộ phận trong nền kinh tế. Kinh nghiệm và thực tiễn cho


thấy rằng con đường tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9 đến 10%) là tăng
cường đầu tư nhằm tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là sự chuyển dịch cơ
cấu ngành, vùng, lãnh thổ. Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với
quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra
sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng.
2. Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư tác động tới chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
2.1. Các chỉ số đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Các chỉ số sau được sử dụng để đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành giữa 2 thời kỳ
a. Tỷ trọng các ngành - β(t):
• Công thức tính tỉ trọng ngành.

Tỉ trọng của ngành nông nghiệp là :


βNN (t) =

GDPNN (t )
GDP(t )

Tỉ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng là :

βCN (t) =

GDPCN (t )
GDP(t )

Tỉ trọng của ngành dịch vụ là :

βDV (t) =

GDPDV (t )
GDP(t )

→ Tỉ trọng của ngành phi nông nghiệp là :
βPNN (t) = βCN (t) + βDV(t)
→ Tỉ trọng của ngành sản xuất vật chất là :
βSXVC (t) = βNN (t) + βCN (t)


Ý nghĩa :


Cho biết đóng góp về mặt lượng của mỗi ngành vào tổng sản lượng của nền kinh
tế trong mỗi thời kỳ. Nếu xét trong một thời kỳ, chỉ số này thể hiện vai trò của mỗi

ngành trong nền kinh tế. Nếu xét nhiều thời kỳ liên tiếp, chỉ số này biểu hiện sự thay
đổi vai trò của các ngành qua thời gian.
Công thức tính tỷ trọng này cũng áp dụng để tính tỷ trọng GDP, tỷ trọng đầu tư
của các vùng, các thành phần kinh tế. Khi đó, nó được dùng để đánh giá chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo lãnh thổ và theo thành phần kinh tế.
b. Hệ số chuyển dịch k của 2 ngành nông nghiệp và phi nông
nghiệp:


Công thức tính:
β NN (t ) × β NN (t1) + β PNN (t ) × β PNN (t1)
o

Cos θ =

( β 2 NN (t ) + β 2 PNN (t )) × ( β 2 NN (t1) + β 2 PNN (t1)

o

Góc θ = arccos θ

o

Hệ số chuyển dịch k của 2 ngành NN và phi NN là :

K=


θ0
90


Ý nghĩa :

o

o

0

Góc θ bằng 0 khi không có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và 90 khi sự dịch
chuyển là lớn nhất.
Hệ số k cho biết tốc độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhờ đó mà có ta có thể sử
dụng hệ số K của mỗi vùng hay mỗi giai đoạn để so sánh và đánh giá tốc độ của chuyển
dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng hoặc của vùng đó qua các giai đoạn.
c. Độ lệch tỉ trọng ngành:


Công thức tính;


d


NN

=

β NN (t1) − β NN (t )

Ý nghĩa:


Đánh giá hướng CDCC KT của ngành trong thời kỳ nghiên cứu.
2.2. Các hệ số đánh giá tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
a. Hệ số co giãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư và thay đổi cơ cấu ngành:
% thay đổi tỷ trọng đầu tư của ngành nào đó trên

Hệ số co dãn giữa việc
thay đổi cơ cấu đầu tư với

=

thay đổi cơ cấu kinh tế của
Ngành

tổng vốn đầu tư xã hội kỳ nghiên cứu so với kỳ trước
% thay đổi tỷ trong GDP của ngành trong tổng
GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước



H1 =
với

Công thức:

β I (t1) − β I (t )
β I (t )
β (t1) − β (t )
β (t )


β I (t1)

β I (t )
β (t1)

β (t )



là tỷ trọng đầu tư ngành thời kỳ nghiên cứu.
là tỷ trọng đầu tư ngành thời kỳ trước.
là tỷ trọng đóng góp GDP của ngành đó thời kỳ nghiên cứu.

là tỷ trọng đóng góp GDP của ngành đó thời kỳ trước.
Ý nghĩa:

Chỉ tiêu này cho biết, để tăng 1% tỷ trọng GDP của ngành trong tổng GDP (thay
đổi cơ cấu kinh tế) thì cần phải đầu tư cho ngành tăng thêm bao nhiêu. Bởi vậy, nó là
thước đo đánh giá độ nhạy cảm giữa tỷ trọng GDP của mỗi ngành và tỷ trọng đầu tư của
ngành đó. Qua đó có thể đánh giá mức độ ảnh hướng của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu


ngành kinh tế. Nếu hệ số này mang giá giá trị dương tức là khi tỷ trọng đầu tư vào
ngành tăng hoặc giảm thì tỷ trọng GDP cũng tăng giảm tương ứng. Nếu hệ số này âm,
tức là trong giai đoạn đo đầu tư không tác động thuận chiều đến thay đổi tỷ trọng
ngành.
b.Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư ngành với thay đổi GDP
(H2):
% thay đổi tỷ trọng đầu tư của ngành nào đó trên
Hệ số co dãn giữa việc thay

đổi cơ cấu đầu tư ngành với =
Thay đổi GDP

tổng vốn đầu tư xã hội kỳ nghiên cứu so với kỳ trước

% thay đổi tốc độ tăng trưởng GDP giữa kỳ
nghiên cứu so với kỳ trước

Công thức tính:



β I (t1) − β I (t )
β I (t )
g (t1) − g (t )
g (t )

H2 =

Với: g(t1) là tốc độ tăng trưởng kỳ nghiên cứu
g(t) là tốc độ tăng trưởng kỳ trước


Ý nghĩa:

Chỉ tiêu này cho biết để góp phần đưa vào tăng trưởng kinh tế (GDP) lên 1% thì
tỉ trọng đầu tư vào 1 ngành nào đó tăng bao nhiêu. Cũng giống như hệ số trên, hệ số này
là thước đo độ nhạy cảm của tăng trưởng kinh tế nói chung với thay đổi tỷ trọng đầu tư
của mỗi ngành.



CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TỈNH BÌNH ĐỊNH
I.
Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh
1. Thực trạng cơ cấu kinh tế xét theo ngành kinh tế :
1.1 Thực trạng ngành nông nghiệp:

Bình Định:

Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp tỉnh Bình Định phát triển tương đối
toàn diện. Đáng chú ý là giai đoạn 2008-2013, giá trị tổng sản phẩm địa phương của
ngành nông nghiệp tăng bình quân 5,48%/năm, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng khá,
bình quân tăng 6,42%/năm. Trong đó, giá trị sản xuất trồng trọt tăng 0,96%/năm; chăn
nuôi tăng 12,17%/năm; lâm nghiệp tăng 13,88%/năm; thủy sản tăng 8,44%/năm. Cơ
cấu GTSX trong nội bộ ngành nông nghiệp năm 2008: Trồng trọt chiếm 42,18%, chăn
nuôi 26,31%, lâm nghiệp 2,35%, thủy sản 27,16%. Đến năm 2013, tương ứng là:
29,41% - 31,56% - 3,11% - 33,49%.
Có thể nói, ngành nông nghiệp đã có đóng góp quan trọng thúc đẩy phát triển
KT-XH tỉnh Bình Định. Tuy vậy, khách quan nhìn nhận, SXNN của tỉnh ta còn thiếu
tính bền vững. Quy mô sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ nên việc đưa cơ giới hóa, tiến
bộ khoa học và công nghệ vào thực tế gặp nhiều khó khăn. Vật tư đầu vào phục vụ
SXNN có xu hướng tăng cao, trong khi giá cả đầu ra hàng nông, lâm, thủy sản không
ổn định, đã ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất. Việc đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn
còn hạn chế so với vị trí, vai trò và yêu cầu phát triển.
1.2

Thực trạng ngành công nghiệp và xây dựng:

Trong những năm qua số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh phát

triển mạnh ; nếu như năm 2010 có 2.791 doanh nghiệp, chiếm 96,7% trong toàn bộ các
doanh nghiệp của toàn tỉnh ; năm 2011 tăng thêm 100 doanh nghiệp ; năm 2012 tiếp tục
tăng 312 doanh nghiệp ; năm 2013 tăng 337 doanh nghiệp và năm 2014 tăng 263 doanh
nghiệp so với năm 2013. Về cơ cấu doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trong tổng số
doanh nghiệp toàn tỉnh lần lượt qua các năm: Năm 2010: 96,7%; năm 2011: 95,1%;
năm 2012: 98,0%; năm 2013: 97,8%; năm 2014: 97,8%.


Giai đoạn 2010-2014, mặc dù nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa cũng đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho hàng
ngàn lao động có thu nhập ổn định tại địa phương. Năm 2010 đã góp phần giải quyết,
tạo việc làm cho 64.365 lao động với mức thu nhập bình quân 2,5 triệu
đồng/người/tháng. Đến năm 2014 đã giải quyết được hơn 73.650 lao động với mức thu
nhập bình quân 3,8 triệu đồng/người/tháng. Ngoài ra, các doanh nghiệp nhỏ và vừa
cũng đã tạo ra nhiều sản phẩm có uy tín, chất lượng cao xuất khẩu sang các thị trường
Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc …như: bàn ghế gỗ ngoài trời, dăm gỗ, thủy sản, hàng
may mặc. Tính riêng năm 2014 giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp này là 345,2
triệu USD, chiếm 54,4% trong toàn bộ giá trị xuất khẩu của toàn bộ doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh.
1.3

Thực trạng cơ cấu ngành dịch vụ:

Trong những năm qua, nhờ có sự quan tâm đầu tư, cơ sở hạ tầng của Bình Định
đã có nhiều cải thiện tích cực. Tuy vậy, so với các địa phương trong vùng, hạ tầng du
lịch của Bình Định còn nhiều hạn chế, yếu kém. Về đường bộ, hệ thống đường liên tỉnh,
nội thị cũng như các phương tiện công cộng của Bình Định nhìn chung chất lượng còn
thấp. Về đường hàng không, hiện tuyến Hà Nội - Quy Nhơn chỉ khai thác 1
chuyến/ngày, trong khi tuyến Hà Nội - Đà Nẵng 8 chuyến/ngày, Hà Nội - Nha Trang 3
chuyến/ngày. Về đường biển, cảng Quy Nhơn hiện không đủ năng lực để đón tiếp các

tàu du lịch biển quốc tế, trong khi các địa phương khác trong vùng đã tiếp đón nhiều tàu
du lịch quốc tế.
Trong giai đoạn 2005-2014, tổng vốn đầu tư cho du lịch ước đạt 5.500 tỉ đồng,
trong đó vốn ngân sách chỉ chiếm khoảng 10%. Bên cạnh đó, tiến độ triển khai nhiều dự
án du lịch còn quá chậm. Tổng vốn đăng ký của các dự án đầu tư trong lĩnh vực du lịch
lên đến gần 38.000 tỉ đồng ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng và các loại hình sản phẩm du
lịch tỉnh Bình Định, song tổng vốn giải ngân còn hạn chế, đến nay mới chỉ thực hiện
được hơn 30%.
2. Xét theo thành phần kinh tế:

Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh ước đạt 4.941,7 tỷ đồng (kế hoạch 4.557 tỷ
đồng), tăng 8,4% dự toán năm và tăng 2% so với năm 2013; trong đó thu nội địa
3.907,3 tỷ đồng (kế hoạch 3.515 tỷ đồng), tăng 11,2% dự toán năm và tăng 3,2% so với
năm 2013.


Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh ước đạt 22.942 tỷ
đồng, chiếm 42,2% GRDP (kế hoạch 23.300 tỷ đồng, chiếm 39,5% GRDP).
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh (chưa kể thu đóng góp, thu vay
và tạm ứng ngân sách Trung ương) ước đạt 4.941,7 tỷ đồng, tăng 8,4% dự toán năm và
tăng 2% so với năm 2013; trong đó thu nội địa 3.907,3 tỷ đồng, tăng 11,2% dự toán
năm và tăng 3,2% so với năm 2013; thu hoạt động xuất nhập khẩu 914,5 tỷ đồng, tăng
11,2 % dự toán năm và tăng 16,3% so với năm 2013. Tổng chi ngân sách địa phương
ước thực hiện 8.446,9 tỷ đồng, vượt 20,8% dự toán năm và tăng 30,7% so với năm
2013.
Về hoạt động tài chính, tín dụng, tổng nguồn vốn hoạt động trên địa bàn tỉnh (bao
gồm vốn huy động tại địa phương, vốn điều chuyển và vốn khác) ước tính đến cuối
tháng 12/2014 ước đạt 49.450 tỷ đồng, tăng 12,7% so với đầu năm (trong đó nguồn vốn
huy động tại địa phương 28.600 tỷ đồng, tăng 15% so với đầu năm). Tổng dư nợ ước
khoảng 38.850 tỷ đồng, tăng 8% so với đầu năm (trong đó nợ xấu chiếm khoảng 2,5%

tổng dư nợ).
Xét theo vùng lãnh thổ:
Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp:
Khu kinh tế Nhơn hội đầu mối giao lưu quốc tế quan trọng, góp phần mở rộng thị
trường khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và là cầu nối với thị trường Campuchia,
Lào và Thái Lan; là khu du lịch quốc gia với vai trò một trong những trung tâm du lịch
của vùng Duyên hải miền Trung. Hiện nay, KKT Nhơn Hội đã thu hút được 29 dự án
đầu tư với tổng vốn đăng ký 21.631,19 tỷ đồng, trong đó có 6 dự án FDI với tổng vốn
đăng ký 370,72 triệu USD.
Các khu công nghiệp : KCN Phú Tài (348 ha) và Long Mỹ (110 ha) đã lấp đầy
trên 90% diện tích; KCN Nhơn Hòa (272 ha) và KCN Hòa Hội (275 ha) đang trong giai
đoạn triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu thu hút vào các
KCN gồm sản xuất thiết bị điện, điện tử, cơ khí chế tạo, sản phẩm thép, sản xuất vật
liệu xây dựng, chế biến đá các loại, chế biến nông lâm sản và một số ngành công nghiệp
khác. Địa điểm các KCN khá thuận lợi, nằm cạnh các trục quốc lộ quan trọng (QL 1A
và QL 19), cự ly đến cảng quốc tế Quy Nhơn thay đổi theo từng KCN nhưng xa nhất
không quá 40 km và gần nhất chỉ 12 km. Chỉ riêng 2 KCN Phú Tài và Long Mỹ đã thu
hút trên 120 doanh nghiệp vào đầu tư, trong đó có 3 doanh nghiệp FDI, đóng góp trên
30% giá trị sản xuất công nghiệp và kim ngạch xuất khẩu của cả tỉnh, thu hút trên
20.000 công nhân vào làm việc
KCN Nhơn Hòa (272ha):đang san lấp nền và xây dựng hạ tầng, đã có một số nhà
đầu tư đăng ký đầu tư với diện tích khoảng 30% diện tích thuê; KCN Hòa Hội
3.
3.1.


(265ha):đã khởi công xây dựng hạ tầng, đã có một số nhà đầu tư đăng ký đầu tư với
diện tích khoảng 20% diện tích thuê.
Cụm công nghiệp : Bình Định đã và đang hình thành 37 CCN, có tổng diện tích
1.519,37 ha với các ngành nghề chủ yếu: chế biến lương thực thực phẩm, chế biến gỗ,

cơ khí nhỏ, sản xuất gạch ngói, hàng tiêu dùng... Đến nay, đã có 11 CCN đi vào hoạt
động và thu hút đầu tư lấp đầy 70 - 100% diện tích, 10 cụm còn lại đang xây dựng hạ
tầng song song với việc giao mặt bằng cho doanh nghiệp xây dựng nhà xưởng và tổ
chức sản xuất. Các CCN đã thu hút 436 doanh nghiệp và cơ sở sản xuất có quy mô vừa
và nhỏ đầu tư, được giao đất xây dựng nhà xưởng sản xuất diện tích 221 ha với tổng
vốn đăng ký đầu tư 1.230 tỷ đồng (suất đầu tư đạt 6 tỷ đồng/ha), vốn thực hiện 843 tỷ
đồng (đạt 68,5% so tổng vốn đăng ký); đã có 397 doanh nghiệp và cơ sở sản xuất đi vào
hoạt động. Các cơ sở sản xuất trong các CCN đã góp phần gia tăng giá trị sản xuất công
nghiệp toàn tỉnh, tạo việc làm cho gần 11.000 lao động.
3.1
Các vùng khó khăn:
Tỷ lệ hộ nghèo còn cao và khoảng cách chênh lệch phát triển còn lớn. nhiều xã
chưa thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, phần lớn đồng bào chưa tiếp thu kỹ thuật
sản xuất mới, chậm thay đổi tập quán cũ, tỷ lệ hộ nghèo bình quân vẫn ở mức 60%.
Các huyện miền núi An Lão, Hoài Ân, Vĩnh Thạnh, Vân Canh có tổng diện tích
tự nhiên 296.000 ha chiếm 49% đất tự nhiên toàn tỉnh; đa số diện tích là đồi núi. Dân số
162.500 người chiếm 11 % dân số cả tỉnh. Trong các đợt mưa lũ hàng năm mức độ
thiệt hại so với các vùng khác ít hơn vì cơ sở hạ tầng ít, mật độ dân số thưa thớt, nhà ở
đơn sơ; Tuy nhiên hậu quả đối với đời sống người dân ở vùng này lại nặng nề hơn vì
khả năng cứu trợ và khắc phục hậu quả khó khăn.
Các huyện, thị xã, thành phố đồng bằng Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tây Sơn,
An Nhơn, Tuy Phước và Quy Nhơn có tổng diện tích tự nhiên 309.000 ha chiếm 51%
đất tự nhiên, dân số 1.352.00 người chiếm 89,3% dân số. Trong các đợt mưa lũ hàng
năm mức độ thiệt hại so với vùng núi thường trầm trọng hơn. Đây là nơi tập trung các
khu dân cư, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, du lịch, công nghiệp, các đầu mối giao
thông và toàn bộ vùng đồng bằng trù phú của tỉnh.

II.
1.


Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại Bình Định:
Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:


Trong những năm gần đây, Bình Định luôn đạt tốc độ phát triển kinh tế ở mức
cao, bình quân hàng năm đạt 17,1%. Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch mạnh theo hướng
tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp – dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Năm 2013, tỷ
trọng nông, lâm, thủy sản - công nghiệp và xây dựng - dịch vụ trong GDP đạt: 29,56% 31,13% - 39,31%. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng nhanh, bình quân tăng 16%/năm,
ước đạt 5.480 tỷ đồng vào năm 2013. Từ năm 2004, Bình Định đã tự cân đối được ngân
sách và làm nghĩa vụ với Trung ương.
Bình Định cũng trở thành một điểm sáng về thu hút đầu tư. Tính đến hết năm
2013, toàn tỉnh có 3.859 doanh nghiệp trong nước và 39 doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài (FDI), trong đó riêng năm 2013 đã tiếp nhận và cấp mới 7 dự án FDI, với
tổng vốn 1,02 tỷ USD. Nhà đầu tư đến từ hầu hết các nước có tiềm lực kinh tế trên thế
giới như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan,
Pháp… Đặc biệt, dự án Tổ hợp lọc, hóa dầu công suất 30 triệu tấn sản phẩm/năm, tổng
vốn đầu tư 28,7 tỷ USD tại khu kinh tế Nhơn Hội đã trở thành dự án FDI có vốn lớn
nhất vào nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, một số thương hiệu hàng đầu trong kinh doanh
thương mại tại Việt Nam như BigC, Nguyễn Kim… đang xúc tiến triển khai dự án tại
Bình Định cũng là những tín hiệu vui cho tỉnh khi mà tình hình kinh tế thế giới vẫn còn
nhiều khó khăn.
Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế:
Trong thời gian qua, Bình Định đã và đang đẩy mạnh các hoạt động nhằm phát
triển mối quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các địa phương của Nhật Bản, qua
đó thu hút các nhà đầu tư Nhật Bản đến Bình Định.

Phát huy tiềm năng trong thu hút đầu tư:
Có thể nói, Bình Định là trung tâm phía Nam của vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung. Bình Định chiếm một vị trí quan trọng trên trục hành lang kinh tế Đông Tây, là
đầu mối giao lưu quốc tế quan trọng đối với thị trường khu vực Nam Trung Bộ, Tây

Nguyên. Đồng thời là cầu nối với thị trường Lào, Campuchia và Nhật Bản.
Bình Định hội tụ nhiều tiềm năng và điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội bền
vững. Thế mạnh đặc biệt nhất của Bình Định là kinh tế biển, du lịch biển đảo và các
ngành nghề có liên quan như cảng và hậu cần cảng, công nghiệp chế biến… Trong đó
cảng quốc tế Quy Nhơn là một trong 3 cảng biển lớn của Việt Nam, sau TP.HCM và Hải
Phòng. Đồng thời là cửa ngõ ra biển gần nhất và thuận lợi nhất của các tỉnh trong khu
vực với nhiều ưu thế đó là vùng neo đậu kín gió, kho bãi rộng, đảm bảo tàu trọng tải 50
nghìn tấn ra vào an toàn.
2.


×