MỤC LỤC
Trang
3
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH GIÁO
DỤC HÀNH VI, THÓI QUEN ĐẠO ĐỨC CHO HỌC
SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2. Nội dung quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen
đạo đức
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình giáo dục hành vi,
thói quen đạo đức cho học sinh các trường trung học cơ
sở quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
HÀNH VI, THÓI QUEN ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN HAI BÀ
TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát tình hình kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội
và giáo dục của quận Hai Bà Trưng
2.2. Thực trạng quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức
cho học sinh các trường trung học cơ sở quận Hai Bà
Trưng, thành phố Hà Nội
2.3. Thực trạng quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen
đạo đức cho học sinh ở các trường trung học cơ sở quận
Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
Chương 3 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH
GIÁO DỤC HÀNH VI, THÓI QUEN ĐẠO ĐỨC CHO
HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Yêu cầu trong đề xuất biện pháp quản lý quá trình giáo
dục hành vi, thói quen đạo đức ở trường trung học cơ sở
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
3.2 Biện pháp quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen
đạo đức cho học sinh các trường trung học cơ sở quận
Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết của và tính khả thi của các
biện pháp quản lý được đề xuất
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
12
12
18
25
34
34
37
45
62
62
65
82
87
90
92
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mục tiêu của bất cứ nền giáo dục phát triển nào cũng là đào tạo nên
những con người có đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu xã hội. Khi nói
đến quá trình giáo dục của một nhà trường, người ta thường nói một cách hình
ảnh là “dạy chữ” và “dạy người”. Do vậy song song với quá trình giáo dục tri
thức thì giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục hành vi, thói quen nói riêng
cho học sinh có một ý nghĩa quan trọng.
Coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, Đảng ta đòi hỏi phải
“Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn - lịch sử dân tộc
và bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền
đồ của đất nước”[2, tr.34]
Do đó, nền giáo dục của ta hiện nay phải hướng vào mục tiêu đào tạo
những con người mới có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề
nghiệp, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, có lí tưởng đúng, đáp ứng nhu
cầu phát triển của đất nước. Đó là những con người có trí tuệ phát triển thể
chất cường tráng, tinh thần phong phú, đạo đức trong sáng… Trong đó đạo
đức với tư cách là một bộ phận cấu thành nhân cách, luôn đứng ở vị trí trung
tâm và giữ vai trò định hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách.
Chính vì vậy giáo dục hành vi, thói quen đạo đức luôn là một bộ phận của quá
trình giáo dục và là một bộ phận có tính chất cốt lõi, là nền tảng của công tác
giáo dục thế hệ trẻ.
Học sinh ở trường trung học cơ sở là lứa tuổi đang phát triển về nhân
cách và có nhu cầu khẳng định mạnh mẽ về tính cách, thích hoạt động, có
khát vọng được tham gia, được thể hiện mình trong các hoạt động tập thể.
Trong bối cảnh xã hội phức tạp phức tạp hiện nay, mặt trái của nền kinh tế thị
3
trường với những tác động tiêu cực của nó đã tác động không nhỏ đến tầng
lớp thanh thiếu niên. Nhà trường nơi bồi dưỡng đạo đức, lý tưởng, nhân cách,
hoài bão, ước mơ, trí tuệ…của học sinh cũng không tránh khỏi sự xâm nhập,
tấn công của các tệ nạn xã hội. Các em dễ bị cuốn vào các hoạt động có hại và
nguy hiểm cho bản thân, gia đình và xã hội. Nhà trường đóng vai trò quan
trọng trong việc giáo dục, uốn nắn hành vi, thói quen cho học sinh. Bởi vậy,
việc giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho các em là một nhiệm
vụ vô cùng quan trọng và phức tạp trong các nhà trường.
Trong thời gian vừa qua, công tác giáo dục, quản lý quá trình giáo dục
hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh các trường THCS Hai Bà Trưng đã
có chuyển biến, tuy nhiên cũng bộc lộ những vướng mắc, hạn chế nhất định
như: Hiệu quả đạt được của quá trình giáo dục chưa cao; chất lượng giáo dục
hành vi, thói quen đạo đức thông qua các hoạt động, kết quả hạnh kiểm cuối
kỳ chưa như mong muốn; nội dung triển khai hoạt động chưa đem lại hiệu
quả cao; chưa áp dụng linh hoạt các phương pháp trong quá trình giáo dục
hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh.
Về mặt lý luận cũng đã có một số công trình nghiên cứu về giáo dục đạo
đức cho học sinh, quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh, nhưng
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về quản lý quá trình
giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh các trường THCS quận Hai
Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Xuất phát từ lý do trên tôi đã chọn tên đề tài: “Quản lý quá trình giáo
dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh các trường trung học cơ sở
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội”.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Giáo dục đạo đức cho học sinh luôn là “vấn đề nóng” trong mọi thời
đại, mọi nền giáo dục. Trên thế giới, từ thời cổ đại, các nhà giáo dục lớn đã
đặt vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh là nhiệm vụ trung tâm của các nhà
4
trường. Ở phương Đông từ thời cổ đại, Khổng Tử (551-479-TCN) trong các
tác phẩm: “Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc Xuân Thu” rất xem trọng việc giáo dục
đạo đức. Hạt nhân tư tưởng của Khổng Tử đề xướng và xuyên suốt truyền bá
trong các lớp môn sinh là “nhân”, chữ nhân theo quan niệm của Khổng Tử
mang một ý nghĩa rộng lớn, gắn bó chặt chẽ với đạo- đạo đức- lòng yêu
thương con người, yêu thương vạn vật. Nội dung giáo dục luân lý đạo đức của
Khổng Tử được thể hiện trong “Luận ngữ”. Mục đích giáo dục đều thể hiện
cho dân không làm điều ác, không phạm tội. Nếu không giáo hóa dân, để dân
phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược.
Aristoste (384-322-TCN) cho rằng không phải hy vọng vào Thượng để
áp đặt để có người công dân hoàn thiện về đạo đức, mà việc phát hiện nhu cầu
trên trái đất mới tạo nên được con người hoàn thiện trong quan hệ đạo đức.
Ở Việt Nam, với triết lý giáo dục “Tiên học lễ, hậu học văn”, ngay
trong nền giáo dục Nho học, việc giáo dục đạo đức cho học sinh luôn được
coi trọng. Chu Văn An (1292 - 1370) đã đề cao tinh thần quản lý xã hội, đấu
tranh chống các tệ nạn xã hội; Trong quá trình giáo dục ông không chỉ nêu
gương sáng cho kẻ sĩ học tập mà còn kêu gọi, động viên và khuyên bảo học
trò về ý thức và sự trau dồi đạo đức với tự quản lý mình trong quá trình giáo
dục nhân cách, tư tưởng quản lý quá trình giáo dục nói chung, quản lý quá
trình giáo dục phẩm chất, nhân cách nói riêng, đã được ông đề cập khá toàn
diện và sâu sắc, ngày nay vẫn còn giá trị về lý luận và thực tiễn to lớn đối với
công tác quản lý giáo dục.
Sang thời kỳ hiện đại, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa của Việt Nam
được xây dựng dựa trên triết lý giáo dục Hồ Chí Minh. Đó là nền giáo dục lấy
việc giáo dục đạo đức làm gốc, làm trung tâm cho sự phát triển hoàn toàn con
người. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn “Non sông Việt
Nam có trở nên vẻ vang được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang sánh vai cùng với các cường quốc năm châu được hay không
5
phần lớn nhờ vào công học tập của các cháu” [24, tr.41]. Để các em xứng
đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước thì trong quá trình giáo dục
không chỉ giáo dục cho các em những tri thức mà phải giáo dục cho các em có
tình thương yêu đối với quê hương, đất nước, biết chia sẻ với bạn bè, thầy cô và
người thân…Thông qua quá trình giáo dục hình thành cho các em thói quen,
hành vi đúng. Đó chính là bước đầu hình thành giá trị đạo đức cho các em.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế, giáo dục đạo đức cho
học sinh nói chung, giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh nói
riêng đang là một chủ đề trung tâm thu hút sự chú ý của dư luận xã hội và
cũng là chủ đề được các nhà sư phạm, các nhà khoa học, các nhà quản lý xã
hội quan tâm nhiều.
Từ vấn đề lý luận cũng như thực tiễn, giáo dục hành vi, thói quen đạo
đức và quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức trong nhà trường
rất cần được quan tâm. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục
đạo đức, giáo dục hành vi, thói quen đạo đức trong nhà trường. Trong đó có
một số công trình tiêu biểu như:
Đề tài: “Về phát triển toàn diện con người thời kỳ CNH, HĐH” của
Phạm Minh Hạc (2001). Toàn bộ nội dung cuốn sách này đều liên quan đến
vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh. Nghiên cứu của giáo sư đã nêu lên các
định hướng giá trị đạo đức con người Việt Nam trong thời kỳ CNH-HĐH;
đồng thời đưa ra các giải pháp về giáo dục đạo đức cho học sinh. Trong cuốn
sách chuyên khảo “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” của tác giả Trần Đình
Tuấn (2012) có nhiều nội dung bàn về cơ sở phương pháp luận của giáo dục
đạo đức cho học sinh. Năm 2001, tác giả Trần Kiều đã công bố kết quả
nghiên cứu chuyên đề KHXH 07-07-CĐ, với tiêu đề: Thực trạng và giải pháp
giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho thanh niên học sinh, sinh
viên trong chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Báo cáo Hội thảo khoa học toàn quốc của
6
Hội khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam, tổ chức từ ngày 17 đến 19 tháng 7
năm 2008, tại Biên Hoà, Đồng Nai, đã cho ra mắt kỷ yếu “Giáo dục đạo đức
cho học sinh, sinh viên ở nước ta: Thực trạng và giải pháp”. Nội dung bao
gồm nhiều bài viết của các nhà khoa học, các nhà sư phạm về quản lý giáo dục
đạo đức cho học sinh, sinh viên nói chung và cho học sinh THCS nói riêng.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu của các học giả trên đã đưa ra
những vấn đề lý luận, hướng nghiên cứu và những định hướng rất cơ bản
trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
Về đạo đức, văn hoá đạo đức có các công trình:“Sự biến đổi của thang
giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho
cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Chí Mỳ (1999); “Văn hoá đạo
đức, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Thành Duy (2004). Tác giả
của các công trình trên tìm hiểu tác động của cơ chế thị trường đến đời sống
văn hoá đạo đức và đều thống nhất cho rằng, sự biến đổi của hệ thống giá trị
đạo đức, văn hoá đạo đức ở nước ta hiện nay là một tất yếu; đề cập đến thực
trạng đạo đức và đưa ra một số giải pháp khắc phục tình trạng xuống cấp về
đạo đức ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước.
Ngoài ra vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh cũng được đề cập đến
trong một số đề tài luận văn thạc sỹ với những góc độ tiếp cận khác nhau: tác
giả Phạm Văn Công với đề tài “ Một số vấn đề quản lý giáo dục đạo đức cho
học sinh THPT thành phố Huế”. Tác giả Nguyễn Tiến Dũng với đề tài “Các
biện pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh của hiệu trưởng
trường THPT trên địa bàn thị xã Quảng Trị”. Tác giả Nguyễn Bách Khoa với
đề tài: “ Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh”. Tác giả
Đỗ Quang Hợp với đề tài “ Các biện pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức
của hiệu trưởng trường THPT tỉnh Hưng Yên”. Tác giả Đỗ Văn Thược với đề
tài “Một số biện pháp tăng cường quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường THPT ngoài công lập của tỉnh Hải Dương”. Tác giả Nguyễn Đức
7
Quân với đề tài “Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
học sinh ở trung tâm giáo dục thường xuyên-TP Việt Trì-Tỉnh Phú Thọ”. Tác
giả Hoàng Châu Tuấn với đề tài “ Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo
đức học sinh của hiệu trưởng Trường THPT Ba Vì - Hà Tây”. Tác giả Vũ
Minh Tuấn với đề tài “ Nghiên cứu thực trạng giáo dục hành vi, thói quen đạo
đức cho học sinh tiểu học thông qua hoạt động ngoại khóa”.
Các đề tài nói trên đã đi sâu phân tích, nghiên cứu thực trạng, tìm ra các
giải pháp về giáo dục đạo đức, quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh. Đó là
những cơ sở lý luận và thực tiễn tác giả nghiên cứu và vận dụng để triển khai
vấn đề nghiên cứu của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động quản lý quá
trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh các trường THCS, đề
xuất các biện pháp nhằm mang lại chất lượng, hiệu quả giáo dục hành vi, thói
quen đạo đức cho học sinh, góp phần thực hiện chủ trương nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói
quen đạo đức cho học sinh của các trường THCS.
Khảo sát, đánh giá thực trạng của quá trình giáo dục hành vi, thói quen
đạo đức và công tác quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức ở
các trường THCS Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Đề xuất các biện pháp quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen
đạo đức ở các trường THCS Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học cơ sở.
* Đối tượng nghiên cứu
8
Quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh ở
các trường THCS Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
* Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về quản lý quá trình giáo dục hành vi,
thói quen đạo đức cho học sinh ở trường THCS.
Nghiên cứu ở 05 trường THCS trong địa bàn quận Hai Bà Trưng:
THCS Vân Hồ, THCS Lê Ngọc Hân, THCS Lương Yên, THCS Minh Khai,
THCS Quỳnh Mai.
Nghiên cứu qua thực tế, qua các báo cáo tổng kết, các sản phầm của
quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh ở các trường trên
từ năm 2012 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng đào tạo của các nhà trường hiện nay phụ thuộc vào sự tác
động tổng hợp của rất nhiều yếu tố, trong đó quản lý quá trình giáo dục hành
vi, thói quen đạo đức cho học sinh trong nhà trường là một trong những hoạt
động quan trọng góp phần hoàn thiện con người xã hội chủ nghĩa có đủ đức,
trí, thể, mỹ. Nếu các chủ thể quản lý xác định rõ mục tiêu; nội dung; phương
pháp, hình thức quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức; kiểm
tra, đánh giá kết quả giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh thì sẽ
quản lý tốt quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh các
trường THCS quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học, giáo dục của các trường THCS, thành phố Hà Nội.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về giáo dục và đào tạo và quản lí giáo dục. Đề tài tiếp cận vấn đề
nghiên cứu theo quan điểm hệ thống cấu trúc; quan điểm lịch sử- lôgic; quan
điểm thực tiễn trong quá trình nghiên cứu.
9
* Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn quán triệt và vận dụng các phương
pháp tiếp cận hệ thống - cấu trúc, lôgic - lịch sử và thực tiễn; cùng với sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục như:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận như: Phân tích, tổng hợp,
hệ thống hóa các tài liệu có liên quan làm căn cứ lý thuyết cho đề tài.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Quan sát hoạt động của các nhóm, khối chủ nhiệm và phương pháp
quản lý của chủ thể quản lý ở các trường.
+ Điều tra bằng bảng hỏi để đánh giá thực trạng về quá trình giáo dục,
quản lý quá trình giáo dục. Phương pháp này được sử dụng để thu thập ý kiến
của các khách thể điều tra thông qua việc trưng cầu ý kiến. Các nội dung trưng
cầu ý kiến là các vấn đề liên quan đến thực trạng quá trình giáo dục, quản lý
quá trình giáo dục từ CBQL, giáo viên và các lực lượng giáo dục khác.
Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn, mục đích
của phương pháp này là giúp người sử dụng có thể nắm rõ thực trạng quản lý
quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh ở quận Hai Bà
Trưng hiện nay. Xây dựng bảng câu hỏi giành cho cán bộ quản lý và giáo
viên ở các trường trên địa bàn quận nhằm phát hiện thực tế việc quản lý quá
trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh. Thu thập và tổng hợp
các số liệu, sau đó xử lý các kết quả.
+ Tổng kết kinh nghiệm quản lý hoạt động giáo dục hành vi, thói quen
đạo đức của các chủ thể quản lý.
+ Tiến hành tham khảo ý kiến của các chuyên gia về những vấn đề liên
quan đến đề tài.
+ Tổ chức tiến hành khảo nghiệm tính chân thực của các biện pháp đã
đề xuất.
10
- Sử dụng toán thống kê để xử lý các kết quả nghiên cứu để rút ra kết
luận khoa học.
Dùng phương pháp thống kê toán học để xử lí số liệu đã thu thập được
từ các phương pháp khác nhau để cho các kết quả nghiên cứu trở nên chính
xác và đảm bảo độ tin cậy. (Thống kế tất cả số liệu từ bnagr biểu, phiếu điều
tra, sau đó tổng hợp, sử dụng rồi dùng toán định lượng, tính trung bình của
số liệu, so snahs với chuẩn đặt ra rồi kết luận) bỏ
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài đã phân tích thực trạng quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói
quen đạo đức cho học sinh các trường trung học cơ sở quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội để phát hiện những điểm còn hạn chế trong công tác quản
lý quá trình này ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn quận để có hướng
khắc phục. Đề ra một số biện pháp trong quá trình giáo dục hành vi, thói quen
đạo đức cho học sinh THCS quận Hai Bà Trưng có hiệu quả trong thực tiễn
giáo dục. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm nguồn tài liệu
nghiên cứu cho các nhà trường THCS trên địa bàn thành phố Hà Nội.
8. Kết cấu của đề tài
Cấu trúc của đề tài gồm: phần mở đầu; phần nội dung có 3 chương (9
tiết); phần kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và các bản phụ
lục.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC HÀNH VI,
THÓI QUEN ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.Giáo dục đạo đức
* Đạo đức
Đạo đức hiểu theo nghĩa thông thường là luân lý, những quy định,
những chuẩn mực về thái độ, hành vi ứng xử của con người trong các mối
quan hệ xã hội, làm chuẩn mực cho mọi thành viên trong xã hội đó phải rèn
luyện và thực hiện theo.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc
được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối
với nhau và đối với xã hội.”[36, tr.280].
Theo tác giả Phạm Khắc Chương: “ Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội, là tổng hợp những quy tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó mà con người tự
giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của
con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với cơn người,
giữa cá nhân với xã hội.” [7].
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội luôn mang tính lịch sử, tính giai
cấp, tính dân tộc gắn với tiến trình phát triển của nhân loại và dân tộc. Đạo
đức cũng chịu sự quy định của điều kiện kinh tế, vật chất xã hội đồng thời
cũng chịu sự tác động qua lại và chế ước của nhau của các hình thái ý thức
khác nhau như pháp luật, văn hóa, giáo dục, tập quán…
* Giáo dục đạo đức:
“ Giáo dục đạo đức là những tác động sư phạm một cách có mục đích,
có hệ thống và có kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo dục (học
12
sinh) để bồi dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức (chuẩn mực hành vi đạo
đức) phù hợp với yêu cầu của xã hội” [23,tr.94].
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch được
chọn lọc về nội dung, phương pháp, hình thức phù hợp với học sinh nhằm
hình thành và phát triển ý thức, tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen đạo
đức nhằm giúp cho học sinh biết cách ứng xử đúng mực trong các mối quan
hệ giữa cá nhân và xã hội, cá nhân với tự nhiên, với mọi người xung quanh và
với chính mình, góp phần hình thành và phát triển nhân cách của học sinh.
Giáo dục đạo đức là bộ phận hợp thành của nội dung giáo dục toàn diện
nhằm giúp thế hệ trẻ hình thành lý tưởng, ý thức và tình cảm đạo đức, tạo nên
những hành vi và thói quen đạo đức của con người mới xã hội chủ nghĩa thể
hiện ở những phẩm chất đạo đức.
Giáo dục đạo đức trong nhà trường là một bộ phận không thể thiếu
được của quá trình giáo dục tổng thể, có quan hệ biện chứng với các quá trình
bộ phận khác như giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo
dục lao động hướng nghiệp nhằm hình thành cho học sinh niềm tin, thói quen,
hành vi, chuẩn mực về đạo đức.
Giáo dục đạo đức cho học sinh ở nước ta là giáo dục đạo đức xã hội
chủ nghĩa, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức, pháp luật, làm cho
học sinh có tinh thần yêu nước, thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thật sự
say mê học tập, có ý thức tổ chức kỷ luật, kính thầy, yêu bạn, có nếp sống
lành mạnh, biết tôn trọng pháp luật.
1.1.2. Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức
* Hành vi, thói quen đạo đức
Theo từ điển tiếng Việt:
Hành vi: là toàn bộ những phản ứng, cách cư xử ra bên ngoài của một
người trong hoàn cảnh cụ thể [36, tr.407 ].
13
Thói quen: là lối sống, cách sống hay hoạt động do lặp đi lặp lại lâu
ngày thành quen, khó thay đổi [36, tr.915 ].
Vậy, có thể hiểu:
Hành vi, thói quen đạo đức là những hành động ứng xử tương đối ổn
định, bền vững của cá nhân về đạo đức theo nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
xã hội quy định.
Xã hội Việt Nam hiện là xã hội học tập, để đáp ứng những nhu cầu về
tri thức, đầu tư cho giáo dục là đầu tư bắc cầu, vì thế để hình thành hành vi
đạo đức có rất nhiều yếu tố chi phối.
Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức là tổ chức cho học sinh lặp đi, lặp
lại nhiều lần những thao tác, hành động đạo đức trong học tập, sinh hoạt,
trong cuộc sống nhằm có được hành vi đạo đức đúng đắn và từ đó có thói
quen đạo đức bền vững.
Trong giáo dục đạo đức cho học sinh cần giáo dục hành vi, thói quen
đạo đức cho học sinh, hành vi, thói quen đạo đức ấy phải phù hợp với những
chuẩn mực đạo đức mà xã hội yêu cầu.
Giá trị đạo đức của một hành vi, thói quen được xét theo những tiêu
chuẩn sau:
+ Tính tự giác của hành vi: Một hành vi được xem là hành vi đạo đức
khi hành vi đó được chủ thể hành động, ý thức đầy đủ về mục đích, ý nghĩa
của hành vi. Chủ thể tự giác hành động dưới sự thúc đẩy của những động cơ
của chính chủ thể. Hay nói cách khác là chủ thể hành vi phải có hiểu biết, có
thái độ, có ý thức đạo đức.
+ Tính có ích của hành vi: Đây là một đặc điểm nổi bật của hành vi đạo
đức, nó phụ thuộc vào thế giới quan và nhân sinh quan của chủ thể hành vi.
14
Trong xã hội hiện đại, một hành vi được coi là có đạo đức hay không
tuỳ thuộc ở chỗ nó có thúc đẩy cho xã hội đi lên theo hướng có lợi cho công
việc đổi mới hay không.
+ Tính không vụ lợi của hành vi đạo đức: Hành vi đạo đức phải là hành
vi có mục đích vì tập thể vì lợi ích chung, vì cộng đồng xã hội.
* Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh
Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức là quá trình tác động của nhà
giáo dục tới đối tượng giáo dục nhằm hình thành hành động ứng xử đúng,
thói quen phù hợp với nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội, góp phần củng
cố ý thức, tình cảm, niềm tin đạo đức cho học sinh..
Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức có thể hiểu là quá trình sử dụng
các biện pháp, phương pháo giáo dục nhằm tác động tới học sinh để dần định
hướng, hình thành cho họ ý thức, tình cảm, niềm tin đạo đức, nhằm mục đích
tạo lập được đạo đức tốt cho học sinh. Khi học sinh có đạo đức tốt, sẽ biểu
hiện ra bên ngoài thành những hành vi tốt, thói quen tốt.
Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức trong nhà trường là một bộ phận
không thể thiếu được của quá trình giáo dục tổng thể, có quan hệ biện chứng
với các quá trình bộ phận khác như giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo
dục thể chất, giáo dục lao động hướng nghiệp nhằm hình thành cho học sinh
niềm tin, thói quen, hành vi, chuẩn mực về đạo đức.
1.1.3. Quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức
*Quản lý
Quản lý là một trong những loại hình hoạt động quan trọng nhất của
con người. Quản lý là một phạm trù khách quan, nó ra đời một cách tất yếu do
nhu cầu tổ chức hoạt động xã hội ở mọi thời đại.
Khoa học quản lý là một lĩnh vực lao động trí tuệ và thực tiễn phức tạp
nhằm điều khiển lao động, thúc đẩy sự phát triển của xã hội trên tất cả mọi
15
bình diện. Khoa học quản lý luôn gắn với tiến trình phát triển của xã hội, luôn
mang tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc.
Tùy theo nội dung, tính chất đặc thù của mỗi loại lao động mà hoạt
động quản lý có những phương pháp, cách thức riêng.
Có nhiều cách tiếp cận khái niệm quản lý. Theo từ điển tiếng Việt
thông dụng (NXB Giáo dục, 1998) thì quản lý là tổ chức điều khiển hoạt động
của một đơn vị cơ quan. Theo FW.Taylor thì quản lý là biết chính xác điều
muốn người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một
cách tốt nhất và rẻ nhất.
Quản lý là sự tác động có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý bằng một hệ thống các giải pháp nhằm thay đổi trạng thái của đối
tượng quản lý, đưa hệ thống tiếp cận mục tiêu cuối cùng, phục vụ lợi ích của
con người.
Như vậy có thể hiểu: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích
của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra”.
Như vậy: Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục
tiêu xác định. Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận là chủ thể quản
lý và đối tượng quản lý, không đồng cấp và mang tính bắt buộc.
Quản lý là sự tác động chủ quan nhưng phải phù hợp với quy luật
khách quan, quản lý xét về mặt công nghệ đó là sự vận động của thông tin.
Quản lý có khả năng thích nghi giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý và
ngược lại.
* Quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức
Quá trình là tổng thể nói chung những hiện tượng nối tiếp nhau trong
thời gian theo một trình tự nhất định của một sự việc nào đó.
Quá trình sư phạm tổng thể bao gồm hai quá trình: quá trình dạy học
và quá trình giáo dục. Nếu quá trình dạy học có mục tiêu là giúp cho học
sinh nắm vững kiến thức, hình thành kỹ năng và thái độ học tập, thì quá
16
trình giáo dục có mục tiêu chủ yếu là hình thành phẩm chất nhân cách của
người công dân.
Trong nhà trường, dạy khoa học luôn đi đôi với giáo dục nhân cách cho
học sinh, “dạy chữ” gắn liền với “dạy người”. Chất lượng giáo dục hiện nay
đang lấy hai tiêu chí cơ bản nhất làm thước đo đó là: học lực và hạnh kiểm
của học sinh. Ở đây xin bàn về quá trình giáo dục học sinh qua giáo dục hành
vi, thói quen cho các em.
Quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức là sự tác động có mục
đích các loại hình hoạt động, các mối quan hệ của người được giáo dục đối
với người khác, với thế giới xung quanh nhằm hình thành cho người được
giáo dục quan điểm, thói quen đối xử và các hành vi ứng xử đúng thuộc các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức chính là quá trình sử
dụng các phương pháp giáo dục để tác động lên học sinh nhằm hình thành đạo
đức, nhân cách tốt cho các em. Từ đạo đức, nhân cách tốt của các em sẽ thể
hiện ra ngoài thành các hành vi tốt, thói quen tốt hàng ngày. Chính vì thế, quá
trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cũng chính là quá trình giáo dục đạo
đức, nhân cách cho học sinh.
Mục đích cuối cùng của quá trình giáo dục là tạo lập cho con người
những hành vi, thói quen có văn hóa và chúng phải được thể hiện trong cuộc
sống hằng ngày. Con người được giáo dục cũng đồng nghĩa với con người đã
hình thành được thói quen sống có văn hóa.
Hành vi thói quen văn hóa chính là kĩ năng cuộc sống, là kết quả của
nhận thức đồng thời là biểu hiện cụ thể và sinh động nhất của thái độ, niệm
tin của con người.
Hành vi, thói quen được hình thành trong hoạt động, trong các tình
huống cụ thể, đó là sản phẩm của quá trình học tập tu dưỡng và luyện tập
lâu dài.
* Quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh
các trường trung học cơ sở quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
17
Trong nhà trường, quá trình quản lý bao gồm nhiều nội dung, trong đó
quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh là một nội
dung quan trọng.
Quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh
các trường trung học cơ sở quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội là quá
trình tác động của chủ thể quản lý tới các đối tượng quản lý nhằm đạt được
mục tiêu đề ra.
Chủ thể quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức ở đây
bao gồm các lực lượng giáo dục như SGD&ĐT, PGD&ĐT, ban giám hiệu
nhà trường, các lực lượng chuyên trách.
Đối tượng quản lý của quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức: là
các yếu tố của quá trình giáo dục hành vi thói quen đạo đức và đội ngũ giáo
viên chủ nhiệm, học sinh các trường THCS quận Hai Bà Trưng.
Mục tiêu quản lý: Thông qua việc lập kế hoạch, xác định nội dung, đưa
ra các phương pháp nhằm làm cho quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo
đức diễn ra theo đúng kế hoạch, đạt kết quả.
Phương thức quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức:
thông qua ban giám hiệu để tập hợp và phát huy vai trò của các lực lượng
giáo dục trong và ngoài nhà trường trong việc phối kết hợp giáo dục học sinh
đem lại hiệu quả của quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức.
1.2. Nội dung quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức
Xác định nội dung quản lý quá trình giáo dục là việc quan trọng bảo
đảm cho quá trình quản lý thực hiện được mục tiêu quản lý đề ra. Nội dung
quản lý được xác định trên cơ sở quán triệt sâu sắc mục tiêu quản lý phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nhà trường. Theo cách tiếp cận hệ thống
cấu trúc, hoạt động giáo dục nói chung, giáo dục hành vi, thói quen đạo đức
nói riêng gồm các nhân tố cơ bản như: xác định mục tiêu, chủ thể giáo dục,
đối tượng giáo dục, xây dựng nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục; hình
thức thực hiện; kiểm tra đánh giá giáo dục hành vi, thói quen đạo đức..
18
* Quản lý mục tiêu, kế hoạch quá trình giáo dục hành vi, thói quen
đạo đức:
Trong mọi hoạt động, vấn đề xác định đúng và quá triệt sâu sắc mục
tiêu trong quá trình thực hiện là điều kiện quyết định cho kết quả hoạt
động. Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh là quá trình hình
thành ý thức, tình cảm, niềm tin đạo đức, đích cuối cùng và quan trọng nhất
là tạo lập được những thói quen hành vi đạo đức. Vì vậy việc xác định
đúng và thực hiện nghiêm túc mục tiêu giáo dục đòi hỏi phải có nhận thức
đúng, có biện pháp tổ chức thực hiện kiên trì bền bỉ mới thành công.
Quản lý mục tiêu giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh
phải bắt đầu từ việc xây dựng mục tiêu một cách phù hợp. Đó là những
phẩm chất cần và có thể đạt được của học sinh trong môi trường giáo dục
nhà trường, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh và điều kiện kinh tế- xã
hội địa phương. Khi xây dựng mục tiêu giáo dục hành vi, thói quen đạo đức
cho học sinh trước hết phải quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng về
nguồn lực con người, chủ trương phát triển giáo dục. Trên cơ sở những tư
tưởng, quan điểm của Đảng, căn cứ quan trọng khác trong xây dựng mục
tiêu giáo dục hành vi, thói quen đạo đức phải là mục tiêu giáo dục quốc gia
đã xác định cho từng cấp học, bậc học, được các cơ quan quản lý giáo dục
đào tạo địa phương triển khai. Khi cụ thể hóa mục tiêu giáo dục, mỗi nhà
trường cần tính đến các điều kiện thực hiện. Nghĩa là mục tiêu xây dựng
phải phù hợp với yêu cầu dạy học của nhà trường, phù hợp với đặc điểm
học sinh trung học cơ sở. Mục tiêu phải rõ ràng, cụ thể để học sinh cũng
như giáo viên dễ dàng và thuận lợi trong quá trình tổ chức các hoạt động,
thuận lợi cho việc kiểm tra, đánh giá kết quả.
Trên cơ sở xác định và cụ thể hóa mục tiêu giáo dục hành vi, thói
quen đạo đức, việc xây dựng kế hoạch thực hiện là nhiệm vụ quan trọng
tiếp theo của quản lý. Đó là việc xác định những nhiệm vụ, những công
việc cụ thể để đạt được mục tiêu.
19
Việc xác định mục tiêu, kế hoạch giáo dục hành vi, thói quen đạo đức
này ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng của cả quá trình giáo dục hành vi, thói
quen đạo đức cho học sinh. Có mục tiêu, kế hoạch cụ thể, chính xác và đồng
bộ, sẽ giúp cho các trường triển khai quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo
đức một cách thuận lợi, đúng hướng, bám sát vào tình hình thực tiễn... Nếu
mục tiêu, kế hoạch của quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức không
chính xác, xa dời thực tiễn, chệch hướng...sẽ làm cho cả quá trình giáo dục
hành vi, thói quen đạo đức bị chệch hướng ngay từ đầu, dẫn đến cả quá trình
không đạt được hiệu quả mong muốn. Vì vậy, người làm công tác quản lý
phải đặc biệt quan tâm đến việc xác định mục tiêu, kế hoạch, nhằm đưa ra
được những mục tiêu, kế hoạch cụ thể nhất, bám sát tình hình thực tiễn nhất,
phù hợp với khả năng hoàn thành nhất.
* Quản lý nội dung giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh
Đây là một trong những yêu cầu quan trọng đối với những người làm
công tác quản lý trong giai đoạn hiện nay. Khi đã có mục tiêu, kế hoạch cụ
thể, những người làm công tác quản lý phải xây dựng nội dung quá trình
giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh một cách cụ thể, chi tiết,
bám sát mục tiêu, kế hoạch đã đề ra. Nội dung của quá trình giáo dục hành
vi, thói quen đạo đức chịu sự quy định, chi phối, định hướng của mục tiêu
giáo dục và được thể hiện thông qua chương trình, kế hoạch giáo dục. Quản
lý nội dung là quản lý từ khâu thiết kế xây dựng chương trình đến toàn bộ
quá trình thực hiện chương trình, nội dung đó. Để thực hiện tốt vấn đề này,
yêu cầu đội ngũ cán bộ quản lý phải quán triệt sâu sắc mục tiêu, yêu cầu
giáo dục hành vi, thói quen đạo đức, nắm chắc mục tiêu yêu cầu, nội dung
giáo dục hành vi, thói quen đạo đức. Nội dung giáo dục hành vi, thói quen
đạo đức cho học sinh mang tính định hướng; nội dung đa dạng, phong phú,
phù hợp với đời sống hàng ngày của các em, được xây dựng theo khung thời
gian nhất định trong năm học, chia ra nhiều giai đoạn với những chương
trình, phong trào, hoạt động....:
20
* Giáo dục hành vi, thói quen thông qua các chủ đề, các ngày lễ kỷ
niệm lớn trong năm:
Chủ đề : Ngày hội khai trường: ngày toàn dân đưa trẻ đến trường
Giáo dục truyền thống nhà trường, an toàn giao thông để từ đó hình
thành cho các em hành vi sống đẹp, có văn hóa, làm theo những quy định
đúng của pháp luật. Các nội dung trên được thực hiện thông qua các tiết sinh
hoạt dưới cờ, sinh hoạt lớp, hội thảo lớp, thi tìm hiểu về nội quy, nhiệm vụ
học sinh THCS, điều lệ trường học, luật giáo dục…để tìm hiểu về luật giao
thông và ý thức chấp hành luật giao thông. Thi tìm hiểu về truyền thống
nhà trường, thi viết, vẽ, ca ngợi truyền thống nhà trường.
Các hoạt động trên góp phần hình thành hành vi, thói quen tốt trong
việc chấp hành nội quy, quy định của trường, lớp cho các em. Từ đó các em
sẽ có nhận thức đúng khi tham gia các hoạt động của trường, lớp, tác động
không nhỏ tới quá trình rèn luyện, phấn đấu tu dưỡng của các em. Đặc biệt
thông qua các buổi sinh hoạt ngoại khóa tìm hiều về luật giao thông giúp các
em sẽ có những hành vi đúng khi tham gia giao thông như đội mũ bảo hiểm
khi ngồi trên phương tiện tham gia giao thông, không đèo ba, đèo bốn…
Chủ đề : Chăm ngoan, học giỏi
Nội dung là tìm hiểu ý nghĩa bức thư của Bác Hồ gửi học sinh cả
nước nhân dịp ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập thông
qua việc tổ chức hội thảo chuyên đề, sân khấu hóa,… Thông qua các hình
thức trên, các em thêm tự hào hơn khi được sống và hưởng nền độc lập, thái
bình, được đón nhận sự quan tâm của các cấp, để từ đố có sự cố gắng, chăm
chỉ luyện rèn.Qua đó hình thành cho các em ý thức, trách nhiệm của mình
trong công việc, trước mắt là đối với việc học tập của cá nhân mình.
Chủ đề: Tôn sư trọng đạo
Tổ chức lễ kỷ niệm ngày nhà giáo Việt Nam, hội thảo truyền thống
“Tôn sư trọng đạo”, hội thi báo tường, thi văn nghệ với nội dung hát về thầy
cô, mái trường…Đây là một trong những nội dung hoạt động có ý nghĩa lớn
21
trong việc giáo dục hành vi, thói quen cho học sinh về truyền thống hiếu học
để từ đó có hành vi, thói quen tốt trong việc chuyên cần, học và làm bài trước
khi đến lớp, trong việc hăng hái tham gia xây dựng bài giảng.
Chủ đề: Uống nước nhớ nguồn, truyền thống quê hương
Đây là một trong những hoạt động có ý nghĩa rất lớn tác động tới tình
cảm, lòng biết ơn, sự tri ân với thế hệ cha ông, những con người đã đổ biết
bao xương máu hy sinh vì nền độc lập nước nhà. Giáo dục hành vi, thói quen
đạo đức cho các em thông qua việc tổ chức lao động chăm sóc, tặng quà bà
mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình liệt sĩ; Thi tìm hiểu về những chiến
công, những gương anh hùng, liệt sỹ trên địa bàn thành phố qua hình thức bài
thi tìm hiểu; Mời các vị lão thành cách mạng trên địa bàn phường, quận báo
cáo về truyền thống quân đội nhân dân Việt Nam; Với học sinh lớp 9, nhà
trường tổ chức tọa đàm với chủ đề “Thanh thiếu niên tiếp bước cha anh xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Qua đó giáo dục các em có hành vi, thói quen
đúng, sống có trách nhiệm với bản thân, sống có mục đích, có lý tưởng, hoài
bão vì ngày mai lập nghiệp.
Chủ đề: Hòa bình và hữu nghị
Tổ chức các buổi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, các buổi tọa đàm, hội
vui học tập về các ngày kỷ niệm lớn như 30/4, 19/8, 2/9…để hình thành và
giáo dục cho các em những giá trị tình cảm tốt đẹp: yêu quê hương, chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, tự hào với những trang sử vẻ vang của dân tộc để từ đó
luôn có ý thức đúng, hành động đúng trong cuộc sống hàng ngày. Tổ chức tìm
hiểu các nước trên thế giới qua cuộc thi tìm hiểu các di sản văn hóa thế giới,
làm tập san, sưu tầm tư liệu, hình ảnh, giao lưu văn hóa văn nghệ; Hội thảo
với chủ đề: “Chúng em với môi trường”. Qua các hoạt động trên các em sẽ
dần hình thành thói quen, suy nghĩ đúng đắn hơn về giá trị của các mối quan
hệ, có ý thức tìm hiểu, gắn kết trong tình bạn, thêm yêu những giá trị văn hóa
riêng của các nước để từ đó tự hào hơn, yêu hơn mảnh đất quê hương mình
đang sinh sống để có ý thức phấn đấu, rèn luyện có hiệu quả hơn.
Chủ đề: Bác Hồ kính yêu
22
Tổ chức hội thảo, hội thi với chủ đề: “Bác Hồ với thiếu niên nhi
đồng”; “Trách nhiệm của đội viên với 5 điều Bác Hồ dạy”. Thiếu nhi Việt
nam luôn tự hào vì có Bác - vị lãnh tụ, vị cha già đáng kính của dân tộc, dù
bận trăm công nghìn việc nhưng Bác luôn quan tâm, dành những tình cảm đặc
biệt nhất cho trẻ em, lứa măng non của đất nước. Thông qua hội thảo và bằng
việc các em được trực tiếp nói lên những cảm xúc, suy nghĩ, tình cảm của
mình về Bác, các em sẽ có ý thức sâu sắc với những việc mình phải làm: hình
thành thói quen, ý thức tốt, hành vi tốt, đúng mực trong việc học tập, lao động
rèn ý thức kỷ luật, lao động, sự đoàn kết, rèn ý thức giữ gìn vệ sinh chung,
vệ sinh cá nhân, sự khiêm tốn, thật thà, cầu thị trong học tập cũng như trong
cuộc sống.
* Ngoài các nội dung trên, trong quá trình thực hiện kế hoạch giáo dục hành
vi, thói quen đạo đức cho học sinh, nhà trường bổ sung thêm một số nội dung
khác như: giáo dục sức khỏe vị thành niên; giới và sự bình đẳng giới; giáo
dục hướng nghiệp, giáo dục quốc phòng chống thảm họa, khả năng ứng xử,
kỹ năng sống, định kỳ tham quan các di tích lịch sử… Đặc biệt, đối với lứa
tuổi học sinh THCS nhà trường thường xuyên quan tâm tổ chức các hình thức
sinh hoạt tập thể nhẹ nhàng, phù hợp, các trò chơi lành mạnh, tham quan dã
ngoại, tặng sách cho thư viện, các phong trào “tuổi nhỏ làm việc nhỏ” để nội
dung giáo dục toàn diện, phong phú, hấp dẫn, lôi cuốn học sinh tham gia. Qua
đó, từng bước giúp các em rèn luyện nhân cách chuẩn mực của xã hội mới.
Đặc biệt, thông qua các hoạt động trên, nhà trường đã thường xuyên giáo dục
cho các em lý tưởng, hoài bão, ước mơ, ý chí phấn đấu, lập thân, lập nghiệp,
tăng cường giáo dục các em động cơ, thái độ học tập đúng đắn và ý thức nghề
nghiệp trong tương lai.
Bên cạnh đó nhà trường kèm thêm những văn bản hướng dẫn thực
hiện, nhằm giúp quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức đạt hiệu quả
cao nhất, bám sát mục tiêu, kế hoạch đề ra. Kết quả của nội dung giáo dục
hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh sẽ quy định hiệu quả của quá trình
giáo dục. Nội dung của quá trình quản lý giáo dục hành vi, thói quen luôn
23
được thay đổi cho phù hợp với từng đối tượng nhằm đem lại hiệu quả giáo
dục cao.
* Quản lý phương pháp, hình thức giáo dục hành vi, thói quen đạo
đức
Để hoàn thành mục tiêu, nội dung giáo dục hành vi, thói quen đạo đức
cho học sinh, trên cơ sở nội dung đã xác định, người cán bộ quản lý phải luôn
trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao trình độ chuyên môn và tiếp cận
những phương pháp quản lý mới phù hợp và biết vận dụng một cách linh
hoạt, sáng tạo phương pháp và hình thức đó nhằm giáo dục nâng cao nhận
thức, bồi dưỡng ý thức và hình thành thói quen, hành vi đạo đức cho học sinh.
Phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học
sinh bao gồm toàn bộ cách thức tổ chức, thao tác, biện pháp tác động điều
khiển của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng hệ thống công cụ,
phương tiện, nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã xác định giúp cho học sinh
tự mình chiếm lĩnh các yêu cầu, nội dung của quá trình giáo dục, làm hình
thành và phát triển ở các em những phẩm chất và hành vi thói quen đạo đức
phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội quy định vừa thỏa mãn nhu cầu
phát triển những cái riêng độc đáo của mỗi cá nhân để đem lại hiệu quả cao
trong công tác quản lý.
* Quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả quá trình giáo dục hành vi, thói
quen đạo đức cho học sinh
Kết quả quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức đề cập đến
phương pháp và cơ chế được sử dụng để đảm bảo rằng các nội dung của quá
trình phải được tuân thủ, phù hợp, nhất quán với những kế hoạch, mục tiêu
giáo dục hành vi, thói quen đạo đức đã xây dựng. Kết quả của quá trình giáo
duc hành vi, thói quen giúp chúng ta có được những thông tin phản hồi, xác
định được những lệch lạc nếu có để tiến hành những điều chỉnh cần thiết.
Trong giáo dục hành vi, thói quen đạo đức, công tác kiểm tra đánh giá là một
nhiệm vụ khó khăn của công tác quản lý vì đánh giá thái độ, phẩm chất của
một con người là một quá trình lâu dài, thông qua nhiều biểu hiện thực tiễn.
24
Do đó không thể dựa vào đánh giá chủ quan của cá nhân; không thể căn cứ
vào một vài biểu hiện bên ngoài đơn giản và nhất là không được kết luận
phiến diện vội vàng. Cần có sự sắp xếp, phân công, tổ chức đánh giá chu đáo.
Các kết quả kiểm tra đánh giá cần phải được xem xét trong điều chỉnh nội
dung, phương pháp giáo dục. Để quản lý tốt kết quả giáo dục hành vi, thói
quen đạo đức cho học sinh thì việc đánh giá kết quả giáo dục hành vi, thói
quen đạo đức phải được tiến hành một cách chặt chẽ, nghiêm túc, đúng quy
định, đánh giá đúng đối tượng, thường xuyên đối chiếu với mục tiêu đề ra,
tăng cường rút kinh nghiệm, kịp thời điều chỉnh, bổ sung cho sát thực tế. Kết
quả của quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức được thể hiện trong sự
hình thành và phát triển hành vi, thói quen ở học sinh theo mục đích, mục tiêu
giáo dục của nhà trường.
Như vậy, những nội dung quản lý quá trình giáo dục hành vi, thói quen
đạo đức cho học sinh THCS hiện nay có quan hệ biện chứng, thống nhất chặt
chẽ với nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Việc quản lý tốt nội dung này sẽ là
điều kiện để quản lý các nội dung khác và ngược lại. Quản lý quá trình giáo
dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh, thì chủ thể giữ vai trò quyết
định, còn tính tích cực, tự giác, năng động của học sinh giữ vai trò quan trọng,
cho nên phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng, không
được tuyệt đối hoá và xem nhẹ nội dung nào.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý quá trình giáo dục hành vi,
thói quen đạo đức cho học sinh các trường trung học cơ sở quận Hai Bà
Trưng, thành phố Hà Nội
1.3.1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội
Sự phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trên địa bàn quận có nhiều ảnh
hưởng tới quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh các
trường THCS trên địa bàn quận.
Với địa bàn gồm nhiều nhà máy, xí nghiệp , nhiều trường đại học, bệnh
viện, trung tâm thương mại lớn, tạo tạo tiền đề cho kinh tế nhiều thành phần trên
địa bàn quận phát triển nhanh. Mặt khác, do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế
25
toàn cầu và khu vực, năm 2012, kinh tế xã hội của cả nước và thành phố nói
chung, quận Hai Bà Trưng nói riêng có nhiều khó khăn, kinh tế phát triển
chậm, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến đời sống của
người dân: thu nhập không ổn định, bấp bênh, gánh nặng mưu sinh lại thêm
chồng chất. Từ những điều đó, tạo nên sự không đồng đều trong thời gian làm
kinh tế, thu nhập của các gia đình trên địa bàn quận, dẫn tới mức độ quan tâm
không đồng đều đến việc giáo dục con cái và ảnh hưởng đến quá trình học
tập, rèn luyện của các em học sinh. Đây là một trong những khó khăn của
ngành giáo dục quận.
Tuy điều kiện kinh tế, xã hội có những khó khăn nhưng quá trình giáo
dục, dạy học của các trường THCS quận Hai Bà Trưng luôn được đón nhận
sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo.
Mặt khác, vì là một trong các quận nội thành của Thủ đô Hà Nội, nên
tình hình chính trí – an ninh trên địa bàn quận khá ổn định. Sự ổn định này tác
động rất lớn tới quá trình giáo dục hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh
các trường THCS. Các em được giáo dục trong một môi trường được định
hướng rõ ràng, không bị tác động xấu từ các thế lực phản động, các tuyên
truyền sai sự thật, xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nước... Điều này tránh cho nhận thức, tư tưởng của các em nhiễm phần
lớn các tư tưởng lệch lạc, thù địch. Đây là lợi thế của ngành giáo dục quận.
1.3.2. Sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên nói chung, học sinh nói riêng
Hiện nay, một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút về uy tín, thậm chí
còn tha hóa về phẩm chất, đạo đức, năng lực, trong đó có những người giữ vị
trí lãnh đạo, quản lý ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín tập thể, niềm tin của
quần chúng nhân dân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nhìn thẳng vào sự thật và chỉ ra:
“Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan
26