Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.42 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ PHƢƠNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số:

60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 22 tháng 02 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Thị Phƣơng

`


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN

1
9

1.1. Một số khái niệm cơ bản và lý thuyết đánh giá nhu cầu đào tạo

9

1.2. Sự cần thiết đào tạo nghề cho lao động nông thôn

15

1.3. Các hình thức đào tạo nghề cho lao động nông thôn

18

1.4. Nội dung đào tạo nghề cho lao động nông thôn

20


1.5. Chu trình thực hiện chính sách đào tạo nghề

23

1.6. Các hình thức thực hiện chính sách đào tạo nghề

25

1.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách đào nghề cho lao
động nông thôn.
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO
NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở TỈNH NINH BÌNH
2.1. Mục tiêu đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại tỉnh Ninh Bình
2.2. Các nội dung trong việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn ở tỉnh Ninh Bình
2.3. Đánh giá chung về thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động
nông thôn từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình

28
33
33
33
54

Chƣơng 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI TỈNH

63

NINH BÌNH.

3.1. Phương hướng đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại tỉnh Ninh
Bình
3.2. Các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề cho lao động
nông thôn tại tỉnh Ninh Bình

63
64

KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

75


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CĐN

Cao đẳng nghề

CNH – HĐH

Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

CSDN

Cơ sở dạy nghề


HTX

Hợp tác xã

KTXH

Kinh tế xã hội

KHCN

Khoa học công nghệ

KCN

Khu công nghiệp

LĐNT

Lao động nông thôn

LĐ-TB & XH

Lao động Thương binh và xã hội

NN&PTNT

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

NS


Ngân sách

NSTW

Ngân sách trung ương

NSĐP

Ngân sách địa phương

TCDN

Tổng cục Dạy nghề

TCN

Trung cấp nghề

TTDN

Trung tâm dạy nghề

UBND

Ủy ban Nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

STT


Số hiệu
bảng

1

Bảng 2.1

2

Bảng 2.2

Dân số trung bình phân theo huyện, thành phố

35

3

Bảng 2.3

Lao động đang làm việc phân theo ngành kinh tế

36

4

Bảng 2.4

5


Bảng 2.5

6

Bảng 2.6

Tên bảng
Dân số trung bình phân theo giới tính và thành thị
nông thôn

Thống kê đội ngũ giảng viên từ tháng 12/2013 đến
tháng 10/2016
Danh mục các nghề đào tạo cho lao động nông thôn
Thống kê kết quả đào tạo nghề từ năm 2013 đến
tháng 09/2016

Trang
34

42
46
55

Lao động nông thôn được đào tạo nghề từ năm
7

Bảng 2.7

2013 đến tháng 09/2016 từ nguồn Ngân sách Trung
ương và của Tỉnh


56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước đang phát triển, đang trong thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế theo hướng CNH-HĐH đất nước. Chính vì vậy, nguồn nhân lực
đóng vai trò hết sức quan trọng vì con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển của xã hội. Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con
người với tổng hòa các tiêu chí về thể lực, trí lực và tâm lực (những phẩm
chất đạo đức, tinh thần) tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã,
đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến
bộ xã hội [5].
Ngày nay, quan điểm phát triển nguồn nhân lực ngày càng chú trọng tới
nhu cầu của người lao động, khơi dậy tiềm năng của con người, gắn tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bên cạnh đó việc đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực cũng cần phải gắn với nhu cầu lao động của doanh
nghiệp và các cơ quan tổ chức. Như vậy, một trong những điểm quan trọng
trong chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho đất nước đó là cần
coi trọng chính sách đào tạo nghề cho LĐNT hiện nay để có được nguồn nhân
lực đạt tiêu chuẩn cả về số lượng và chất lượng trong chiến lược phát triển
nông thôn mới.
Hiện nay cả nước ta có khoảng hơn 16 triệu hộ nông thôn với 38 triệu lao
động chiếm 69% số lao động cả nước. Đây là lực lượng lao động có vai trò
quan trọng trong quá trình thực hiện sự nghiệp CNH- HĐH đất nước và sự ổn
định chính trị đất nước. Như Đảng ta đã khẳng định: “Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp CNH- HĐH, xây dựng và bảo
vệ Tổ Quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển KT- XH bền vững,
giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái đất nước…Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng
1


hàng đầu trong quá trình CNH- HĐH đất nước”. Song thực tế hiện nay cho
thấy lực lượng LĐNT được đào tạo bồi dưỡng kiến thức về nghề nghiệp
chiếm tỷ lệ rất thấp, hầu hết các kiến thức nghề đều dựa vào kinh nghiệm lưu
truyền của gia đình hay tự học lẫn nhau. Chính vì vậy, năng suất lao động
chưa cao và chưa đáp ứng được với tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước
trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì thế, trong những năm qua,
Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều chủ trương, chính sách phát triển nguồn
LĐNT với sự đầu tư cho các cơ sở đào tạo, cho các tổ chức khuyến nông,
khuyến công, các tổ chức quần chúng là nhiệm vụ đào tạo, chuyển giao khoa
học công nghệ vào sản xuất để nâng cao chất lượng nguồn lao động. Vì vậy,
chất lượng nguồn LĐNT, nhất là trình độ tay nghề từng bước được nâng lên
tạo nên bước phát triển mới trong kinh tế nông thôn nước ta.
Một số chủ trương, chính sách của Đảng ta đối với công tác đào tạo nghề
cho LĐNT, cụ thể như:
Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính
phủ về Chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn “Ưu tiên
các nhóm lao động bị mất đất sản xuất do Nhà nước thu hồi, chuyển đổi mục
đích sử dụng đất; lao động thuộc diện chính sách, dân tộc thiểu số; lao động
nữ và lao động chưa có việc làm” [19].
Nghị quyết 26/NQ-TW ngày 05/08/2008, Hội nghị Ban chấp hành Trung
Ương khóa X về Nông nghiệp, Nông dân và Nông thôn
Quyết định số 1956/ QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”
Hướng dẫn số 664/ LĐTBXH-TDCN ngày 09/03/2010 của Bộ LĐTBXH về việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện đề án Đào tạo nghề cho
lao động nông thôn đến năm 2020”


2


Công văn số 4626/ BNN-KTHT ngày 12/06/2015 của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn về việc tăng cường chỉ đạo triển khai đào tạo nghề
nông nghiệp cho lao động nông thôn
Có thể nói các chủ trương, chính sách về đào tạo nghề cho LĐNT có
tính xã hội và nhân văn sâu sắc, tạo được sự đồng thuận của đông đảo các
tầng lớp nhân dân, đáp ứng được yêu cầu học nghề, tạo việc là ổn định, nâng
cao nguồn lực LĐNT. Các chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời của
Chính phủ, các Bộ/ Ngành đẩy mạnh các tiêu chí đào tạo nghề cho các địa
phương đang xây dựng đề án nông thôn mới.
Ninh Bình là tỉnh nằm ở phía Nam của Miền Bắc Việt Nam, nằm trên
tuyến đường giao thông xuyên Bắc – Nam, cách thủ đô Hà Nội hơn 90km. Với
diện tích 1.384km2, dân số gần 950 triệu người, Ninh Bình, thực hiện đường lối
đổi mới của Đảng và Nhà nước, những năm gần đây nền kinh tế của tỉnh đã có
nhiều khởi sắc, tạo nên những dấu ấn đáng ghi nhận. Nhằm đẩy mạnh thu hút
đầu tư vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, trong những năm qua
UBND tỉnh Ninh Bình đã tập trung chỉ đạo các ngành, các địa phương phối
hợp với các cơ quan chức năng trên địa bàn tạo môi trường thông thoáng cho
các nhà đầu tư, thực hiện các chính sách ưu đãi tiền thuê đất, thuế thu nhập
doanh nghiệp, lãi suất vay vốn, sử dụng các tiện ích cộng đồng. Nhờ môi
trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi, Ninh Bình đã thu hút được nhiều nhà đầu
tư trong và ngoài nước, tăng giá trị sản xuất công nghiệp, hàng năm đạt trên 15
ngàn tỷ đồng [28]. Ninh Bình có nhiều khu công nghiệp như KCN Gián Khẩu,
KCN Tam Điệp, KCN Khánh Phú, KCN Khánh Cư, KCN Phúc Sơn với hàng
trăm dự án đầu tư, thu hút một lượng lớn lao động trong và ngoài tỉnh. Ngoài
công nghiệp, Ninh Bình cũng phát triển mạnh về du lịch và nông nghiệp,
chuyển dịch sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản theo hướng sản xuất hàng

hóa, góp phần giải quyết việc làm cho lao động địa phương.

3


Hiện nay Ninh Bình là tỉnh đang trong quá trình CNH-HĐH và xây dựng
nông thôn mới, các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Ninh Bình rất chú trọng
công tác dạy nghề cho lao động. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến chất lượng
dạy nghề cho LĐNT nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của tỉnh. Tuy
nhiên, tỷ lệ LĐNT được tạo nghề còn thấp, mạng lưới cơ sở dạy nghề phát
triển không đồng đều, quy mô nhỏ, chất lượng dạy nghề chưa cao cụ thể như
một số trung tâm dạy nghề của tỉnh còn nhiều khó khăn, thiếu cơ sở vật chất,
đội ngũ giáo viên cơ hữu còn thiếu và yếu kinh nghiệm thực tiễn. Một số cơ sở
dạy nghề chưa thực sự năng động, nhạy bén để bắt kịp với những yêu cầu mới
về ngành nghề, trình độ đào tạo nhất là các yêu cầu về chất lượng nguồn nhân
lực của doanh nghiệp và thực tiễn của địa phương. Chưa quan tâm đúng mức
tới công tác hỗ trợ, giới thiệu và tư vấn việc làm là LĐNT.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu Đề tài “Thực hiện chính
sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình”, nhằm
đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, vướng mắc trong việc thực
thi chính sách đào tạo nghề cho LĐNT. Từ đó, đưa ra giải pháp tiếp tục thực
hiện và hoàn thiện chính sách đào tạo nghề cho LĐNT tại tỉnh Ninh Bình là
hết sức cần thiết để đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu lao động, thúc đẩy quá trình phát triển CNH- HĐH trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn
giàu đẹp và CNH-HĐH nông nghiệp-nông thôn thì việc đào tạo nghề cho
LĐNT là hết sức quan trọng và cần thiết. Bởi vì, không thể có một nông thôn
mới, một nước có nền kinh tế phát triển trong khi có hàng triệu lao động nông

dân không có tay nghề vững vàng. Chính vì lẽ trên, ngay sau khi Nghị quyết
Trung ương VII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ra đời, công tác đào tạo
nghề cho LĐNT đã được triển khai ở hầu hết các tỉnh trong cả nước. Ở Việt

4


Nam, về thực trạng đào tạo nghề cho lao động hiện nay có các công trình
nghiên cứu, các bài viết như:
- Năm 2004, PGS.TS Đỗ Minh Cương và TS Mạc Văn Tiến đã xuất bản
cuốn “Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn”. Cuốn
sách đã tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và phát triển lao động kỹ
thuật gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động phục vụ CNH, HĐH đất nước. Đây
là cuốn sách có nhiều bổ ích tham khảo cho nghiên cứu về đào tạo nghề cho
lao động nông thôn Việt Nam nói chung.
- Bài viết của PGS.TS. Đỗ Phú Hải (2014) “ Chính sách việc làm: Thực
trạng và giải pháp” Học viện Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học
Xã hội Việt Nam. Bài viết tập trung trình bày những kết quả nghiên cứu về
vấn đề lao động việc làm và các trở ngại chính sách trên cơ sở mục tiêu của
Đại hội Đảng lần thứ XI. Theo đó tác giả đã đưa ra những giải pháp và công
cụ chính sách nhằm cơ cấu lại và sử dụng hợp lý nguồn lực lao động xã hội để
phát triển nền kinh tế nước ta theo hướng mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu
nước mạnh dân chủ công bằng văn minh.
- Nguyễn Hoài Nam, (2015) với “Chính sách việc làm cho lao động nông
thôn trong bối cảnh di dân - Nghiên cứu tại một số tỉnh Bắc Trung bộ”. Luận
án tiến sĩ kinh tế- Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Luận án quán triệt đặc
điểm việc làm của LĐNT trong bối cảnh di dân phần lớn là lao động già và trẻ
em, thời gian lao động tăng lên, việc làm đa dạng hơn và phân tích nội dung chính
sách việc làm với năm bộ phận là: chính sách hỗ trợ học nghề; chính sách hỗ trợ
chuyển đổi nghề nghiệp; chính sách hỗ trợ đất đai sản xuất; chính sách hỗ trợ ứng

dụng kỹ thuật sản xuất và chính sách tín dụng ưu đãi tạo việc làm. Luận án chỉ ra
điều kiện tự nhiên; luật pháp về chính sách việc làm; tổ chức quản lý và phối hợp
thực hiện chính sách; nguồn lực thực hiện chính sách; khả năng nhận thức và tiếp
cận chính sách là những nhân tố cơ bản tác động đến việc thực thi chính sách việc
làm cho LĐNT trong bối cảnh di dân.

5


- Luận văn thạc sỹ “Các giải pháp đào tạo nghề và tạo việc làm cho
thanh niên tại Thành phố Đà Nẵng” (2011) của tác giả Phan Thị Thúy Linh,
đã phân tích rõ một số cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo nghề và tạo việc
làm, đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
nghề và tạo việc làm hiệu quả cho thanh niên thành phố Đà Nẵng đến năm
2020.
- Luận văn Thạc sỹ: “Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động
nông thôn từ thực tiễn Hội Nông dân Việt Nam” (2016) của tác giả Nguyễn
Thị Thu Trang đã phân tích rõ thực trạng hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT
đang được triển khai tại Hội Nông dân Việt Nam.
Nguồn tư liệu và các công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu quý giá
để tác giả nghiên cứu đề tài của mình. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên
cứu liên quan đến chính sách đào tạo nghề cho LĐNT. Tuy nhiên, vẫn chưa
có công trình nào nghiên cứu trực tiếp “Thực hiện chính sách đào tạo nghề
cho lao động nông thôn từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình”. Tác giả chọn đề tài này
để nghiên cứu luận văn, từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp tiếp tục
thực hiện chính sách đào tạo nghề cho LĐNT tại tỉnh Ninh Bình để phù hợp
với tình hình thực tế tại địa phương trên cơ sở những đường lối, quan điểm,
chủ trương phát triển kinh tế- xã hội của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Ninh
Bình đề ra trong những năm tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận, thực tiễn và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách
đào tạo nghề cho LĐNT tại Ninh Bình, từ đó đề xuất một số giải pháp đẩy
mạnh việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với phạm vi, mục đích nghiên cứu, luận văn phải giải quyết những
nhiệm vụ chính như sau:
1) Hệ thống hóa, phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo nghề và
6


thực hiện chính sách đào tạo nghề cho người lao động ở nông thôn.
2) Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách đào tạo nghề
cho lao động nông thôn tại tỉnh Ninh Bình.
3) Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đào
tạo nghề cho lao động nông thôn tại tỉnh Ninh Bình, nhằm đáp ứng yêu cầu
mới của phát triển kinh tế, xã hội trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn tại tỉnh Ninh Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi không gian: Địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Về phạm vi thời gian: Giai đoạn 2011- 2016
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội
và phương pháp nghiên cứu chính sách công. Lý thuyết chính sách công được
áp dụng qua thực tiễn giúp cho hình thành lý luận về chính sách chuyên
ngành đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng số liệu thứ cấp. Số liệu, thông tin phục vụ
nghiên cứu được thu thập qua các báo cáo có liên quan đến các đề tài nghiên
cứu, số liệu thống kê, báo cáo tình hình kinh tế, xã hội, đào tạo nghề của Sở
LĐTB &XH tỉnh Ninh Bình, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Ninh Bình…Một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn này như phương
pháp phân tích tài liệu, phương pháp tổng hợp, thống kê, phương pháp so
sánh.
Nghiên cứu này tìm hiểu, phân tích vấn đề đào tạo nghề cho lao động
nông thôn theo góc nhìn của chu trình chính sách công, từ xác định vấn đề
7


chính sách đến giám sát đánh giá chính sách, điều chỉnh chính sách. Các
khoảng trống chính sách đặc biệt được lưu ý, từ đó tìm hiểu các yếu tố tác
động, các nguyên nhân và đưa ra các giải pháp chính sách phù hợp, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho phụ nữ nông thôn tại địa bàn nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu này được tiến hành thông qua việc vận dụng một số khái
niệm liên quan đến đào tạo nghề, lý thuyết như lý thuyết nhu cầu, lý thuyết về
chu trình chính sách … để tìm hiểu về thực trạng thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho LĐNT hiện nay, nhu cầu đào tạo nghề của họ và tình hình đào tạo
nghề cho LĐNT. Đồng thời đề tài được coi như là một luận chứng góp phần
làm sáng tỏ hơn cho những lý thuyết kể trên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu được thực hiện nhằm làm sáng tỏ thực trạng thực hiện chính
sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, những
nhu cầu về đào tạo nghề và tình hình đào tạo nghề cho LĐNT và các giải
pháp đào tạo nghề cho LĐNT nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH

trong thời gian tới. Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được dùng
làm tài liệu tham khảo cho các cá nhân, tổ chức quan tâm khi nghiên cứu về
các vấn đề liên quan.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động
nông thôn ở tỉnh Ninh Bình
Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
lao động nông thôn tại tỉnh Ninh Bình.
8


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1. Một số khái niệm cơ bản và lý thuyết đánh giá nhu cầu đào tạo
-

Khái niệm về nghề và đào tạo nghề:
Cho đến nay có rất nhiều thuật ngữ „nghề” được hiểu và định nghĩa theo

nhiều cách khác nhau:
Các nhà khoa học ở Nga đưa ra khái niệm: Nghề là một loại hoạt động
lao động đòi hỏi có sự đào tạo nhất định và thường là nguồn gốc của sự sinh
tồn. Ở Anh, khái niệm nghề được quan niệm là công việc chuyên môn đòi hỏi
một sự đào tạo trong khoa học, nghệ thuật. Còn ở Đức, khái niệm nghề là hoạt
động cần thiết cho xã hội ở một lĩnh vực lao động nhất định đòi hỏi phải được

đào tạo ở trình độ nào đó. Ở Pháp, khái niệm nghề được hiểu đó là một loại
lao động có thói quen về kỹ năng, kỹ xảo của con người để từ đó tìm được
phương tiện sống.
Ở Việt Nam, định nghĩa về “nghề” rất đa dạng song chưa được thống
nhất, tập hợp lại. Có tác giả cho rằng nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động
mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ
năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được
những nhu cầu của xã hội. Ở một khía cạnh khác, nghề là một lĩnh vực hoạt
động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri
thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào
đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội. Theo giáo trình Kinh tế lao động
của Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân thì khái niệm nghề là một dạng xác
định của hoạt động trong hệ thống phân công lao động của xã hội, là toàn bộ
kiến thức (hiểu biết) và kỹ năng mà một người lao động cần có để thực hiện
các hoạt động xã hội nhất định trong một lĩnh vực lao động nhất định.
9


Mặc dù các khái niệm nghề trên được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau
song chúng ta có thể nhận thấy một số nét đặc trưng sau:
+ Nghề là hoạt động chuyên làm của con người được lặp đi lặp lại.
+ Nghề gắn liền với những kiến thức và kỹ năng, đó là kết quả của quá
trình được đào tạo hay tích lũy từ kinh nghiệm.
+ Nghề được hình thành do sự phân công lao động xã hội, phù hợp và
đáp ứng với yêu cầu xã hội, là phương tiện để sinh sống.
Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
thì khái niệm đào tạo nghề được tác giả trình bày là: “Đào tạo nguồn nhân lực
là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người
lao động, để họ có thể đảm nhận được một số công việc nhất định”
Tài liệu của Bộ LĐ-TB&XH xuất bản năm 2002 thì khái niệm đào tạo

nghề được hiểu là “hoạt động nhằm trang bị cho người lao động những kiến
thức, kỹ năng và thái độ lao động cần thiết để người lao động sau khi hoàn
thành khóa học hành được một nghề trong xã hội”
Tại Điều 3 trong Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, đào tạo nghề
nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ
nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo
việc làm sau khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp.
Hay nói theo cách khác, đào tạo nghề là quá trình tác động có mục đích, có tổ
chức đến người học nghề để hình thành và phát triển một cách có hệ thống
những kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết nhằm đáp ứng nhu
cầu của xã hội, trong đó có nhu cầu quốc gia, nhu cầu doanh nghiệp và nhu
cầu bản thân của người học nghề
Đào tạo nghề bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau: dạy
nghề là quá trình giáo viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết và thực
hành để học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo, thành
thục nhất định về nghề nghiệp. Học nghề là quá trình tiếp thu những kiến thức
10


về lý thuyết và thực hành của người lao động để đạt được một trình độ nghề
nghiệp nhất định.
Nguyên lý và phương châm của dạy nghề: học đi đôi với hành; lấy thực
hành, thực tập kỹ năng nghề làm chính; coi trọng giáo dục đạo đức, lương tâm
nghề nghiệp, rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp cho
người học, đảm bảo tính giáo dục toàn diện, nhằm tạo điều kiện cho người
học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc
học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước.
- Khái niệm về lao động và lao động nông thôn
Theo C. Mác: “ Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con

người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con
người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự
nhiên” [31, tr.230]. Ph.Ăng ghen viết: Khẳng định rằng lao động là nguồn gốc
của mọi của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là
cung cấp những vật liệu cho lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao
động còn là một cái gì đó vô cùng lớn lao hơn thế nữa, lao động là điều kiện
cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, mà như thế đến một mức mà
trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân
loài người [32, tr.641]
Theo khái niệm của Liên Hiệp Quốc thì “ Lao động là tổng thể sức dự
trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của
con người vào cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. Hay theo Tổ chức Lao động
Thế giới (ILO) thì “Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi
quy định, thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm
đang tích cực tìm kiếm việc làm”.
Ở nước ta theo Bộ luật lao động, độ tuổi lao động được quy định đối với
nam từ 15 đến 60 tuổi, đối với nữ từ 15 đến 55 tuổi. Xét về khía cạnh việc
11


làm, lực lượng lao động gồm hai bộ phận là có việc làm và thất nghiệp
Như vậy lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người để tạo ra
của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động là hoạt động có
mục đích của con người nhằm biến đổi các vật chất tự nhiên thành của cải vật
chất cần thiết cho đời sống của mình. Trong quá trình sản xuất, con người sử
dụng công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm
phục vụ cho lợi ích của con người. Lao động là điều kiện chủ yếu cho tồn tại
của xã hội loài người, là cơ sở của sự tiến bộ về kinh tế, văn hóa và xã hội.
Vì vậy, phải thực sự giải phóng sức sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm
năng thiên nhiên, trước hết giải phóng người lao động, phát triển kiến thức và

những khả năng sáng tạo của con người. Vai trò của người lao động đối với
phát triển nền kinh tế đất nước nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng là rất
quan trọng.
Lao động nông thôn là những người thuộc lực lượng lao động và hoạt
động trong hệ thống kinh tế nông thôn.
Lao động nông thôn là những người dân không phân biệt giới tính, tổ
chức, cá nhân sinh sống ở vùng nông thôn, có độ tuổi từ 15 trở lên, hoạt động
sản xuất ở nông thôn. Trong đó bao gồm những người đủ các yếu tố về thể
chất, tâm sinh lý trong độ tuổi lao động theo quy định của luật lao động và
những người ngoài độ tuổi lao động có khả năng tham gia sản xuất trong các
ngành, lĩnh vực như nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng, dịch vụ hoặc các
ngành phi nông nghiệp khác, với những công việc phù hợp và trong một thời
gian nhất định họ hoàn thành công việc của mình với kết quả đạt được một
cách tốt nhất.
- Lý thuyết đánh giá nhu cầu đào tạo
Nhu cầu đào tạo là những kiến thức, kỹ năng, phương pháp và quan điểm
mà học viên cần học để đáp ứng những nguyện vọng trong công việc và cuộc
sống của họ. Nhu cầu đào tạo xuất phát chủ yếu từ nguyện vọng cá nhân
12


nhưng đôi khi cơ quan, tổ chức phải giúp họ nhìn ra nhu cầu này. Đánh giá
nhu cầu đào tạo là quá trình hiểu biết về người học cũng như năng lực của họ
trước khi đào tạo. Đánh giá nhu cầu đào tạo giúp xác định chênh lệch giữa
kiến thức và kỹ năng, thái độ người học đang có với cái họ phải có [2].
Đánh giá nhu cầu đào tạo có ý nghĩa rất lớn đối với việc tổ chức đào tạo.
Kết quả đánh giá là đầu vào để tổ chức chương trình đào tạo đạt hiệu quả cao.
Trước hết, việc đánh giá nhu cầu đào tạo giúp trả lời câu hỏi có cần đào tạo
không? Đồng thời, cung cấp thông tin để xây dựng chiến lược đào tạo đáp
ứng nhu cầu đào tạo, nhu cầu học của học viên, kích thích sự hứng thú và

tham gia của học viên trong quá trình đào tạo. Bên cạnh đó, có căn cứ để xây
dựng chương trình đào tạo lấy học viên làm trung tâm, dựa trên kinh nghiệm
và kiến thức của học viên, xác định nội dung, phương pháp đào tạo phù hợp
với đối tượng học viên, nâng cao hiệu quả của đào tạo vì nội dung đào tạo
được áp dụng ngay vào công việc và cuộc sống của học viên.
Đánh giá nhu cầu đào tạo nên được tiến hành theo hai cấp: Nhu cầu của
cộng đồng, cơ quan hay một nhóm; Phân tích nhu cầu chi tiết của một nhóm
học viên. Phân tích nhu cầu của cộng đồng, cơ quan để xác định ai trong cộng
đồng, cơ quan cần được đào tạo. Khi đã có một nhóm học viên có chung nhu
cầu học về chủ đề lớn thì nhóm học viên này cần được đào tạo cụ thể những
nội dung gì.
+ Nhu cầu cộng đồng là nhu cầu, đòi hỏi của xã hội, của cộng đồng dân
cư, nhà đầu tư, người dân…
+ Nhu cầu tổ chức là yêu cầu của cơ quan, tổ chức đối với cán bộ, nhân
viên, nhu cầu đào tạo nảy sinh khi xuất hiện điểm yếu trong việc thực hiện
chức năng của tổ chức.
+ Nhu cầu cá nhân là mong đợi của học viên được đào tạo nâng cao về
kiến thức, kỹ năng, thái độ. Mặc dù đáp ứng các nhu cầu cá nhân khi phát
triển chương trình giảng dạy là khó khăn, thông thường các nhu cầu này sẽ
13


vẫn được tính đến trong suốt quá trình đào tạo và giảng dạy một khi nó được
đưa vào sử dụng. Kiến thức, kinh nghiệm, động cơ của người học khác nhau.
Do đó, khóa học cần có tính linh hoạt để mọi người có thể đạt mục tiêu của
khóa học. Vì vậy, người tổ chức đào tạo nên có những thông tin về kiến thức,
kỹ năng và thái độ hiện tại của nhóm học viên như trình độ, kinh nghiệm, vị
trí hiện tại, những khóa học trước đây.
Một phương pháp đánh giá nhu cầu là “phân tích khoảng cách đào tạo”,
tức là khoảng cách giữa kiến thức hiện tại và kiến thức trong tương lai mà

người lao động cần có. David Chauldron (1996) sử dụng “phân tích khoảng
cách đào tạo” trong bối cảnh đào tạo do tái cơ cấu doanh nghiệp. Đầu tiên,
doanh nghiệp sẽ để cho nhân viên biết tổ chức đang quan tâm đến vấn đề đào
tạo và phát triển. Doanh nghiệp cũng cần đánh giá nhu cầu mang tính thông
tin của tổ chức. Cụ thể, mỗi vị trí công việc hoạt động như thế nào và cần loại
thông tin gì để vận hành được chức năng của nó. Sự đánh giá trước khi tổ
chức đào tạo để giới thiệu cho người lao động những hiểu biết tốt hơn về vị trí
việc làm của họ. Cuối cùng, doanh nghiệp cũng biết những bộ kỹ năng và
kiến thức nào mà mỗi cá nhân cần để phải xuất sắc ở vị trí của họ. Chương
trình đào tạo sẽ tập trung vào sự thiếu hụt ở lĩnh vực đó (Chauldron, 1996,
dẫn theo Jonathan, 2008)
Khoảng cách

Tương
lai

Hiện tại

Tìm ra khoảng cách để biết được những khoảng nào cần đáp ứng bằng
đào tạo. Dựa trên lý thuyết khoảng cách, tiến trình này có thể chia làm 4
bước:
14


Bước 1) Xác định những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần có để thực
hiện tốt công việc hiện tại hoặc công việc sẽ làm trong tương lai,
Bước 2) Xác định những kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết mà học
viên đã có,
Bước 3) Xác định nhu cầu đào tạo chung bằng cách xác định sự khác biệt
giữa những kết quả bước (1) và bước (2);

Bước 4) Lựa chọn nhu cầu đào tạo có thể đáp ứng.
Các cấp độ và các bước đánh giá nhu cầu đào tạo trong lý thuyết này
được sử dụng trong nghiên cứu khi tìm hiểu về nhu cầu đào tạo nghề cho lao
động nông thôn như kiến thức, kỹ năng họ đã có/ hoặc đã từng học, mong
muốn của họ về các khóa đào tạo, thời gian, kinh phí…
1.2. Sự cần thiết đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Trong giai đoạn hiện nay, đào tạo nghề nói chung và chính sách đào tạo
nghề cho LĐNT nói riêng luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và
Nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ VII về nông nghiệp,
nông dân và nông thôn, tháng 10 – 2008, Chính phủ đã ra nghị quyết ban
hành chương trình hành động của Chính phủ, trong đó có mục tiêu: tập trung
đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, chuyển một bộ phận lao động nông
nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm nhằm nâng cao thu
nhập một bước cho người nông dân.
Hiện nay, LĐNT là một lực lượng lớn có quỹ thời gian nông nhàn khá
nhiều, điều này khiến cho cuộc sống nghèo khó vẫn đang theo đuổi họ. Một
nguyên nhân khác khiến tình trạng thiếu việc làm ngày càng trầm trọng là do
tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Quá trình này, một mặt tạo thêm việc làm mới trong lĩnh vực phi nông
nghiệp, nhưng mặt khác, do yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực khắt khe, nên
lao động phổ thông nhất là LĐNT không qua đào tạo khó có thể tìm kiếm
được cơ hội việc làm. Hơn nữa việc thay thế dần các thiết bị lạc hậu bằng kỹ
15


thuật công nghệ cao làm cho nhu cầu lao động trong khu vực này ngày càng
giảm, khiến cho việc dư thừa lao động trên địa bàn nông thôn tăng, song đội
ngũ lao động có tay nghề, trình độ lại thiếu trầm trọng.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề lao động-việc làm
cho LĐNT, là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm phát triển bền

vững đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, giải quyết việc làm
cho người lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn nhân
lực, góp phần vào hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo an
sinh xã hội. Lực lượng LĐNT được đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về nghề
nghiệp chiếm tỷ lệ thấp, hầu hết các kiến thức, kinh nghiệm của người lao
động đều thông qua công việc và sự truyền dạy của các thế hệ trước. Do vậy,
việc đào tạo, bồi dưỡng nghề cho LĐNT là rất cần thiết.
Đào tạo nguồn nhân lực là chiến lược phát triển quan trọng. Trong những
năm qua, việc đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta đạt được những thành tựu
đáng khích lệ. Nhu cầu đào tạo nghề của người lao động ngày càng cao do
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quá trình đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ và sự
xuất hiện của những ngành, nghề mới. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ
lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ lực lượng lao động là 17,9%; tuy nhiên
có mức chênh lệch giữa thành thị và nông thôn tương ứng là 33,7% và 11,2%
và chênh lệch theo giới tính là 20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ. Tỷ lệ
nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại học trở lên) trong tổng số lao động
được đào tạo tăng ngày càng tăng (năm 2010 là 5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ
bộ năm 2013 là 6,9%). Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu ngành nghề,
lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương chưa đồng nhất, chưa thực
sự phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động thực tế, gây lãng phí nguồn lực của
Nhà nước và xã hội [8].
Theo số liệu của Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, tính đến
hết năm 2015, số lao động đã được đào tạo là 126.248 người, số lao động có
16


việc làm sau đào tạo 124.586 người, chiếm 85,21%. Số lao động được doanh
nghiệp, đơn vị tuyển dụng 5.697 người, lao động được doanh nghiệp bao tiêu
sản phẩm 18.675 người, lao động tự tạo việc làm 102.964, số người thành lập
tổ nhóm sản xuất, HTX, doanh nghiệp 7.172 người.

Được biết, theo Quyết định số 971/QĐ-TTg ngày 01/7/2015 của Thủ
tướng Chính phủ, giai đoạn 2016 -2020, đào tạo nghề cho 6.000.000 lao động
nông thôn, trong đó 1.400.000 người học nghề nông nghiệp, bình quân đào
tạo 280.000 người/năm, mỗi tỉnh đào tạo nghề cho trên 4.400 người/năm.
Thông qua các lớp học nghề, nông dân được trang bị kiến thức về khoa
học kỹ thuật để phát triển sản xuất kinh doanh, vươn lên làm giàu. Đồng thời,
góp phần giải quyết được nhu cầu tuyển dụng lao động qua đào tạo của các
doanh nghiệp, từng bước đáp ứng sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của địa phương.
Việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho LĐNT hiện nay không chỉ
giúp người nông dân có việc làm, tăng thu nhập từ nông nghiệp mà còn có ý
nghĩa quan trọng trong bối cảnh cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp, cơ cấu lại
nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
Mấy năm gần đây, do tác động của quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ
nhanh trên một số vùng của đất nước dẫn đến tình trạng mất cân đối về cung,
cầu lao động giữa nông thôn và thành thị. Trường hợp xảy ra có tính chất phổ
biến: các doanh nghiệp nhất là mới ra đời không tuyển đủ số lao động cần
thiết (chủ yếu lao động có tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ) trong khi đó lao
động phổ thông không có việc làm lại dư thừa khá nhiều. Mỗi năm có hàng
trăm nghìn lao động phổ thông từ các vùng xung quanh các đô thị lớn đổ xô
ra thành phố, thị xã tìm việc làm. Các “chợ lao động” tự phát xuất hiện ở một
số đường phố ngày càng nhiều.
Sở dĩ có tình trạng như vậy vì nhiều năm liền chúng ta chưa chú ý đào
tạo nghề cho nông dân một cách có bài bản, chưa làm tốt vấn đề phân công
17


lao động trong nông nghiệp. Vì vậy, vấn đề cần làm ngay trong quá trình triển
khai xây dựng nông thôn mới là tập trung chuyển dịch cơ cấu lao động trong
nông nghiệp. Cả nước ta hiện nay có gần 16 triệu hộ ở nông thôn, chiếm

69,4% số hộ với gần 38 triệu lao động, chiếm 69% số lao động của cả nước,
trong đó lao động làm việc trực tiếp trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chiếm
57,9% số lao động cả nước. Mục tiêu của chúng ta là đến năm 2020 giảm
xuống còn 30% số lao động làm nông nghiệp còn lại phải chuyển sang ngành
nghề khác phi nông nghiệp. Gần một phần tư thế kỷ (1986 – 2010) thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta chỉ giảm được 21% (từ 79% năm 1985
còn 51,9% hiện nay). [29]
Vì vậy, Chính phủ đã có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Cần phải coi đây là công việc thường
xuyên, lâu dài về việc đào tạo chuyển nghề cho LĐNT gắn đào tạo chuyển
nghề với doanh nghiệp. Đào tạo nghề cho LĐNT vừa đáp ứng yêu cầu của
quá trình phân công lao động, của sự phát triển các ngành nghề và đô thị mới,
có vai trò quan trọng đối với sự phát triển vốn con người, nguồn nhân lực,
tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giảm
nghèo, thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, góp phần phát triển KT-XH bền
vững. Đào tạo nghề là một trong những giải pháp đột phá của chiến lược phát
triển KT-XH, nhằm đào tạo nguồn nhân lực, phát triển nhanh đội ngũ lao
động kỹ thuật trực tiếp, phục vụ CNH-HĐH, góp phần bảo đảm an ninh xã
hội đồng thời đáp ứng được quy luật tất yếu đòi hỏi yêu cầu phát triển LĐNT
mới hiện nay.
1.3. Các hình thức đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Đào tạo nghề cho LĐNT với các đối tượng đa dạng và có những đặc
điểm đặc thù. Do vậy, đây là hoạt động rất phong phú và phức tạp. Tùy theo
các tiêu chí phân loại có thể phân thành các hình thức đào tạo nghề như sau:
- Đào tạo nghề theo đối tượng:
18


+ Đào tạo nghề cho lao động quản lý: Giám đốc, Đốc công, tổ trưởng
+ Đào tạo nghề cho lao động trực tiếp: Nông dân, thợ thủ công và lao

động dịch vụ.
- Đào tạo nghề theo phương thức:
+ Dạy nghề: là truyền bá những kiến thức về lý thuyết và thực hành để
những người lao động nông thôn có được một trình độ, kỹ năng, kỹ sảo, khéo
léo nhất định về nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nông
thôn
+ Truyền nghề: là truyền bá kỹ năng thực hành để những người lao
động nông thôn có được một trình độ, kỹ năng, kỹ sảo, sự khéo léo, thành
thục nhất định với nghề nghiệp
- Theo mức độ của truyền bá kiến thức nghề:
+

Đào tạo nghề mới: là đào tạo những người chưa có nghề, gồm

những người đến tuổi lao động nhưng chưa được học nghề hoặc những người
trong độ tuổi lao động nhưng trước đó chưa được học nghề. Đào tạo mới
nhằm đáp ứng tăng thêm lao động có trình độ tay nghề cao cho xã hội và có
thể thực hiện ở các cơ sở đào tạo nghề chuyển nghiệp hoặc truyền nghề theo
từng cơ sở sản xuất kinh doanh.
+ Đào tạo lại nghề: là đào tạo lại đối với những người đã có nghề, có
chuyên môn, nhưng do nhu cầu mới của sản xuất và tiến độ kỹ thuật dẫn đến
việc thay đổi cơ cấu ngành nghề, trình độ chuyên môn, nên cần đào tạo lại
cho phù hợp với cơ cấu ngành nghề và trình độ kỹ thuật mới hoặc đào tạo lại
nhằm tạo cho người lao động có cơ hội để học tập một lĩnh vực chuyên môn
mới để thay đổi nghề. Do vậy đào tạo lại nghề thường được thực hiện tại các
cơ sở đào tạo chuyên, những nơi có đầy đủ phương tiện đào tạo và cập nhập
các kiến thức nghề mới.
+ Bồi dưỡng nâng cao tay nghề: Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập
nhập hóa kiến thức còn thiếu, đã lạc hậu, bổ túc nghề, đạo tạo thêm hoặc củng
19



cố các kỹ năng nghề nghiệp theo từng chuyên môn và thường được xác nhận
bằng một chứng chỉ hay nâng lên bậc cao hơn.
- Đào tạo nghề xét theo thời gian và kết quả người học đạt được: Có cao
đẳng nghề, trung cấp nghề và bồi dưỡng nghề. Tương ứng với các cấp độ của
dạy nghề đó có bằng cao đẳng, trung cấp và chứng chỉ nghề.
1.4. Nội dung đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Nội dung đào tạo nghề cho LĐNT được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa
hẹp.
- Theo nghĩa rộng, nội dung đào tạo nghề gồm đào tạo tay nghề và
những kiến thức tổng hợp, nó bao hàm cả đào tạo văn hóa, đào tạo nghề
nghiệp, đào tạo kiến thức về kinh tế, thị trường, pháp luật, tổ chức cuộc
sống…
- Theo nghĩa hẹp là đào tạo nghề theo chuyên môn của người lao động,
trong đó đào tạo nghề tập trung, đào tạo chuyên môn theo từng nghề nghiệp
của người lao động
Tuy nhiên theo nghĩa rộng hay hẹp đào tạo nghề cho LĐNT cũng bao
gồm những nội dung chủ yếu như sau:
- Xác định nhu cầu đào tạo nghề trong từng vùng, từng cơ sở đào tạo
nghề: Nhu cầu đào tạo nghề là cơ sở quan trọng để hệ thống đào tạo nghề
chuẩn bị các điều kiện đào tạo nghề như xây dựng hệ thống cơ sở đào tạo,
chuẩn bị các điều kiện vật chất, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên tương
ứng. Ngược lại, nhu cầu đào tạo cũng có thể được tính toán từ việc xem xét
các điều kiện vật chất và con người có thể huy động cho đào tạo nghề với nhu
cầu từ sự phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, xem xét nhu cầu đào tạo nghề phải chú ý tới đối tượng của
hoạt động dạy nghề trong đó kinh phí học nghề là một vấn đề cần quan tâm
khi đối tượng học nghề là các LĐNT có điều kiện sống khó khăn. Nông dân là
những người có điều kiện sống khó khăn nên kinh phí học nghề dưới dạng

20


×