VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TỐNG THỊ NGỌC PHƯỢNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO THANH NIÊN NÔNG THÔN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TỐNG THỊ NGỌC PHƯỢNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO THANH NIÊN NÔNG THÔN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
: 60 34 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Trần Khánh Đức
HÀ NỘI, năm 2017
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban giám
đốc, các khoa, phòng và quý thầy, cô trong Học viện Khoa học Xã hội đã tận tình và
tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình học tập. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến Giảng viên PGS.TS. Trần Khánh Đức đã trực tiếp hướng dẫn đề tài
cho tôi với tất cả lòng nhiệt tình và sự quan tâm sâu sắc.
Bên cạnh đó, tôi cũng gửi lời cảm ơn của mình đến lãnh đạo các Sở, ban
ngành ở tỉnh, bạn bè, đồng nghiệp, luôn quan tâm, tạo điều kiện, chia sẻ, động viên
tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô và
bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Chính sách công về “Thực hiện Chính sách đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn
từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các
đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Tống Thị Ngọc Phượng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, KINH NGHIỆM QUỐC TẾ & TRONG
NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO
THANH NIÊN NÔNG THÔN .................................................................................7
1.1. Một số khái niệm cơ bản ......................................................................................7
1.2. Nội dung cơ bản của ĐTN cho TNNT ...............................................................14
1.3. Tình hình tổ chức thực hiện chính sách ĐTN cho TNNT ở nước ta hiện nay ...18
1.4. Một số yếu tố tác động đến quá trình ĐTN cho TNNT ở nước ta hiện nay ......24
1.5. Kinh nghiệm của các nước và một số địa phương trong nước về chính sách phát
triển ĐTN cho TNNT ................................................................................................30
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO THANH NIÊN NÔNG THÔN Ở TỈNH QUẢNG NAM ...........................37
2.1. Thực trạng lực lượng TNNT tại tỉnh Quảng Nam .............................................37
2.2. Thực trạng về ĐTN cho TNNT tỉnh Quảng Nam ..............................................42
2.3. Thực trạng thực hiện chính sách về ĐTN, việc làm của nhà nước đối với TNNT
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ....................................................................................50
2.4. Đánh giá chung về thực hiện chính sách ĐTN cho TNNT tại Tỉnh Quảng Nam
...................................................................................................................................55
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO TNNT QUẢNG NAM ...................................................................................62
3.1. Các định hướng và mục tiêu ĐTN cho TNNT tỉnh Quảng Nam giai đoạn 20162020 ...........................................................................................................................62
3.2. Một số giải pháp thực hiện chính sách ĐTN cho TNNT tại tỉnh Quảng Nam. .66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CMKT
: Chuyên môn kỹ thuật
CN
: Công nghiệp
CNH, HĐH
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CSDN
: Cơ sở dạy nghề
CS GDNN
: Cơ sở giáo dục nghề nghiệp
ĐH, CĐ
: Đại học, Cao đẳng
ĐTN
: Đào tạo nghề
GTSX
: Giá trị sản xuất
HTX
: Hợp tác xã
KH – CN
: Khoa học – Công nghệ
KT – XH
: Kinh tế xã hội
LĐ
: Lao động
LĐ - TB & XH
: Lao động - Thương binh và Xã hội
LĐNT
: Lao động nông thôn
LĐTN
: Lao động thanh niên
LĐ – VL
: Lao động - Việc làm
LLTN
: Lực lượng thanh niên
NN
: Nông nghiệp
NT
: Nông thôn
NSNN
: Ngân sách nhà nước
THCS
: Trung học cơ sở
THPT
: Trung học phổ thông
TN
: Thanh niên
TNCS
: Thanh niên cộng sản
TNNT
: Thanh niên nông thôn
UBND
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
bảng
2.1.
Một số chỉ tiêu kinh tế của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 2015 (so sánh 2010)
Trang
38
2.2.
Trình độ học vấn TNNT tại các địa phương
39
2.3.
Trình độ CMKT của TNNT giai đoạn 2011 - 2015
40
2.4.
Cơ cấu TNNT chia theo nhóm ngành KT (2011 - 2015)
41
2.5.
Một số chương trình ĐTN đang thực hiện tại các cơ sở DN
45
2.6.
Đánh giá của DN đối với học sinh học nghề đang làm việc tại
các DN
49
DANH MỤC HÌNH
Số hiệu
Tên hình
Trang
1.1.
CSDN ảnh hưởng đến qui mô tuyển sinh giai đoạn 1960 – 2010
25
2.1.
Cơ cấu về nhóm tuổi trong độ tuổi LĐ tại tỉnh Quảng Nam
41
hình
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể
từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam đã thu
được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng trong việc xây dựng và phát triển
đất nước. Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình tổng quát là xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng
KT - XH, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Việt Nam đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế
thế giới với việc gia nhập các tổ chức Thương mại WTO, ASEM. Sự nghiệp CNH,
HĐH đã thúc đẩy sự phát triển KT - XH và quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra
nhanh, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch mạnh mẽ.
Hiện nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với 53,64 triệu lao
động NT, chiếm 70,3% trong tổng số LĐ của cả nước, trong đó lực lượng LĐ trong
nhóm tuổi 15-34 khoảng 21,1 triệu người (chiếm 37,5% lực lượng LĐ cả nước).
Đây là lực lượng LĐ dồi dào và năng động, đem lại nhiều cơ hội cho Việt Nam
trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế. Song thực tế hiện nay, lực lượng LĐ
TNNT được đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về nghề nghiệp chiếm tỷ lệ rất thấp,
hầu hết các kiến thức, kinh nghiệm LĐ TNNT sử dụng đều thông qua sự đúc rút
kinh nghiệm trong quá trình làm việc và sự truyền dạy lại của các thế hệ trước, do
đó không thể đáp ứng được với những yêu cầu của công việc phi NN. Chất lượng
của nguồn nhân lực vốn được xem là khâu then chốt để nâng cao tính bền vững của
nền kinh tế, của phát triển xã hội thì vẫn còn nhiều hạn chế hay nói đúng hơn là vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Mặt
khác vấn đề ĐTN và sử dụng LĐ đã được đào tạo đang còn nhiều bất cập như: Các
trường ĐH, CĐ ồ ạt mở rộng đào tạo đến cả bậc trung cấp nghề, nhưng hầu hết
trang thiết bị của các trường nghề đều rơi vào tình trạng lạc hậu. Có những trường
1
nghề hiện nay còn dùng các loại máy móc những năm 60 - 70 của thế kỷ 20 được
nhập từ các nước Ðông Âu; đội ngũ giáo viên cũng chưa thật sự đủ mạnh để có thể
truyền nghề cho học sinh của mình. Từ thực tiễn công tác đào tạo nói chung và
ĐTN nói riêng, chúng ta có thể nhận thấy một nghịch lý tồn tại hiển nhiên "thừa
thầy thiếu thợ", chưa kể tâm lý học trung cấp rất khó tìm được việc làm, nếu có thì
thu nhập cũng ở mức rất thấp. ĐTN cho TNNT là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước,
các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng LĐ nói chung và TNNT
nói riêng để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, NT.
Chính vì vậy, chính sách ĐTN cũng được Đảng, Nhà nước ta quan tâm và coi
đó là một nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển KT-XH nói chung, đặc biết
trong đó đói tượng được đào tạo nghề là TN ở vùng NT. Nghị quyết số: 25-NQ/TW
ngày 25/7/2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X “Về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác TN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” đã
chỉ rõ nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng LĐ trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và
cải thiện đời sống cho TN” [1] và Nghị quyết số: 26 -NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm
2008 về Nông nghiệp, Nông dân và NT, trong phần nhiệm vụ và giải pháp cụ thể đã
nêu: “Giải quyết việc làm cho LĐ là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương
trình phát triển KT-XH của cả nước; Có kế hoạch cụ thể về ĐTN và chính sách đảm
bảo việc làm cho LĐ, nhất là ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất...”.[2]
Trên tinh thần đó, ngày 27/11/2009, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định
1956/QĐ-TTg phê duyệt đề án 1956 về “ĐTN cho LĐNT đến năm 2020” và Hướng
dẫn số: 664/TNTBXH-TCDN ngày 09 tháng 3 năm 2010 của Bộ LĐ-TBXH về việc
xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án “ĐTN cho LĐNT đến năm 2020”
nhằm góp phần giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho NT và
hoàn thành mục tiêu chương trình quốc gia xây dựng NT mới. Trong đó, ĐTN cho
TNNT được xem là "chìa khóa" thành công cho nhiều chương trình, mục tiêu quốc
gia. Phát triển nông nghiệp, NT gắn liền với việc làm, thu nhập và đời sống của TN.
Chuyển dịch cơ cấu LĐ, cơ cấu kinh tế phải đồng nghĩa với trang bị nghề mới
và tạo việc làm mới cho TN. Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, mục tiêu xây dựng
2
NT mới..., chỉ có thể thành công khi lực lượng TN vững tâm với nghề nghiệp, với
nguồn thu nhập đủ để bảo đảm cuộc sống.
Đối với tỉnh Quảng Nam, Nghị quyết Đại hội Đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ
XXI (Nhiệm kỳ 2015 - 2020) về xây dựng và phát triển tỉnh Quảng Nam trong thời
kỳ CNH - HĐH đất nước đã xác định phương hướng phát triển đến năm 2020 là:
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu CN theo hướng phát triển CN công nghệ cao,
tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Tạo điều kiện thuận lợi
cho việc thành lập các hiệp hội ngành nghề để hợp tác, hỗ trợ phát triển sản xuất.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án đào tạo nghề cho LĐNT; ưu tiên đào tạo
nguồn nhân lực cho vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Huy động mọi
nguồn lực và tạo bước đột phá trong thu hút đầu tư để phát triển kinh tế nhanh, bền
vững; (...) phấn đấu đến năm 2020, Quảng Nam trở thành tỉnh khá của cả nước,
sớm trở thành tỉnh CN theo hướng hiện đại. [12]
Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam đã đề ra 04 chỉ tiêu trên
tất cả các lĩnh vực phát triển KT - XH, môi trường, an ninh, quốc phòng, xây dựng
Đảng... bước đầu đã tổ chức thực hiện đạt được nhiều kết quả tốt. Tuy nhiên, cùng
với các giải pháp khác nhằm đưa tỉnh Quảng Nam sớm hoàn thành nhiệm vụ trong
sự nghiệp CNH - HĐH vào năm 2020, thì ngoài việc đầu tư xây dựng đội ngũ quản
lý ở các cấp chính quyền, thì những chính sách đồng bộ để tạo cơ sở nâng cao một
lực lượng TTNT qua đào tạo trong thời gian đến ở tỉnh Quảng Nam, đây đang là
một thực tiễn cần được đầu tư nghiên cứu, giải quyết ở nhiều cấp độ khác nhau để
góp phần trở thành một chương trình hành động mang tính quyết định. Vì vậy,
nghiên cứu vấn đề “Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn từ
thực tế tỉnh Quảng Nam” là việc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Kể từ khi đề án ĐTN cho LĐ NT đến năm 2020 (Đề án 1956) và Quyết định
103 về phê duyệt Đề án “Hỗ trợ TN học nghề và tạo việc làm giai đoạn 20082015” được ban hành, ĐTN cho LĐNT trong đó có lực lượng TNTN đang
nhận được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương. Có một số luận án tiến
3
sỹ và bài báo bàn về vấn đề ĐTN cho LĐNT, giúp chúng ta có cái nhìn đa chiều
hơn đối với vấn đề này. Về thực trạng ĐTN cho LĐNT nói chung và cho TNNT
riêng, hiện nay có các công trình nghiên cứu, bài viết như: “ĐTN cho LĐNT vùng
đồng bằng Sông Hồng trong thời kì CNH, HĐH” của Nguyễn Văn Đại; “ĐTN cho
LĐ ở NT nước ta hiện nay” của Nguyễn Việt Quân - tạp chí Cộng sản; “Một số giải
pháp ĐTN cho TNNT hiện nay” của Nguyễn Thị Thu Hoà; Những công trình
nghiên cứu trên cung cấp cho tác giả luận văn một cái nhìn tổng quát về thực trạng
việc làm cho TNNT, nhu cầu đào tạo cũng như giải pháp để thúc đẩy việc thực hiện
chính sách ĐTN cho TNNT. Điểm chung của các công trình này đều nêu ra được
các vấn đề còn tồn tại trong công các ĐTN: “Công tác ĐTN cho LĐNT trong đó có
TNNT ở nước ta chưa được coi trọng đúng mức. Nhiều bộ, ngành, địa phương, cán
bộ và xã hội nhận thức chưa đầy đủ về ĐTN cho TNNT, coi ĐTN chỉ là cứu cánh,
có tính thời điểm, không phải là vấn đề quan tâm thường xuyên, liên tục và có hệ
thống. Công tác ĐTN cho TNNT còn cầm chừng, chưa có sự vào cuộc quyết liệt
của lãnh đạo các cấp, công tác điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho
TNNT còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, nhiều TN chưa nhận thức đầy đủ về tầm
quan trọng của việc ĐTN nên không mặn mà với các trung tâm dạy nghề”. Đây
chính là những nguyên nhân khiến cho công tác ĐTN chưa thực sự hiệu quả. Để
hoạt động ĐTN ngày càng đi vào đời sống thực tiễn, mang lại hiệu quả thiết thực
cho người dân thì: “Phải có sự “vào cuộc” mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị ở địa
phương; công tác ĐTN cho LĐNT phải sát với tình hình phát triển KT - XH của đất
nước và từng địa phương, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và có hiệu quả
thiết thực; Cần phải giải quyết vấn đề đầu ra sản xuất; Chú trọng phát triển ngành
nghề thủ công; Phải đào tạo về tác phong làm việc cho TNNT (tác phong CN…)”.
Nhìn chung, vấn đề ĐTN cho LĐNT đang ngày càng được Đảng và Nhà nước
giành nhiều sự quan tâm hơn. Những công trình nghiên cứu, những bài viết xoay
quanh vấn đề ĐTN cho LĐNT ngày càng nhiều. Nhưng những nghiên cứu, những
bài viết này chủ yếu được tiếp cận đối lượng LĐNT nói chung chưa quan tâm nhiều
đến lực lượng TNNT. Trong đề tài của mình, tôi chú trọng nhiều hơn đến các giải
4
pháp chính sách khuyến khích, chú trọng vào chính sự tham gia của TNNT trong
quá trình ĐTN thông qua việc xem xét các mong muốn của họ về việc ĐTN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1 Mục đích nghiên cứu
Tổng hợp, đánh giá cơ sở lý luận về chính sách ĐTN cho TNNT. Thực
trạng thực hiện chính sách ĐTN cho TNNT của Quảng Nam. Trên cơ sở đó
đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách ĐTN cho
TNNT tỉnh Quảng Nam đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về ĐTN cho TNNT và chính
sách ĐTN đối với TNNT ở Việt Nam hiện nay;
- Nghiên cứu so sánh kinh nghiệm thực hiện chính sách ĐTN đối với TNNT
của một số địa phương và quốc tế;
- Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện chính sách ĐTN đối với TNNT tại
tỉnh Quảng Nam;
- Đề xuất giải pháp thực hiện chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác ĐTN đối với TNNT tại tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thực hiện chính sách ĐTN đối với
TNNT tại tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu từ năm 2011 đến nay
- Về không gian: trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nền tảng là lý luận Mác-LêNin, các quan điểm, đường lối, chủ trương của
Đảng và Nhà nước về TN, giáo dục, đào tạo và chính sách ĐTN.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5
Trên cơ sở các tài liệu thống kê, điều tra TN, khảo sát nhu cầu học nghề, việc
làm hàng năm (2011-2016) của tỉnh Quảng Nam; các báo cáo về phát triển TN,
ĐTN; các chính sách hiện có của Đảng, Nhà nước và chính quyền của tỉnh Quảng
Nam trong việc phát triển nguồn nhân lực nói chung, phát triển ĐTN cho TNNT nói
riêng. Trong luận văn sử dụng phương pháp chủ yếu là phương pháp phân tích, tổng
hợp, ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa khoa học
Nhằm cung cấp thêm tài liệu nghiên cứu, tham khảo về ĐTN cho TNNT để
UBND tỉnh Quảng Nam nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về chính sách ĐTN,
đảm bảo phát triển lực lượng TN qua đào tạo tại khu vực NT phục vụ CNH - HĐH.
6.1. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn làm rõ thêm xu hướng xã hội hoá ĐTN theo quy luật thị trường
LĐTN, nhằm góp phần tham mưu các cấp lãnh đạo tỉnh Quảng Nam để chỉ đạo,
hoạch định và thực hiện chính sách ĐTN phù hợp trong điều kiện cụ thể của tỉnh.
- Luận văn cũng góp phần nêu lên những yêu cầu cơ bản của phát triển chính
sách ĐTN, để làm rõ thêm việc ĐTN cho TNNT là một trong những điều kiện quan
trọng phát triển nền KT tri thức.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế & trong nước về ĐTN và thực
hiện chính sách ĐTN cho TNNT.
Chương 2. Cơ sở thực tiễn về thực hiện chính sách ĐTN cho TNNT ở tỉnh
Quảng Nam.
Chương 3. Giải pháp thực hiện chính sách ĐTN cho TNNT tại tỉnh Quảng
Nam.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, KINH NGHIỆM QUỐC TẾ & TRONG NƯỚC
VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO THANH NIÊN NÔNG THÔN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm thanh niên, TNNT và đặc điểm của TNNT
1.1.1.1. Thanh niên
TN là một thuật ngữ được sử dụng thường xuyên, rộng rãi trong cuộc sống
hàng ngày cũng như trong các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Có rất nhiều
khái niệm về TN do các quốc gia trên thế giới quan niệm khác nhau.
Theo Điều 1 Luật TN thì TN là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi.
Điều 3 của Luật ghi rõ: TN có các quyền, nghĩa vụ của công dân theo quy định của
Hiến pháp, pháp luật và các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật. TN không
phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn
hoá, nghề nghiệp đều được tôn trọng và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. TN là
tương lai của đất nước, là lực lượng xã hội hùng hậu, có tiềm năng to lớn, xung kích
trong công cuộc xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc (Điều 4 Luật TN).
Điều lệ Đoàn TN Cộng sản Hồ Chí Minh quy định độ tuổi đoàn viên là những
công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi.
Điều lệ Hội Liên hiệp TN Việt Nam quy định độ tuổi hội viên là những người
từ 15 tuổi đến 35 tuổi.
Trong điều tra LĐ - VL hàng năm của Bộ LĐ-TB&XH, nhóm LĐTN thường
được xác định là nhóm từ đủ tuổi 15 đến hết tuổi 34.
Dưới góc độ khác, TN được hiểu là một nhóm xã hội đặc thù, bao gồm những
người trong độ tuổi từ 18 đến 30, có quan hệ gắn bó mật thiết với mọi giai cấp, tầng
lớp xã hội, có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, có vai trò to lớn trong hiện
tại và giữ vai trò quản lý sự phát triển tương lai của xã hội [35].
Có quan niệm về TN ở khía cạnh LĐ tự do cho rằng, TN là người LĐ tự do
7
trong độ tuổi TN (từ 15 đến 34 tuổi). Nói cách khác, TN là những người có năng
lực LĐ, được làm chủ sức LĐ của mình, được tự do tìm kiếm việc làm theo năng
lực, nguyện vọng của mình ở bất kỳ nơi nào [18]. Theo cách hiểu này, người LĐ TN là những người có sức LĐ và nhu cầu làm việc, sẵn sàng nhận làm các công
việc phù hợp. Đó là những TN cư trú ở đô thị đã tốt nghiệp THPT, CĐ, ĐH chưa
tìm được việc làm ổn định nhưng có nhu cầu và sẵn sàng nhận làm việc tìm kiếm
thu nhập cho bản thân và gia đình.
Bộ luật LĐ Việt Nam quy định rõ tại Điều 6: Người LĐ là người ít nhất đủ 15
tuổi, có khả năng LĐ và có giao kết hợp đồng LĐ. Trong đó, những ai đủ 15 tuổi
được coi là người đủ tuổi để tính là tuổi LĐ. Đối với nam hết tuổi 60 và đối với nữ
hết tuổi 55 được coi là hết tuổi LĐ. Do đó, tất cả những người đủ 15 và hết tuổi 59
đối với nam và hết 54 đối với nữ được coi là người trong độ tuổi LĐ.
Từ những phân tích nêu trên, tác giả Luận văn giới hạn đối tượng nghiên cứu
TN dưới góc độ ĐTN là những người LĐ trong độ tuổi từ đủ 15 đến hết 34 tuổi.
1.1.1.2. Thanh niên nông thôn
Từ một số khái niệm về TN, xét từ những nét đặc trưng của vùng NT, có thể
khái quát chung:
TNNT là những TN được sinh ra và lớn lên ở NT, trong độ tuổi từ đủ 15 đến
hết 34 tuổi, bao gồm nhiều đối tượng TN khác nhau như thợ thủ công, giáo viên,
công nhân, viên chức. TNNT chiếm chủ yếu trong cơ cấu TN ở địa phương.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn đánh giá cao vai
trò của TN, xây dựng chiến lược, giáo dục, bồi dưỡng, tổ chức TN thành lực lượng
xứng đáng kế tục sự nghiệp cách mạng. Ngày nay, TN được đặt ở vị trí trung tâm
trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người. Chăm lo, giáo dục, bồi
dưỡng và phát triển TN vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và
phát triển bền vững của đất nước.
TN nói chung và TNNT nói riêng là nguồn nhân lực quan trọng trong quá
trình phát triển KT - XH của đất nước. Đặc trưng chung nhất của TNNT ở hầu hết
các nước kém phát triển và đang phát triển, là dân số thường tăng nhanh do quản lý
8
lỏng lẻo, không gắn với phát triển kinh tế, dẫn tới tỷ lệ tăng dân số cao, không được
kiểm soát, lực lượng TN tăng nhanh hơn so với khả năng tạo việc làm của nền kinh
tế đã tạo ra sức ép nặng nề về việc làm và ĐTN ở khu vực NT. Trong khi đó, tư liệu
sản xuất cơ bản trong NN là đất đai thì có hạn. Nhiều thập kỷ qua chỉ số đất canh
tác bình quân mỗi TN không những không tăng lên mà còn giảm đi rất nhanh. Hai
khuynh hướng chính làm cho đất đai trong NN ngày càng ít đi là tăng dân số và quá
trình CNH, HĐH đất nước, trong đó có cả yếu tố đô thị hoá. Ở hầu hết các nước
trong quá trình đô thị hoá và CNH, xu hướng chung có tính quy luật là tỷ trọng dân
số NN, NT giảm dần. Tuy vậy, ở các nước đang và kém phát triển, tốc độ giảm vẫn
còn chậm, dân số và TNNT vẫn chiếm đại đa số trong tổng nguồn lực xã hội.
Chất lượng nguồn TNNT thấp hơn rất nhiều so với các vùng đô thị, tỷ lệ chưa
qua đào tạo cao. TNNT lệ thuộc nặng nề vào mùa vụ, chưa có việc làm thường
xuyên dẫn đến tình trạng di cư tự do đặc biệt là di cư theo mùa vụ, TN phổ thông ở
NT đi làm thuê ở các đô thị tăng lên khá nhanh. Thu nhập và thù lao TNNT thuộc
vào loại thấp nhất so với các lĩnh vực khác trong nền kinh tế quốc dân. Mức sống
của TN và dân cư NT thấp hơn nhiều so với thành thị.
Sự cách biệt giữa thành thị và NT, người giàu và người nghèo đang ngày càng
gia tăng. Khi nghiên cứu tìm nguyên nhân chính đưa đến sự phân hoá giàu nghèo,
sự cách biệt thu nhập giữa thành thị và NT, thì đại đa số đều tập trung ở vấn đề thời
gian sử dụng LĐTN hữu ích, điều đó đúng cả về lý luận và thực tiễn. Thực tế cho
thấy thời gian sử dụng LĐTN hữu ích mỗi nơi một khác, ở đâu có thời gian sử dụng
LĐTN hữu ích cao hơn thường có mức sống cao hơn. Ngoài ra, số tiền công cho TN
ở khu vực thành thị cũng cao hơn ở khu vực NT.
Thị trường LĐTN ở NT chưa phát triển, sức cạnh tranh của hàng hoá sức
LĐTN ở NT còn yếu. Nguyên nhân có nhiều nhưng chủ yếu vẫn là do phương thức
LĐTN ở NT chưa vươn lên sản xuất hàng hoá một cách đồng đều. Nhiều nơi trong
một thời gian dài vẫn duy trì lối đổi công dựa vào các quan hệ thân quen dòng họ.
Sức cạnh tranh yếu của thị trường LĐTN NT còn xuất phát từ đặc thù của lĩnh vực
sản xuất là NN, mang nặng tính chất thời vụ, việc làm không thường xuyên.
9
Ở Việt Nam, TNNT chiếm đại đa số về mặt số lượng trong xã hội, sức ép việc
làm và ĐTN của TNNT đang ngày một lớn do xu thế phát triển của xã hội. TNNT
là một lực lượng rất đông đảo, chiếm vị trí quan trọng ở NT, TNNT là chủ thể của
quá trình phát triển NN, NT. Hiện nay, Việt Nam có 53,64 triệu LĐNT, trong đó lực
lượng LĐ trong nhóm tuổi 15 - 34 khoảng 21,1 triệu người (chiếm 37,5% lực lượng
LĐ cả nước). Kết quả khảo sát tình hình TN đến thời điểm quý I năm 2015 của Bộ
LĐ-TB&XH cho thấy, 68,4% TNNT có trình độ học vấn thấp, trên 80% số TNNT
chưa qua ĐTN nên không có nhiều cơ hội việc làm... Như vậy, phần lớn TNNT
nước ta hiện nay thiếu việc làm do ít có cơ hội được ĐTN. Tuy nhiên, thực tế hiện
nay nhiều TN (trong đó có TN tốt nghiệp các trường ĐH, CĐ) gặp nhiều khó khăn
trong tìm kiếm việc làm do những hạn chế về trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh
nghiệm làm việc, kỹ năng làm việc, kỹ năng tìm kiếm việc làm (điều này được phản
ánh trong thực tế tại Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp của TNNT độ tuổi 15 -34 tại thời
điểm quý I/2015 là 12,2%, cao gần gấp 6 lần tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi LĐ của
cả nước (khoảng 4,86%), cần có các hoạt động cụ thể để hỗ trợ TNNT có cơ hội tìm
kiếm việc làm, việc làm có năng suất, chất lượng [4]
1.1.1.3. Đặc điểm của TNNT
Đặc điểm của TNNT nước ta là cần cù, chịu khó, sẵn sàng tiếp thu kiến thức
mới để cải tạo thiên nhiên, giúp ích cho hoạt động NN của mình. Trong thời gian
qua, dưới tác động các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, một bộ phận
TNNT đã tỏ ra năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với cơ chế mới đã vươn lên trở
thành các chủ nhân, sản xuất giỏi, có ý thức về nghề nghiệp tạo việc làm cho bản
thân góp phần làm thay đổi bộ mặt của NT. Tuy nhiên, một trong những nhược
điểm của TNNT trong giai đoạn hiện nay là làm việc manh mún, do tập quán làm
việc theo cảm tính dẫn đến người nông dân không có định hướng phát triển hoạt
động NN rõ ràng, nếu như không có sự tư vấn chi tiết của các cơ quan chuyên môn,
của những người có kinh nghiệm. Hình thức tổ chức LĐTN ở NT còn mang tính tự
phát, vai trò và vị trí của TNNT trong kinh tế NT chưa được phát huy mạnh mẽ.
Đặc biệt trong nền kinh tế hiện nay, số đông TNNT bước vào cơ chế mới tỏ ra lúng
10
túng, thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin, thiếu vốn, thiếu kiến thức về kinh tế thị
trường, thị trường LĐTN và nghề nghiệp…,[13]
Dưới tác động của cơ chế chính sách mới, nhiều ngành nghề thủ công mỹ
nghệ truyền thống, dịch vụ, phát triển ở NT, làm cho cơ cấu TNNT thay đổi, tỷ lệ
cơ cấu LĐTN trong các ngành NN, lâm nghiệp và thủy sản năm 2011 chiếm 56%
đến năm 2015 còn 48,2% [36]. LĐTN phi NN có xu hướng tăng lên, đặc biệt ở
những địa phương có tốc độ đô thị hóa và CN hóa diễn ra nhanh chóng. Tuy nhiên,
ở nhiều địa phương, nhiều vùng kinh tế chưa phát triển, nhất là vùng sâu, vùng xa,
miền núi đời sống thu nhập còn nhiều khó khăn. Thiếu việc làm, không tìm được
việc làm, thời gian nhàn rỗi, phần lớn chưa có nghề và chưa được ĐTN là những
đặc trưng cơ bản của TNNT.
Chính những đặc điểm của TNNT như trên làm cho vai trò ĐTN càng trở nên
quan trọng, quyết định sự thành công của việc hiện đại hóa NN, NT nói chung và
thành công của xây dựng NT mới nói riêng.
1.1.2. Khái niệm ĐTN, các đặc trưng và hình thức của ĐTN
1.1.2.1. Nghề và các đặc trưng của ĐTN
- Nghề: Có rất nhiều khái niệm về nghề được đưa ra song chưa được thống
nhất, chẳng hạn có khái niệm được nêu: "Nghề là một tập hợp LĐ do sự phân công
LĐ xã hội quy định mà giá trị của nó trao đổi được". Nghề mang tính tương đối, nó
phát sinh, phát triển hay mất đi do trình độ của nền sản xuất và nhu cầu xã hội. Mặc
dù khái niệm nghề được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau song chúng ta có thể
nhận thấy một số nét đặc trưng nhất định sau:
+ Đó là hoạt động, là công việc về LĐ của con người được lặp đi lặp lại.
+ Là sự phân công LĐ xã hội, phù hợp với yêu cầu xã hội.
+ Là phương tiện để sinh sống.
+ Là LĐ kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi trong xã hội đòi hỏi
phải có một quá trình đào tạo nhất định.
- ĐTN (Dạy nghề): Hiện nay, thuật ngữ “dạy nghề” hoặc “ĐTN” được dùng
rất phổ biến, đã có truyền thống, điều này cũng phù hợp với tình hình thực tế đất
11
nước, xã hội đòi hỏi cần phải nhấn mạnh vai trò to lớn của ĐTN, trước yêu cầu đào
tạo nguồn nhân lực trực tiếp LĐ sản xuất có tay nghề, đáp ứng yêu cầu phát triển
KT - XH. Hơn nữa, cụm từ “ĐTN” thực chất là viết gọn của cụm từ “giáo dục kỹ
thuật và dạy nghề" đã được sử dụng ở nền giáo dục nước nhà từ lâu đời và rất quen
thuộc với nhà giáo trong hệ thống giáo dục.
Theo Điều 3, Luật giáo dục nghề nghiệp năm 2014 thì ĐTN được khái niệm
là: “Hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp
cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau
khi hoàn thành khoá học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp” [15]. Như vậy,
ĐTN có những đặc trưng cơ bản sau:
- ĐTN bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau, đó là:
+ Dạy nghề: “Là quá trình giáo viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết và
thực hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo, thành
thục nhất định về nghề nghiệp”.
+ Học nghề: “Là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và thực hành
của người LĐ để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất định”.
- ĐTN cho TN là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho TN để họ nắm vững nghề
nghiệp, chuyên môn bao gồm ĐTN mới, ĐTN bổ sung, đào tạo lại nghề.
Như vậy, xác định rõ ranh giới giữa đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại nghề
hiện nay là một việc phức tạp, khó khăn.
1.1.2.2. Các hình thức ĐTN
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của ĐTN là xác định các hình thức đào
tạo thích hợp. Hình thức ĐTN là cơ sở để xây dựng kế hoạch ĐTN, đồng thời cũng
là cơ sở để tính toán hiệu quả của ĐTN. Tùy theo yêu cầu và điều kiện thực tế có
thể áp dụng hình thức đào tạo này hay hình thức đào tạo khác, những hình thức
ĐTN đang được áp dụng chủ yếu hiện nay là:
- Kèm cặp trong sản xuất: Là hình thức đào tạo trực tiếp tại nơi làm việc, chủ
yếu thực hành ngay trong quá trình sản xuất. Kèm cặp trong sản xuất được tiến hành
dưới hai hình thức: kèm cặp theo cá nhân và kèm cặp theo tổ chức, đội sản xuất.
12
Với kèm cặp theo cá nhân, mỗi người học nghề được một công nhân giỏi, thợ giỏi
hoặc người có trình độ tay nghề cao hướng dẫn (Người hướng dẫn). Người hướng
dẫn vừa sản xuất vừa tiến hành dạy nghề theo kế hoạch. Với hình thức kèm cặp theo
tổ, đội sản xuất, người học nghề được tổ chức thành từng tổ và phân công cho
những người hướng dẫn dạy nghề thoát ly sản xuất chuyên trách trình độ nghề
nghiệp và phương pháp sư phạm nhất định. Quá trình đào tạo được tiến hành qua
các bước:
+ Bước 1: Người hướng dẫn vừa sản xuất vừa hướng dẫn người học nghề.
+ Bước 2: Giao việc làm thử, người học nghề bắt tay vào làm thử dưới sự
kiểm tra uốn nắn của người hướng dẫn.
+ Bước 3: Giao việc cho người học nghề khi người học nghề có thể tiến hành
công việc độc lập được, người hướng dẫn vẫn thường xuyên theo dõi giúp đỡ.
- Hình thức mở các lớp trong doanh nghiệp, cơ sở sản xuất: Là các lớp do
doanh nghiệp hoặc cơ sở sản xuất tổ chức nhằm đào tạo riêng cho mình hoặc cho
các doanh nghiệp, cơ sở xuất cùng ngành, cùng lĩnh vực. Chủ yếu ĐTN cho công
nhân mới được tuyển dụng, đào tạo lại nghề, nâng cao tay nghề, chuyển giao công
nghệ, kỹ thuật mới. Hình thức đào tạo này không đòi hỏi có đầy đủ cơ sở vật chất,
kỹ thuật riêng, không cần bộ máy chuyên trách mà dựa vào các điều kiện sẵn có của
doanh nghiệp. Chương trình đào tạo gồm hai phần: lý thuyết và thực hành sản xuất,
phần lý thuyết được giảng tập trung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật phụ trách, phần
thực hành được tiến hành ở các phân xưởng, cơ sở sản xuất do các kỹ sư hoặc công
nhân lành nghề hướng dẫn cho người học nghề
- Hình thức đào tạo ở các trường chính qui: Đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày
càng phát triển trên cơ sở kỹ thuật hiện đại, các Bộ hoặc Ngành thường tổ chức dạy
nghề tập trung, qui mô lớn, đào tạo công nhân có trình độ cao, chủ yếu là đào tạo
đội ngũ công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên có trình độ cao. Thời gian đào tạo tùy
theo nghề đào tạo và trình độ đào tạo, ra trường được cấp bằng nghề, chứng chỉ
nghề. Khi tổ chức các trường dạy nghề cần phải có bộ máy quản lý, đội ngũ giáo
viên chuyên trách và cơ sở vật chất riêng cho đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào
13
tạo các trường cần phải đảm bảo các điều kiện sau đây:
+ Phải có đội ngũ giáo viên đủ khả năng chuyên môn và kinh nghiệm giảng dạy.
+ Phải được trang bị máy móc, thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập, các
phòng thí nghiệm, xưởng trường. Nhà trường cần tổ chức các phân xưởng sản xuất
vừa phục vụ cho giảng dạy vừa sản xuất của cải vật chất cho xã hội. Nếu không có
điều kiện tổ chức xưởng sản xuất thì nên để gần các doanh nghiệp lớn của ngành,
tạo điều kiện thuận lợi cho dạy và học. Các tài liệu và sách giáo khoa phải được
biên soạn thống nhất cho các nghề, các trường.
1.1.3. Khái niệm chính sách và thực hiện chính sách ĐTN cho TNNT
Khái niệm chính sách công: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định
chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể và giải pháp,
công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác
định" (TS. Đỗ Phú Hải, 2012, 2014). Nhà nước là cơ quan duy nhất được ban hành
chính sách, vì vậy mục đích của chính sách công là vừa đảm bảo quyền lợi của đa
số cá nhân trong xã hội và thể hiện được quyền lực của nhà nước. Khi Nhà nước
đưa ra các quyết định để thực hiện mục tiêu tổng quát về phát triển KT - XH cần
phải tính tới vai trò của con người để thực hiện các quyết định đó, đây được xem là
nguồn lực quan trọng có ý nghĩa quyết định quá trình phát triển của mỗi quốc gia.
Theo định nghĩa nêu trên thì chính sách ĐTN cho TNNT chính là mục tiêu và giải
pháp mà Nhà nước đưa ra trong đó tạo sự đảm bảo quyền lợi đối với TNNT nhằm
mục đích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện chuyển đổi cơ cấu việc
làm trong phát triển nền kinh tế đất nước.
1.2. Nội dung cơ bản của ĐTN cho TNNT
ĐTN cho TNNT là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia,
đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng LĐNT, đáp
ứng yêu cầu CNH-HĐH nông nghiệp, NT. Do tính đặc thù của TNNT, nên việc
ĐTN cho TNNT cần phải có những cách thức tổ chức phù hợp với từng nhóm đối
tượng. Để xây dựng được các mô hình ĐTN phù hợp, chúng ta cần nghiên cứu triển
khai một số nội dung chủ yếu sau:
14
1.2.1. Xác định nhu cầu sử dụng TN qua ĐTN và nhu cầu học nghề của TN
Thứ nhất, khi xác định nhu cầu chúng ta phải triển khai các hoạt động điều tra,
khảo sát nhu cầu sử dụng nhân lực qua ĐTN trong các ngành kinh tế, vùng kinh tế
và từng địa phương. Việc “nắm” nhu cầu phải đi trước một bước và phải triển khai
thường xuyên với quy mô và mức độ khác nhau, để kịp thời bổ sung những thông
tin nhu cầu về những nghề mới với quy mô và trình độ phù hợp. Nhu cầu sử dụng
LĐTN chính là “đầu ra” của đào tạo, qua đó có thể biết được cần đào tạo những
nghề gì với trình độ nào.
Thứ hai, đồng thời với việc nắm thông tin về nhu cầu sử dụng LĐTN, cần thiết
phải khảo sát nhu cầu học nghề của đối tượng, nghĩa là cần có sự phân nhóm đối
tượng để tổ chức các khoá đào tạo phù hợp. Vì vậy, có thể có những đối tượng chỉ có
thể tham gia được các khoá đào tạo ngắn hạn, nhưng cũng có nhóm đối tượng (ví dụ
từ 16- 24 tuổi) có thể và có điều kiện tham gia các khoá đào tạo dài hạn. Mặt khác,
cần thiết phải phân các nhóm đối tượng trên trình độ học vấn, đối với những người có
trình độ học vấn thấp, họ có thể theo học các khoá dạy nghề ngắn hạn (sơ cấp nghề và
dạy nghề thường xuyên). Ngược lại, đối với những người có học vấn cao hơn (THCS,
THPT...) có đủ điều kiện có thể theo các khoá học nghề ở trình độ trung cấp hoặc cao
đẳng nghề. Hơn nữa, cũng phải khảo sát đặc điểm và thói quen canh tác của TN ở các
vùng miền khác nhau để có thể có các hình thức đào tạo phù hợp.[25]
1.2.2. Xác định ngành nghề đào tạo cho TNNT
Dựa trên kết quả điều tra nhu cầu sử dụng TNNT qua ĐTN và nhu cầu của các
đối tượng TNNT học nghề, trên cơ sở phân tích các yếu tố về KT - XH, đặc điểm
của TN theo từng vùng miền và từng thời điểm khác nhau để xác định ngành nghề
đào tạo của TNNT, nhằm tạo cơ hội tìm được việc làm bao gồm cả việc làm tự tạo
và việc làm nhận lương, làm công. Củng cố và hoàn thiện công tác ĐTN các ngành
truyền thống trong lĩnh vực NN và phát triển NT đáp ứng tốt yêu cầu của xã hội và
nâng cao đời sống của TNNT như: các ngành trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng và
nuôi trồng thủy sản. Các nghề này sẽ được tập trung cho các đối tượng là TNNT với
định hướng ở lại NT làm NN. Do vậy, hình thức đào tạo trước mắt chủ yếu vẫn sẽ là
15
sơ cấp và dạy nghề thường xuyên nhằm nâng cao tay nghề, chuyên môn kĩ thuật cao
đối với từng chuyên ngành hẹp. Tuy nhiên, cần lưu ý NN sẽ dần tiến lên hiện đại và
TNNT cũng cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp hơn trong dài hạn.
Do kiến thức, kĩ năng và hiểu biết của TNNT từ trước đến nay về lĩnh vực
nghề phi NN này còn khá hạn chế, nên cần có hình thức tổ chức đào tạo đặc thù, tốt
nhất là gắn với mạng lưới các ngành nghề sản xuất kinh doanh, dịch vụ tại các địa
phương (đào tạo tại cơ sở sản xuất kinh doanh). Tại những vùng mà các hoạt động
phi NN này chưa phát triển cần có nghiên cứu phát triển mạng lưới sản xuất kinh
doanh này trước nhằm mục tiêu phát triển KT - XH địa phương một cách tổng thể,
cân đối, hiệu quả và đúng định hướng. Tập trung đào tạo ngành nghề phi NN, đặc
biệt là các ngành nghề mang tính phục vụ và hỗ trợ cho sản xuất CN và dịch vụ
như: chế biến nông, lâm, thủy, hải sản, tiểu thủ CN, dịch vụ NN... Các nghề này
được đào tạo cho TN ở lại NT làm các nghề sản xuất phi NN. Ngoài ra, việc khôi
phục lại các làng nghề tại các địa phương, thu hút TNNT tham gia vào học nghề và
sống được với các nghề truyền thống là một trong những yếu tố chuyển đổi TN lao
động NN sang TN lao động phi NN
1.2.3. Lựa chọn phương thức ĐTN cho TNNT
Để nâng cao hiệu quả đào tạo, việc tổ chức các khoá học với các hình thức và
phương thức khác nhau đối với TNNT rất quan trọng (khái quát lại là các mô hình
ĐTN). ĐTN cho TNNT có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như
dạy tại các cơ sở dạy nghề; ĐTN theo đơn đặt hàng của các tập đoàn, Tổng công ty;
ĐTN lưu động (tại xã, thôn, bản); ĐTN tại doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh
doanh, dịch vụ; ĐTN gắn với các vùng chuyên canh, làng nghề;... Phương thức đào
tạo cũng cần phải đa dạng hoá, phù hợp với từng nhóm đối tượng và điều kiện của
từng vùng, miền..., như đào tạo tập trung tại CSDN đối với những TN chuyển đổi
nghề nghiệp (trung tâm dạy nghề, trường trung cấp, CĐ nghề, các trường khác có
tham gia dạy nghề...); ĐTN lưu động cho TN làm nông dân hiện đại tại các làng, xã,
thôn, bản; ĐTN tại nơi sản xuất, tại hiện trường theo kiểu FFS (Farmer Fiel
Schools)...[11].
16
Đối với nhóm đối tượng TNNT đào tạo để có thể làm NN hiện đại, do đặc thù
của sản xuất NN, TN làm việc theo mùa vụ, nên các khoá đào tạo cần gắn với vừa
học, vừa làm việc của TN, hoặc phải lựa chọn thời gian nông nhàn của TN để tổ
chức khoá học cho phù hợp. Mặt khác, do tính đa dạng của vật nuôi, cây trồng NN,
khoá học nên được tổ chức gắn với thời kỳ sinh trưởng của vật nuôi, cây trồng.
Điều này đòi hỏi việc xây dựng chương trình đào tạo phải rất linh hoạt và khoa học.
Ngoài ra, đối với TN định hướng sẽ chuyển hẳn ra các khu vực thành thị với
các công việc trong CN, kinh doanh, dịch vụ… cũng cần được quan tâm ĐTN một
cách bài bản. Các ngành nghề đào tạo, nội dung, phương pháp thực hiện cần được
nghiên cứu kĩ và áp dụng sao cho phù hợp với cả phía sử dụng TN và TN tham gia
học nghề. Hình thức này cần phối hợp cả ngắn và dài hạn hoặc định kỳ để đáp ứng
yêu cầu về mặt thời gian và tài chính của người đi học nghề do nhóm đối tượng này
thường bị ràng buộc khá chặt chẽ về các vấn đề này. Nên đặc biệt chú ý đến hình
thức đào tạo tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất… để có thể tạo điều kiện đáp ứng yêu
cầu của cả LĐTN và người sử dụng LĐTN. Cần nghiên cứu đề ra các biện pháp hỗ
trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động đào tạo kiểu này nhằm
đảo bảo tính hiệu quả và bền vững đồng thời tạo sự bảo đảm nhất định cho LĐTN
sau khi được ĐTN.
1.2.4. Đánh giá kết quả ĐTN
Trong hoạt động đầu tư vào vốn con người, đặc biệt khi đầu tư vốn con người
vào TNNT (Hỗ trợ ĐTN cho TNNT), khi chúng ta đầu tư, hỗ trợ cho TNNT học
nghề đúng thời điểm, đúng giai đoạn thì hiệu quả mang lại kết quả cao. Nếu LĐ
TNNT được ĐTN sớm và đúng độ tuổi khi đó LĐ TNNT sẽ sớm nhận được kiến
thức kỹ năng lúc trẻ, điều đó giúp cho kết quả đào tạo TNNT tự tạo ra việc làm,
tăng năng suất trong hoạt động nghề nghiệp, cải tiến kỹ thuật và quản lý hiệu quả
hơn [8]. Việc đánh giá kết quả ĐTN có thể tập trung ở hai tiêu chí cơ bản sau:
- Chất lượng ĐTN: Là tiêu chí đánh giá khó khăn, không thể trực tiếp đo đếm
được và cảm nhận được. Chất lượng ĐTN phản ánh trạng thái ĐTN nhất định và
trạng thái đó thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố tác động đến nó. Sẽ không thể biết
được chất lượng ĐTN nếu chúng ta không đánh giá thông qua một hệ thống các chỉ
17