Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư tài sản hữu hình và đầu tư tài sản vô hình ở góc độ doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.41 KB, 37 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong tình hình kinh tế hiện nay, với các doanh nghiệp việc xác định rõ các
nguồn tài sản của doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Xác định được cơ cấu
tài sản của doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao
nhất. Đây là đề tài nghiên cứu về nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư tài sản
hữu hình và tài sản vô hình ở góc độ doanh nghiệp.Đề tài nghiên cứu làm rõ
thực trạng đầu tư vào tài sản cả hữu hình và vô hình của các doanh nghiệp
trong nước và nước ngoài hiện nay, đồng thời làm rõ mối quan hệ giữa tài sản
hữu hình và vô hình trong doanh nghiệp. Xác định rõ vai trò của các hoạt
động đầu tư vào tài sản của các doanh nghiệp. Sau đây

CHƯƠNG I: Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản
hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp
I. Khái niệm về đầu tư, đầu tư tài sản hữu hình và đầu tư tài sản vô hình:
1. Đầu tư:
1.1 Khái niệm:
Đầu tư và việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào một hoạt động nào đó
nhằm thu được lợi ích hoặc mục tiêu cho chủ đầu tư trong tương lai.
Nguồn lực bỏ ra có thể là vốn, lao động, đất đai, tài nguyên, công nghệ,
thương hiệu. Cần có sự kết hợp giữa các nguồn lực với tỷ lệ hợp lí để tối đa
hóa lợi ích.
Đối tượng:
- Đầu tư tài chính, đầu tư phát triển
- Đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp
- Đầu tư vào tài sản hữu hình, tài sẩn vô hình
1.2 Đặc điểm:
Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư là rất lớn.


Thời kỳ đầu tư kéo dài.
Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài.


Quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu
ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội.
Đầu tư có độ rủi ro cao.
1.3 Phân loại:
- Đầu tư phát triển tài sản hữu hình
- Đầu tư phát triển tài sản vô hình
2. Tài sản:
2.1 Định nghĩa:
Tài sản là toàn bộ tiềm lực kinh tế của đơn vị, biểu thị cho những lợi ích mà
đơn vị thu được trong tương lai hoặc những tiền năng phục vụ cho hoạt động
kinh doanh của đơn vị. Nói cách khác, tài sản là tất cả những thứ hữu hình
hoặc vô hình gắn với lợi ích trong tương lai của đơn vị thỏa điều kiện:
- Thuộc quyền sở hữu hoặc kiểm soát lâu dài của doanh nghiệp
- Có giá trị thực sự đối với đơn vị
- Có giá phí xác định
2.2 Phân Loại:
a) Tài sản hữu hình:
- Tài sản hữu hình lưu động:
+ Nguyên vật liệu
+ Bán thành phẩm
+ Sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong doanh nghiệp
- Tài sản hữu hình cố định:


+ Nhà cửa, vật kiến trúc
+ Máy móc thiết bị
+ Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn
+ Thiết bị, dụng cụ dung cho quản lý
+Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm
+Tài sản cố định hữu hình khác

b) Tài sản vô hình:
- Quyền sử dụng đất
- Quyền phát hành
- Bản quyền sáng chế
- Nhãn hiệu hàng hóa
- Phần mềm máy vi tính
- Giấy phép và giấy nhượng quyền
- Tài sản vô hình khác,…
3. Doanh nghiệp:
3.1. Khái niệm:
3.2. Phân loại:
- Doanh nghiệp nhà nước
- Doang nghiệp tư nhân
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
II. Nội dung đầu tư tài sản hữu hình và đầu tư tài sản vô hình trong
doanh nghiệp:


1. Đầu tư tài sản hữu hình:
1.1 Phân loại:
1.1.1 Đầu tư xây dựng cơ bản:
- Khái niệm
Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo TSCĐ của doanh
nghiệp. Đầu tư XDCB bao gồm các hoạt động chính như xây lắp và mua sắm
máy móc thiết bị. Trong doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh, để các hoạt động diễn ra bình thường đều cần xây dựng nhà xưởng,
kho tang, các công trình kiến trúc, mua và lắp đặt trên nền bệ các máy móc
thiết bị…Hoạt động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỷ trọng cao trong
tổng vốn đầu tư phát triển của đơn vị. Đầu tư XDCB là hoạt động đầu tư
nhằm tạo ra các công trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư, là lĩnh

vực sản xuất vật chất tạo ra các TSCĐ và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã
hội. Đầu tư XDCB là 1 hoạt động kinh tế.
1.1.2 Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ:
- Khái niệm:
Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ nguyên vật liệu,bán thành phẩm
và sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong doanh nghiệp. Tùy theo loại hình
doanh nghiệp ,qui mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ cũng khác nhau.
Nguyên vật liệu là một bộ phận hàng tồn trữ không thể thiếu của doanh
nghiệp sản xuất nhưng lại không có trong doanh nghiệp thương mại dịch
vụ.Tỷ trọng đầu tư vào hàng tồn trữ trong tổng vốn đầu tư phát triển của
doanh nghiệp thương mại thường cao hơn các loại hình doanh nghiệp khác
.Do vậy, xác định quy mô đầu tư hàng tồn trữ tối ưu cho doanh nghiệp lại rất
cần thiết.
- Phân loại:
+ Tồn kho nguyên vật liệu: Nguyên vật liệu bao gồm các chủng loại hàng mà
doanh nghiệp mua về để phục vụ cho quá trình sản xuất của mình. Bao gồm
các loại nguyên vật liệu cơ bản (nguyên liệu thô), bán thành phẩm hoặc cả


hai. Việc duy trì một lượng hàng tồn kho thích hợp sẽ mang lại cho doanh
nghiệp sự thuận lợi trong hoạt động mua vật tư và hoạt động sản xuất. Đặc
biệt bộ phận cung ứng vật tư sẽ có lợi khi có thể mua một số lượng lớn và
hưởng giá chiết khấu từ các nhà cung cấp. Mặt khác, trước những biến động
của thị trường như giá cả nguyên vật liệu tăng đột ngột hay trở nên khan hiếm
vì một lý do nào đó mà doanh nghiệp nhanh nhạy dự đoán trước được thì việc
lưu giữ lượng hàng tồn kho lớn sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp được cung ứng
kịp thời và đầy đủ với mức chi phí tối thiểu so với các đối thủ cạnh tranh.
+ Tồn kho sản phẩm dở dang: Sản phẩm dở dang bao gồm tất cả các mặt hàng
mà hiện còn đang nằm tại một công đoạn nào đó của quá trình sản xuất. Đó
có thể là sản phẩm dở dang trong một vài công đoạn, hoặc đang nằm trung

chuyển giữa các giai đoạn, hoặc có thể đang được cất giữ tại một nơi nào đó,
chờ bước tiếp theo trong quá trình sản xuất. Tồn kho sản phẩm dở dang là một
phần tất yếu của hệ thống sản xuất công nghiệp hiện đại. Đơn giản vì nó sẽ
mang lại cho mỗi công đoạn của quá trình sản xuất một mức độ độc lập nào
đó. Bên cạnh đó, sản phẩm dở dang còn giúp lập kế hoạch sản xuất hiệu quả
cho từng công đoạn và tối thiểu hóa chi phí phát sinh do ngừng trệ sản xuất
hoặc có thời gian nhàn rỗi.
+ Tồn kho thành phẩm: Thành phẩm bao gồm những sản phẩm đã hoàn thành
chu kỳ sản xuất của mình và đang nằm chờ tiêu thụ. Tồn kho thành phẩm
nhằm đáp ứng mức tiêu thụ dự kiến trong tương lai, mang lại lợi ích cho cả bộ
phận sản xuất và bộ phận marketing của doanh nghiệp. Đứng ở vai trò
marketing cho sản phẩm của doanh nghiệp, tồn kho thành phẩm với số lượng
lớn sẽ đáp ững nhanh chóng bất kỳ một nhu cầu tiêu thụ nào trong tượng lai,
đồng thời tối thiểu hoá thiệt hại vị mất doanh số bán do không có hàng giao
hay thiệt hại vì mất uy tín do chậm trễ trong giao hàng khi hàng trong kho hết.
Đứng ở góc độ nhà sản xuất, duy trì một số lượng lớn thành phẩm tồn kho
đồng nghĩa với việc tăng số lượng sản phẩm sản xuất. Điều này giúp giảm chi
phí sản xuất trên mỗi đơn vị sản phẩm do chi phí cố định phân bổ trên số
lượng lớn đơn vị sản phẩm sản xuất ra, quản lý hàng vật tư tồn kho.
• Xác định nhu cầu của nguyên vật liệu, vật liệu dự trữ. Nếu mức dự trữ
nguyên liệu, vật liệu, phụ tùng (gọi chung là vật tư) không phù hợp với yêu


cầu sản xuất kinh doanh thì có thể xảy ra hai trường hợp: Mức dự trữ quá lớn,
dư thừa gây ứ đọng, lãng phí vốn và hiệu quả thấp. Mức dự trữ quá nhỏ, thiếu
vật tư, gây ra tình trạng căng thẳng hoặc thậm chí phải tạm ngừng sản xuất do
thiếu nguyên vật liệu. Rõ ràng, cả hai thái cực nói trên đều không tốt, do đó
người ta muốn xác định mức dự trữ thích hợp nhất với công ty trong từng
điều kiện cụ thể. Làm thế nào để tính toán đúng mức độ thích hợp đó? Mặc dù
còn một số ý kiến khác nhau nhưng có phương pháp sau đây được thừa nhận

rộng rãi nhất.
• Phương pháp điều chỉnh đơn giản
Theo phương pháp này,có thể dựa vào tình hình tiêu hao vật tư của năm trước
(Hoặc kỳ trước) để ước tính số vật tư cần thiết cho kỳ này.Tỷ lệ điều chỉnh
dựa trên một số dữ liệu và thông tin như : mức độ giảm tiêu hao vật tư ( tiết
kiệm vật tư),sản lượng dự kiến,giá vật tuwv.v…Phương pháp này có tính chất
kinh nghiệm nhưng dễ áp dụng, tuy nghiên cứu có thể sai số đáng kể.Trường
hợp công ty (doanh nghiệp) mới đi vào hoạt động thì không thể áp dụng
phương pháp này vì chưa có dữ liệu và kinh nghiệm của kỳ trước.
Áp dụng công thức sau:
M1=Mo *[Q1/Q2]*(1-k1)(1-k2) Và F1 = M1*P1 = M1*P0kp
Trong đó:
M0: khối lượng nguyên liệu sử dụng năm trước
M1: khối lượng nguyên liệu sử dụng năm nay
Q1: Sản lượng năm nay
Q2: sản lượng năm trước
k1,k2: hệ số tiết kiệm nguyên liệu và hệ số thay thế nguyên liệu
P0,P1: đơn giá nguyên liệu năm trước và năm nay
kp: hệ số tăng giá ,giảm giá nguyên liệu năm nay
F1: số tiền dùng để mua nguyên liệu năm nay


Phương pháp điều chỉnh khá đơn giản, thường được áp dụng rộng rãi trong
thực tế. Nhiều khi nhà quản lý chỉ cần ước tính để ước lượng số vật tư cần
cung ứng. Các nhà quản lý có vẻ ưa thích phương pháp này vì nó nhanh
gọn ,dễ áp dụng , và khi không cần mức độ chính xác thật cao. Tuy nhiên, để
tính toán chi tiết và lập biểu tiến độ cung ứng vật tư thì cần xem xét ảnh
hưởng của một số yếu tố khác.
1.2 Sự cần thiết đầu tư vào tài sản hữu hình:
- Tài sản hữu hình đối với doanh nghiệp là rất quan trọng. Tài sản cố định

được sử dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế. Để
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải có 3 yếu tố: tài
liệu lao động, đối tượng lao động và lao động. Tài sản lao động là tài liệu lao
động, một trong 3 yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Việc sử dụng tài sản
cố định thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Nó có thể tham gia vào nhiều
chu kỳ sản xuất. Tài sản lao động tuy không tham gia vào quá trình sản xuất
nhưng không thể thiếu trong doanh nghiệp sản xuất, nó có tác động lớn đến
quá trình sản xuất.
- Hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình là việc sử dụng vốn đầu tư về phục
hồi năng lực sản xuất cũ và tạo thêm năng lực sản xuất mới, đó là quá trình
thực hiện tái sản xuất các loại tài sản sản xuất. Hoạt động đầu tư này là cần
thiết vì:
+Thứ nhất, do đặc điểm của việc sử dụng tài sản cố định tham gia nhiều lần
vào quá trình sản xuất, giá trị bị giảm dần và chuyển dần từng phần vào trong
giá trị sản phẩm. Với tài sản lao động, nó tham gia một lần vào quá trình sản
xuất và chuyển toàn bộ giá trị vào trong giá trị sản phẩm. Vì vậy, phải tiến
hành đầu tư để bù đắp giá trị tài sản cố định bị hao mòn và duy trì dự trữ
nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất tiếp theo. Nói cách khác, đầu tư nhằm
thực hiện tái sản xuất giản đơn tài sản sản xuất.
+ Thứ hai, nhu cầu quy mô sản xuất xã hội ngày càng mở rộng đòi hỏi phải
tiến hành đầu tư nhằm tăng thêm tài sản cố định mới và tăng thêm dự trữ tài
sản lao động. Tức là, thực hiện tái sản xuất mở rộng tài sản sản xuất.


+ Thứ ba, trong thời đại của tiến bộ công nghệ diễn ra rất mạnh mẽ, nhiều
máy móc, thiết bị…nhanh chóng bị rơi vào trạng thái lạc hậu công nghệ. Do
đó, phải tiến hành đầu tư mới, nhằm thay thế tài sản hữu hình đã bị hao mòn
vô hình.
2. Đầu tư vào tài sản vô hình:
2.1 Phân loại:

2.1.1 Đầu tư phát triển nguồn lực:
- Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, là một trong những nguồn lực quan
trọng nhất của sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực được hiểu như là
nơi sinh sản, nuôi dưỡng và cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển.
Nó là một yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, là
tổng thể những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động.
- Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực, thể
hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn
nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển
kinh tế và đời sống người dân trong một xã hội nhất định. Chất lượng nguồn
nhân lực ảnh hưởng mạnh đến năng suất lao động, đến sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp Đối với doanh nghiệp, nguồn nhân lực có vị trí quan trọng.
Nguồn nhân lực có chất lượng cao đảm bảo dành thắng lợi trong cạnh tranh,
tăng thu hút vốn đầu tư. Do vậy, đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
là rất cần thiết.
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm: Đầu tư cho hoạt động đào tạo
đội ngũ lao động. Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe, y tế, cải thiện môi
trường, điều kiện làm việc, trả lương đúng và đủ cho người lao động.
2.1.2 Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công
nghệ:
Phát triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới đòi hỏi cần đầu tư cho
các hoạt động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ. Đầu tư nghiên cứu
hoặc mua công nghệ đòi hỏi vốn lớn và độ rủi ro cao. Hiện nay khả năng đầu
tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa hoc công nghệ của doanh


nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn. Cùng với đà phát triển của kinh tế đất
nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này sẽ
ngày càng tăng, tương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp.
2.1.3 Đầu tư cho hoạt động Marketing:

Là một trong những hoạt động quan trọng của doanh nghiệp. Đầu tư cho hoạt
động marketing bao gồm đầu tư cho hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương
mại, xây dựng thương hiệu…Đầu tư cho các hoạt động marketing cần chiếm
một tỷ trọng hợp lý trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp.
2.2 Sự cần thiết đầu tư vào tài sản vô hình:
III. Mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình:
- Đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình là hai hoạt động
thiết yếu,không thể thiếu trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp:
- Đầu tư vào tài sản hữu hình là tiền đề ,làm tăng tiềm lực để đầu tư tài sản vô
hình.
- Đầu tư vào tài sản vô hình là hoạt động tất yếu để đảm bảo cho đầu tư
TSHH thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao.

CHƯƠNG II: Thực trạng đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản
vô hình trong các doanh nghiệp Việt Nam
I.Thực trạng đầu tư vào tài sản hữu hình:
1. Xây dựng cơ bản:
1.2 Thực trạng:
ĐTXDCB là hoạt động đầu tư tất yếu và rất quan trọng đối với các doanh
nghiệp trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế. Xét về thực trạng chúng ta có
thể xét thực trạng đầu tư xây dựng cơ bản theo các nhóm ngành kinh tế:
- Nhóm nghành công nghệ thông tin: Công nghệ thông tin là nghành kinh tế
mũi nhọn cực kì quan trọng ,để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế năng động
đòi hỏi sự đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng,cũng như tài sản cố định của các


doanh nghiệp trong nghành.Đã có những dự án lớn với tổng số vốn đầu tư lên
đến nhiều triệu USD .Các trung tâm công nghệ thông tin lớn đang hình
thành ,phát triển cho thấy tiềm năng rất lớn của lĩnh vực công nghệ thông tin
trong nước.Năm 2007 doanh thu công nghiệp điện tử ,thiết bị viễn thông đạt

2,460 triệu $, tăng 17% so với năm 2006. 1 số dữ liệu về ĐTXDCB trong lĩnh
vực này: Xây dựng trung tâm dữ liệu internet (IDC) quy mô lớn đầu tiên ở
Việt Nam giữa công ty phát triển công viên phần mềm Quang Trung và công
ty DOT Việt Nam thuộc tập đoàn DOT Việt Nam ( Hoa Kỳ),với tổng vốn đầu
tư từ 40-50 triệu $. Hiện nay đã có thêm nhà cung cấp dịch vụ internet đó là
công ty cổ phần viễn thông CMC ( CMC Telecom). Năm 2002-2003 tất cả
các viện nghiên cứu ,trường đại học ,cao đẳng ,trung học dạy nghề được kết
nối internet. Phóng vệ tinh vinasat1. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực đã chủ
động đầu tư nghiên cứu vận hành kỹ thuật tiên tiến để có thể theo kịp bước
tiến của thế giới.
- Nhóm ngành viễn thông: Về mảng viễn thông trong nước hiện đã có nhiều
doanh nghiệp đầu tư và khai thác trong đó về mảng viễn thông di động có:
Vinaphone, Mobiphone, Viettel mobile,Sfone,E-mobile. Về mảng cố định có
tập đoàn viễn thông VNPT. Các doanh nghiệp viễn thông đã đầu tư mạnh tay
để nâng cao chất lượng của toàn hệ thống ,để có thể cạnh tranh về chất lượng
cũng như số lượng.Việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật là vấn đề sống còn
hiện nay của các doanh nghiệp. Một số dữ liệu về nhóm nghành viễn thông:
VNPT đầu tư 1 tỷ USD phát triển mạng băng thông rộng. Đáp ứng nhu cầu
hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bưu chính viễn thông (BC-VT), đến nay, Việt
Nam (VN) đã đầu tư xây dựng ba cổng kết nối quốc tế, tám trạm mặt đất
Intelsat và InterSputnik với khả năng cung cấp các đường kết nối trực tiếp tới
gần 30 nước trên thế giới. Bốn trung tâm viễn thông quốc tế đã được lắp đặt ở
Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và Bình Dương... Ngành viễn thông Việt Nam đã
và đang trên đà phát triển vũ bão của mình nên vậy thì các doanh nghiệp viễn
thông còn cần phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa đầu tư xây dựng cơ sở ,đầu tư
máy móc kỹ thuật cao,công nghệ tiên tiến,hiện đại.
- Nhóm ngành Giao thông vận tải: Năm 2008 có thể sẽ đánh dấu là 1 năm
nhiều khởi sắc trong hoạt động đầu tư cảng biển nước ta với hàng loạt các dự
án lớn được đầu tư khởi công xây dựng đặc biệt là 2 cảng trọng điểm Vân



Phong và Lạch Huyện ,với tổng vốn đầu tư là 400 triệu $. Nhiều dự án nâng
cấp đầu tư mới cũng sẽ được thực hiện .Tại Quảng Ninh,công ty Vinalines sẽ
tổ chức khởi công xây dựng bến 2, 3, 4 cảng Cái Lân, Tại Hải Phòng, Tổng
công ty sẽ triển khai xây dựng và hoàn tất các cảng theo kế hoạch tại Đình
Vũ. Cũng trong giai đoạn này, tại Đà Nẵng, Tổng công ty sẽ nghiên cứu xây
dựng thêm cảng biển ở bán đảo Sơn Trà. Năm 2008 cũng là năm mà nhiều
tuyến đường cao tốc cũng được triển khai xây dựng Có nhiều dự án đầu tư
thuộc ngành giao thông vận tải với giá trị đầu tư lớn đã được cấp giấy phép
đầu tư ,những dự án này khi hoàn thanh sẽ đóng góp vào tăng trưởng GDP
của quốc gia.Hiện nay trong lĩnh vực giao thông vận tải có cơ hội lớn cho các
doanh nghiệp trong ngành nếu doanh nghiệp có đủ cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ
thuật để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt
Nam trong những năm qua là minh chứng rõ ràng nhất về cơ hội của các
doanh nghiệp trong ngành giao thông vận tải. Kim ngạch xuất nhập khẩu liên
tục tăng trong những năm qua. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự đổi mới,
đồng thời phải xây dựng được hệ thống luân chuyển đáp ứng tốt yêu cầu vận
chuyển.
- Doanh nghiệp Dệt may – Da giầy: Một số dữ liệu: Đầu tư cơ sở hạ tầng
:nguyên phụ liệu Đổi mới đầu tư sản xuất, mở rộng hệ thống phân phối, đầu
tư chiều sâu tại thị trường trong nước. Dự án xây dựng nhà máy dệt vải denim
(vải may quần jean) với công suất 30 triệu mét/năm đã được khởi công tại
Khu công nghiệp Hòa Xá (Nam Định), với tổng số vốn đầu tư 40 triệu USD.
Dệt may đã chính thức qua mặt dầu thô để vượt lên vị trí dẫn đầu trong danh
mục các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Ngành dệt may của Việt
Nam trong thời gian qua đã có sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp mới,
đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này đã làm cho
tốc độ tăng trưởng của toàn ngành trong năm qua đạt 33%, trong khi đó mỗi
một doanh nghiệp riêng lẻ chỉ có tốc độ tăng trưởng khoảng 15 -16%. Các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã và đang thực hiện bắt tay với nhiều doanh

nghiệp nước ngoài để xây dựng các nhà máy dệt may mới,đây là hướng đi
đúng để trang thủ nguồn vốn và kỹ thuật nước ngoài.Tạo và nâng cao hơn nữa
sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.


- Nhóm ngành năng lượng dầu khí: Đối với nhóm ngành tư liệu sản xuất
như ngành điện: đạt 112,6-117,3 tỷ kWh vào năm 2010, điện thương phẩm
đạt 97,1-101,1 tỷ kWh, đáp ứng cơ bản nhu cầu, đạt 4,48% giá trị sản xuất
toàn ngành; Dầu khí: Sản lượng khí vào năm 2010 ước đạt 11 tỷm3; Ngành
than: đến 2010 sản xuất 40 triệu tấn than sạch, đáp ứng đủ nhu cầu; Ngành
thép: sản xuất đạt 6,3-6,5 triệu tấn thành phẩm, đáp ứng 100% nhu cầu thép
xây dựng và 50% nhu cầu phôi; Hoá chất cơ bản: sản xuất 1,7 triệu tấn lân
đáp ứng 100% nhu cầu, 3 triệu tấn NPK và 2 triệu urê; Xi măng: tăng trưởng
10%/năm, tương đương sản lượng 45 triệu tấn vào 2010… Để đạt được sản
lượng như dự kiến thì các doanh nghiệp điện cần nâng cao hiện đại hóa cơ sở
khai thác, chế biến, sản xuất…Các nhà máy điện, nhà máy dầu đang được các
doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và hoàn thành theo đúng tiến độ để đi
vào hoạt động. Theo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam), dự kiến
trong tháng 4 tới, PetroVietnam cùng các đối tác KPI (Kuwait) và Idemitsu
(Nhật Bản) sẽ hoàn thành toàn bộ các tài liệu về việc thành lập liên doanh đầu
tư dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn tại Thanh Hoá để trình Chính phủ. Đó là dự án
khu liên hợp hóa dầu tại Long Sơn, Bà Rịa - Vũng Tàu, với tổng vốn đầu tư
khoảng
3,7
tỉ
USD.
Theo Quyết định số 619/QĐ-UBND của UBND tỉnh Sơn La, Công ty Cổ
phần Phát triển đa năng HTL (do APECI là một trong 3 cổ đông sáng lập) làm
chủ đầu tư dự án thủy điện To Buông có tổng mức đầu tư 109 tỷ đồng tại xã
Tú Nang, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. Đây là một trong những dự án đầu tư

trực tiếp trọng điểm trong lĩnh vực đầu tư năng lượng hạ tầng của IPA giai
đoạn từ nay đến 2010. Năng lượng dầu khí là ngành công nghiệp trọng điểm
quốc gia cần được chú trọng đầu tư phát triển .Giá trị xuất khẩu năm 2007 của
1 số ngành năng lượng: Dầu thô 8,5 tỷ USD, than đá trên 1 tỷ USD, tăng
11,3%. Để có thể duy trì và gia tăng sản lượng khai thác ,việc đầu tư xây
dựng mới các cơ sở sản xuất khai thác là hướng đi đúng của các doanh
nghiệp.Song song với quá trình đó là sự nỗ lực tìm kiếm các nguồn năng
lượng mới.Các nguồn năng lượng mới lại tiếp tục làm nảy sinh yêu cầu xây
dựng mới cơ sở khai thác,đây cũng là xu hướng phát triển của ngành năng
lượng hiện nay.


- Nhóm ngành xây dựng vật liệu: Một số dữ liệu về ngành vật liệu xây
dựng: China Steel, tập đoàn sản xuất thép lớn nhất của Đài Loan, thông báo sẽ
xây dựng nhà máy thép trị giá 1,5 tỷ USD ở Việt Nam. Nhà máy dự kiến được
khởi công vào tháng 6/2008 và đi vào sản xuất từ năm 2011 với công suất 1,7
triệu tấn/năm. Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng đã chính thức trao
giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty TNHH Một thành viên Phôi thép Úc
(viết tắt là VII). Theo dự án, tại giai đoạn đầu, tập đoàn sẽ xây dựng một nhà
máy sản xuất phôi thép lớn, công suất 500.000 tấn/năm áp dụng công nghệ
hiện đại châu Âu, với quy mô vốn đầu tư 70 triệu USD. Hoạt động xây dựng
ở nước ta hiện nay đang rất nóng,đặc biệt tại các đô thị lớn như Hà Nội,TP Hồ
Chí Minh,…Để có thể đáp ứng yêu cầu xây dựng các doanh nghiệp vật liệu
xây dựng phải tăng cung nhóm hàng vật liệu xây dựng.Đồng thời các doanh
nghiệp VLXD phải xây dựng hệ thống phân phối rộng khắp,đa dạng hóa mặt
hàng…
- Nhóm ngành du lịch Đây là thời điểm vừa là thời cơ vừa là thách thức đối
với ngành du lịch,năm 2007 lượng du khách đến Việt Nam là kỷ lục 4,2 triệu
khách.Ngành du lịch đặt mục tiêu năm 2008 là 5 triệu khách , Chỉ tiêu 5,5 – 6
triệu khách vào năm 2010 sẽ đạt sớm hơn hoặc nên đạt sớm hơn. Chỉ tiêu thu

4,5 tỷ USD cũng phải cao lên, chứ con số đó vẫn là khiêm tốn.Để nắm lấy cơ
hội này,để thực sự cất cánh,các doanh nghiệp trong ngành cần tiếp tục đẩy
mạnh đầu tư xây dựng hệ thống khách sạn theo tiêu chuẩn sao,để đáp ứng yêu
cầu của khách du lịch về phòng nghỉ,tăng cường đầu tư các khu giải trí ,…
tăng cường ,xúc tiến công tác quảng cáo,truyền bá hình ảnh Việt Nam ra thế
giới.
1.2.1. Đầu tư XDCB của doanh nghiệp nhà nước:
Thứ nhất, đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần phát triển nhanh kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nguồn vốn đầu tư của Nhà
nước trong thời gian qua đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ
thuật và kinh tế - xã hội ở các vùng, ngành trong cả nước; quan tâm đầu tư kết
cấu hạ tầng nông thôn và nông nghiệp, các vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều
khó khăn.Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kinh tế - xã hội ngày càng được phát
triển, hoàn thiện làm thay đổi diện mạo của nhiều địa phương trong cả nước,


một số đô thị mới ra đời; nhiều khu công nghiệp được hình thành; nhiều sân
bay, bến cảng được hiện đại hóa; giao thông đường bộ (quốc lộ, tỉnh lộ) phát
triển mạnh; giao thông nông thôn được cải thiện; vận tải đường sắt được nâng
cấp; bệnh viện, trạm y tế đạt tiêu chuẩn cao hơn; các trường đại học, cao
đẳng, trung học dạy nghề, các trường trung học phổ thông được xây dựng
khang trang hơn; các trường trung học cơ sở, tiểu học ở các vùng, kể cả các
vùng khó khăn đang nhanh chóng được kiên cố hóa... Tốc độ và quy mô tăng
đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần quan trọng vào tốc độ tăng GDP hằng
năm, tăng cường tiềm lực nền kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân.
Thứ hai, đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng đáng kể năng lực sản
xuất mới. của đất nước.
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Nhà nước thực sự có vai trò

chủ đạo, dẫn dắt, thu hút và làm cho các nguồn vốn của xã hội được huy động
cho đầu tư phát triển không ngừng tăng nhanh hằng năm và ngày càng đa
dạng. Tỷ trọng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước ngày càng tăng. Mặc dù ngân
sách còn hạn hẹp, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn dành một phần ngân sách
đáng kể cho đầu tư phát triển, trong đó phần lớn cho đầu tư xây dựng cơ bản.
Trong 3 năm (2001 - 2003), nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước nói
chung, vốn đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng (bao gồm nhiều nguồn vốn đầu
tư khác nhau như: vốn ngân sách, vốn tín dụng đầu tư Nhà nước, vốn doanh
nghiệp nhà nước...) luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội
và tăng lên qua các năm. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Nhà nước
thực sự giữ vai trò chủ đạo, tạo môi trường để thu hút mạnh các nguồn vốn
khác. Trong khi vốn đầu tư của Nhà nước tiếp tục là nguồn chủ lực chiếm
54,9%, thì các nguồn vốn khác đã tăng nhanh, vốn đầu tư nước ngoài chiếm
17,4%; vốn dân cư và tư nhân chiếm 25,7%; vốn huy động khác chiếm 2%.
Tính chung nguồn lực trong xã hội dành cho đầu tư phát triển, đặc biệt từ năm
2001 đến nay tăng khá.
Thứ tư, quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản có một số mặt tiến bộ
hơn những năm trước. Việc sửa đổi, bổ sung các quy chế về quản lý đầu tư,


xây dựng, đấu thầu đã tạo khung pháp lý hoàn thiện hơn về đầu tư xây dựng
cơ bản. Công tác chỉ đạo, điều hành, lập và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế
hoạch được quan tâm. Cơ chế quản lý đầu tư được cải tiến một bước theo
hướng tăng cường phân công, phân cấp cho các bộ, ngành và địa phương.
Tính công khai, minh bạch, công bằng, hợp lý trong việc phân bổ vốn đầu tư
xây dựng cơ bản theo Luật Ngân sách nhà nước mới đã được quan tâm hơn.
Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của các cơ quan chức năng của Chính
phủ, công tác giám sát của các cơ quan dân cử đối với đầu tư xây dựng cơ bản
bước đầu phát huy hiệu quả trong việc phát hiện yếu kém, tiêu cực trong quản
lý và thực hiện các dự án, công trình, góp phần hạn chế và khắc phục những

vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Một số vấn đề khác cũng rất đáng quan
tâm như:
Một là, số dự án, công trình sử dụng vốn đầu tư trong câu đối ngân sách nhà
nước tăng lên qua các năm, không tương xứng với tốc độ tăng của vốn đầu tư.
Nhiều dự án, công trình được phê diệt không dựa vào khả năng cân đối nguồn
vốn,hay chưa đủ thủ tục cũng được ghi vốn. Biệc triển khai thực hiện dự án,
công trình kéo dài,không theo kế hoạch, khối lượng đầu tư dở dang nhiều.
Hai là. Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng cơ bản diễn ra
trong các dự án đầu tư thuộc các nguồn vốn, ở các ngành, các địa phương và
trong tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư, thậm chí một số dự án, công
trình bị thất thoát lớn do tham nhũng, vụ việc phải khởi tố hình sự ; các bộ
quản lý bị xử lý kỷ luật, truy tố trước pháp luật.
Ba là, số nợ dọn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn nhà nước ở mức
cao kéo dài, vẫn tiếp diễn và có xu hướng tăng, dẫn đến tình trạng chiếm dụng
vốn lẫn nhau, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh và công
ăn việc làm , đời sống của người lao động. Báo cáo của các bộ, ngành và địa
phương chưa phản ánh đầy đủ số nợ tồn đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Tình hình này sẽ rất khó khăn cho việc tổng hợp, phân loại và xử lý các khoản
nợ, nhất là các khoản nợ giữa các cấp ngân sách ở địa phương.


Bốn là, hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản thấp thể hiện cả ở tầm vĩ mô của nền
kinh tế và ở tầm vi mô của từng dự án, công trình, hạng mục công trình thuộc
các bộ, ngành, địa phương.


gánh nặng do hàng hóa tồn đọng gây ra…
II. Thực trạng đầu tư vào tài sản vô hình:
1. Đầu tư phát triển nguồn lực:


+ Đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ lao động:
Hoạt động đào tạo: chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp
vụ… Giáo dục cơ bản cung cấp những kiến thức cơ bản để phát triển
năng lực cá nhân. Giáo dục nghề và giáo dục đại học vừa giúp cho người
học có kiến thức đồng thời giúp cung cấp tay nghề, kỹ năng, chuyên môn
Với mỗi trình độ nhất định, người đọc đào tạo biết được họ sẽ phải đảm
nhạn những việc gì? Yêu cầu kỹ năng cũng như chuyên môn nghề nghiệp
phải như thế nào?
Vai trò của hoạt động giáo dục đào tạo đối với việc nâng cao chất
lượng lao động được cụ thể như sau:
Tăng tích lũy vốn con người đặc biệt tri thức và sẽ giúp cho việc sáng
tạo ra công nghệ mới, tiếp thu công nghệ mới. Do đó thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế dài hạn.
Tạo ra một lượng lao động có trình độ, có khả năng làm việc vứi năng
suất cao là cơ sở thúc đảy tăng trưởng nhanh và bền vững.
Bổ sung cho các dịch vụ y tế.
Dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và cải thiện chất lượng lao động.
Sức khỏe có tác động tới chất lượng lao động cả hiện tại và tương
lai.Người có sức khỏa tốt có thể mang lại nhưng lợi nhuận trực tiếp hoặc
gián tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung
cao. Vì vậy nhanh chóng tiếp thu kiến thức, kỹ năng.

2. Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ:
Nhu cầu hàng tồn kho ở các doanh nghiệp là khác nhau, ta đi xát các loại hình
doanh nghiệp. Doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp tiêu dùng, doanh
nghiệp thương mại.
Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam thường xuyên phải đối mặt với bài toán


nan giải: giải quyết lượng hàng hóa, tài sản tồn kho, chậm luân chuyển. Hàng

tồn kho có thể là hàng tồn trữ, hàng thừa từ việc xuất khẩu , hàng bán bị trả
lại… Mặc dù, doanh nghiệp đã cố gắng làm tốt ở khâu cung ứng, Marketting
nhưng do vốn tồn đọng, chi phí, mất mát nên trở thành mối trở ngại lớn.
Một phương pháp thường được sử dụng là bán thanh lý nhưng hiệu quả thấp,
ít người mua, tính cạnh tranh thấp , vốn thu hồ không cao.
Một phương pháp hiện đại là thông qua đấu giá trực tuyến daugia247.com,
trên trang Web hàng hóa , tài sản tồn đọng, chậm lưu chuyển, được tổ chức
bán theo phương thức đấu giá hiện đại và chuyên nghiệp. Thông qua sản đấu
giá, doanh nghiệp giảm thiểu gánh nặng do hàng hóa tồn đọng gây ra…
II. Thực trạng đầu tư vào tài sản vô hình:
1. Đầu tư phát triển nguồn lực:
- Đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ lao động:
Hoạt động đào tạo: chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ…
Giáo dục cơ bản cung cấp những kiến thức cơ bản để phát triển năng lực cá
nhân. Giáo dục nghề và giáo dục đại học vừa giúp cho người học có kiến thức
đồng thời giúp cung cấp tay nghề, kỹ năng, chuyên môn
Với mỗi trình độ nhất định, người đọc đào tạo biết được họ sẽ phải đảm nhạn
những việc gì? Yêu cầu kỹ năng cũng như chuyên môn nghề nghiệp phải như
thế nào?
Vai trò của hoạt động giáo dục đào tạo đối với việc nâng cao chất lượng lao
động được cụ thể như sau:
Tăng tích lũy vốn con người đặc biệt tri thức và sẽ giúp cho việc sáng tạo ra
công nghệ mới, tiếp thu công nghệ mới. Do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
dài hạn.
Tạo ra một lượng lao động có trình độ, có khả năng làm việc vứi năng suất
cao là cơ sở thúc đảy tăng trưởng nhanh và bền vững.
Bổ sung cho các dịch vụ y tế.
Dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và cải thiện chất lượng lao động.
Sức khỏe có tác động tới chất lượng lao động cả hiện tại và tương lai.Người
có sức khỏa tốt có thể mang lại nhưng lợi nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp bằng



việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung cao. Vì vậy nhanh
chóng tiếp thu kiến thức, kỹ năng.
- Hàng năm có khoảng 200.000 sinh viên tốt nghiệp ra trường song chỉ một
phần nhỏ có thể đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng nhân lực trung, cao cấp
của thị trường lao động. Nguồn lao động chất lượng cao hiện vừa thiếu về số
lượng, vừa thiếu về chất lượng.
- Nguồn nhân lực bậc cao mới chỉ đáp ứng được 30-40% yêu cầu của các
công ty . Nhiều doanh nghiệp có đủ khả năng tài chính muốn mở rộng sản
xuất kinh doanh, nhưng nguồn lao động hiện hành không thể đáp ứng được
nhu cầu, còn việc tuyển dụng người lao động chất lượng cao từ bên ngoài khó
khăn. Do thiếu lao động nên một người phải đảm nhiệm công việc nhiều hơn
dẫn đến chất lượng công việc giảm.
- Các doanh nghiệp chưa ý thức được tầm quan trọng của công tác quản lý và
phát triển nguồn nhân lực, thiếu hẳn cơ chế tổ chức rõ ràng để thu hút và giữ
nhân tài tới hiện tượng chảy máu chất xám.
- Nhiều công ty, tập đoàn lớn đã có kế hoạch tìm nhân tài ngay từ khi đối
tượng này còn ngồi trên ghế nhà trường.
Ví dụ , từ năm 2000, công ty Unilever đã thường nên tổ chức ngày hội quản
trị viên tập sự, thu hút khoảng 2000 sinh viên. Proter và Gamble có chương
trình Career camp,huấn luyện nghề nghiệp và học bổng học tập. Công ty
Pricewaterhousr Coopers tổ chức ngày hội giao lưu với sinh viên năm cuối.
- Lúng túng trong việc xử lý những tranh chấp lao động phát sinh do khung
pháp lý chưa hoàn thiện, do cơ chế và quá trình giải quyết tranh chấp chưa rõ
ràng, chưa phát huy vai trò của các tổ chức trung gian.
- Các doanh nghiệp còn liên kết với nhau, liên kết với nhà nước, mở lớp đào
tạo các ngành nghề nhầm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu
cầu công việc.
-Về quản trị nhân sự : tổ chức cồng kềnh , trong nội bộ của doanh nghiệp

chưa hình thành hệ thống thông tin chính thống để nhân viên có thể hiểu
được chiến lược của công ty.


Cách trả lương của một số doanh nghiệp không theo tiêu chí rõ ràng và không
theo kết quả công việc nên hạn chế về mức độ cống hiến của nhân viên trong
doanh nghiệp.

2.Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ :
- Đầu tư vào công nghệ: Ban chỉ đạo công nghệ thông tin quốc gia đã làm
một cuộc khảo sát việc ứng dụng công nghệ thông tin tại 217 doanh nghiệp và
những con số có được đã khiến mọi người không khỏi bất ngờ. Hiện các
doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đầu tư khoản chi phí rất thấp là 0,05-0,08%
doanh thu. Chính sách đầu tư cho công nghiệ thông tin của doanh nghiệp còn
nhiều bất cập . Đa phần doanh nghiệp chi đầu tư một lần cho hệ thống thông
tin và nâng cấp các ứng dụng, do đó dầu tư đã thấp và hiệu qur của nó càng
thấp hơn.
Cuộc khảo sát còn cho thấy đến thời điểm này vẫn có những doanh nghiệp
chưa có một ứng dụng công nghệ thông tin nào. Khối doanh nghiệp nhà nước
còn 10%, rong khi các thành phần doanh nghiệp khác thì có đến 60% chưa
đưa công nghệ t hông tin vào công việc của mìn. 40% doanh nghiệp chưa dám
đầu tư mạnh vào công nghệ thông tin vì không đủ nhân viên có trình độ đẻ
quản lý và khai thác. Các doanh nghiệp tuy có nhận thức bước đầu về tầm
quan trọng của công nghệ thông tin nhưng số lượng các doanh nghiệp có thể
khai thác được sâu khả năng của công nghệ thông tin mới chỉ dừng lại ở con
số ít ỏi. Một doanh nghiệp phát biểu:Nhiều người đã dùng máy tính làm các
loại văn bản từ khá lâu, nhưng máy tính có thể ứng dụng được vào công việc
gì nữa và làm như thế nào để thật hiệu quả, thì có lẻ đến 80% vẫn rất lúng
túng. Không có gì đáng ngạc nhiên khi chương trình quan trọng nhất, được sứ
dụng rộng rãi nhất trong các doanh nghiệp là quản lý tài chính, kế toán .

Khoản 88% số doanh nghiệp áp dụng công nghệ thông tin có sử dụng phần
mềm kế toán tài chính , nhưng ngay cả đối với những doanh nghiệp đã ứng
dụng công nghệ thông tin, chỉ có 20% các phần mềm thõa mãn được yêu cầu
của họ.53% phần mềm cài đặt trên máy tính trong năm 2003 là phần mềm
không có bản quyền, gây tổn thất khoảng 7,5 tỷ USD cho các nhà sản xuất.
Việt Nam có tỷ lệ quy phạm bản quyền phần mềm được công bố là 92% theo
điều tra của BSA, song mức thiệt hại về tài chính chỉ khoản 40,8 triệu USD ,
thua xa so với các nước trong khu vực và thế giới như Trung Quốc , Hàn
Quốc , Thái Lan,và Mỹ.Những năm gần đay, tình trạng xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ đang ngày càng có xu hướng gia tăng trên thế giới và ở Việt Nam.


Theo số liệu điều tra Tổ chức Hải quan thế giới thì giá trị hàng giả, hàng nhái
của thế giới năm 2006 vào khoảng 500 tỷ USD , chiếm 5-7% giá trị khối
lượng hàng hóa thế giới.
Cũng theo thông tin của vị Đại diện khu vực CA-TBD, Hội điện ảnh trong
một cuộc hội thảo về thực thi quyền sở hửu trí tuệ của hơn 10 nước trong khu
vực, trong đó tình trạng xâm phạm ở mức cao nhất là Trung Quốc , Malaysia ,
Thái Lan…. Và thấp nhất là Hàn quốc , Nhật Bản…
- Đầu tư vào nhãn hiệu hàng hóa: Nhãn hiệu có vị trí đặc biệt quan trọng và
trở thành’linh hồn’ của mỗi doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Hiện nay,
cùng với bằng sáng chế, ằng kiểu dáng công nghệ và tên gọi xuất xứ, nhãn
hiệu là một trong những đối tượng sở hữu công nghiệp đang được báo hộ
nhiều nhất ở Việt Nam. Mỗi năm, Cục Sở hữu trí tuệ đã nhận được không
dưới 17.000 đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa từ các doanh nghiệp trong nước
và hơn 100 quố gia trên thế giới.
Tuy nhiên, trong số hơn 110.000 nhãn hiệu được đăng ký và bảo hộ ở Việt
Nam chủ yếu là doanh nghiệp nước ngoài (chiếm ới 75%) và còn lại là của
doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù trong những năm qua, lượng đơn đăng ký từ
doanh nghiệp trong nước đã tăng leen đáng kể nhưng những còn không ít

doanh nghiệp Việt Nam còn thờ ơ với việc bảo hộ nhãn của mình.
Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhãn hiệu bị
nhái, bị đánh cấp, tranh chấp. Thực tế ở Việt Nam mỗi năm đã có tới trên
3.000 vụ xăm phạm quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý bằng các biện pháp
hành chính, hàng năm vụ làm giả và vi phạm nhãn hiệu bị xử tại tòa hình sự.
Đặc biệt, số vụ vi phạm sở hữu công nghiệp mỗi năm một tăng mạnh. Nếu
như năm 2000, mới chỉ có 176 vụ vi phạm thì đến năm 2002 đã tăng lên 395
vụ và năm 2004 là 404 vụ.
Theo ông Lê Văn Kiều, Chánh thanh tra Bộ khoa học Công nghệ, hàng năm,
thanh tra Bộ đã kết hợp cùng công an kinh tế phát hiện, xử lý hàng trăm vụ vi
phạm kiểu dáng, nhãn mác, nhãn hiệu hàng hóa. Không phủ nhận đã có nhiều
doanh nghiệp xây dựng, quan tâm đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của mình nhưng
cũng vẫn còn không ít đơn vị không đầu tư tạo dựng thương hiệu mà ăn cắp
nhái nhãn mác hàng hóa… để làm hàng hóa, hàng kém chất lượng.
Tại Việt Nam, đã có một số nhãn hiệu được định giá trong quá trình chuyển
nhượng và góp vốn kinh doanh như: p/s(được định giá 5 triệu USD năm


1996), Dạ Lan( được định giá 2,5 triệu USD vào năm 1997). Mặc dù mắc này
còn thấp so với các nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới nhưng nó là khá cao ở
Việt Nam và là minh chứng cho giá trị của nhãn hiệu các doanh nghiệp cần
phải giữ gìn, bảo vệ.
-Đầu tư vào bản quyền sáng chế
+ Tỷ lệ vi phạm bản quyền PM của Việt Nam năm 2004 là 92%- là một trong
những nước có tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm cao nhất thế giới với giá
trị vi phạm 55 triệu USD
Số bằng Việt Nam xin cấp bằng sáng chế cũng vô cùng thấp.Vào năm
2002,2003 và 2004 lần lượt là 2,7,và 2.
Trong khi đó năm 2005, Trung Quốc đang tiến mahj về bằng sáng chế. Các
nhà khoa học Trung Quốc có 2.452 đơn xin cấp bằng sáng chế.

So với năm 2004, số lượng đơn của Trung Quốc tăng hơn 43%, khiến nước
này từ vị trí 13 vượt lên đứng thứ 10 trong các nước có số bằng sáng chế lớn
nhất thế giới.
Theo WIPO, vào năm 2005, đã có hơn 143.000 đơn đăng ký các cấp bằn sáng
chế thuộc các lĩnh vực, tăng 9,4% so với năm 2004
5 quốc gia dẫn đầu trong việc đăng ký ằng sáng chế vẫn không thay đổi là các
nước Mỹ ,Nhật ,Đức, Pháp, Anh.
CÁc nhà sáng chế và các ngành công nghiệp Mỹ đã nộp 45.111 đơn xin cấp
ằng sáng chế, chiếm 33,6% tổng số đơn của năm 2005. Trong lúc Nhật đứng
thứ 2, chiếm 18,8%.
Bên cạnh đó, theo thống kê của WIPO, đây là năm thứ hai liên tiếp, tỉ lệ đơn
tăng cao nhất đến từ các nước Đông Bắc Á , tức Nhật Bản, HÀn Quốc và
Trung Quốc.Tất cả chiếm 24,1% tổng số đơn. Số đơn của Nam HÀn chiếm
3,5% và Trung Quốc chiếm 1,8% trong tổng số đơn xin cấp bằng sáng chế.
Số đơn của một số nước Đông Nam Á năm 2005: Brunei:13, Indonesia :
12,Malaysia:33, Philippines:34, Singapore:438,Thái Lan:10.
“ Tốc đọ gia tăng từ các nước Nhật abnr , HÀn Quốc, Trung Quốc tiếp tục trở
thành những trường hợp đặc biệt. Điều đó phản ánh sự phát triển mạnh mẽ
của sức mạnh công nghệ ở các nước này. Từ năm 2000, đơn xin cấp bằng


sáng chế của các nước Nhật , Hàn QUốc và Trung Quốc đã tăng lần lượt
162%,200%, 212%.
Bảng độc quyền sáng chế đã được cấp từ 1984 đến 2004

Năm

Số bằng độc quyền sáng chế đã được cấp cho
Người nộp đơn
Việt Nam


Người nộp đơn
nước ngoài

Tổng số

1984-1990

74

7

81

1990

11

3

14

1991

14

13

27


1992

19

16

35

1993

3

13

16

1994

5

14

19

1995

3

53


56

1996

4

58

62

1997

0

111

111

1998

5

343

348

1999

13


322

335

2000

10

620

630

2001

7

776

783

2002

9

734

743

2003


17

757

774

2004

22

676

698


3. Đầu tư cho hoạt động Marketing:
3.1 Đầu tư vào tài sản hữu hình thuộc lĩnh vực Marketing
Thực tế hiện nay cho thấy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam thường
không mấy chú trọng tới chiến lược Marketing. Ngay bản thân trong bộ máy
quản lý doanh nghiệp, các bộ phận sản xuất, kinh doanh hay bán hàng chỉ chú
trọng vào công việc chính là sản xuất và bán sản phẩm cho những khách hàng
“ có mối làm ăn ’’ từ trước. Họ ít khi lập ra những chính sách, kế hoạch,
những chiến lược marketing dài hạn, thậm chí là trong ngắn hạn . Chủ công
nghiệp thì luôn bận bịu với công việc quản lý và kinh doanh hàng ngày, họ
thường nghĩ rằng, “ trong đầu” mình đã vạch sẵn các chiến lược, rằng doanh
nghiệp đã có một đội ngũ kinh doanh, sản xuất giỏi, thế là đủ. Song, để có
được một chiến lược marketing hiệu quả, phải dành một khoảng thời gian nhất
định để phân tích thị trường, định hướng, cách thức… chứ không phải đơn
giản chỉ là những suy nghĩ trong đầu. Điều này đặt ra yêu cầu cho người qunr
lý đó là họ phải có những kiến thức nhất định về lĩnh vực marketing và các

lĩnh vực liên quan.
Một khó khăn cố hữu đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc thực thi
chiến lược Marketing, đó chính là vấn đè về vốn. Đối với các doanh nghiệp
lớn việc xây dựng một chiến lược Marketing được coi là công việc của các
cuyên gia, các nhà tư vấn, thiết kế và để thực hiện những chiến lược này,
không ít những công ty, tập đoàn lớn đã phải bỏ ra một số tiền khổng lồ.
Vậy thì làm thế nào để các doanh nghiệp vừa và nhỏ với vài nhân viên, kinh
phí hạn hẹp, không có nhiều thời gian có thể xây dựng và thực hiên được
chiến lowcj marketing cho doanh nghiệp mình? Hiện nay, có không ít các chủ
doanh nghiệp vẫn còn giữ quan điểm làm marketing có nghĩa là chi tiền để
quảng cáo.
Nhưng không , marketing là đầu tư để tạo dựng, định vị thương hiệu và tạo sự
khác biệt cho thương hiệu. Chính vì vậy mà khoản tiền chi ra để thực hiện
hoạt động Marketing là koanr đầu tư cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp chứ không phải là chi phí sản xuất.
3.2 Thương hiệu và sở hữu trí tuệ: hai tài sản quý của doanh nghiệp:


Cho đến thời điểm hiện nay, có một thực tế chắc chắn mà hầu hết các doanh
nghiệp Việt Nam đều đã nhận thức được đó là neus muốn tồn tại và phát triển
lâu dài thì phải không ngừng chủ dộng hội nhập kinh tế quốc tế theo xu hướng
chung của nền kinh tế đất nước. Mặc dù vậy để hội nhập kinh tế quốc tế quốc
tế theo xu hướng chung của nền inh tế đất nước. Mặc dù vậy dderr hội nhập
thành công, có rất nhiều vấn đề mang tính chiến lược các doanh nghiệp phải
tiến hành thực hiện. Trước sức ép của quá trình hội nhập ngày càng gia tăng
mạnh mẽ, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đồng thời thực hiện nhiều
công việc trong cùng thời điểm làm cho các doanh nghiệp Việt Nam vốn đang
có nhiều hạn chế trong hoạt động lại càng thêm phần phức tạp. Một trong
những hận chế lớn nhất của doanh nghiệp VN hiện nay là chưa chú ý nhiều
trong việc xây dựng chiến lược việc xây dựng chiến lược thương hiệu cũng

như chiến lược về sở hữu tris tuệ để chủ động hội nhập mặc dù chủ đề về
thương hiệu đã được nhiều các nhà nghiên cứu đề cập và khuyến cáo


×