Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Thực hiện chính sách về xây dựng gia đình văn hóa từ thực tiễn huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.27 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ANH TUẤN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN CẨM THỦY, TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Châm

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Thực hiện chính sách về xây dựng gia đình văn hóa từ thực
tiễn huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hoá” là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của bản
thân tôi. Tôi xin cam đoan các số liệu, kết quả nêu trong luận văn đều trung thực
và có nguồn gốc rõ ràng, có điều gì sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm

Hà Nội, tháng 02 năm 2017
Học viên

Lê Anh Tuấn



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. .1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH XÂY
DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA .............................................................................. 10
1.1. Một số khái niệm cơ bản .................................................................................... 10
1.2. Thực tiễn chính sách xây dựng gia đình văn hóa tại Việt Nam… ..................... 15
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG GIA
ĐÌNH VĂN HOÁ Ở HUYỆN CẨM THỦY… ...................................................... 31
2.1. Khái quát về huyện Cẩm Thủy … ..................................................................... 31
2.2. Tổ chức thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa tại huyện Cẩm Thuỷ33
2.3. Kết quả đạt được ............................................................................................... 49
2.4. Hạn chế trong việc xây dựng gia đình văn hoá tại huyện Cẩm Thuỷ.. ............. 57
2.5. Nguyên nhân của những hạn chế … .................................................................. 59
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG VIỆC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở HUYỆN CẨM THỦY,
TỈNH THANH HOÁ … .......................................................................................... 62
3.1. Quan điểm, mục tiêu xây dựng gia đình văn hóa tại huyện Cẩm Thủy ............ 62
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa tại
huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hoá ............................................................................ 64
Kết luận ………… ................................................................................................... .77
Tài liệu tham khảo … ................................................................................................ 80


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội và có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong
trình phát triển của xã hội. Từ gia đình con người được sinh ra và trưởng thành cả
về thể chất và nhân cách. Sức mạnh của quốc gia, dân tộc Việt Nam phụ thuộc rất
nhiều vào sự tồn tại và phát triển của gia đình. Ngày nay, vấn đề gia đình được thế

giới rất quan tâm. Liên hợp quốc đã lấy năm 1994 là "Năm quốc tế gia đình", các
quốc gia trên thế giới cũng nhận thức rõ rằng: củng cố sự vững chắc của gia đình là
nhân tố quan trọng để ổn định và phát triển xã hội. Ở Việt Nam, chúng ta đã nhận
thức đúng vị trí của gia đình trong sự phát triển và tiến bộ xã hội cũng như hạnh
phúc của mỗi cá nhân, từ năm 2001 Chính phủ đã quyết định chọn ngày 28/6 hàng
năm là “Ngày gia đình Việt Nam”. Gia đình là nơi hội tụ, gắn kết mỗi thành viên
với nhau. Khi vui người ta luôn chia sẻ cùng gia đình và khi buồn cũng tìm sự an ủi,
chở che từ gia đình. Bởi thế, đối với mỗi con người Việt, gia đình là nơi thiêng
liêng nhất, thực sự là mái ấm của sự yên ổn, kính trọng và tình thương yêu. Nét đẹp
văn hóa gia đình trở thành nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam, góp phần làm
phong phú và rõ nét hơn bản sắc văn hóa của người dân Việt. Từ văn hóa gia đình
truyền thống đến hiện đại đã có sự biến đổi lớn, đặc biệt trong bối cảnh nước ta
đang trong giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường, của quá trình toàn cầu
hoá và hội nhập quốc tế. Trong đó, cùng với những biến đổi tích cực cũng đã nảy
sinh nhiều hiện tượng tiêu cực có nguy cơ ảnh hưởng đến các giá trị văn hóa gia
đình truyền thống Việt Nam. Từ thực tế đó, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến
vấn đề xây dựng văn hoá gia đình. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII đã nhấn mạnh đến trách nhiệm của gia đình: Giữ
gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam, nêu cao vai trò gương
mẫu của các bậc cha mẹ, coi trọng xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng mối quan
hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng
chỉ rõ: Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các
1


thành viên của mình lối sống văn hóa, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi
người và là tế bào lành mạnh của xã hội.
Cẩm Thủy là một huyện miền núi của tỉnh Thanh hóa, điều kiện kinh tế còn
nhiều khó khăn, tuy nhiên là vùng đất có nhiều truyền thống về lịch sử, văn hóa.
Trong giai đoạn hiện nay cùng với quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế thị

trường, văn hóa gia đình tại huyện Cẩm Thủy cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp
như tệ nạn xã hội, trẻ em hư hỏng, làm ăn bất chính... Những biểu hiện lệch chuẩn
về đạo đức, lối sống, sự đảo lộn về trật tự kỷ cương trong gia đình..., đó là những
vấn đề cần được quan tâm và đánh giá một cách nghiêm túc. Thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước, chính sách xây dựng gia đình văn hóa ở Cẩm
Thủy đã được thực hiện trong suốt một thời gian dài. Bên cạnh những kết quả đã đạt
được, cũng còn nhiều vấn đề bất cập. Trong quá trình thực hiện chính sách xây
dựng gia đình văn hóa cần được tiếp tục nghiên cứu, đánh giá để có những định
hướng giải pháp kịp thời nhằm tổ chức, thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn
hóa trên địa bàn huyện Cẩm Thủy. Xuất phát từ tầm quan trọng và sự cần thiết của
vấn đề đã nêu trên, việc thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa ở Cẩm
Thủy hiện nay vừa có ý nghĩa lý luận, vừa là vấn đề thực tiễn cấp thiết. Chính vì
vậy tôi đã chọn đề tài: "Thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa từ thực tiễn
huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa" làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo
thạc sĩ, chuyên ngành chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác xây dựng gia đình văn hóa đã được nhiều nhà nghiên cứu, các nhà
quản lý văn hóa quan tâm. Từ sau đổi mới (1986), nền kinh tế nước ta phát triển
theo hướng kinh tế thị trường, đất nước từng bước tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh những thành tựu đạt được về văn
hoá như: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh văn hoa văn
hoá thế giới … thì cũng có những bất cậpnảy sinh như lối sống thực dụng, ích kỷ,
các tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình... tác động mạnh đến gia đình Việt Nam. Hiện
2


nay, việc xây dựng gia đình văn hóa đã và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
khá nhiều các nhà khoa học, có thể kể đến một số công trình như:
Trong bài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở“, tác giả Nguyễn Văn Đại đã bàn về các giải pháp nâng cao chất lượng

phong trào văn hóa cơ sở, trong đó, ông nhấn mạnh đến phong trào toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa và việc đẩy mạnh thực hiện mục tiêu chương trình
nông thôn mới ở cơ sở [13].
Tác giả Trần Hữu Tòng - Trương Thìn (chủ biên), (1997) với công trình
“Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội đã giới thiệu những quan điểm chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước về vấn
đề gia đình và xây dựng gia đình văn hóa; những lý luận cơ bản về gia đình và gia
đình văn hóa. Nêu lên một số kinh nghiệm chỉ đạo phong trào ở các địa phương và
những tư liệu để cán bộ chuyên trách công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
tham gia chỉ đạo phong trào.
Tác giả Lê Thi (2002) với “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi
mới”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội đã phản ánh về sự biến đổi của gia đình Việt
nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Đồng thời nhấn mạnh cơ sở hình thành
của gia đình văn hóa là sự kế thừa có chọn lọc giá trị đạo đức gia đình truyền thống
và sự tiếp biến giá trị tư tưởng hiện đại. Tiếp đó, đưa ra một số biện pháp xây dựng
gia đình văn hóa mà theo tác giả, biện pháp quan trọng nhất chính là vai trò và trách
nhiệm của mỗi gia đình.
Tác giả Khổng Diễn (chủ biên), (2001) với “Dân số - kế hoạch hóa gia đình
các dân tộc ở Hòa Bình”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội đã tập trung làm rõ thực
trạng gia đình đồng bào các dân tộc ở tỉnh Hòa Bình đồng thời nêu lên điển hình
trong phong trào xây dựng gia đình văn hóa, giải pháp, phương hướng xây dựng gia
đình mới – gia đình văn hóa phù hợp với tâm lý truyền thống tộc người và sự phát
triển chung của đất nước trong thời kỳ Đổi mới công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

3


Tác giả Đỗ Kim Thịnh với chuyên đề “Gia đình văn hóa, làng văn hóa trong
nông thôn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 57(8/1997) và Lê Thi với chuyên đề
“Gia đình văn hóa trong sự đổi mới đất nước hiện nay”, Tạp chí thông tin lý luận số

14(3/1995) đã đánh giá: từ khi có chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, không
chỉ có làng, thôn được trả lại vị trí vai trò quan trọng của mình trong cơ cấu hành
chính xã hội mà gia đình cũng được khẳng định như một đơn vị kinh tế độc lập,
khẳng định mức sống gia đình được cải thiện. Điều kiện đáp ứng nhu cầu văn hóa
của mỗi gia đình cũng được mở rộng, dân trí phát triển. Trong phong trào xây dựng
làng, ấp văn hóa, khối phố văn minh đang phát triển sôi nổi khắp nơi trong nước,
công tác xây dựng gia đình văn hóa nổi lên như một nhiệm vụ trung tâm là biểu
hiện của sự vận động đi lên tất yếu của gia đình Việt Nam trong giai đoạn đổi mới.
TS Nguyễn Văn Tuấn trong chuyên đề “Vấn đề xây dựng gia đình Việt Nam
trong văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Gia đình và trẻ em (2006) với
phương châm nêu những nội dung mới về vấn đề gia đình trong văn kiện Đại hội X
so với cùng những nội dung đó nhưng được đề cập ở các văn kiện trước đó tính từ
thời kỳ đổi mới. Chuyên đề đã nêu những kết quả và hạn chế của việc thực hiện
phong trào xây dựng gia đình văn hóa trong 5 năm (2001 - 2006) và đề xuất những
kiến nghị để thực hiện nghiêm túc nội dung xây dựng gia đình Việt Nam đã được
khẳng định tại Đại hội X của Đảng.
Tác giả Trần Thị Tuyết Mai trong “Văn hóa gia đình và xây dựng gia đình
văn hóa trong thời kỳ hội nhập”, Tạp chí Điện tử Việt Nam và Đông Nam Á ngày
nay 3/1999 và Vũ Thị Huệ trong “Danh hiệu gia đình văn hóa- giá trị tích hợp của
văn hóa gia đình Việt Nam ngày nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông,
2008; “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng gia đình văn hóa”
của Phan Văn Phờ - Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh Quảng Nam, Tạp chí Tuyên giáo
5/2009 đã đi sâu phân tích khái niệm gia đình văn hóa, xây dựng và vun đắp các
mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, những vấn đề cơ bản của gia đình
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi hội nhập quốc tế. Từ đó, các tác giả khẳng
4


định vai trò của mỗi gia đình, cộng đồng trong việc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em
nhằm xây dựng hạnh phúc con người.

Tác giả Đỗ Thị Thạch trong bài viết “Về xây dựng gia đình văn hóa Việt
Nam dưới ánh sáng Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 56 (8/2011) đã tập
trung phân tích làm rõ nghị quyết Đại hội XI về vai trò của gia đình, tầm quan trọng
của việc xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ mới.
Ngoài ra, nghiên cứu về gia đình cũng còn là mảng chủ đề nhận được sự
quan tâm mạnh mẽ của nhiều luận án khoa học thạc sĩ, tiến sĩ. Đã có một số luận
văn, luận án như sau:
Tác giả Lê Cẩm Lệ (2001), “Phát huy vai trò của người phụ nữ trong xây
dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay”, luận văn thạc sỹ chuyên ngành
chủ nghĩa xã hội khoa học.
Tác giả Nguyễn Thị Luân (2005), “Xây dựng gia đình văn hóa ở làng nghề
truyền thống tỉnh Bắc Ninh hiện nay”, luận văn thạc sỹ chuyên ngành chủ nghĩa xã
hội khoa học.
Tác giả Vũ Thị Thanh Phúc (2007), “Giải quyết xung đột gia đình nhằm xây
dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay”, luận văn thạc sỹ chuyên ngành chủ
nghĩa xã hội khoa học.
Một số bài viết, bài chuyên khảo về gia đình cũng đã được đăng trên các tạp
chí như: Tạp chí Thanh niên; Khoa học và phụ nữ; Xã hội học; Tâm lý học; Nghiên
cứu văn hóa nghệ thuật; các báo cáo tại các hội nghị khoa học về gia đình, giới, phụ
nữ; dân số, trẻ em…
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về gia đình và gia đình văn hóa kể
trên đã góp phần đáng kể trong việc tìm hiểu về vấn đề gia đình Việt Nam cả truyền
thống và hiện đại, đã khắc họa được những thay đổi trong gia đình Việt Nam nhất là
trong thời kỳ đổi mới từ 1986 tới nay. Những kinh nghiệm nghiên cứu cũng như
những gợi ý về lý thuyết và phương pháp luận từ những công trình đó là bài học
5


quý báu cho chúng tôi trong quá trình thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn
hóa ở luận văn này.

Như vậy, xây dựng gia đình văn hóa đã được nghiên cứu song vấn đề thực
hiện chính sách về xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa
chưa được bàn đến một cách toàn diện và hệ thống; những bất cập trong việc thực
hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa ở huyện này cũng chưa được đánh giá,
bàn luận thấu đáo. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính
sách xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Cẩm Thủy” với mong muốn đưa ra cách
nhìn nhận cụ thể toàn diện và hệ thống hơn thực trạng thực hiện chính sách xây
dựng gia đình văn hoá tại địa phương.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực
hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam, luận văn đi sâu khảo sát,
đánh giá thực trạng xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Cẩm Thủy để chỉ rõ những
thành công và hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả triển khai thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa ở địa phương
trong thời gian tới.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ như sau:
- Hệ thống hóa các tài liệu lý thuyết về chính sách xây dựng gia đình văn hóa
ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa ở
Việt Nam nói chung và ở huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá nói riêng.
- Đánh giá thành công và hạn chế của việc thực hiện chính sách xây dựng gia
đình văn hoá tại huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách xây dựng gia đình văn hoá tại huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá.

6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Việc thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa tại huyện Cẩm Thủy,
tỉnh Thanh Hóa, trong đó bao gồm cả việc nghiên cứu thực hiện các chính sách
chung của nhà nước, việc ban hành và thực hiện các chính sách cụ thể của địa
phương, kết quả tác động của chính sách và những vấn đề đặt ra từ đó.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về tình hình thực hiện chính sách xây dựng gia
đình văn hóa ở huyện Cẩm Thủy và có đánh giá, so sánh kết quả thực hiện với một
số địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng như huyện Thạch Thành,
huyện Ngọc Lặc tỉnh Thanh Hoá
Khoảng thời gian được lựa chọn nghiên cứu là trong giai đoạn 2011 - 2016,
bởi vì giai đoạn này gắn với việc thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện,
mục tiêu về xây dựng gia đình văn hoá được xây dựng cụ thể, đồng thời gắn với
chương trình xây dựng nôn thôn mới của địa phương do đó việc triển khai thực hiện
các nhiệm vụ về xây dựng gia đình văn hoá được thực hiện rõ nét hơn, cụ thể hơn,
thuận tiện cho việc nghiên cứu hơn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội và
phương pháp nghiên cứu chính sách công. Lý thuyết chính sách công được áp dụng
qua thực tiễn giúp cho hình thành lý luận về chính sách xây dựng gia đình văn hoá.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp thu thập nguồn tài liệu thứ cấp: Tập hợp và phân tích các
nguồn tư liệu có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu,
7


Nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa
phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền,
ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề

chính sách xây dựng gia đình văn hoá tại huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá.
- Phương pháp quan sát thực tế: Thông qua quan sát thực tế đối với quá trình
thực hiện của các chủ thể và đối tượng thực hiện chính sách để đánh giá được vai
trò trách nhiệm hoặc thái độ của từng đối tượng trong việc thực hiện chính sách.
- Phương pháp điều tra, khảo sát: Nhằm thu thập đánh giá được các thông tin
liên quan đến các thành phần, đối tượng về mối quan tâm đến chính sách, hoặc nhận
thức về vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện chính sách.
- Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp hay thao tác nghiên cứu như: Phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, ...
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài vận dụng các lý thuyết về thực hiện chính sách công để nghiên cứu
thực tiễn, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách, có ý
nghĩa bổ sung lý luận. Kết quả đánh giá nghiên cứu làm sáng tỏ, minh chứng cho
các lý thuyết liên quan đến chính sách công, từ đó đề xuất các giải pháp thực hiện
chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách đã ban hành.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ việc phân tích thực trạng thực hiện chính sách và đề xuất kiến nghị các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính xây dựng gia đình văn hóa
của huyện Cẩm Thủy, luận văn góp phần cung cấp thêm nguồn tài liệu, những cơ
sở khoa học cho chính quyền, các cơ quan, ban ngành, đoàn thể của huyện Cẩm
Thủy trong quá trình thực thi chính sách một cách hiệu quả góp phần phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương.

8


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3
chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa ở
huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hoá.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xây dựng gia
đình văn hóa tại huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH VĂN HÓA
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về chính sách và chính sách văn hoá
1.1.1.1. Khái niệm về chính sách
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: "Chính sách là những chuẩn tắc
cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong thời gian
nhất định, trên nhiều lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng
của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hóa …”. Theo GS James Anderson - cựu Chủ tịch Tổ chức nghiên cứu chính
sách của Hiệp hội khoa học Mỹ thì cho rằng: "Chính sách là một quá trình hành
động có mục đích được theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết
các vấn đề mà họ quan tâm"
Như vậy, có thể hiểu chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh
đạo hay các nhà quản lý đề ra để giải quyết một số vấn đề nào đó thuộc phạm vi
thẩm quyền của mình.
Chính sách công là một loại chính sách do các chủ thể quản lý nhà nước ban
hành và được hiểu là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước
nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải pháp thực hiện giải quyết các vấn đề phát
triển theo mục tiêu tổng thể đã xác định [10, tr.12].

1.1.1.2. Khái niệm về chính sách văn hoá
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về chính sách văn hoá như sau:
“Chính sách văn hóa là tổng thể các nguyên tắc hoạt động, các cách thực hành, các
phương pháp quản lý hành chính và phương pháp ngân sách của Nhà nước dùng làm
cơ sở cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật”.
Chính sách văn hóa có các công cụ khác nhau, gồm: Luật pháp và các
10


phương pháp hành chính; ngân sách và hệ thống thuế, trong đó các bộ luật, luật, văn
bản pháp quy; cách thức đầu tư từ ngân sách, hệ thống thuế là công cụ quan trọng
nhất để điều hành sự phát triển văn hóa.
Các chính sách văn hóa đều là các thực hành nhà nước dựa trên các nguồn
lực về tài chính, vật lực và nhân lực, trong những điều kiện có thể có của thời điểm.
Các tổ chức văn hóa dựa vào các nguồn lực này mà triển khai các hoạt động thực thi
chính sách.
Như vậy, một chính sách văn hóa được thể hiện ở quan điểm, mục tiêu, thể
chế và các chương trình hành động. Đối với nước ta, quan điểm, mục tiêu được thể
hiện qua các văn kiện đại hội của Đảng, nghị quyết và các kết luận của các Hội nghị
Trung ương Đảng. Về thể chế, đã có các bộ luật, thông tư, nghị định và Chiến lược
phát triển văn hóa. Về chương trình hành động, Chính phủ đã chỉ đạo tập trung vào
một số phong trào và triển khai các hoạt động cụ thể thực hiện các văn bản pháp
quy về văn hóa.
Trong bối cảnh của Việt Nam, khái niệm chính sách văn hóa đã được xác
định dựa trên các quan niệm về văn hóa, về vai trò của văn hóa trong phát triển đất
nước, xây dựng con người mới của chế độ mới, văn hóa được coi là một lĩnh vực
của công tác tư tưởng, văn hóa là một mặt trận, bên cạnh các chức năng đặc thù
khác về mặt thẩm mỹ, giải trí, tái tạo, sáng tạo.
1.1.2. Khái niệm gia đình và gia đình văn hoá
1.1.2.1. Khái niệm gia đình

Gia đình là một khái niệm mở có nội dung phức tạp, đa dạng và có tính lịch
sử, đồng thời với tư cách là một thiết chế xã hội có sức sống bền bỉ mãnh liệt nhất,
gia đình đã khẳng định vị trí quan trọng của mình trong tiến trình phát triển của xã
hội loài người. Gia đình đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau phụ thuộc
vào từng góc nhìn của các ngành khoa học và nhà khoa học khác nhau, trong đó có
một số định nghĩa đáng chú ý như:

11


Mác coi gia đình là một trong những nhân tố đầu tiên tham gia quyết định sự
hình thành và phát triển của lịch sử, quan hệ giữa gia đình và xã hội như quan hệ
giữa tế bào với cơ thể sống, “Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình
phát triển lịch sử là hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người tạo
ra những người khác sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và
con cái. Đó là gia đình”. [10, tr.41]
Thực tế đã chứng minh, những luận điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin
là hoàn toàn có cơ sở khoa học, có giá trị thực tiễn cao, đặc biệt là tư tưởng về
những biến đổi của gia đình phụ thuộc và gắn liền với sự biến đổi của các điều kiện
kinh tế xã hội.
UNESCO quan tâm đến giá trị của gia đình trong vốn tinh thần của nhân
loại, nghĩa là gia đình của tất cả các thời đại, các châu lục đều mang đặc trưng
chung của con người, đều mang tính nhân văn, nhân ái và nhân đạo và khẳng định:
gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng cùng sống chung và có ngân sách
chung.
Như vậy, theo quan điểm này, khái niệm “gia đình” mang ba đặc trưng:
Một là, gia đình được tạo ra bởi hai mối quan hệ hôn nhân và huyết thống thường
gồm vợ chồng, cha mẹ và con cái; Hai là, gia đình ra đời, tồn tại cùng với sự ra đời
và tồn tại của xã hội loài người; Ba là, gia đình là đơn vị nhỏ nhất trong xã hội có
nền kinh tế chung, gắn bó với nhau bởi quyền lợi và nghĩa vụ bắt buộc về mặt

pháp lý.
Tác giả Lê Thi, chuyên gia nghiên cứu về gia đình cho rằng, gia đình như ở
nước ta là một tập thể cố kết với nhau về trách nhiệm và tình thương, giữa họ có
những điều ràng buộc có tính pháp lý được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Đồng
thời lại gồm những cá nhân có cá tính, năng lực, xu hướng phát triển khác nhau
được hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và huyết thống. [46, tr.20-21] Cùng
quan điểm với tác giả Lê Thi, tác giả Nguyễn Quốc Tuấn, nhà nghiên cứu luật học
nhận định: “Gia đình là một tập hợp người dựa trên các quan hệ về hôn nhân và
12


huyết thống và về nuôi dưỡng đã gắn bó những người có quan hệ với nhau bởi các
quyền và nghĩa vụ về tài sản và nhân thân, bởi sự cộng đồng về đạo đức và vật
chất, để tương trợ cùng nhau làm kinh tế chung và nuôi dạy con cái” [51, tr.16].
Đây có thể được xem như một định nghĩa khá hoàn chỉnh phản ánh được đặc trưng
vốn có của gia đình.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cho rằng: “Gia đình là tập hợp những
người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi
dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo luật định”
[33, tr.7]. Đây là quan điểm chính thống và là cơ sở pháp lý của Nhà nước ta để
giải quyết vấn đề gia đình, đồng thời được sử dụng làm định nghĩa chính thức về
gia đình trong luận văn.
1.1.2.2. Khái niệm gia đình văn hóa
Gia đình văn hóa là một thuật ngữ dùng để chỉ một danh hiệu, một kiểu mẫu
phong tặng cho những gia đình thực hiện tốt những tiêu chuẩn trong mô hình mẫu
ấy đặt ra.
Gia đình văn hóa được coi như một kiểu gia đình mới, khác với gia đình
truyền thống hoặc gia đình cũ trong thời kỳ phong kiến, thực dân bởi trong gia đình,
ngoài các yếu tố truyền thống đã được chọn lọc và phát huy còn có những yếu tố
mới của thời đại đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội. Như vậy, khái niệm gia

đình văn hóa là sự kế thừa văn hóa gia đình truyền thống được nâng cao lên thành
giá trị văn hóa gia đình hiện đại - gia đình phát triển về vật chất và tinh thần thể
hiện qua nề nếp, kỷ cương, thuận hòa, êm ấm, yêu thương và có trách nhiệm với
nhau giữa các thành viên trong gia đình. Về điều này, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Về tinh thần thì phải trên dưới thuận hòa không thiên tư thiên ái, bỏ thói mẹ chồng
hành hạ nàng dâu, dì ghẻ ghét bỏ con chồng. Về vật chất từ ăn mặc đến việc làm
phải ăn đều tiêu song có kế hoạch ngăn nắp. Cưới hỏi, giỗ tết nên đơn giản, tiết
kiệm. Trong nhà, ngoài vườn sạch sẽ gọn gàng. Đối với xóm giềng phải thân mật và
sẵn sàng giúp đỡ. Đối với việc làng, việc nước phải hăng hái làm gương. Người
13


trong nhà ai cũng biết chữ. Luôn luôn cố gắng làm cho nhà mình thành một nhà
kiểu mẫu trong làng. Các gia đình cần tích cực tham gia vào các hoạt động văn hóa
của cộng đồng và lôi cuốn các thành viên cùng tham gia qua đó giúp cho thành viên
gia đình tiếp thu những giá trị văn hóa dân tộc và làm cho nó trở thành giá trị văn
hóa gia đình. Thực hiện tốt chức năng biến văn hóa xã hội thành văn hóa cá nhân
bằng sự giáo dục và trao truyền văn hóa của mình”. [37, tr.100]
Ngày nay, gia đình văn hóa là gia đình phát huy được những truyền thống tốt
đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là
tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình
thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa
truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc với
những đặc trưng khái quát sau:
Thứ nhất, gia đình văn hóa là gia đình ấm no, thuận hòa, tiến bộ, khỏe mạnh
và hạnh phúc, gia đình có kinh tế ổn định, hòa thuận, có kỷ cương nền nếp, không
có người mắc các tệ nạn xã hội; thực hiện nếp sống văn minh, giữ gìn thuần phong
mỹ tục, không sử dụng loại văn hóa phẩm thuộc loại cấm lưu hành; trẻ em đang độ
tuổi đi học đều được đến trường, đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học trở lên; các

thành viên trong gia đình chăm lo rèn luyện sức khỏe, giữ gìn vệ sinh và phòng
bệnh, vợ chồng bình đẳng, giúp đỡ nhau, có trách nhiệm nuôi dạy con cái, con cháu
hiếu thảo với bố mẹ, ông bà.
Thứ hai, gia đình thực hiện tốt nghĩa vụ công dân bao gồm các thành viên
trong gia đình thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, vệ sinh môi trường và
nếp sống văn hóa nơi cộng đồng; tham gia bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử văn
hóa, danh lam thắng cảnh của địa phương; xây dựng lối sống lành mạnh, không mê
tín dị đoan. Không vì lợi ích của bản thân, gia đình mà làm ảnh hưởng, cản trở đến

14


đời sống của mọi người và gia đình khác. Không vi phạm các quy định về thực hiện
nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
Thứ ba, mỗi cặp vợ chồng sinh con không vi phạm chính sách kế hoạch hóa
gia đình. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), kế hoạch hóa gia đình gồm những mục
tiêu: Tránh được những trường hợp sinh con không theo ý muốn, đạt được những
trường hợp sinh con theo ý muốn, điều hòa khoảng cách giữa các lần sinh, chủ động
thời điểm sinh con cho phù hợp với độ tuổi của bố mẹ. Có kế hoạch phát triển kinh
tế, làm giàu chính đáng; có kế hoạch tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm; đời sống vật chất
và văn hóa tinh thần của các thành viên trong gia đình ngày càng nâng cao.
Thứ tư, gia đình đoàn kết tương trợ với cộng đồng dân cư, tương trợ giúp đỡ
nhau trong lao động sản xuất, khi khó khăn, hoạn nạn; tích cực tham gia chương
trình xóa đói, giảm nghèo; hưởng ứng phong trào đền ơn đáp nghĩa, hưởng ứng
cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”; tham gia hòa giải các mối quan hệ bất đồng
trong địa bàn dân cư; tham gia các hoạt động xã hội từ thiện nhằm xây dựng địa bàn
dân cư ổn định, vững mạnh; vận động các gia đình khác cùng tham gia.
Trên cơ sở quan niệm về gia đình văn hóa nêu trên, có thể xem gia đình văn
hóa là sự kế thừa giá trị văn hóa gia đình truyền thống Việt Nam, tiếp biến thêm các

giá trị văn hóa của thời đại để phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, hướng tới mục tiêu làm cho gia đình thực sự
là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người. Đề cao giá trị văn hóa gia
đình và vai trò của gia đình văn hóa là mục tiêu có tính chiến lược cấp bách trong sự
nghiệp xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phù hợp với truyền
thống đạo lý của dân tộc và quy luật phát triển tất yếu của xã hội.
1.2. Thực tiễn chính sách xây dựng gia đình văn hóa tại Việt Nam
1.2.1. Nội dung của chính sách xây dựng gia đình văn hóa
Hiện nay, xây dựng gia đình văn hóa nổi lên như một nhiệm vụ trung tâm
trong giai đoạn đổi mới. Xét một cách tổng thể, chúng ta đã có một khuôn khổ
tương đối đồng bộ và thuận lợi cho sự phát triển của gia đình và làm cơ sở lý luận
15


cho chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Khẳng định phong trào xây dựng gia
đình văn hoá theo hướng phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của gia đình truyền
thống, bồi dưỡng cho trẻ em đức hiếu thảo, trung nghĩa, lòng nhân ái, vị tha là sự hỗ
trợ cho việc tiếp thu các tư tưởng tiên tiến hiện đại, quán triệt tinh thần dân chủ,
bình đẳng trong quan hệ người và người. Do đó, trách nhiệm của gia đình trong việc
nuôi dạy thế hệ trẻ thành những con người chân chính, trở thành nguồn nhân lực có
chất lượng, thành những nhân tài xuất sắc cho đất nước là một yếu tố quyết định tới
sự thành công của Việt Nam trong thiên niên kỷ mới. Đây là điểm mấu chốt để bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hoá, giữ gìn đạo lý truyền thống của dân tộc.
Từ khi xuất hiện (1960) đến nay, phong trào xây dựng gia đình văn hoá luôn
được Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm đôn đốc, đưa ra những quan
điểm đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ để góp phần vào phong trào chung của
quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Những quan điểm, chủ trương đó được thể
hiện cụ thể trong các Nghị quyết qua các kỳ Đại hội của Đảng.
Tại Đại hội VI của Đảng khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội, có vai
trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người

mới. Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra phương hướng, chính
sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hóa mới, bảo đảm
hạnh phúc gia đình”. [14, tr. 95]
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng khẳng định: “Xây dựng gia
đình văn hóa mới có ý nghĩa rất quan trọng trong tình hình hiện nay, góp phần phát
triển lực lượng sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống, thực hiện kế hoạch hóa dân
số, giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo đức, văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình với mọi người. Kết hợp và phát huy vai trò
của xã hội, đoàn thể, nhà trường, tập thể lao động và tập thể dân cư trong việc chăm
lo bồi dưỡng tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách cao đẹp và nếp sống văn
hóa”. [16, Tr.83]

16


Tiếp đó, tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng, Đại hội gắn với quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, Đảng ta chỉ rõ: “Phổ biến
kịp thời các tác phẩm tốt, đưa các nhân tố văn hóa tinh thần nhân văn thấm sâu vào
các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ cách ứng xử trong gia đình, trường học, xã hội
đến các hoạt động sản xuất kinh doanh… Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến
bộ và hạnh phúc làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm
của mỗi người. Phát huy trách nhiệm của gia đình trong việc lưu truyền những giá
trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác”. [17, Tr.112]
Đến Đại hội lần thứ IX của Đảng vấn đề gia đình tiếp tục được đề cập: “Nêu
cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của
mình có lối sống văn hóa làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế
bào lành mạnh của xã hội. Đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”. [19, tr.116 -117]
Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định: “Phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với đòi hỏi của quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi
trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn
và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. [20, tr.103-104]
Đại hội lần thứ XI, Đảng đã xác định những giải pháp và phương hướng
quan trọng: “Tiếp tục đưa phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia
đình, khu dân cư, đơn vị, doanh nghiệp… Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng
gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của
văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ…”. [21, tr.85].

17


Cụ thể hoá những quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và các Bộ
ngành liên quan đã ban hành ra nhiều các văn bản chỉ đạo thực hiện, cụ thể như
sau:
Năm 1967, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 3-CP về việc đẩy
mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá, gia đình 5 tốt đi đôi với việc xây dựng
nông thôn mới và thành thị mới để phát triển nếp sống văn minh. Tiếp đó, sau khi
đất nước được thống nhất, Bộ Văn hoá kết hợp với Trung ương Hội phụ nữ Việt
Nam ra thông tư liên bộ số 35/TT ngày 12/5/1975 với ba nội dung: “Xây dựng gia
đình hoà thuận, dân chủ, bình đẳng, hạnh phúc, tiến bộ; hăng hái lao động sản
xuất, thực hành tiết kiệm; nghiêm chỉnh chấp hành chính sách của Nhà nước”.
Năm 1998 Chính phủ ban hành Chương trình hành động số 1109/CP-VX về
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 8
về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm 2000 Bộ văn hoá - Thông tin ban hành Quyết định số 05/2000/QĐBVHTT về việc ban hành Kế hoạch triển khai phong trào Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa.

Năm 2003 Quốc hội ban hành Luật thi đua khen thưởng trong đó quy định:
Danh hiệu thi đua đối với hộ gia đình (điều 20) là gia đình văn hóa, được xét tặng
danh hiệu “Gia đình văn hóa” đạt các tiêu chuẩn: Gương mẫu chấp hành chủ trương
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi
đua của địa phương nơi cư trú. Gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ; tương trợ
giúp đỡ mọi người trong cộng đồng. Tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công
tác, học tập đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Ngày 10/10/2011 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Thông tư số
12/2011/TT-BVHTTDL về việc quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ
sơ công nhận danh hiệu gia đình văn hóa, thôn văn hóa, làng văn hóa, ấp văn hóa, tổ
dân phố văn hóa và tương đương.

18


Ngày 29/5/2012 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 629/QĐ-TTg
về việc phê duyệt chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
2030.
Có thể khẳng định rằng từ khi có chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước,
gia đình được khẳng định như một đơn vị kinh tế độc lập, mức sống của gia đình
nói chung được cải thiện và nâng cao, điều kiện tự đáp ứng nhu cầu văn hoá của
mỗi gia đình cũng mở rộng, dân trí phát triển. Chưa bao giờ gia đình lại có sự phát
triển về sức mạnh sáng tạo, tự chủ mạnh mẽ về kinh tế, về đời sống trí tuệ, tinh thần
như vậy. Công tác xây dựng gia đình văn hoá nổi lên như một nhiệm vụ trung tâm,
là biểu hiện sự vận động đi lên tất yếu của gia đình Việt Nam trong giai đoạn đổi
mới.
1.2.2. Vấn đề chính sách
Trước thực trạng phát triển của gia đình hiện nay, có thể thấy vẫn còn tồn tại
những mặt hạn chế, yếu kém làm ảnh hưởng tới phát triển chung của toàn xã hội.
Gia đình Việt Nam hiện nay cũng đang đứng trước những thách thức không nhỏ, có

nguy cơ mất đi tính bền vững vốn có. Những chuẩn mực được coi là nền tảng của
gia đình trước kia thường bị gộp vào với các yếu tố lạc hậu để phê phán mà không
phân biệt đâu là yếu tố tích cực cần sự ổn định, đâu là yếu tố tiêu cực cần phải biến
đổi. Chẳng hạn, quan hệ trong nhiều gia đình ngày nay trở nên lỏng lẻo, tình cảm
phai nhạt, con cái không tôn trọng bố mẹ, thậm chí hỗn xược, đánh đập, giết hại cha
mẹ; người lớn không quan tâm, buông trôi trách nhiệm trong việc chăm nom dạy dỗ
con trẻ; vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân và trước tuổi vị thành niên, hiện
tượng sống chung, sống thử trở thành một thách thức không nhỏ đối với các bậc cha
mẹ và các nhà quản lý chính quyền, đoàn thể; việc ly hôn gắn liền với nguyên nhân
xung đột gia đình, hiện tượng ngoại tình, lừa dối về tình cảm… để lại những hậu
quả xấu đối với tâm lý, tình cảm của hai bên và chăm sóc giáo dục con cái. Lối sống
thực dụng đang gặm nhấm những giá trị vốn được coi là thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của người Việt. Bên cạnh đó, mặt trái của kinh tế thị trường trong những năm
19


gần đây đã và đang gây nên những chấn động, những thử thách đối với gia đình: xu
hướng chạy theo các tiện nghi vật chất, đề cao đồng tiền dẫn đến sự suy đồi đạo
đức, sự phân hoá giàu - nghèo giữa các gia đình có xu hướng tăng, hiện tượng phục
hồi các hủ tục và tiếp thu lối sống thực dụng, tiêu cực, văn hóa ngoại lai có chiều
hướng phát triển làm rạn nứt nền tảng gia đình và truyền thống đạo lý mà ông cha ta
đã xây dựng.
Do đó, cần có những giải pháp để tiếp tục phát huy những cái tốt, những mặt
tích cực mà chúng ta đã đạt được đồng thời cũng khắc phục những hạn chế đối với
sự phát triển gia đình. Xây dựng gia đình văn hóa có vai trò làm ổn định tình hình
kinh tế xã hội, tạo điều kiện để phát triển kinh tế, đem lại hạnh phúc cho mỗi thành
viên trong gia đình cũng như xã hội; đảm bảo nhu cầu vật chất, nhu cầu hưởng thụ
văn hóa cho các thành viên là một bước tiến mới của sự nghiệp xây dựng con người
mới. Từ thực tế trên, chúng ta thấy việc thực hiện tốt chính sách xây dựng gia đình
văn hóa là điều cần thiết. Đó là trách nhiệm đồng thời cũng là quyền lợi của mỗi cá

nhân và toàn xã hội.
1.2.3. Mục tiêu của chính sách xây dựng gia đình văn hóa
Tại Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo
dục nếp sống và hình thành nhân cách” Những mục tiêu mà Đảng đã xác định cho
thấy được sự quan tâm của Đảng ta đối với việc xây dựng gia đình văn hóa nhằm
đạt tới mục tiêu cuối cùng là làm cho cuộc sống của người dân trở nên tốt đẹp hơn,
tạo điều kiện cho con người phát triển một cách toàn diện Đức – Trí – Thể - Mỹ,
hướng con người tới các giá trị chân – thiện – mỹ của xã hội.
1.2.4. Tổ chức thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa
1.2.4.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách xây dựng gia
đình văn hóa
Từ những mục tiêu, quan điểm của Đảng về xây dựng gia đình văn hóa,
Chính phủ cần phải xây dựng các kế hoạch triển khai chính sách. Đây là nhiệm
20


vụ quan trọng trong tổ chức thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa. Hiệu
quả của việc thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa trên thực tế phụ thuộc
vào tính chính xác, tính khả thi của các kế hoạch thực hiện chính sách của Nhà
nước.
Kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa đã quy
định rõ trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị cũng như chế độ báo cáo, kinh phí tổ
chức thực hiện. Các đơn vị, cơ quan được giao nhiệm vụ cụ thể sẽ xây dựng các kế
hoạch cho việc xây dựng và phát triển gia đình văn hóa ở địa phương nhằm thực
hiện chính sách có hiệu quả.
1.2.4.2. Phổ biến, tuyên truyền thức hiện chính sách xây dựng gia đình văn
hóa
Sau khi hoàn thiện việc xây dựng các kế hoạch để thực hiện chính sách là
việc phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách. Việc phổ biến, tuyên truyền chính

sách xây dựng gia đình văn hóa giúp cán bộ, công chức làm nhiệm vụ xây dựng gia
đình văn hóa ở các địa phương và nhân dân sẽ nắm bắt được việc triển khai thực
hiện chính sách trong thực tế.
Ở các địa phương, cơ sở thì tuyên truyền bằng hình thức như: băng rôn, khẩu
hiệu, pa nô, áp phích, phướn bên đường, qua hệ thống phát thanh cấp huyện, xã
tuyên truyền đến cán bộ, nhân dân biết và nắm được chính sách về xây dựng gia
đình văn hóa. Các ban ngành đoàn thể như Thanh niên, Nông dân, Phụ nữ, Cựu
chiến binh tuyên truyền đến từng hội viên của mình. Từ đó, mọi người dân sẽ tích
cực tham gia vào việc xây dựng gia đình văn hóa, nâng cao hiệu quả của việc thực
hiện chính sách trên thực tế.
1.2.4.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn
hóa
Trong tổ chức và thực hiện chính sách xây dựng gia đình văn hóa thì phối
hợp thực hiện chính sách có ý nghĩa quan trọng tác động đến hiệu quả thực hiện
chính sách. Để tổ chức thực hiện chính sách có hiệu quả cần phải có sự phân công,
21


phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, các ngành, các cấp. Đó là việc phân công trách
nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện chính sách; xác
định tổ chức, cá nhân chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các tổ chức cá nhân tham gia
phối hợp trong quá trình thực hiện chính sách.
Về trách nhiệm đối với việc soạn thảo, ban hành và thực hiện chính sách xây
dựng gia đình văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chủ trì phối hợp với các
Bộ như: Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ, Bộ Giáo
dục và đào tạo, Bộ Thông tin và Truyền thông, Các cơ quan thuộc Chính Phủ và
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
1.2.4.4. Duy trì chính sách xây dựng gia đình văn hóa
Khi chính sách được đưa vào thực hiện thì việc duy trì thực hiện chính sách
xây dựng gia đình văn hóa là việc làm rất quan trọng. Duy trì thực hiện chính sách

là làm cho chính sách tồn tại và phát huy được tác dụng, hiệu quả trên thực tế như
mong muốn của các nhà làm chính sách. Tuy nhiên, trên thực tế, trong quá trình
thực thi chính sách áp dụng có những tồn tại, hạn chế khó tránh khỏi như: chưa tạo
lập được một hệ thống thể chế đồng bộ, chất lượng các văn bản luật còn nhiều hạn
chế, từ quy trình xây dựng, ban hành đến áp dụng. Do nhiều yếu tố về tài chính, cơ
sở vật chất, nguồn nhân lực mà chính sách xây dựng gia đình văn hóa ở nhiều các
địa phương còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là vùng núi, dân tộc thiểu số, biên giới
hải đảo.
Duy trì chính sách xây dựng gia đình văn hóa yêu cầu phải có sự thống nhất
trong quản lý của nhà nước về gia đình văn hóa cũng như công tác phối hợp thực
hiện giữa các cấp các ngành trong thực hiện chính sách để chính sách có thể thực
hiện một cách có hiệu quả nhất trong đời sống nhân dân.
1.2.4.5. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách xây dựng gia
đình văn hóa
Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách theo dõi, đôn đốc, kiểm tra là
một nhiệm vụ, một khâu quan trọng trong thực hiện chính sách bởi nó giúp bổ sung
22


×