Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thực hiện chính sách dân tộc từ thực tiễn huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.55 KB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHÙNG TÔ LONG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN SƠN HÀ,
TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHÙNG TÔ LONG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN SƠN HÀ,
TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số

: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. VĂN TẤT THU

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn đến Viện Hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin được bày tỏ sự trân trọng và lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Văn
Tất Thu, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và thực hiện đề tài này.
Trong quá trình học tập, triển khai nghiên cứu đề tài và những gì đạt được
hôm nay, tôi không thể quên được công lao giảng dạy và hướng dẫn của quý
thầy, cô giáo Khoa Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội.
Tôi xin được gởi lời cảm ơn đến các cơ quan: Huyện ủy, UBND huyện
Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi, các phòng, ban ngành có liên quan và UBND các xã,
thị trấn đã cung cấp tài liệu, cũng như tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong
quá trình khảo sát và nghiên cứu đề tài.
Tôi xin được nói lên lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình đã luôn động viên
tôi và cùng tôi vượt qua mọi khó khăn. Và tôi xin cảm ơn các anh chị, bạn bè và
đồng nghiệp đã luôn chia sẽ, giúp đỡ tôi học tập, nghiên cứu, và hoàn thành luận
văn.
Tác giả luận văn
Phùng Tô Long


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc
sĩ Chính sách công về “Thực hiện chính sách dân tộc từ thực tiễn huyện Sơn Hà,
tỉnh Quảng Ngãi” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài
khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Phùng Tô Long


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH DÂN TỘC Ở NƢỚC TA.......................................................................... 8
1.1. Các khái niệm .................................................................................................. 8
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước ta về dân tộc ..................... 10
1.3. Ý nghĩa, tầm quan trọng, nội dung thực hiện chính sách dân tộc ................. 17
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN SƠN HÀ TỈNH QUẢNG NGÃI .......................... 37
2.1. Tình hình kinh tế - xã hội và đặc điểm dân tộc của huyện Sơn Hà, tỉnh
Quảng Ngãi........................................................................................................... 37
2.2. Nội dung các bước tổ chức thực hiện chính sách dân tộc ở huyện Sơn Hà,
tỉnh Quảng Ngãi ................................................................................................... 40
2.3. Kết quả thực hiện chính sách dân tộc tại huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi
từ năm 2010 đến nay ............................................................................................ 48
2.4. Đánh giá chung về việc tổ chức, thực hiện chính sách dân tộc tại huyện
Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi ..................................................................................... 54
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở HUYỆN SƠN HÀ, TỈNH

QUẢNG NGÃI.................................................................................................... 60
3.1. Phương hướng hoàn thiện thực hiện chính sách dân tộc trong thời gian
tới .......................................................................................................................... 60
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc .......................... 62
3.3. Một số kiến nghị về thực hiện chính sách dân tộc ........................................ 75
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC TỪ VIẾT TẮT
CSDT

: Chính sách dân tộc

DTMN

: Dân tộc miền núi

QLNN

: Quản lý nhà nước

UBND

: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1.

2.2.
2.3.

Tổng giá trị sản xuất các ngành của huyện giai đoạn 20112015
Tổng hợp các nguồn vốn đầu tư vùng đồng bào dân tộc
miền núi của huyện Sơn Hà
Tỷ lệ giảm nghèo của huyện Sơn Hà giai đoạn 2011-2015

Trang

49

50
53


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Phần lớn các dân tộc thiểu số sống ở
miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa – những địa bàn có vị trí chiến
lược về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái. Do đó,
Đảng ta luôn coi việc hoạch định và thực hiện đúng chính sách dân tộc là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong tiến trình cách mạng.

Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Bên cạnh đó, tình hình chính trị - xã hội thế giới có nhiều biến
đổi lớn, vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc vẫn là vấn đề phức tạp, gay gắt và vô
cùng nhạy cảm ở nhiều quốc gia. Vì vậy, việc hoạch định và thực hiện đúng đắn
chính sách dân tộc là vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc giải quyết vấn đề
dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta.
Giải quyết tốt vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc không
những tạo nên sự ổn định chính trị để phát triển kinh tế - xã hội, rút ngắn khoảng
cách phát triển chênh lệch giữa các dân tộc mà còn phát huy được truyền thống
đoàn kết dân tộc, ý thức tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, tạo nên sức
mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Chính sách dân tộc là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống chính
sách của Đảng và Nhà nước ta, liên quan đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do
đó, thực hiện chính sách dân tộc phải gắn với kế hoạch phát triển tổng thể kinh
tế - xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng của đất nước. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác dân tộc đã khẳng định:
Các dân tộc thiểu số: thực hiện tốt chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,
giúp nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đến Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
1


triển năm 2011) lại tiếp tục khẳng định: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đây là những
nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Đó cũng
chính là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta xây dựng và thực hiện các chính sách xã
hội nói chung và chính sách dân tộc nói riêng nhằm cải thiện, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là ở các vùng dân tộc thiểu số còn ở trình
độ sản xuất và đời sống thấp, xây dựng, phát triển quan hệ dân tộc tốt đẹp và đấu

tranh chống lại các thế lực phản động có âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, chống lại việc thực hiện chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc.
Sơn Hà là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Ngãi, huyện có 13 xã và 01
thị trấn, trong đó có 11 xã đặc biệt khó khăn. Toàn huyện có 75.000 nhân khẩu,
nhưng có đến 82% là đồng bào dân tộc thiểu số, gồm các dân tộc chủ yếu là:
Hre, Cadong, Cor. Các dân tộc sống đan xen, đoàn kết, hoà thuận và hỗ trợ nhau
phát triển. Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây còn rất nhiều khó
khăn. Những năm qua, các chính sách dân tộc và miền núi của Đảng và nhà
nước được thực hiện trên địa bàn huyện đã góp phần nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho đồng bào các dân tộc, đặc biệt là dân tộc thiểu số và miền núi,
rút ngắn dần khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng. Tuy nhiên, việc thực
hiện chính sách dân tộc trong thời gian qua vẫn còn những hạn chế cần được
nhận thức và có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính
sách dân tộc trên địa bàn huyện, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những vấn đề trên, cùng với mong muốn góp một phần nhỏ
bé của mình vào việc quán triệt và triển khai thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước trên địa bàn đang công tác, tôi đã chọn đề tài “Thực hiện
chính sách dân tộc từ thực tiễn huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài cho
luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc là đối tượng nghiên cứu của nhiều
2


môn khoa học xã hội khác nhau như Triết học, Sử học, Dân tộc học, Xã hội học,
Chủ nghĩa xã hội khoa học,… Ở nước ta cho đến nay đã có rất nhiều công trình
khoa học đi sâu nghiên cứu về vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc, chính sách dân
tộc, những vấn đề về thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Có
thể kể đến một số công trình như:
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, của TS. Lê Ngọc

Thắng, Nhà xuất bản Trường Đại học Văn hóa Hà Nội năm 2005. Nội dung
cuốn sách tác giả trình bày một cách hệ thống các vấn đề lý luận về dân tộc, vấn
đề dân tộc, công tác dân tộc, chính sách dân tộc; các quan điểm cơ bản của vấn
đè dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta.
Đồng thời tác giả trình bày một cách hệ thống chính sách dân tộc của các nhà
nước phong kiến, thực dân đế quốc, tư bản và một số nước khác trên thế
giới.Qua đó tác giả so sánh để thấy được tính sáng tạo, đúng đắn của Đảng và
Nhà nước ta trong việc giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng dân tộc dân
chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và yếu
kém trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, tác giả đề
ra định hướng chính sách dân tộc, đặc biệt là chính sách trên lĩnh vực văn hóa
trong thời gian tới.
Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay do TS. Đậu Tuấn
Nam chủ biên, được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản năm
2009. Cuốn sách gồm tập hợp các bài viết của các nhà khoa học tập trung nghiên
cứu về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Từ việc xác định khái niệm dân tộc, GS. TS. Phan Hữu Dật đi sâu nghiên
cứu chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề này thông qua việc phân tích chủ nghĩa
Mác cũng như chủ nghĩa Mác – Lênin. PGS, TS. Lê Ngọc Thắng và PGS,
TS.Cao Văn Thanh đã trình bày những quan điểm, chính sách cơ bản của Đảng
và Nhà nước ta về dân tộc cũng như những chính sách kinh tế - xã hội vùng dân
tộc thiểu số ở nước ta hiện nay. Bên cạnh việc đưa ra những quan điểm, chính
3


sách cơ bản, các tác giả phân tích thực trạng, nguyên nhân cho những hạn chế
trong việc thực hiện chính sách dân tộc và từ đó đưa ra những giải pháp nhằm
khắc phục hạn chế…
Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc của TS. Bế Trường Thành do Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 2011. Cuốn sách góp phần

luận giải và làm sáng tỏ vấn đề dân tộc ở Việt Nam; đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta đối với đồng bào các dân tộc và công tác dân tộc hiện nay.
Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số cho sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do PGS, TS. Nguyễn Đăng
Thành chủ biên được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản năm
2012. Cuốn sách tuyển chọn một số công trình nghiên cứu của Đề án “Luận cứ
và giải pháp phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
của TS. Phạm Thanh Hà, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản
năm 2014 đã phân tích cơ sở hình thành, đặc điểm và nhấn mạnh vai trò quan
trọng của việc giữ gìn bản sắc dân tộc, đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa và những
tác động hai mặt của toàn cầu hóa. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra những định
hướng và giải pháp chủ yếu nhằm gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc Việt Nam,
phát triển lành mạnh con người, xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước.
Đề tài nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp góp phần phát triển
kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi của TS Võ Tuấn Nhân đã
đánh giá thực trạng tình hình tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách hỗ
trợ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong
giai đoạn 2006 - 2010. Qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư ở
miền núi của tỉnh.
Ngoài ra còn có nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ có liên quan đến đề
tài này như:
4


Thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2006) – Luận án Tiến sĩ Triết học của
Nguyễn Thị Phương Thủy.
Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Khánh Hòa trong giai

đoạn hiện nay (2006) – Luận văn Thạc sĩ Triết học của Hồ Thị Ngọc Mai.
Chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam (2014) Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Lâm Thành.
Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh miền núi
Đông Bắc Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2010 (2014) – Luận án Tiến sĩ Lịch
sử của Hoàng Thu Thủy...
Các tác giả đều tập trung phân tích thực trạng của việc thực hiện chính
sách dân tộc ứng với mỗi địa bàn cụ thể, từ đó đề ra giải pháp cơ bản nhằm đổi
mới việc thực hiện chính sách dân tộc trong địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
Tỉnh Quảng Ngãi nói chung và huyện Sơn Hà nói riêng chưa có công
trình nghiên cứu, hội thảo khoa học nào bàn về chính sách dân tộc của địa
phương một cách toàn diện và đầy đủ. Vì vậy, đề tài không trùng lặp với các đề
tài, công trình nghiên cứu đã công bố. Những tài liệu trên giúp ích cho việc tham
khảo, đối chứng, so sánh trong quá trình nghiên cứu đề tài của tác giả luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống hoá những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách
dân tộc để có cơ sở khoa học khảo sát, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện
chính sách dân tộc tại huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện, nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc ở nước
ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện chính sách dân tộc
ở Việt Nam.
5


Khảo sát, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính sách dân tộc tại
huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi, chỉ rõ ưu điểm, bất cập, hạn chế và nguyên
nhân của các bất cập, hạn chế.
Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả tổ chức

thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chính sách về dân tộc và quá trình
thực hiện chính sách dân tộc tại huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2010 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và
phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính
sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và
đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết
chính sách công được soi sáng qua thực tiễn của chính sách công giúp hình
thành lý luận về chính sách chuyên ngành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin, phương pháp phân tích và tổng hợp,
thống kê và so sánh được sử dụng để thu thập, phân tích và khai thác thông tin
từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện,
Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa phương; các tài
liệu, công trình nghiên cứu, các báo cáo, thống kê của chính quyền, ban ngành
đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề thực
hiện chính sách dân tộc ở nước ta nói chung và thực tế tại huyện Sơn Hà, tỉnh
6


Quảng Ngãi nói riêng. Đồng thời, thu thập, tìm hiểu và vận dụng các lý thuyết
của ngành chính sách xã hội liên quan đến vấn đề thực hiện chính sách dân tộc.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Các kết quả, kết luận, kiến nghị, đề xuất của luận văn góp phần bổ sung
hoàn thiện những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách công nói chung, thực
hiện chính sách dân tộc ở nước ta nói riêng. Đề xuất các phương hướng và giải
pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các kết luận, các giải pháp do tác giả luận văn kiến nghị có thể sử dụng
như tài liệu tham khảo có giá trị, góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả tổ chức
thực hiện chính sách dân tộc tại huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, trong
cả nước nói chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách dân tộc ở nước
ta.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách dân tộc từ thực tiễn huyện
Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách dân tộc ở huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi.

7


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở NƢỚC TA
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Dân tộc
Hiện nay, khái niệm dân tộc đựoc sử dụng trong các văn kiện chính trị,
văn bản pháp luật hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng được hiểu theo hai
nghĩa khác nhau:

Theo nghĩa thứ nhất, “dân tộc” được hiểu là “tộc người”. Với nghĩa này,
dân tộc là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng người có các đặc trưng cơ bản về
ngôn ngữ, văn hoá và ý thức tự giác về cộng đồng có tính bền vững qua sự phát
triển lâu dài của lịch sử.
Hiểu theo nghĩa này, kết cấu dân cư của một quốc gia có thể bao gồm
nhiều dân tộc (tộc người) khác nhau, trong đó có những dân tộc chiếm đa số
trong thành phần dân cư và có những dân tộc thiểu số. Trong quá trình phát triển
của mình, trong bản thân mỗi dân tộc có thể có sự phân chia thành các nhóm
người có những đặc điểm khác nhau về nơi cư trú, văn hoá, lối sống, phong tục
tập quán, nhưng đều được coi là cùng một dân tộc, bởi có chung 3 điểm đặc
trưng của một dân tộc như nói trên đây.
Theo nghĩa thứ hai, dân tộc được hiểu là quốc gia dân tộc. Theo nghĩa
này, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng chính trị - xã hội được hợp
thành bởi những tộc người khác nhau trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định.
Như vậy, khái niệm dân tộc ở đây được hiểu đồng nghĩa với quốc gia đa tộc
người, và cũng đồng nghĩa với nhà nước thống nhất của các tộc người trên một
lãnh thổ có chủ quyền quốc gia.
Trong luận văn này, khái niệm dân tộc được sử dụng theo nghĩa thứ nhất,
tức là “tộc người”.
8


1.1.2. Chính sách dân tộc
Chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam là một bộ phận quan hệ hữu
cơ với công tác dân tộc và chính sách quốc gia, được qui định bởi quan điểm về
vấn đề dân tộc, xử lý vấn đề dân tộc và cách thức thực hiện công tác dân tộc.
Chính sách dân tộc ở Việt Nam mang tính chính trị sâu sắc, là sự thể chế hoá
nguyên tắc, chủ trương, đường lối Nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Hiện nay, khái niệm chính sách dân tộc được luận giải phong phú và đã
có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Dưới góc độ chính trị “chính sách dân tộc là

tổng hợp những quan điểm, đường lối, chính sách của nhà nước được đề ra, tác
động trực tiếp đến các dân tộc và quan hệ dân tộc. Chính sách dân tộc mang bản
chất giai cấp của nhà nước trong phạm vi đối nội và đối ngoại” [38]. Vấn đề dân
tộc và quan hệ dân tộc được nhấn mạnh một cách sâu sắc và đó là bản chất cần
có của chính sách dân tộc.
Dưới góc độ quản lý nhà nước, khái niệm trên được phát triển cụ thể hơn:
“Chính sách dân tộc là hệ thống những quyết sách của Nhà nước được thực thi
thông qua bộ máy hành pháp nhằm quản lý và phát triển kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội đối với các dân tộc và vùng đồng bào dân tộc nhằm thiết lập sự bình
đẳng và hoà nhập phát triển, củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam” [57, tr.34].
Dưới góc độ khoa học chính sách công, chính sách dân tộc được hiểu là tập
hợp các quyết định có liên quan của Nhà nước về công tác dân tộc với mục tiêu,
giải pháp, công cụ cụ thể, nhằm đảm bảo và thúc đẩy sự bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, tôn trọng và giữ gin bản sắc văn hóa các dân
tộc cùng chung sống trên lãnh thổ Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1.3. Thực hiện chính sách dân tộc
Thực hiện chính sách công nói chung, chính sách dân tộc nói riêng là quá
trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách dân tộc thành hiện thực, nhằm
đảm bảo thực hiện mục tiêu "các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
9


nhau cùng phát triển". Thực hiện chính sách dân tộc là khâu đặc biệt quan trọng
trong chu trình chính sách dân tộc: Nó có nhiệm vụ hiện thực hóa chính sách
dân tộc của Nhà nước, đưa chính sách dân tộc của Nhà nước vào cuộc sống. Tổ
chức thực hiện chính sách dân tộc là trung tâm kết nối các khâu (các bước) trong
chu trình chính sách dân tộc.
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nƣớc ta về dân tộc
1.2.1. Quan điểm của Đảng về dân tộc

Vấn đề dân tộc mang tính lịch sử. Từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định rõ tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc
trong sự nghiệp cách mạng. Quan điểm cơ bản của Đảng là: “giải quyết vấn đề
dân tộc ở nước ta là giải phóng con người thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thực
hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh; thực hiện dân
chủ, tự do cho các dân tộc, phát huy truyền thống đoàn kết xây dựng cuộc sống
ấm no, hạnh phúc” [57].
Đại hội VI của Đảng là Đại hội mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn điện
đất nước. Về vấn đề dân tộc, Đại hội khẳng định, “chính sách dân tộc luôn luôn
là một bộ phận trọng yếu trong chính sách xã hội”. Đồng thời, Đại hội nhấn
mạnh rằng, sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát
triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sau Đại hội VI, trước những
yêu cầu đòi hỏi của thực tế vùng dân tộc và miền núi, ngày 27/11/1989, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết 22-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát
triển kinh tế - xã hội miền núi đã góp phần thúc đẩy phát triển một bước quan
trọng kinh tế - xã hội miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Tình hình thế giới những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ
XX có những biến động to lớn.Hệ thống các nước xã hội rơi vào khủng hoảng
sâu sắc và chủ nghĩa sụp đổ gây bất lợi cho phong trào cách mạng thế giới trong
đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Đại hội lần thứ VII của Đảng đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lần
10


đầu tiên, chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc đã được
Đảng ta đưa vào trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh ghi rõ: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên
con đường văn minh tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam”.

Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược
lớn”. Thực hiện “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ” giữa các dân tộc trong sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh
đó, Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những khó khăn của đồng bào các dân tộc
thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng cao.
Đến Đại hội IX, Đảng ta khẳng định thêm: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết
các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Đảng ta
phải thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp
nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản
xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở
mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt
đẹp của các dân tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi
và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn
cứ cách mạng và kháng chiến; Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân
tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm
dân tộc.
Cụ thể hóa tư tưởng chiến lược được nêu trong Nghị quyết Đại hội IX và
nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp, các ngành về công tác dân tộc, Hội
nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (phần hai) đã ban
hành Nghị quyết về công tác dân tộc. Nghị quyết khẳng định năm quan điểm cơ
bản trong việc thực hiện công tác dân tộc ở nước ta:
- Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,
11


đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam;
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,
giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc;

- Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc
phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển,
bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số;
giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu
số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất;
- Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi,
trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm
nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo
vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường
của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung
ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước;
- Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính
trị.
Tiếp tục tư tưởng của Nghị quyết về công tác dân tộc được thông qua tại
Hội nghị lần thứ bảy, khóa IX, Đại hội X khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn
kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề dân tộc tiếp tục được Đại hội XI của Đảng quan tâm. Báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn
12


quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược
trong sự nghiệp cách mạng của nước ta”. Các dân tộc trong đại gia đình Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng tiếp tục xác định: “Đoàn kết các
dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục
hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng,
đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển,
tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông
đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ,
Tây duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng
nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số,
người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Tăng cường kiểm tra,
giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu,
hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”.
Hiện nay, Nghị quyết của Đại hội XII trong đó có vấn đề dân tộc đang
được các cấp, các ngành liên quan triển khai trong thực tế, đưa Nghị quyết vào
cuộc sống.
1.2.2. Chính sách của Nhà nước về dân tộc
Chính sách dân tộc mang tính chính trị và cam kết chính trị cao. “Bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển” là tư tưởng cao nhất xuyên
suốt mọi giai đoạn, thời kỳ cách mạng trong quan điểm chỉ đạo đối với CSDT và
vùng dân tộc miền núi. Nguyên tắc căn bản của chính sách cũng đã được thể chế
trong Hiến pháp. Tại Điều 5, Hiến pháp năm 2013 quy định: “ (1) Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng
sinh sống trên đất nước Việt Nam. (2) Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn
13


trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân
tộc. (3) Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và

văn hóa tốt đẹp của mình. (4) Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn
diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển
với đất nước”. Về mặt bản chất, chính sách dân tộc cũng là chính sách phát triển
cho một đối tượng đặc thù là đồng bào dân tộc thiểu số, ở đó đặc biệt chú trọng
cả khía cạnh chính trị, xã hội và kinh tế là nền tảng.
Cụ thể hóa các quan điểm của Đảng và các quy định trong Hiến pháp về
chính sach dân tộc, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày
14/01/2011 quy định các chính sách cụ thể sau:
a) Chính sách đầu tư và sử dụng nguồn lực: Kinh phí thực hiện các chính
sách dân tộc được bố trí từ nguồn ngân sách nhà nước theo quy định về phân cấp
ngân sách nhà nước hiện hành và các nguồn kinh phí hợp pháp khác để phát
triển toàn diện kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, xóa đói, giảm nghèo, thu
hẹp khoảng cách giữa vùng dân tộc với các vùng khác; Quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng, quản lý nguồn lao động là người dân tộc thiểu số tại chỗ, có chế
độ đãi ngộ hợp lý; Khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên vùng
dân tộc thiểu số và đầu tư trở lại phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của địa
phương; Ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, đưa khoa học và công nghệ tiên tiến vào
sản xuất nhằm nâng cao đời sống của đồng bào vùng dân tộc thiểu số.
b) Chính sách đầu tư phát triển bền vững: Đảm bảo việc đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội, kết cấu hạ tầng thiết yếu vùng dân tộc thiểu số; khai thác có
hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, bảo vệ môi trường sinh thái; chú
trọng đào tạo nghề, sử dụng lao động là người tại chỗ, đảm bảo thu nhập ổn
định, xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi công cộng khác; Khôi
phục và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống của đồng bào các dân
tộc thiểu số, phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường; Thực hiện quy hoạch, sắp
14


xếp các điểm dân cư tập trung một cách hợp lý; Thực hiện các chương trình, đề
án xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, giải quyết cơ bản vấn đề vốn, đất ở,

đất sản xuất, nước sinh hoạt, hỗ trợ phát triển kinh tế, giao đất, giao rừng cho hộ
gia đình ở vùng dân tộc thiểu số.
c) Chính sách phát triển giáo dục và đào tạo: Phát triển giáo dục vùng
dân tộc thiểu số theo chương trình chung quốc gia; xây dựng chính sách giáo
dục ở tất cả các cấp học phù hợp với đặc thù dân tộc; Phát triển các loại hình
trường lớp; nghiên cứu hình thức đào tạo đa ngành bậc đại học cho con em các
dân tộc thiểu số để đẩy nhanh việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; hỗ trợ giáo viên giảng
dạy tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn;
Tiếng nói, chữ viết và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được đưa
vào chương trình giảng dạy trong các trường phù hợp với địa bàn vùng dân tộc.
d) Chính sách cán bộ người dân tộc thiểu số: Cán bộ người dân tộc thiểu
số có năng lực và đủ tiêu chuẩn phù hợp quy định của pháp luật, được bổ nhiệm
vào các chức danh cán bộ chủ chốt, cán bộ quản lý các cấp; Ở các địa phương
vùng dân tộc thiểu số, nhất thiết phải có cán bộ chủ chốt người dân tộc thiểu số;
Đảm bảo tỷ lệ hợp lý cán bộ người dân tộc thiểu số, ưu tiên cán bộ nữ, cán bộ trẻ
tham gia vào các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp.
đ) Chính sách đối với người có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số: Người có
uy tín ở vùng dân tộc thiểu số được bồi dưỡng, tập huấn, được hưởng chế độ đãi
ngộ và các ưu đãi khác để phát huy vai trò trong việc thực hiện chính sách dân
tộc ở địa bàn dân cư, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
e) Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa: Hỗ trợ việc sưu tầm, nghiên
cứu, bảo vệ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của
các dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam; bảo tồn, phát huy các lễ
hội truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc, định kỳ tổ chức ngày hội văn
hóa - thể thao dân tộc theo từng khu vực hoặc từng dân tộc ở vùng đồng bào dân
15


tộc thiểu số.

g) Chính sách phát triển thể dục, thể thao vùng dân tộc thiểu số: Bảo tồn
và phát triển các môn thể dục, thể thao truyền thống của các dân tộc; đầu tư xây
dựng và hỗ trợ các hoạt động thể dục, thể thao, xây dựng sân vận động, nhà thi
đấu, trung tâm tập luyện thể dục thể thao ở vùng dân tộc thiểu số.
h) Chính sách phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số: Tập trung hỗ trợ
xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch gắn với bảo vệ môi trường, sinh thái; hỗ
trợ quảng bá, đa dạng hóa các loại hình, các sản phẩm du lịch, khai thác hợp lý
các tiềm năng, danh lam thắng cảnh, phát triển du lịch.
i) Chính sách y tế, dân số: Đảm bảo đồng bào các dân tộc thiểu số được
sử dụng các dịch vụ y tế; thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ, bảo hiểm y
tế cho đồng bào dân tộc thiểu số; củng cố, mở rộng cơ sở y tế; hỗ trợ việc bảo
tồn, khai thác, sử dụng những bài thuốc dân gian và phương pháp chữa bệnh cổ
truyền có giá trị của đồng bào các dân tộc đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền công nhận; bảo đảm nâng cao chất lượng dân số, phát triển dân số hợp lý
của từng dân tộc theo quy định của pháp luật.
k) Chính sách thông tin - truyền thông: Đầu tư phát triển thông tin truyền thông vùng dân tộc thiểu số, cung cấp một số phương tiện thiết yếu nhằm
đảm bảo quyền tiếp cận và hưởng thụ thông tin; xây dựng, củng cố hệ thống
thông tin tình hình dân tộc và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc; áp dụng
công nghệ thông tin, xây dựng và tổ chức thực hiện trong hệ thống cơ quan công
tác dân tộc; tăng cường và nâng cao chất lượng sử dụng ngôn ngữ dân tộc trên
các phương tiện thông tin đại chúng.
l) Chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý: Đồng bào
dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được
hưởng các dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí theo quy định của pháp luật.
m) Chính sách bảo vệ môi trường, sinh thái: Sử dụng, khai thác và phát
triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường, sinh thái vùng dân tộc thiểu số;
16


bảo vệ, cải tạo và đảm bảo cho vùng có tài nguyên được đầu tư trở lại phù hợp;

tuyên truyền, giáo dục, vận động đồng bào ở vùng có tài nguyên để nâng cao
nhận thức bảo vệ môi trường, sinh thái, đa dạng sinh học.
n) Chính sách quốc phòng, an ninh: Xây dựng, củng cố, quốc phòng, an
ninh ở các địa bàn xung yếu, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo gắn với
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị và giữ vững trật tự an toàn
xã hội ở vùng dân tộc thiểu số.
1.3. Ý nghĩa, tầm quan trọng, nội dung thực hiện chính sách dân tộc
1.3.1. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách dân tộc
Ở Việt Nam, chính sách dân tộc là một bộ phận cấu thành thể chế chính
sách nhà nước, thể hiện bản chất của nhà nước, của chế độ dân chủ, nhân dân; là
một bộ phận hữu cơ, mang tính lợi ích sống còn, để bảo đảm ổn định, không thể
tách rời với sự phát triển chung của quốc gia, cả về kinh tế và chính trị.
Để hội nhập với phát triển chung của đất nước, đòi hỏi phải phát triển
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, xóa đói giảm
nghèo và bảo vệ môi trường. Thực hiện chính sách dân tộc còn thể hiện mục tiêu
công bằng xã hội, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, thể hiện tình cảm,
trách nhiệm của cả nước đối với những đóng góp của đồng bào dân tộc thiểu số
trong sự nghiệp cách mạng giành, giữ nền độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong suốt chiều dài lịch sử dựng, giữ nước đến nay.
Hoạch định, xây dựng được chính sách dân tộc đúng có chất lượng là rất
quan trọng, nhưng thực hiện đúng chính sách dân tộc còn quan trọng hơn. Có
chính sách dân tộc đúng, nếu nó không được tổ chức thực hiện trên thực tế nó
cũng trở thành vô nghĩa, trở thành khẩu hiệu suông. Nếu chính sách dân tộc của
Nhà nước không được thực hiện đúng sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng, thậm chí có
sự chống đối của các đối tượng đối với Nhà nước. Điều này hoàn toàn bất lợi về
mặt chính trị và xã hội, gây khó khăn bất ổn cho Nhà nước trong công tác quản
lý. Qua thực hiện chính sách dân tộc mới biết được chính sách dân tộc đó đúng
17



hay không đúng, phù hợp hay không phù hợp, chính sách đó có đi vào cuộc sống
hay không đi vào cuộc sống. Có những vấn đề trong giai đoạn hoạch định và xây
dựng chính sách dân tộc chưa phát sinh hoặc đã phát sinh ra nhưng các nhà
hoạch định chưa nhận thấy, đến giai đoạn tổ chức thực hiện mới phát hiện ra.
Chính quá trình thực hiện chính sách dân tộc với những hoạt động thực tiễn sẽ
góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực
tiễn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống và nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời
việc phân tích đánh giá một chính sách dân tộc (mức độ xấu, tốt) chỉ có cơ sở
đầy đủ, có sức thuyết phục sau khi thực hiện chính sách dân tộc đó.
Thực tiễn là chân lý, kết quả thực hiện chính sách dân tộc là thước đo, là
cơ sở đánh giá một cách chính xác, khách quan, chất lượng và hiệu quả của
chính sách dân tộc đó. Ngoài ra việc tổ chức thực hiện đưa chính sách dân tộc
vào thực tiễn cuộc sống là một quá trình phức tạp đầy biến động, chịu sự tác
động của một loạt các yếu tố thúc đẩy hoặc cản trở cũng giúp cho các nhà hoạch
định và tổ chức thực hiện chính sách có kinh nghiệm đề ra được các giải pháp
hữu hiệu trong thực hiện chính sách. Như vậy thực hiện chính sách dân tộc có ý
nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt cần phải đặc biệt quan tâm đến khâu thực hiện
chính sách dân tộc. Thực tiễn thời gian qua có nhiều chính sách dân tộc chúng ta
tổ chức thực hiện tốt, nhưng cũng có một số chính sách thực hiện chưa tốt dẫn
đến các bức xúc của một bộ phận nhân dân các dân tộc, bị một số thế lực thù
địch lợi dụng xuyên tạc, tố cáo chúng ta vi phạm nhân quyền, nhất là đối với
đồng bào vùng dân tộc thiểu số.
Ngoài ra chính sách dân tộc là chính sách có tính đặc thù và nhạy cảm, do
đó trong tổ chức thực hiện chính sách dân tộc phải chú ý đến tính đặc thù này để
có giải pháp thích hợp, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả chính sách.
Tổ chức thực hiện chính sách dân tộc là yêu cầu tất yếu khách quan để
duy trì sự tồn tại của chính sách với công cụ vĩ mô theo yêu cầu quản lý của nhà
nước về dân tộc, đảm bảo quyền bình đẳng, tự do, phát triển giữa các dân tộc.
18



×