Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn từ thực tiễn tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.71 KB, 106 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NĂNG LƢỢNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NĂNG LƢỢNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. MAI HÀ

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các tư liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Nếu có điều gì sai sót,
cá nhân tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận văn

Nguyễn Năng Lượng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHỆ THÔNG
TIN VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN .................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm CNTT và chính sách phát triển CNTT ....................................... 8
1.2. Khái niệm, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách phát
triển CNTT ...................................................................................................... 11
1.3. Thiết kế chính sách phát triển CNTT ......................................................... 13
1.4. Cách tiếp cận và phương pháp tổ chức thực hiện chính sách phát triển
công nghệ thông tin ......................................................................................... 21
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách phát triển CNTT .......... 27
1.6. Những yêu cầu của việc thực hiện chính sách phát triển CNTT ............. 32
1.7. Trách nhiệm thực hiện của các chủ thể .................................................... 33
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG

NGÃI .............................................................................................................. 38
2.1. Điều kiện xã hội và tình hình KT-XH của khu vực nghiên cứu .............. 38
2.2. Kết quả thực hiện mục tiêu chính sách phát triển CNTT tại tỉnh Quảng Ngãi
từ năm 2010 đến nay ....................................................................................... 40
2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển CNTT từ thực tiễn
tỉnh Quảng Ngãi .............................................................................................. 42
2.4. Đánh giá chung về việc tổ chức, thực hiện chính sách phát triển CNTT tại
tỉnh Quảng Ngãi .............................................................................................. 54
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHỆ THÔNG TIN ..................................................................................... 59


3.1. Phương hướng, mục tiêu nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát
triển CNTT ...................................................................................................... 59
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển CNTT ...... 63
3.3. Một số kiến nghị về thực hiện chính sách phát triển CNTT .................... 78
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH-HĐH

: Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa

CNTT


: Công nghệ thông tin

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CPĐT

: Chính phủ điện tử

KT-XH

: Kinh tế-xã hội

Internet

: Mạng thông tin quốc tế

TMĐT

: Thương mại điện tử

TT&TT

: Thông tin và Truyền thông

UBND

: Ủy ban nhân dân


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước đây, khi đề cập đến các nguồn tài nguyên cho phát triển, người ta
thường cho rằng, đó là các yếu tố con người, máy móc, vật liệu và vốn (Men,
Machines, Materials và Money). Thế nhưng, trong thời đại ngày nay, khi nói
đến tài nguyên phát triển, không thể không nhắc đến yếu tố thứ năm rất quan
trọng đó là thông tin (Information).
Sự xuất hiện của yếu tố thứ năm là thông tin đã tạo ra sự thay đổi lớn
mang tính cách mạng về phương thức làm việc và mô hình phát triển trong
thế giới công nghiệp hoá. Khi thông tin đã thực sự trở thành một lực lượng
sản xuất vật chất quan trọng được thừa nhận ở tất cả các quốc gia, được sử
dụng thường xuyên trong các hoạt động kinh tế và xã hội (KT-XH) thì bước
chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin sẽ là tất yếu. Cuộc cách
mạng về công nghệ thông tin (CNTT) đang diễn ra trên quy mô toàn cầu và
càng ngày càng đi vào chiều sâu, không loại trừ bất cứ quốc gia nào. Nó đã và
đang tạo ra một bối cảnh cho sự ra đời của những cái mới.
Ngày nay, CNTT là một trong những động lực quan trọng nhất của sự
phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác, nó có tác dụng làm
biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới hiện đại. Vì
vậy, CNTT cũng có sức ảnh hưởng rất lớn đối với đất nước đang phát triển
như Việt Nam khi bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH). Ngay từ thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã
có chủ trương vận dụng CNTT trong một số lĩnh vực. Nhất là từ khi bước
sang thời kỳ đổi mới, chủ trương ứng dụng CNTT đã được nhấn mạnh và cụ
thể hoá trong nhiều nghị quyết của Đảng và Chính phủ. Chẳng hạn như: Nghị

quyết số 26-NQ/TW ngày 30/3/1991 của Bộ Chính trị về khoa học và công
1


nghệ trong sự nghiệp đổi mới, đã nêu: "Tập trung sức phát triển một số ngành
KHCN mũi nhọn như điện tử, tin học...." Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy
BCH TW khoá VII xác định: "...về ưu tiên ứng dụng và phát triển các công
nghệ tiên tiến, trong đó có như CNTT. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ IX nhấn mạnh: "Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các
ngành dịch vụ: thương mại, kể cả thương mại điện tử, các loại hình vận tải,
bưu chính-viễn thông... Sớm phổ cập sử dụng tin học và Mạng thông tin quốc
tế (Internet) trong nền kinh tế và đời sống xã hội” [20, tr.94]. Chỉ thị số 58CT/TW của Bộ Chính trị khoá IX “về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển
CNTT phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH”, đã xác định rõ: “Ứng dụng và phát
triển CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và
tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và
hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm an ninh, quốc phòng
và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH”
[22, tr.7]. Gần đây, Chính phủ Việt Nam đã ký hiệp định khung E-Asian với
mục tiêu chính là: xây dựng Chính phủ điện tử (CPĐT), Thương mại điện tử
(TMĐT) và cộng đồng điện tử, có nghĩa là Việt Nam chúng ta đã cam kết
đồng thuận triển khai các hoạt động của hiệp định, từng bước xây dựng cơ sở
hạ tầng nhằm thực hiện mô hình CPĐT, TMĐT, cộng đồng điện tử ở Việt
Nam. Việc áp dụng CPĐT, TMĐT, CĐĐT cũng đồng nghĩa với việc phải giải
quyết các vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia và thành lập khung pháp lý điều
chỉnh. Một khi CPĐT, TMĐT, cộng đồng điện tử được vận hành có hiệu quả,
các thao tác kỹ thuật được chuẩn hoá và thực hiện nhanh chóng, như vậy thì
mức độ chi phối chủ quan của yếu tố con người vào nhiều khâu của quá trình
quản lý sẽ được giảm đáng kể. Cộng đồng điện tử, TMĐT sẽ bảo đảm phát


2


triển nhanh một xã hội tri thức, thu hẹp sự khác biệt về kỹ thuật số, sự thông
thoáng và hiệu quả khi người dân được tiếp cận với hệ thống hành chính, luật
pháp và thông tin hiện đại trong nhiều lĩnh vực. Cũng như các tỉnh, thành phố
khác trong cả nước, trong điều kiện đổi mới, Quảng Ngãi chủ trương tiếp tục
nâng cao sức cạnh tranh về thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Cơ
sở hạ tầng về thông tin và trình độ ứng dụng CNTT là một trong những vấn
đề được nhà đầu tư rất quan tâm khi tìm kiếm cơ hội đầu tư. Ngoài ra, các nhà
đầu tư cũng rất quan tâm đến sự sẵn sàng và tính mau lẹ của chính quyền địa
phương trong việc giải quyết vướng mắc cho doanh nghiệp. Ứng dụng CNTT
và vận hành có hiệu quả CPĐT, TMĐT, cộng đồng điện tử sẽ làm tăng sức
hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên, mặt bằng CNTT của tỉnh Quảng Ngãi hiện nay vẫn ở trình độ thấp
kém, phát triển chậm, có nguy cơ không, chưa đáp ứng yêu cầu của cuộc
sống, tụt hậu xa hơn so với các nhiều địa phương và khu vực khác. Có thể liệt
kê những vấn đề tồn tại sau đây ở Quảng Ngãi, đó là: CNTT chưa đáp ứng
được yêu cầu của tiến trình CNH, HĐH và yêu cầu về hội nhập khu vực và
quốc tế; vai trò động lực và tiềm năng to lớn của CNTT chưa được phát huy
mạnh mẽ; nguồn nhân lực CNTT chưa được chuẩn bị và phát triển kịp thời cả
về số lượng và chất lượng; mạng viễn thông và Internet chưa thuận lợi, chưa
đáp ứng các yêu cầu về tốc độ, chất lượng cho CNTT; đầu tư cho CNTT chưa
tương xứng với tiềm năng; QLNN về lĩnh vực này vẫn còn mơ hồ, yếu kém;
ứng dụng CNTT ở một số nơi còn hình thức, chưa thiết thực và hiệu quả chưa
cao... Có nhiều yếu tố tác động, nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan
dẫn đến thực trạng trên. Tình hình đó đòi hỏi phải có những công trình nghiên
cứu về lĩnh vực này, cả dưới góc độ lý luận lẫn góc độ thực tiễn. Nguyên nhân
của những tồn tại nêu trên chủ yếu là do nhận thức của các cấp, các ngành và

toàn xã hội ở Quảng Ngãi về vai trò của CNTT chưa đầy đủ; chưa thực hiện

3


triệt để các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển
CNTT; chưa kết hợp chặt chẽ CNTT với quá trình cải cách hành chính, đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, cơ cấu lại
sản xuất, kinh doanh; chậm ban hành các chính sách đáp ứng nhu cầu ứng
dụng và phát triển CNTT; QLNN trong các lĩnh vực CNTT chưa thống nhất,
thiếu đồng bộ, chưa tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh cho việc cung
ứng dịch vụ viễn thông và Internet, chưa coi đầu tư cho xây dựng hạ tầng
thông tin là loại hình đầu tư xây dựng hạ tầng KT-XH. Với những lý do nêu
trên, tôi chọn đề tài: “Thực hiện chính sách phát triển CNTT từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ngãi” để làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu ở ngoài nước
Ở ngoài nước, đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về vai trò của CNTT
đối với phát triển KT-XH. Tác giả luận văn đã tiếp cận được một số công
trình nghiên cứu khá điển hình như: “Văn minh của làn sóng thứ ba”, tác giả
Allvin Toffler, Hetdi Toffler; “Làn sóng thứ ba”, tác giả Allvin Toffler; “Cú
sốc tương lai”, tác giả Allvin Toffler; “Đạo đức thông tin trong xã hội kinh tế
tri thức”, tác giả Cameron Esslement. Trong các tác phẩm này, các tác giả đã
đề cập đến sự xuất hiện của một trào lưu hay một "làn sóng" mới, đó là làn
sóng CNTT. Cùng với sự xuất hiện này, tất yếu dẫn đến những đòi hỏi thay
đổi một cách toàn diện các phương thức vốn được coi là hợp lý trước đây đối
với việc vận hành và phát triển xã hội.
Nghiên cứu ở trong nước
- Có nhiều tác phẩm viết về vai trò của CNTT trong đời sống như:
“CNTT-Tổng quan và một số vấn đề cơ bản” của Ban chỉ đạo Chương trình

Quốc gia về CNTT, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội, năm 1997; “Kỷ yếu hội
thảo khoa học Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” của

4


Ban Khoa giáo Trung ương, Bộ KHCN và Môi trường và Bộ Ngoại giao, Hà
Nội, năm 2002; “Ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH” của Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2001; “Chủ nghĩa tư bản và thời đại
thông tin” của Bộ KHCN và Môi trường, Lưu hành nội bộ, Hà Nội, năm
2001; “CNTT Hà Nội cất cánh” của Hội Tin học Việt Nam, tạp chí Tin học và
Đời sống, (số 3, 5, 6, 9, 11); “Thương mại Điện tử”, tác giả Vũ Ngọc Cừ,
Trịnh Thanh Lâm, Nxb. Giao thông vận tải, năm 2001. Tuy nhiên, chưa có
một đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống về việc thực hiện chính sách
phát triển CNTT tại tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay.Vì vậy, đề tài
không trùng lặp với các đề tài, công trình nghiên cứu đã công bố. Những tài
liệu trên giúp ích cho việc tham khảo, đối chứng, so sánh trong quá trình
nghiên cứu đề tài của tác giả luận văn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn có mục tiêu: trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ
bản về CNTT và chính sách phát triển CNTT, đánh giá thực trạng và những
yếu tố tác động đến chính sách phát triển CNTT của tỉnh Quảng Ngãi, từ đó
đề xuất những giải pháp chính sách phát triển CNTT trong việc phục vụ phát
triển KT-XH của tỉnh Quảng Ngãi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu của đề tài, luận văn xác định các nhiệm vụ
sau đây:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về CNTT và chính sách phát

triển CNTT.
- Đánh giá thực trạng và những yếu tố tác động đến chính sách phát triển
CNTT của tỉnh Quảng Ngãi.

5


- Xác định những yếu tố định hướng liên quan đến chính sách phát triển
CNTT của tỉnh Quảng Ngãi.
- Làm rõ kinh nghiệm một số tỉnh, thành phố trong nước trong việc triển
khai chính sách phát triển CNTT phục vụ phát triển KT-XH, rút ra bài học
cho tỉnh Quảng Ngãi.
- Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy chính sách phát triển CNTT phục
vụ phát triển KT-XH của tỉnh Quảng Ngãi.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phát triển nội dung chính sách phát
triển CNTT nhằm phát huy tốt hơn hiệu quả quản lý tại tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2010 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và
phương pháp nghiên cứu chính sách công.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công kết hợp giữa
nghiên cứu lý thuyết và thực tế; phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp,
so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần bổ sung hoàn thiện những vấn đề lý luận chung về thực hiện
chính sách công nói chung và chính sách phát triển CNTT nói riêng. Đề xuất
các phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách

6


phát triển CNTT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Là tài liệu để giúp cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương tham khảo để
thực hiện tốt và có hiệu quả chính sách phát triển CNTT.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về CNTT và thực hiện chính sách phát
triển CNTT.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển CNTT, tỉnh Quảng
Ngãi.
Chương 3: Phương hướng, mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách phát triển CNTT.

7


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
1.1. Khái niệm CNTT và chính sách phát triển CNTT

- Khái niệm CNTT
Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết
Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: "CNTT là tập hợp các phương pháp
khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại-chủ yếu là kĩ thuật
máy tính và viễn thông-nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực
hoạt động của con người và xã hội".
Thuật ngữ "CNTT" xuất hiện lần đầu vào năm 1958 trong bài viết xuất
bản tại tạp chí Harvard Business Review. Hai tác giả của bài viết, Leavitt và
Whisler đã bình luận: "Công nghệ mới chưa thiết lập một tên riêng. Chúng ta
sẽ gọi là CNTT (Information Technology-IT)."
Các lĩnh vực chính của CNTT bao gồm quá trình tiếp thu, xử lý, lưu trữ
và phổ biến hóa âm thanh, phim ảnh, văn bản và thông tin số bởi các vi điện
tử dựa trên sự kết hợp giữa máy tính và truyền thông. Một vài lĩnh vực hiện
đại và nổi bật của CNTT như: các tiêu chuẩn Web thế hệ tiếp theo, sinh
tin, điện toán đám mây, hệ thống thông tin toàn cầu, tri thức quy mô lớn và
nhiều lĩnh vực khác. Các nghiên cứu phát triển chủ yếu trong ngành khoa học
máy tính.
Theo điều 4, Luật Công nghệ thông tin, công nghệ thông tin là tập hợp
các phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản
xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số. [20,tr.1]
8


Từ các khái niệm trên, tác giả luận văn đưa ra quan niệm về công nghệ
thông tin như sau:
Công nghệ thông tin là một hệ thống các phương pháp khoa học, công
nghệ, phương tiện, mạng truyền thông và hệ thống các kho dữ liệu nhằm tổ
chức, lưu trữ, truyền dẫn và khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn thông
tin trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người.

- Khái niệm chính sách và chính sách công
Cho đến nay có khá nhiều định nghĩa về chính sách công được các học
giả đưa ra. Cho dù có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng tất cả các định
nghĩa đều thống nhất ở hai điểm cơ bản, đó là chính sách công bắt nguồn từ
các quyết định của Nhà nước và dùng để giải quyết những vấn đề chung vì lợi
ích của đời sống cộng đồng.
Thomas Dye đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công là: “bất
kỳ những gì mà nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm”. Khái niệm về chính
sách công của William Jenkins cụ thể thơn so với định nghĩa trên. Theo ông,
chính sách công là: “một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau được
ban hành bởi một nhà hoạt động chính trị hoặc một nhóm các nhà hoạt động
chính trị liên quan đến lựa chọn các mục tiêu và các phương tiện để đạt mục
tiêu trong một tình huống cụ thể thuộc phạm vi thẩm quyền của họ”. Còn
James Anderson đưa ra một định nghĩa chung hơn, mô tả chính sách như là:
“một đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi một nhà hoạt động
hoặc một nhóm các nhà hoạt động để giải quyết một vấn đề phát sinh, hoặc
vấn đề quan tâm”.
Chính sách công là tập hợp những quyết định mang tính chính trị của
chủ thể cầm quyền nhằm vạch ra những đường hướng hành động ứng xử cơ
bản của chủ thể quản lý với các vấn đề, hiện tượng tồn tại trong đời sống.
Khái niệm chính sách công được khái quát như sau: “Chính sách công là tập

9


hợp các quyết định chính trị có liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn các
mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của
xã hội theo mục tiêu xác định của đảng chính trị cầm quyền“.[18]
Chủ thể ban hành là nhà nước. Các quyết định về chính sách công là
những quyết định chính trị, bao hàm ý chí chính trị và thực tiễn cuộc sống

nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân. Chính sách công tập trung giải quyết
vấn đề xã hội đang đặt ra trong đời sống KT-XH theo mục tiêu tổng thể đã
xác định, không chỉ đề ra mục tiêu và các giải pháp với công cụ hành động
thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề có mối quan hệ biện chứng
đang đặt ra trong đời sống xã hội, mà còn giải quyết các mối quan hệ giữa các
bên tham gia chính sách.
- Khái niệm phát triển
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “phát triển là phạm trù triết học
chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới. Phát triển là
một thuộc tính của vật chất. Mọi sự vật và hiện tượng của hiện thực không tồn
tại trong trạng thái khác nhau từ khi xuất hiện đến lúc tiêu vong,… nguồn gốc
của phát triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập” [24, tr.67].
- Quan điểm siêu hình “Sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn
thuần về lượng, không có sự thay đổi về mặt chất của sự vật. Nếu có sự thay
đổi về mặt chất thì cũng chỉ diễn ra theo vòng tròn khép kín, không có sự ra
đời cái mới”.[13, tr.96]
- Quan điểm triết học duy vật biện chứng “phát triển là một phạm trù
triết học chỉ khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp lên cao, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Nguồn gốc của sự phát triển nằm
ngay trong bản thân sự vật”.[13, tr.97]
- Theo GS. Bùi Đình Thanh “Phát triển là một quá trình tiến hóa của
mọi xã hội, mọi cộng đồng dân tộc trong đó các chủ thể lãnh đạo và quản lý,

10


bằng các chiến lược và chính sách thích hợp với những đặc điểm về lịch sử,
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và cộng đồng dân tộc mình, tạo ra, huy
động và quản lý các nguồn lực tự nhiên và con người nhằm đạt được những
thành quả bền vững và được phân phối công bằng cho các thành viên trong

xã hội vì mục đích không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của họ”.
- Theo PGS.TS. Mai Hà “Phát triển là một sự gia tăng về lượng và chất
trong mối tương quan cân đối hài hoà”.
Từ các định nghĩa nêu trên ta nhận thấy nhiều quan điểm khác nhau,
quan điểm siêu hình chỉ tăng về lượng, không tăng về chất, quan điểm chung
là tạo ra cái mới tốt hơn, tiến bộ hơn, với sự gia tăng về lượng và chất. Tuy
nhiên có một cách nhìn rất hợp lý của Mai Hà “phát triểnlà sự gia tăng về
lượng và chất phải được đặttrong mối tương quan cân đối hài hoà”.
- Khái niệm chính sách phát triển công nghệ thông tin
Từ các khái niệm trên, tác giả luận văn đưa ra khái niệm chính sách phát
triển công nghệ thông tin như sau:
Chính sách phát triển công nghệ thông tin là các quyết định, hành động
của nhà nước nhằm đưa ra các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực
hiện để giải quyết các vấn đề về phát triển của ngành công nghệ thông tin.
1.2. Khái niệm, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách phát
triển CNTT
1.2.1. Khái niệm thực hiện chính sách phát triển CNTT
Thực hiện chính sách công nói chung, chính sách phát triển CNTT nói
riêng là quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách phát triển CNTT
thành hiện thực. Thực hiện chính sách phát triển CNTT là khâu đặc biệt quan
trọng trong chu trình chính sách phát triển CNTT: Nó có nhiệm vụ hiện thực
hóa chính sách phát triển CNTT của Nhà nước, đưa chính sách phát triển
CNTT của Nhà nước vào cuộc sống. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển

11


CNTT là trung tâm kết nối các khâu (các bước) trong chu trình chính sách
phát triển CNTT.
1.2.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách phát

triển CNTT
Hoạch định, xây dựng được chính sách phát triển CNTT đúng có chất
lượng là rất quan trọng, nhưng thực hiện đúng chính sách phát triển CNTT
còn quan trọng hơn. Có chính sách phát triển CNTT đúng, nếu nó không được
tổ chức thực hiện trên thực tế nó cũng trở thành vô nghĩa, trở thành khẩu hiệu
suông. Nếu chính sách phát triển CNTT của Nhà nước không được thực hiện
đúng sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng, thậm chí có sự chống đối của các đối
tượng đối với Nhà nước. Điều này hoàn toàn bất lợi về mặt chính trị và xã
hội, gây khó khăn bất ổn cho Nhà nước trong công tác quản lý. Qua thực hiện
chính sách phát triển CNTT mới biết được chính sách phát triển CNTT đó
đúng hay không đúng, phù hợp hay không phù hợp, chính sách đó có đi vào
cuộc sống hay không đi vào cuộc sống. Có những vấn đề trong giai đoạn
hoạch định và xây dựng chính sách phát triển CNTT chưa phát sinh hoặc đã
phát sinh ra nhưng các nhà hoạch định chưa nhận thấy, đến giai đoạn tổ chức
thực hiện mới phát hiện ra. Chính quá trình thực hiện chính sách phát triển
CNTT với những hoạt động thực tiễn sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và
hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của cuộc
sống và nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời việc phân tích đánh giá một
chính sách phát triển CNTT (mức độ xấu, tốt) chỉ có cơ sở đầy đủ, có sức
thuyết phục sau khi thực hiện chính sách phát triển CNTT đó.
Thực tiễn là chân lý, kết quả thực hiện chính sách phát triển CNTT là
thước đo, là cơ sở đánh giá một cách chính xác, khách quan, chất lượng và
hiệu quả của chính sách phát triển CNTT đó. Ngoài ra việc tổ chức thực hiện
đưa chính sách phát triển CNTT vào thực tiễn cuộc sống là một quá trình

12


phức tạp đầy biến động, chịu sự tác động của một loạt các yếu tố thúc đẩy
hoặc cản trở cũng giúp cho các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính

sách có kinh nghiệm đề ra được các giải pháp hữu hiệu trong thực hiện chính
sách. Như vậy thực hiện chính sách phát triển CNTT có ý nghĩa và tầm quan
trọng đặc biệt cần phải đặc biệt quan tâm đến khâu thực hiện chính sách phát
triển CNTT. Thực tiễn thời gian qua có nhiều chính sách phát triển CNTT
chúng ta tổ chức thực hiện tốt, nhưng cũng có một số chính sách thực hiện
chưa tốt dẫn đến nền CNTT nước nhà còn kém so với các nước trong khu
vực.
Ngoài ra chính sách phát triển CNTT là chính sách có tính đặc thù do đó
trong tổ chức thực hiện chính sách phát triển CNTT phải chú ý đến tính đặc
thù này để có giải pháp thích hợp, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả chính sách.
Tổ chức thực hiện chính sách phát triển CNTT là yêu cầu tất yếu khách
quan để duy trì sự tồn tại của chính sách với công cụ vĩ mô theo yêu cầu quản
lý của nhà nước về CNTT.
1.3. Thiết kế chính sách phát triển CNTT
1.3.1. Xác định vấn đề chính sách phát triển CNTT
Để xây dựng chu trình chính sách hiệu quả, điều đầu tiên chúng ta cần xác
định chính xác và kịp thời vấn đề chính sách. Nếu xác định vấn đề sai sẽ dẫn
đến vấn đền chính sách công sai, tất yếu chu trình chính sách sẽ sai, kéo theo
nhiều tổn thất và hệ lụy trong xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển
của đất nước. Do đó, muốn xác định được vấn đề chính sách đòi hỏi chủ thể
xây dựng chính sách phải thường xuyên quan sát và phân tích thực tế để kịp
thời chỉ ra và dự báo được những mâu thuẫn cơ bản nảy sinh trong đời sống
KT-XH cần được giải quyết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Vấn đề của chính sách phát triển CNTT là chưa triển khai được các
chính sách một cách rộng rãi trong đời sống xã hội, chưa phát huy được hết

13


tiềm năng và sức mạnh của CNTT, chưa có những chính sách ưu đãi rõ ràng

cho phát triển CNTT, nguồn nhân lực CNTT còn thiếu về số lượng và yếu về
năng lực chuyên môn. Đó là những mâu thuẫn đòi hỏi phải được giải quyết:
Mâu thuẫn giữa sự bứt phá phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của CNTT và
sự chậm chạp, lạc hậu của các chính sách, văn bản luật của Việt Nam dẫn đến
tình trạng chưa phù hợp và đồng bộ; mâu thuẫn giữa mức lương thấp của cán
bộ CNTT với chi phí cuộc sống không ngừng tăng lên từng ngày; mâu thuẫn
giữa khả năng cống hiến và mức độ đãi ngộ. Việc xác định chính xác và kịp
thời các mâu thuẫn cơ bản trên sẽ giúp cho việc xây dựng, ban hành, thực thi
chính sách phát triển CNTT đạt hiệu quả cao.
a.Vấn đề xây dựng quy hoạch phát triển CNTT
Xây dựng quy hoạch phát triển CNTT đang là một trong những vấn đề
rất được quan tâm trong giai đoạn phát triển KT-XH hiện nay. Đặc biệt trong
bối cảnh CNTT thế giới phát triển như vũ bão, nguyên nhân chủ yếu là do
nhận thức của cáccấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò của phát triển
CNTT chưa đầy đủ; thực hiệnchưa triệt để các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
b.Vấn đề ứng dụng CNTT rộng rãi, có hiệu quả trong toàn xã hội
CNTT chưa được ứng dụng rộng rãi, có hiệu quả vào hoạt động của các
lĩnh vựcKT-XH, nghiên cứu-đào tạo, đối ngoại, quốc phòng, an ninh; hoạt
động phòng, chống lụt, bão, thiên tai, thảm họa khác, cứu hộ, cứu nạn và các
hoạt động khácđược Nhà nước khuyến khích.
c. Vấn đề đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cho ứng dụng và phát
triểnCNTT
Đào tạo, bồi dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình
độchuyên môn, năng lực công tác đối với cán bộ trực tiếp làm công tác
CNTT. Trênthực tế hiện nay, các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập nói

14



chung đã và đang quantâm nhiều đến công tác đào tạo, bồi dưỡng sử dụng
nguồn nhân lực, tuy nhiên hiệuquả vẫn chưa cao, đào tạo bồi dưỡng nhiều
khi còn lãng phí, không phù hợp vớithực tiễn công việc. Sử dụng cán bộ
được đào tạo về công nghệ thông tin vào những vị trí chưaphù hợp, chưa
đúng chuyên môn.
d. Vấn đề quản lý nhà nước đối với lĩnh vực CNTT
Quản lý nhà nước có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách
CNTT. Để đổi mới quản lý nhà nước về CNTT các nhà lãnh đạo cần kết
hợpchặt chẽ giữa ứng dụng CNTT với quá trình cơ cấu lại sản xuất, kinh
doanh, cảicách hành chính, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhànước. Quản lý nhà nước trong các lĩnh vực phát triển CNTT,
viễn thông và thông tin điện tửchưa thống nhất, thiếu đồng bộ, chưa tạo được
môi trường cạnh tranh lành mạnhcho việc cung ứng dịch vụ viễn thông, chưa
coi đầu tư cho xây dựng hạ tầng thôngtin là loại đầu tư xây dựng hạ tầng KTXH. Hiện nay, hệ thống quản lý nhà nước vềphát triển CNTT gồm các cơ
quan quản lý các cấp về CNTT ở Trung ương và địa phương. Tuy nhiên chức
năng, nhiệm vụ của một số cơ quan, đơn vị còn chồng chéo chưaphù hợp với
từng địa phương; Chưa có các chính sách phù hợp để quản lý, phát triển và
ứngdụng CNTT một cách thống nhất.
Như vậy, trong các chủ trương phát triển CNTT nói chung, vấn đề thực
hiệnchính sách phát triển CNTT luôn có một vị trí cực kỳ quan trọng và là
yếu tố đượcChính phủ, các cấp, các ngành và toàn xã hội đặc biệt quan tâm.
1.3.2. Mục tiêu chính sách phát triển CNTT
Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra mục tiêu đối với ngành CNTT là phát
triển mạng thông tin quốc gia trên quy mô cả nước, với băng thông rộng,
dung lượng lớn, tốc độ và chất lượng cao, ổn định, giá thành thấp; Tăng tỷ lệ
người tiếp cận với các ứng dụng CNTT và sử dụng mạng Internet; Đưa CNTT

15



trở thành ngành công nghệp kinh tế mũi nhọn, có tốc độ phát triển hàng năm
cao nhất so với các khu vực khác; Có tỷ lệ đóng góp cho tăng trưởng GDP
của cả nước ngày càng tăng.
Để thực hiện tốt mục tiêu trên, Bộ Chính trị đã quán triệt một số chủ
trương lớn: Ứng dụng và phát triển CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong
chiến lược phát triển KT-XH, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút
ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước; Mọi lĩnh vực hoạt động
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng đều phải ứng dụng CNTT để
phát triển; Mạng thông tin quốc gia là kết cấu hạ tầng KT-XH quan trọng,
phải tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình ứng dụng và phát triển CNTT, đảm
bảo được tốc độ và chất lượng cao, giá cước rẻ; Phát triển nguồn nhân lực cho
CNTT là yếu tố then chốt có ý nghĩa quyết định đối với việc ứng dụng và phát
triển CNTT; Đồng thời phát triển công nghiệp CNTT thành một ngành kinh tế
quan trọng, đặc biệt là phát triển công nghiệp phần mềm.
1.3.3. Giải pháp và công cụ chính sách phát triển CNTT
1.3.3.1. Giải pháp chính sách phát triển CNTT
Giải pháp chính sách phát triển CNTT bao gồm nhóm giải pháp liên quan
đến mục tiêu chính sách và nhóm giải pháp liên quan đến công cụ chính sách.
Khi hoạch định chính sách phát triển CNTT, các chủ thể đã tập trung vào
một số giải pháp đồng bộ như sau:
Xây dựng quy hoạch phát triển CNTT và ban hành các văn bản chính
sách phát triển CNTT
Để xây dựng quy hoạch phát triển CNTT tốt, trước tiên chúng ta phải
gắn kết chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển CNTT với quy hoạch phát triển
KT-XH nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước tới năm 2020 và tầm
nhìn 2030. Giải pháp chính sách đồng bộ ở đây thể hiện rõ trong việc hình
thành một mạng lưới tổ chức khoa học trong các ngành; Xây dựng quy hoạch

16



phát triển nguồn nhân lực CNTT trong từng mốc thời gian cụ thể để có kế
hoạch triển khai đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn; Đồng thời
đổi mới việc tuyên truyền để người dân, doanh nghiệp, các tổ chức hiểu được
vị trí, tầm quan trọng, đánh giá đúng những thành tựu đạt được của CNTT.
Bên canh đó, Đảng và Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đến việc hoàn
thiện các chính sách đối với lĩnh vực phát triển CNTT. Hiện nay, chưa có
Thông tư hướng dẫn một cách nhất quán, cụ thể và rõ ràng nên việc triển khai
thực hiện chính sách phát triển CNTT từ Trung ương đến địa phương còn bất
cập và chưa có sự đồng bộ cao.
Ứng dụng rộng rãi, có hiệu quả CNTT trong toàn xã hội
Các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội đi đầu trong
việc triển khai, ứng dụng CNTT trong hoạt động chuyên môn theo phương
châm tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả lâu dài. Ứng dụng CNTT thể hiện ở
việc tin học hóa hoạt động của các cơ quan Đảng và Nhà nước là bộ phận hữu
cơ quan trọng của cải cách nền hành chính quốc gia, là nhiệm vụ thường
xuyên của các cơ quan nhằm tăng cường năng lực quản lý, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả. Đồng thời các cấp ủy Đảng chỉ đạo khẩn trương
xây dựng các hệ thống thông tin cần thiết phục vụ lợi ích công cộng của nhân
dân, phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Song song với việc ứng dụng CNTT, chúng ta cũng cần tập trung phát
triển những dịch vụ điện tử trong các lĩnh vực thương mại, thương mại điện tử
và các dịch vụ công cộng (giáo dục, đào tạo từ xa, chữa bệnh từ xa, thư viện
điện tử,…); Để có thể ứng dụng CNTT trong toàn xã hội thì Nhà nước cần tạo
môi thuận lợi cho ứng dụng CNTT; cần rà soát và tháo bỏ những nhận thức và
quy định không phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất, áp dụng mức ưu đãi
hiện hành cao nhất và từng bước đạt mức ưu đãi bằng hoặc cao hơn so với các
nước trong khu vực cho việc ứng dụng và phát triển CNTT, đi đôi với việc

17



thực hiện các biện pháp quản lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả; Chuẩn hóa
thông tin và các hệ thống thông tin trong từng lĩnh vực; Bảo đảm các điều
kiện cần thiết cho việc trao đổi và sử dụng chung các cơ sở dữ liệu, các hệ
thống thông tin trong nước và quốc tế; Có các biện pháp chủ động và các quy
định cụ thể về an toàn và an ninh thông tin, trước hết trong các lĩnh vực quản
lý nhà nước, an ninh-quốc phòng; Khuyến khích và hỗ trợ việc phổ cập và
nâng cao trình độ ngoại ngữ trong một bộ phận nhân dân, nhất là trong thanh
niên, thiếu niên; Xây dựng tiêu chuẩn ngành, nghề với mức lương và chế độ
đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ về CNTT.
Đẩy mạnh việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cho ứng dụng và
phát triển CNTT
Phát triển quy mô và tăng cường chất lượng đào tạo nguồn nhân lực về
CNTT, chú trọng phát triển nhanh lực lượng cán bộ chuyên sâu, đặc biệt là
đội ngũ chuyên gia phần mềm, đáp ứng kịp thời và thường xuyên nhu cầu
trong nước và một phần thị trường nước ngoài, đạt chỉ tiêu về số lượng và
chất lượng chuyên gia trong lĩnh vực CNTT ngang với mức bình quân của các
nước trong khu vực.
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp
học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ cho
nhu cầu học tập của toàn xã hội. Đặc biệt cần tập trung phát triển mạng máy
tính phục vụ cho giáo dục và đào tạo, kết nối Internet tới tất cả các cơ sở giáo
dục và đào tạo; Đầu tư thỏa đáng cho công tác đào tạo, nghiên cứu về CNTT;
Gắn chặt giữa đào tạo, nghiên cứu và sản xuất, kinh doanh; Xã hội hóa mạnh
mẽ việc đào tạo về CNTT; Khuyến khích và thu hút các tổ chức, các cá nhân
trong và ngoài nước tham gia đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực về CNTT của
Việt Nam; Xây dựng và thực hiện chương trình cử giáo viên đi đào tạo, bồi
dưỡng ở trong và ngoài nước để nâng cao trình độ giảng dạy; Tạo điều kiện


18


cho học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh đi học, thực tập và nghiên cứu về
CNTT ở nước ngoài; Áp dụng chính sách đặc biệt cho việc đào tạo, bồi dưỡng
chuyên gia giỏi, nhân tài trong lĩnh vực CNTT;
Tăng cường, đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực CNTT
Đổi mới quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT chính là việc đổi mới
quản lý trên tất cả các phương diện: xây dựng quy hoạch, cơ chế chính sách,
tổ chức thực hiện, đào tạo bồi dưỡng, thanh kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và xử lý vi phạm trong lĩnh vực CNTT. Nhà nước cần điều chỉnh cơ chế
tài chính, ưu tiên bố trí ngân sách để ứng dụng CNTT trong một số lĩnh vực
thiết yếu, tạo lập nền công nghiệp CNTT và phát triển nguồn nhân lực CNTT;
Cân đối lại tỷ lệ phân bổ ngân sách, đảm bảo tỷ lệ cân xứng cho nhiệm vụ
CNTT; Tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu được chủ động sử dụng nguồn
kinh phí này và tự chịu trách nhiệm về kết quả và hiệu quả nghiên cứu, đặc
biệt được hưởng lợi chính đáng, hợp pháp từ kết quả nghiên cứu của họ. Chủ
động tăng cường giao lưu và hợp tác quốc tế; khuyến khích hợp tác với tổ
chức, cá nhân Việt Nam ở nước ngoài trong lĩnh vực CNTT.
Đảng, Nhà nước cần sớm hoàn thiện và ban hành hệ thống văn bản pháp
quy về quản lý, thực hiện chính sách ứng dụng và phát triển CNTT theo
phương châm năng lực quản lý phải theo kịp tốc độ phát triển, đầu tư phải
thiết thực, hiệu quả, không được lãng phí và đảm bảo công khai, minh bạch.
1.3.3.2. Công cụ chính sách phát triển CNTT
Đối với chính sách phát triển CNTT, hệ thống các công cụ chính sách cụ
thể là: Công cụ dựa vào tổ chức; Công cụ dựa vào quyền lực; Công cụ tài
chính; Công cụ truyền thông.
Công cụ dựa vào tổ chức
Đây là cách thức chủ thể tác động lên đối tượng và quá trình thực
hiệnchính sách bằng cơ cấu tổ chức thông qua các chức năng, nhiệm vụ được


19


×