Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận mẫu Đề tài: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI TRỢ GIÚP TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN XÃ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.04 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI
--------------------------

BÀI TẬP
ĐIỀU KIỆN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỀ TÀI: “VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI TRỢ GIÚP
TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN XÃ............

Học viên thực hiện:
Lớp Đại học CTXH ....
Hệ đào tạo: Vừa học vừa làm
Tỉnh

........, ngày tháng năm 201
1

1


BỐ CỤC TRÌNH BÀY
Phần 1: Phần mở đầu
Phần 2: Nội dung nghiên cứu đề tài
I. Khái quát chung về phương pháp công tác xã hội cá nhân
1. Khái niệm, đặc trưng của phương pháp công tác xã hội cá nhân.
2. Đối tượng tác nghiệp công tác xã hội cá nhân
3. Các nguyên tắc
3.1. Chấp nhận thân chủ:
3.2. Thái độ không kết án:
3.3. Tôn trọng quyền tự quyết của thân chủ:


3.4. Khuyến khích thân chủ tham gia giải quyết vấn đề:
3.5. Cá nhân hóa:
3.6. Sự can dự có kiểm soát
3.7. Giữ bí mật cho thân chủ:
4. Tiến trình trong công tác xã hội cá nhân
4.1. Tiếp cận thân chủ
4.2. Xác định vấn đề:
4.3. Thu thập dữ kiện:
4.4. Chẩn đoán:
4.5. Kế hoạch trị liệu:
4.6. Trị liệu:
4.7. Lượng giá:
5. Hệ thống kỹ năng cơ bản
1. Các kĩ năng khi tiếp xúc với trẻ
2

2


2. Các bước công tác xã hội với trẻ em vi phạm pháp luật
II. Khái quát Tổng quan về tình trạng trẻ em vi phạm Pháp luật hiện nay
III. Thực trạng vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật trên địa bàn xã .....
1. Khái quát về xã....
2. Thực trạng về vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật ở xã ........
3. Công tác giải quyết vấn đề ở địa phương xã ...............
IV. Vận dụng phương pháp công tác xã hội tác nghiệp trợ giúp trường hợp cụ
thể.
Phần 3.Kết luận và khuyến nghị

3


3


BÀI TẬP ĐIỀU KIỆN TỐT NGHIỆP
“Vận dụng phương pháp công tác xã hội trợ giúp trẻ em vi phạm pháp luật”

PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU
1: Lý do chọn đề tài :
Trẻ em là những mầm non tương lai của đất nước, các em rất cần được sự quan tâm
chăm sóc đầy đủ về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, không phải trẻ em nào cũng được đảm
bảo đầy đủ như vậy. Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế xã hội cùng với những mặt
tích cực của nó kéo theo là các tệ nạn xã hội nảy sinh làm suy đồi đạo đức của một bộ phận
không nhỏ thanh thiếu niên, trong đó có trẻ em những người dễ bị dụ dỗ vì các em chưa nhận
thức được đầy đủ hậu quả của những hành vi mà mình gây ra. Đặc biệt là trẻ em vi phạm
pháp luật ngày càng gia tăng, mức độ ngày càng nghiêm trọng và tính chất ngày càng phức
tạp. Đây là vấn đề đặt ra cho toàn xã hội nói chung và nhân viên xã hội nói riêng.
Công tác xã hội (CTXH) là một khoa học xã hội ứng dụng, được hình thành và phát
triển từ hơn một thế kỷ nay trên thế giới. Nhưng những tiền đề của nó đã có gốc rễ từ hàng
nghìn năm lịch sử của tất cả các dân tộc, được thể hiện sâu sắc, thấm đượm trong mối quan hệ
tình cảm yêu thương, gắn bó đồng loại, nghĩa cử cao đẹp của sự cảm thông, chia sẻ và những
hành động nhân đạo, từ thiện. Từ những hoạt động có tính xã hội đã giúp biết bao số phận,
nhóm người, cộng đồng, dân tộc vượt lên trên khó khăn, trở ngại, giải quyết vấn đề gặp phải,
hòa nhập, phát triển.
Cùng với sự vận động và phát triển của xã hội loài người, CTXH cũng không ngừng
được bổ sung, hoàn thiện trên cả phương diện lý thuyết và thực hành nhằm đáp ứng những
nhu cầu của cuộc sống. Công tác xã hội có 3 phương pháp tác nghiệp chuyên nghiệp, chủ
yếu, đó là: CTXH cá nhân, CTXH nhóm và phát triển cộng đồng. Với tư cách là một khoa
4


4


học, một nghề chuyên từ khi ra đời đến nay, CTXH đã và đang tiếp tục khẳng định sứ mệnh,
giá trị của mình trong đời sống xã hội và ngày càng được chú trọng và đề cao. Trong rất
nhiều đối tượng can thiệp, trợ giúp, giải quyết vấn đề của CTXH, có việc tham gia đẩy lùi tệ
trẻ em vi phạm pháp luật và hỗ trợ những em đã từng vi phạm pháp luật giải quyết vấn đề
gặp phải, hòa nhập cộng đồng.
Xuất phát từ tình cảm, trách nhiệm với quê hương và với vai trò là nhân viên công tác
xã hội tương lai mong muốn được vận dụng kiến thức, kỹ năng của chuyên ngành công tác
xã hội, chủ yếu là phương pháp công tác xã hội cá nhân nhằm tìm hiểu nguyên nhân của trẻ
vi phạm pháp luật và từ đó tìm gia hướng giải quyết giúp các em hòa nhập lại với cuộc sống
và tránh được sự rủ rê lôi kéo của các thành phần xấu trong xã hội. Em đã chọn đề tài “Vận
dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trợ giúp trẻ em vi phạm pháp luật trên địa
bàn xã……………….”vào làm bài tập điều kiện tốt nghiệp.
2: Mục đích, nhiệm vụ của đề tài:
Đề tài : “Vận dụng phương pháp Công tác xã hội cá nhân trợ giúp trẻ em có
những hành vi vi phạm pháp luật trên địa bàn xã ..........” dựa vào các phương pháp
chuyên biệt của công tác xã hội nhằm hỗ trợ các em hòa nhập cộng đồng tránh sa các tai tệ
nạn xã hội. Góp phần tích cực vào công tác ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương
đặc biệt là đối với lứa tuổi thanh thiếu niên, trẻ em vị thành niên.
3: Đối tượng, địa bàn thực hiện
Trẻ em vi phạm pháp luật trên địa bàn xã ………………..
Trong quá trình làm bài em còn nhiều hạn chế rất mong được sự nhận xét và góp ý
của thầy giáo, giảng viên thạc sĩ Nguyễn Hiệp Thương để bài tiểu luận của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

5


5


Phần 2. Nộidung
I. Tổng quan về phương pháp công tác xã hội cá nhân
1. Khái niệm, đặc trưng của phương pháp
1.1. Khái niệm :
CTXH cá nhân là phương pháp can thiệp hỗ trợ đầu tiên của CTXH chuyên nghiệp.
CTXH cá nhân là một phương pháp tác động đến cá nhân có vấn đề xã hội, giúp cá nhân tự
nhận thức về vấn đề, thúc đẩy, phát huy tiềm năng, kết hợp với sự hỗ trợ bên ngoài, tích cực
tham gia vào quá trình tương tác giải quyết vấn đề gặp phải, cải thiện hoàn cảnh, vươn lên
trong cuộc sống.
CTXH cá nhân không dừng lại là một hoạt động, một tác động nhất thời mà phải là
một quá trình. Quá trình này bắt đầu từ việc tiếp cận đối tượng (thân chủ), nhận diện vấn đề
cho đến việc thu thập thông tin, chẩn đoán, lên kế hoạch trị liệu, triển khai trị liệu, lượng giá
và cuối cùng kết thúc khi đã đạt được mục đích, những mục tiêu cụ thể đặt ra.
CTXH cá nhân là một phương pháp CTXH bao gồm nhiều hình thức, biện pháp tác
động can thiệp, kỹ năng cụ thể, có sự kết hợp linh hoạt với các lĩnh vực hoạt động của các tổ
chức chính trị - xã hội, hội đoàn, thiết chế xã hội, chính sách xã hội, kinh nghiệm của người
làm CTXH và nội lực, tiềm năng của đối tượng.
Khi tiến hành phương pháp, tiến trình can thiệp, trợ giúp, giải quyết vấn đề của nhân,
CTXH cá nhân đặt cá nhân trong mối quan hệ tương tác với các nhân khác, với điều kiện
kinh tế - xã hội, môi trường xã hội mà cá nhân đang sinh sống. Phương pháp tác động tập
trung vào giải quyết các biểu hiện – hiện tượng - vấn đề của thân chủ nảy sinh từ nguồn gốc,
mối quan hệ, diễn biến tâm lý xã hội, bối cảnh xã hội mà ở đó vấn đề của thân chủ diễn ra và
bị ảnh hưởng, chi phối.
Điều cốt lõi và là mục đích cao nhất của phương pháp CTXH cá nhân là giúp cá nhân
tự nhận ra, mong muốn và tự giải quyết được vấn đề của mình. Quan điểm hành động trong
CTXH cá nhân là "đối tượng là chuyên gia trong việc giải quyết vấn đề của chính mình".
Để làm được điều này - đi đến thành công, phụ thuộc rất lớn vào năng lực, vai trò và kỹ

năng tác nghiệp của người làm CTXH, vì thân chủ là người trong tình huống thường không
sáng suốt, thiếu bình tĩnh, mất sự tự tin hoặc có những hành động liều lĩnh, vội vàng.
1.2. Đặc trưng của phương pháp CTXH cá nhân :
6

6


CTXH cá nhân là phương pháp mà người làm CTXH vận dụng lý thuyết, các cách tiếp cận, các kỹ
năng chuyên nghiệp tác nghiệp với đối tượng dựa trên mối quan hệ trực tiếp, sự tương tác hai chiều
nhằm hỗ trợ đối tượng nhận diện vấn đề của mình, đánh giá tiềm năng, kết hợp những yếu tố trợ giúp
từ bên ngoài để giải quyết vấn đề, vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống. Trong tiến trình tác
nghiệp, can thiệp, hỗ trợ giải quyết vấn đề, người làm CTXH đóng vai trò định hướng, giúp phát huy
năng lực của thân chủ, còn thân chủ là đối tượng, là trung tâm của quá trình tác động, chuyển biến thay
đổi từ tình trạng yếu kém năng lực xã hội, thiếu tự tin, thiếu điều kiện cần thiết, trở thành chủ thể tích
cực của việc giải quyết vấn đề của bản thân mình.
2. Đối tượng tác nghiệp
Đối tượng tác nghiệp của công tác xã hội cá nhân.
Đối tượng của phương pháp công tác xã hội với cá nhân là chính các cá nhân hay gia
đình có vấn đề xã hội. Đây là những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, gặp rủi ro bất
hạnh trong cuộc sốn; người bị yếu thế trong xã hội, những người nghèo đói, thất nghiệp,
người bị khuyết tật; người già cô đơn, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa sống lang thang;
người bị ngược đãi, bị ạm dụng tình dục, lạm dụng sức khỏe; phụ nữ bị bạo hành, bất bình
đẳng trong gia đình và xã hội; người nhiễm hay mắc bệnh hiểm nghèo; người nghiện ma túy,
hoạt động mại dâm, tội phạm xã hội…
3. Nguyên tắc
Để làm tốt công tác xã hội cá nhân cần vận dụng và thực hiện tốt các nguyên tắc cơ
bản sau:
3.1. Chấp nhận thân chủ:
NVXH chấp nhận thân chủ với mọi phẩm chất tốt và xấu của người ấy, những điểm

mạnh và điểm yếu, không xem xét đến hành vi của thân chủ. Chấp nhận đòi hỏi tiếp nhận
một thân chủ theo nghĩa bong lẫn nghĩa đen, không tính toán , không điều kiện hạn chế nào
và đưa ra bất cứ sự tuyên án nào về hành vi của anh ta. Giã định triết học cho rằng mỗi cá
nhân có giá trị bẩm sinh, không kể đến địa vị xã hội hoặc hành vi của họ. Thân chủ được
quyền lưu ý và thừa nhận là một con người cho dù thân chủ có phạm tội đi chăng nữa.
Nhưng chấp nhận không có nghĩa là tha thứ cho hành vi mà xã hội không chấp nhận, điều đó
có nghĩa là sự quan tâm và thiện chí hướng về con người ẩn sau hành vi.
7

7


3.2. Thái độ không kết án:
Có nghĩa là không tỏ vẻ bất bình với thân chủ, không đổ lỗi bằng cách tranh luận về
nguyên nhân và kết quả hoặc đưa ra lời phê phán cho rằng người ấy đáng bị trừng phạt do
hành vi của họ. Khi NVXH nói chuyện và đối xử với họ theo cung cách như thế thì thân chủ
họ cảm nhận được họ được chấp nhận và bộc lộ những cảm xúc và vấn đề của họ. Nhưng nó
không có nghĩa là NVXH biện hộ chạy tội cho thân chủ.
3.3 Tôn trọng quyền tự quyết của thân chủ:
Một nguyên tắc khác trong Công tác xã hội cá nhân. Nguyên tắc này cho rằng cá nhân
có quyền quyết định những vấn đề thuộc về cuộc đời họ và người khác không được quyền áp
đặt quyết định lên họ. Trong công tác xã hội cá nhân, NVXH không nên ra quyết định, lựa
chọn hay vạch kế hoạch dùm cho thân chủ, nhưng thân chủ có thể được hướng dẫn và giúp
đỡ để đưa ra quyết định. Quyết định mà thân chủ đưa ra phải nằm trong phạm vi quy định
của xã hội là hậu quả của quyết định ấy không ảnh hưởng đến những người khác và chính
bản thân của thân chủ. Hơn thế nữa, hành vi tự quyết định phải ở trong những chuẩn mực
hành vi mà xã hội có thể chấp nhận được, người ra quyết định tức thân chủ, tự lãnh trách
nhiệm thực hiện quyết định và gánh lấy hậu quả.
Thân chủ chứ không phải nhân viên xã hội đưa ra sự lựa chọn trong số các phương án.
Trong tiến trình CTXHCN nhân viên xã hội thảo luận và xem xét các phương án, thảo luận

kỹ lưỡng và giúp cân nhắc những thuận lợi và khó khăn.
.

3.4. Khuyến khích thân chủ tham gia giải quyết vấn đề:
Kết hợp chặt chẽ với nguyên tắc tự quyết. Trên phương diện thực tế, sự tự quyết là

hình thức của sự tham gia vì nó đòi hỏi sự ra quyết định của thân chủ. Theo nguyên tắc tham
gia, thân chủ trở thành diễn viên chính trong việc theo đuổi kế hoạch và thực hiện hành
động, trong khi ấy nhân viên xã hội chỉ là người tạo thuận lợi.
3.5. Cá nhân hóa:

8

8


Một thân chủ phải được hiểu là một cá nhân độc nhất, và cá tình riêng biệt và không
phài là một cá nhân của một đám đông. Vì theo cách hiểu thì cá nhân không sinh ra trong
đám đông và không chết trong đám đông trừ khi có tai họa. Thay vì quy những ý tưởng có
trước cho từng thân chủ và dán nhãn lên hoàn cảnh của thân chủ hoặc xếp thân chủ thành
một loại thì nhân viên xã hội phải nhìn nhận thân chủ với đầu óc thoáng mở và cách giải
quyết vấn đề nhẹ nhàng thoải mái. Khả năng xem thân chủ như là một cá nhân riêng biệt
bằng cách cảm nhận qua quan sát những nét riêng tư và một sự sẳn sang đáp ứng những nhu
cầu riêng của thân chủ là điều quan trọng trong nguyên tắc cá nhân hóa. Nhân viên xã hội
không áp dụng một mô hình chung cho mọi thân chủ khác nhau.
3.6 Giữ bí mật cho thân chủ:
NVXH có nhiệm vụ giữ bí mật cho thân chủ, giữ những bí mật, những thông tin thu
nhận từ thân chủ, trong tiến trình giải quyết vấn của thân chủ có nhiều điều cần thiết là chúng
không được tiết lộ cho những người khác, ngoại trừ khi thân chủ cho phép khi tình thế bảo
đảm chia sẻ thông tin với người thứ ba như là các thành viên gia đình hoặc chuyên gia

khác…
3.7. Sự can dự có kiểm soát
Nhân viên xã hội khởi đầu mối quan hệ với thân chủ, biểu thị bằng sự chấp nhận và
sự khẳng định, vô tư với những lời bóng gió kết án hoặc sửa chữa lỗi lầm. Mối quan hệ như
thế có vẻ quá máy móc, nó phải được cần đến mức mà nhân viên xã hội có thể cảm nhận
mức độ xúc cảmcủa thân chủ và nhìn tình thế như người ấy nhìn nó. Tuy nhiên, nhân viên xã
hội có thể giúp thân chủ nhìn vấn đề của người ấy một cách khách quan và vạch kế hoạch
một cách thực tế. Từ đấy, ý tưởng về một sự can dự có kiểm soát bởi nhân viên xă hội trở
thành một nguyên tắc.
4 .Tiến trình
*Tiến trình CTXH cá nhân
CTXHCN là phương pháp giúp đỡ cá nhân có vấn đề về chức năng tâm lý xã hội. Nó
đi sâu vào tiến trình giải quyết vấn đề gồm 7 bước. Đó là xác định vấn đề, thu thập dữ kiện,
9

9


thẩm định chẩn đoán, kế hoạch trị liệu, thực hiện kế hoạch , lượng giá, tiếp tục hay chấm dứt.
Đây là những bước chuyển tiếptheo thứ tự logich, nhưng trong quá trình giúp đỡ, có những
bước kéo dài suốt quá trình như thâu thập dữ kiện, thẩm định và lượng giá.
Các bước này được kết hợp nhau thành 3 giai đoạn. Giai đoạn nghiên cứu gồm xác
định vấn đề và thu thập dữ kiện; giai đoạn 2 gồm: thẩm định chẩn đoán và kế hoạch trị liệu;
cuối cùng giai đoạn 3 gồm: thực thi kế hoạch, lượng giá, tiếp tục hay chấm dứt.
4.1. Tiếp cận thân chủ
Khi tiếp cận trẻ em có hành vi vi phạm pháp luật, nhân viên công tác xã hội có thể
tiếp cận theo cách trực tiếp như tìm thân chủ trong các trường giáo dưỡng, trại cải tạo…Chú
ý đến tâm lí trẻ em, cần tạo ấn tượng tốt ngay từ đầu để có thể can thiệp hiệu quả nhất.
4.2..Xác định vấn đề:
CTXHCN bắt đầu với việc xác định vấn đề do thân chủ trình bày. Đó là vấn đề đã gây

ra cho anh ta nhiều khó khăn và sự mất cân bằng trong chức năng tâm lý xã hội. Bước này
diễn ra ở giai đoạn “đăng ký”, nghĩa là khi TC tự mình hay được giúp đỡ để chính thức yêu
cầu một sự giúp đỡ của cơ quan.
4.3. Thu thập dữ kiện:
Trước tiên NVXH tìm hiểu hoàn cảnh của TC thông qua sự trình bày của anh ta. Sau
khi xác định tính chất của vấn đề NVXH tìm hiểu sâu hơn nữa tại sao nó xảy ra.
NVXH có thể dựa vào 4 nguồn tin:
– Chính thân chủ là nguồn tin trực tiếp.
– Những người có quan hệ như các thành viên trong gia đình, bác sĩ, giáo viên, người
chủ cơ quan của anh ta v.v...
– Tài liệu, biên bản liên quan đến vấn đề.

10

10


– Các trắc nghiệm tâm lý, thẩm định về tâm thần học để xác định mức độ của chức
năng xã hội của anh ta.
Mục đích của cuộc thu thập dữ kiện này là để giúp NVXH thử làm một chẩn đoán về
cá nhân trong tình huống và trên cơ sở đó lên một kế hoạch trị liệu.
4.4. Chẩn đoán:
Gồm 3 bước: chẩn đoán, phân tích, thẩm định. Chẩn đoán là xác định xem có trục trặc
ở chỗ nào, tính chất của vấn đề là gì, trên cơ sở các dữ kiện thu thập được. Phân tích là động
tác chỉ ra các nguyên nhân hay nhân tố dẫn đến hay đóng góp vào khó khăn. Thẩm định là
thử xem có thể loại bỏ hay giảm bớt khó khăn trên cơ sở động cơ và năng lực của thân chủ
để tham gia giải quyết vấn đề, tạo mối quan hệ và sử dụng sự giúp đỡ. Sự thẩm định này
mang tính chất tâm lý xã hội vì đây là trọng tâm của CTXH.
Khi hoàn thành cuộc thẩm định tình huống có vấn đề và cá nhân liên quan trong đó,
NVXH làm ngay một kế hoạch trị liệu cho dù đây mới là tạm bợ.

4.5. Kế hoạch trị liệu:
Ơ đây NVXH xác định loại hỗ trợ sẽ cung ứng cho TC, cách can thiệp mà anh, chị ta
cho rằng tốt nhất cho TC. Giai đoạn này gồm việc xác định mục đích trị liệu và các mục tiêu
cụ thể để đạt được mục đích. Càng nhiều càng tốt đây là một sự chung sức của NVXH và
thân chủ vì chính anh ta là người phải tạo ra những thay đổi cần thiết với sự hỗ trợ của
NVXH. sự chọn lựa mục đích cuối cùng phụ thuộc vào:
– Điều thân chủ mong muốn.
– Điều mà NVXH cho là cần thiết khả thi.
–Và các yếu tố liên hệ như có hay không có các dịch vụ, tài nguyên cần thiết.
Từ gốc độ của NVXH có 3 yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn cách trị liệu: tính chất
của vấn đề, các tài nguyên cần thiết và có được và động và năng lực của thân chỉ. Các nhân
tố khác có thể ảnh hưởng đến việc chọn lựa mục đích và mục tiêu là các giá trị của thân chủ,
11

11


cách anh ta đánh giá vấn đề và hệ lụy của nó. Các mục tiêu cụ thể là những đáp ứng cho các
nguyên nhân và nhân tốc đã liên kết đã tạo ra tình huống có vấn đề.
4.6. Trị liệu:
Đó là tổng hợp các hoạt động và dịch vụ nhằm vào việc giúp đỡ cá nhân có vấn đề.
Đó là giải tỏa hay giải quyết một số vấn đề trước mặt và điều chỉnh những khó khăn với sự
công nhận và tham gia của thân chủ. Có khi mục tiêu chỉ là giữ không cho tình huống trở nên
xấu hơn, giữ vững hiện trạng, giữ mức độ hoạt động tâm lý xã hội của TC thông qua các hỗ
trợ vật chất và tâm lý. Một cách đặc thù mục tiêu của trị liệu gồm:
a/ Thay đổi hay cải thiện hoàn cảnh của TC bằng cách đưa vào các tài nguyên như
giúp đỡ tài chính;hoặc thay đổi môi trường như gởi đứa trẻ nơi khác hoặc cải thiện các mối
quan hệ gia đình.
b/ Giúp cá nhân thay đổi thái độ, hành vi trong hoàn cảnh trước mặt.
c/ Thực hiện cả 2 cùng lúc.

Làm như thế NVXH có thể sử dụng một cách tiếp cận hay liên kết 3 cách.
- Cung cấp một dịch vụ cụ thể.
- Cải tạo môi trường và trị liệu trực tiếp mà ngày nay người ta gọi là tham vấn. Tham
vấn cá thể dược sử dụng một mình nó như một cách trị liệu hay kết hợp với một cách tiếp
cận khác.
Tham vấn (TV) là một loạt vấn đàm mà NVXH thực hiện với TC. Mục đích của TV
là củng cố các thái độ có lợi cho sự gìn giữ cân bằng về tình cảm, cho các quyết định xây
dựng, cho sự tăng trưởng và đổi mới. TV nhằm vào hoàn cảnh trước mắt cần được giải
quyết. Mục đích của nó là vận động sự tham gia ý thức của thân chủ trong việc xưœ lý các
vấn đề xã hội và sự thích nghi xã hội.

12

12


Công cụ của trị liệu là mối quan hệ NVXH. TC, vấn đàm, triển khai các tài nguyên xã
hội, vật chất, áp dụng chính sách và tài nguyên của cơ quan xã hội và nối kết với các tài
nguyên của cơ quan và cộng đồng khác.
Khả năng đáp ứng của TC đối với tiến trình trị liệu sẽ phụ thuộc vào tâm - thể trạng
của anh ta, nhân cách đã hấp thụ một nền văn hóa đặc biệt của anh ta, sự tự ý thức về bản
thân của anh ta và các tài nguyên và cơ hội anh ta có thể có.
Càng nhiều càng tốt trị liệu phải hướng vào và dựa trên gia đình. Vấn đề nên được
xem như vấn đề của gia đình khi thấy phù hợp. Vào thành viên trong gia đình có thể là nhân
tố đóng góp vào vấn đề hay ngược lại có người có những khả năng mà NVXH có thể huy
động để giải quyết vấn đề. Các cuộc vấn đàm có thể nhằm vào lứa đôi hay gia đình như một
phần của trị liệu.
4.7. Lượng giá:
Là động tác nhằm xác định xem sự can thiệp của NVXH hay trị liệu có đem lại kết
quả mong muốn không. Lượng giá được thực hiện thỉnh thưởng trong quá trình trị liệu để

giúp TC tự mình xem cuộc trị liệu có giúp gì cho anh ta không. Kết quả lượng giá sẽ nêu lên
nhu cầu sửa đổi hay thích nghi. Lượng giá cũng giúp NVXH xác định xem mục đích mục
tiêu đề ra đạt được đến mức nào để điều chỉnh trị liệu.
Chỉ có thể lượng giá tốt khi các mục tiêu được xác định rõ ràng và có thể đo đạt trên
cơ sở thông tin đầy đuœ. Ngoài ra, NVXH, TC và những người cùng giúp đỡ khác (ví dụ
như bác sĩ, nhà tâm lý) phải cùng tham gia việc lượng giá khi cần thiết.
5.Hệ thống kỹ năng cơ bản
Công tác xã hội với trẻ em là sử dụng những kĩ năng chuyên nghiệp nhằm giúp đỡ
những trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn để trẻ lấy lại được niềm tin vào cuộc sống… và
được phát triển cả về thể chất và tinh thần.
Công tác xã hội với trẻ phạm pháp là ngành trợ giúp những đối tượng trẻ đã có hành
vi phạm pháp ở các mức độ khác nhau có thể chấn chỉnh hành vi của mình, hoà nhập với
cộng đồng và phát triển bình thường. Các mục đích chính của CTXH với trẻ có hành vi
13

13


phạm pháp: Tăng cường làm rõ động cơ của các em phạm pháp, Cho phép các em giải toả
tâm trạng, Giúp cung cấp thông tin, Giúp trẻ em tuổi vị thành niên đề ra các quyết định, xác
định tình thế, Giúp các em thay đổi môi trường, Giúp trẻ em tuổi vị thành niên nhận biết các
kiểu hành vi, tận dụng lời khuyên.
5.1. Các kĩ năng khi tiếp xúc với trẻ
a. Cần tôn trọng trẻ:- Con người ai cũng có giá trị riêng của mình và trẻ em cũng vậy,
dù đó là trẻ em phạm pháp. Khi tiếp xúc với trẻ ta không nên có thái độ dọa nạt vì ta là
người lớn nên có thể làm gì cũng được. Không coi thường khinh rẻ trẻ, nhìn trẻ như những
kẻ phạm tội cần được dạy dỗ giáo dục và sẵn sàng trừng trị trẻ. Hay áp đặt những suy nghĩ
của bản thân vào trẻ. Tôn trọng trẻ là để cho trẻ tự bộc lộ bản thân, bộc lộ những suy nghĩ,
cách nhìn của mình, lắng nghe mọi điều chúng kể.
b. Chấp nhận trẻ, đặt mình trong địa vị của chúng để hiểu trẻ: Khi chấp nhận trẻ tức

là không có thái độ định kiến khi tiếp xúc với trẻ. Tỏ ra chân thành và trung thực có cái nhìn
tích cực về thiện chí của trẻ, không phán đoán hoặc đánh giá trẻ, rộng lượng tin vào khả
năng thay đổi của trẻ. Khi đặt mình vào địa vị của trẻ ta sẽ dễ thông cảm với những nỗi đau,
xao xuyến, lo lắng của trẻ cũng như là những hành vi mà trẻ đã gây ra trước đây.
c. Luôn tỏ thái độ thân thiện cởi mở với trẻ: Không làm cho trẻ sợ hãi bởi các thái ðộ:
lạnh lùng, có cái nhìn soi mói, tỏ ra xa lạ. Cần tiếp xúc với trẻ với thái độ nhẹ nhàng, niềm
nở. Tạo ra bầu không khí thoải mái và tin cẩn. Làm cho trẻ thấy mình là người dễ gần gũi.
Nói chuyện với trẻ về những gì trẻ yêu thích hoặc những lo lắng của trẻ.
5.2. Các bước công tác xã hội với trẻ em vi phạm pháp luật.
5.2.1. Xác định nhu cầu của trẻ
Theo thang nhu cầu của A.MASLOV thì con người có 5 nhu cầu cơ bản: Nhu cầu vật
chất, nhu cầu an toàn xã hội, nhu cầu xã hội, nhu cầu được coi trọng và nhu cầu tự khẳng
định mình. Đối với trẻ em vi phạm pháp luật thì nhu cầu cơ bản của trẻ là nhu cầu được an
toàn xã hội được đặt lên hàng đầu. Những trẻ này cần được sự yêu thương chăm sóc của cả
cha và mẹ, cha mẹ luôn quan tâm đến trẻ không những về vật chất mà cả về tinh thần tình
yêu thương. Trẻ cần có nhà ở, một ngôi nhà ấm cúng, tràn ngập tiếng cười của cha mẹ và
những đứa con. Nhu cầu kế tiếp của trẻ là nhu cầu được tôn trọng, tự khẳng định mình cũng
quan trọng không kém gì so với nhu cầu an toàn xã hội. Vì những đứa trẻ trong mắt người
lớn thường là con nít không hiểu gì, những suy nghĩ, quan điểm của trẻ thường bị người lớn
14

14


gạt đi không quan tâm. Từ đó khiến trẻ suy nghĩ là cần phải làm gì để khảng định bản thân
mình, mà như trên ta đã nói ở độ tuổi này trẻ rấ muốn khẳng định minhd không muốn bị coi
thường nên có thể dễ dẫn đến những hành vi sai trái. Vì vậy điều trước hết cần làm cho trẻ là
đáp ứng đủ nhu cầu cần thiết cho trẻ.
Công tác xã hội với trẻ em vi phạm pháp luật có thể theo hai hướng: CTXH với cá
nhân hoặc CTXH với nhóm. Ở đây em xin đi sâu phân tích công tác xã hội với cá nhân.

5.2.2. Công tác xã hội với cá nhân
Ta xác định CTXH với cá nhân nhằm tìm ra những vấn đề của thân chủ, sớm giải
quyết nó, giúp thân chủ hòa nhập vào cộng đồng.
Bước 1: Tiếp cận thân chủ. Khi tiếp cận trẻ em có hành vi vi phạm pháp luật, nhân
viên công tác xã hội có thể tiếp cận theo cách trực tiếp như tìm thân chủ trong các trường
giáo dưỡng, trại cải tạo…Chú ý đến tâm lí trẻ em, cần tạo ấn tượng tốt ngay từ đầu để có thể
can thiệp hiệu quả nhất.
Bước 2: Xác định vấn đề. Sau khi tiếp cận thân chủ cần xem xét xác định vấn đề trẻ
đang gặp phải, chúng ta còn phải xác định bản chất của những vấn đề được trình bày, ý
nghĩa, nguyên nhân, sự bắt đầu và những nhân tố của vấn đề. Ngoài ra còn có thể hiểu thêm
về mong muốn của trẻ, những việc mà trẻ sẽ làm để cải thiện tình hình của mình.
Bước 3: Thu thập dữ liệu. Có thể sử dụng biện pháp chính là phỏng vấn. Với nguồn
cung cấp thông tin chủ yếu là trẻ. Thông tin phải là gia đình, bạn bè, hàng xóm, nhà trường.
Ngoài ra còn có thể tiến hành tìm hiểu lí lịch của trẻ qua các hồ sơ. Bởi vì nó có ý nghĩa
quan trọng, lí giải được hành vi hiện tại của trẻ trong môi trường sống. Mục đích chủ yếu
của bước này là thu thập thông tin để nhân viên công tác xã hội hiểu rõ về hoàn cảnh của
thân chủ và có những thông tin chính xác phục vụ cho việc chẩn đoán ở mức tiếp theo. Bước
này là quan trọng nhất đối với việc chẩn đoán đúng hay sai về thân chủ.
Bước 4: Chẩn đoán vấn đề. Sau khi thu thập dữ liệu, chúng ta cần đánh giá tình trạng
của thân chủ, nhu cầu của thân chủ hiện tại là gì?, mặt mạnh, yếu, nguồn lực sẵn có trong
thân chủ ( học vấn, tay nghề, nghị lực…) Đồng thời phân biệt các vấn đề tồn tại, những vấn
đề cơ bản, những vấn đề nào cần làm trước và chẩn đoán phát sinh trong quá trình trị liệu
nhằm lập kế hoạch trị liệu cho phù hợp đối với thân chủ.
Bước 5: Kế hoạch trị liệu. Kế hoạch can thiệp là sự giúp đỡ có hệ thống mà nhân viên
công tác xã hội sử dụng để tác động vào thân chủ cũng như hoàn cảnh của họ để tạo ra sự
15

15



thay đổi tích cực. Việc đầu tiên của kế hoạch trị liệu là đưa ra mục đích thay đổi vấn đề thân
chủ gặp phải. Các mục tiêu này nó chịu ảnh hưởng của các nhân tố như: thân chủ, tình trạng
khả thi của mục đích, các nguồn lực hỗ trợ. Ta cần phải chú ý một số điểm sau: Mục đích trị
liệu là giúp thân chủ tự định hướng, thích nghi với xã hội và đóng góp cho xã hội, hay nói
cách khác là giúp thân chủ hoà nhập với cộng đồng.
Bước 6: Trị liệu. Thực hiện những mục tiêu mà trong kế hoạch trị liệu đã đề ra, cần
vận dụng linh hoạt dữ liệu thu được để theo dõi quá trình trị liệu đối với trẻ, đưa các hoạt
động diễn ra theo kế hoạch và huy động các nguồn lực từ bên ngoài. Tuy nhiên cũng phải có
những điều chỉnh phù hợp với những vấn đề nảy sinh trong trong quá trình trị liệu.
Bước 7: Lượng giá. Đánh giá lại toàn bộ quá trình trợ giúp từ đó thấy được những
gì mình đã làm được và kết quả đạt được so với kế hoạch đề ra như thế nào, do đâu mà ta
chưa đạt được kết quả như kế hoạch đặt ra. Từ đó đưa ra những định hướng trong tương lai.

II . Kháiquáttổngquanvềvấnđềtrẻemviphạmphápluật
Ở nước ta hiện nay, tình hình trẻ vi phạm pháp luật đã và đang có dấu hiệu ngày càng
gia tăng, nhất là đối với những trẻ ở lứa tuổi vị thành niên. Hầu hết trẻ em vi phạm pháp luật
tập trung ở lứa tuổi 14-18. Phần lớn những đối tượng phạm tội không có tiền án, tiền sự,
đang cắp sách đến trường nhưng hành vi phạm tội lại hết sức dã man, tàn bạo. Đáng chú ý là
thanh, thiếu nhi phạm các tội như cướp của, giết người, cưỡng đoạt tài sản công dân, hiếp
dâm, cưỡng dâm, sử dụng và mua bán trái phép chất ma tuý ngày càng nhiều. Thực trạng
trên đây đang là mối lo của toàn xã hội và các bậc cha mẹ trong việc quản lý và giáo dục con
cái. Chỉ tính trong sáu tháng đầu năm 2008 đã xảy ra 5746 vụ vi phạm pháp luật với hơn
9000 em là trẻ vị thành niên (tăng 20% vụ so với năm 2007), chiếm khoảng 80% số vụ vi
phạm hình sự. Đây là một con số rất lớn. Trong đó tội danh trộm cắp chiếm đoạt tài sản
chiếm 38%, cố ý gây thương tích chiếm 11% và giết người chiếm 1,4%. Trong số này, tỉ lệ
trẻ từ 16 – 18 tuổi chiếm tới 60%, từ 14 - dưới 16 chiếm 32% và dưới 14 tuổi là 8%. Tội
phạm trẻ em xảy ra tập trung ở các thành phố, thị xã, thị trấn, đặc biệt là các thành phố lớn
(chiếm 70%), số xảy ra ở nông thôn chiếm 24%, vùng giáp danh nông thôn thành thị chiếm
5.3%, ở miền núi chiếm 0.6%.


16

16


Đây thực sự là một con số đáng báo động cho toàn xã hội. ( Nguồn tin từ báo An
Ninh Nhân Dân số ra ngày 14/9/2009 của tổng cục điều tra tội phạm cấp.).
1. Định nghĩa trẻ em.
Hiện nay vẫn còn nhiều những tranh luận về khái niệm trẻ em là như thế nào?, độ tuổi
bao nhiêu?...có thể đưa ra một số định nghĩa khái niệm sau đây.
- Theo công ước về quyền trẻ em : “ Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có
nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em có qui định
tuổi thành niên sớm hơn”
- Pháp luật Việt Nam chưa có các qui định thống nhất về khái niệm trẻ em trong
từng ngành luật cụ thể.
Theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2005 của Việt Nam có ghi nhận “trẻ
em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Theo Bộ luật Dân Sự ( 2005 ) thì trẻ em là những người dưới 15 tuổi….
- Theo pháp luật liên bang của Hoa kỳ thì “trẻ em là người dưới 18 tuổi”
Nhìn chung mỗi nước có quy định khác nhau về độ tuổi để được coi là trẻ em.
Việc quy định độ tuổi ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý
của trẻ em ở mỗi quốc gia. Do đó có những quốc gia quy định độ tuổi thŕnh nięn sớm hőn
hoặc trể hőn 18 tuổi nhý đýợc xác định trong công ýớc về quyền trẻ em.
Tuy độ tuổi được coi là trẻ em ở mỗi quốc gia khác nhau nhưng nhìn chung trẻ em ở
tất cả các quốc gia đều có các đặc điểm sau:
- Đặc điểm thể chất và trí tuệ chưa hoàn thiện như người trưởng thành.
- Các em rất có sự chăm sóc, giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội cả về mặt
pháp lý.
Ngoài ra trong các quy phạm pháp luật Việt Nam còn xuất hiện các khái niệm “người
thành niên”, “người chưa thành niên”. Như vậy vấn đề đặt ra là phân biệt giữa các khái niệm

trên và khái niệm “trẻ em”.
Theo pháp luật Việt Nam:
-Người thành niên: là người trên 18 tuổi.
-Người chưa thành niên: là người dưới 18 tuổi.
Như vậy khái niệm người chưa thành niên rộng hơn khái niệm về trẻ em, người chưa
thành niên bao gồm cả trẻ em và những người từ 16 tuổi đến 18 tuổi.
17

17


2. Định nghĩa hành vi phạm pháp.
Theo lý luận chung về pháp luật: hành vi phạm pháp nói chung là hành vi trái pháp
luật xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ do các chủ thể có năng lực hành vi
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây hậu quả thiệt hại cho xã hội. Hành vi vi phạm pháp
luật gây hậu quả xấu cho xã hội, đối với trẻ em thì ở lứa tuổi từ 1-12 tuổi thì ở lứa tuổi này ít
gây ra các vi phạm pháp luật. Từ độ tuổi từ 13- 18 tuổi là giai đoạn mà trẻ em gây ra nhiều
vụ vi phạm pháp luật nhất. Vì vậy ở giai đoạn lứa tuổi này chúng ta phải hết sức lưu ý.
2.1. Định nghĩa trẻ em vi phạm pháp luật
Là những hành vi hành động của trẻ em làm trái với chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Những hành vi hành động này có tác động có hại cho xã hội và con người.(từ điển xã hội
học - G.Endruweit và G. Trommsdorff_nhà xuất bản thế giới)
Vậy những hành vi hành động đó của trẻ em không chỉ có tác hại cho xã hội mà còn
có tác hại mạnh mẽ đối với chính bản thân của người gây ra các hành động đó.Với độ tuồi
còn ít do đó các em chưa ý thức được hậu quả của mình làm cho các em ngày càng sa lầy
vào các tệ nạn xã hội.
Việc trẻ phạm pháp để lại hậu quả nghiêm trọng không chỉ cho bản thân các em mà
còn cho cả gia đình nhà trường và xã hội. Trước hết, đối với bản thân trẻ phạm tội, sau khi
có hành vi vi phạm sẽ phải chịu nhiều hình thức xử phạt và ảnh hưởng lớn đến đạo đức,
nhân cách của trẻ, kìm hãm sự phát triển của trẻ, gây cho trẻ bị khủng hoảng tâm lí, tự ti, xa

lánh bạn bè và xã hội.Mặt khác khi đã vi phạm pháp luật thì tương lai của trẻ sau này cũng
bị ảnh hưởng do những tiền án hoặc tiền sự mà trẻ đã có.
Còn đối với gia đình của trẻ có hành vi phạm pháp: ảnh hưởng đến đời sống kinh tế,
và chịu nhiều tác động của dư luận xã hội…
Với xã hội: “Trẻ em là tương lai đất nước” nhưng nếu trẻ em vi phạm pháp luật thì
cũng đồng nghĩa với việc đất nước sẽ mất đi một phần nguồn lực. Sẽ ảnh hưởng đến trật tự
xã hội, nếp sống văn minh của xã hội. Chính vì vậy cần thiết đưa ra những biện pháp khắc
phục hiệu quả và nhanh chóng.
2.2. Đặc điểm của trẻ em phạm pháp.
Phần lớn trẻ em phạm tội là những em đã có một số quá trình hư hỏng, từ học yếu,
học kém, đến trốn học, bỏ giờ học và vi phạm kỷ luật của nhà trường rồi bỏ học, chơi bời lêu
lổng, tụ tập thành từng nhóm tiêu cực và phạm tội. Có thể khẳng định rằng, đó là những đối
18

18


tượng có trình độ văn hoá thấp ( 97% đang học dở lớp 6 trở xuống, trong đó có 5.4 % hoàn
toàn không biết đọc, biết viết ).
Những trẻ em phạm tội sớm nhiễm các thói quen xấu, trong đó 85.4% đã nghiện
thuốc lá, thuốc lào, 33% thích uống rượu, bia, 1.55% nghiện ma tuý, 58.6% thích xem các
loại phim trưởng, kiếm hiệp kích động bạo lực, 20% thích xem phim kích động tình dục.
Trong nhà trường trẻ em phạm tội hầu như có những biểu hiện không tham gia vào
sinh hoạt đoàn, hội hoặc nếu có tham gia thh rất miễn cưỡng.
Trong quá trình phạm tội, trẻ có thể chỉ phạm tội với vai trò tham gia, đồng phạm.
Trong khi đó thì các loại tội phạm như xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản riêng của
công dân, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người… Trẻ em thường
giữ vai trò chủ động, nhiều trường hợp phạm tội có tổ chức.
Những năm gần đây tình trạng trẻ em phạm tội có sử dụng bạo lực phát triển mạnh.
Như là những hành vi cướp, giết, hiếp dân, đánh người gây thương tích đang ngày càng phổ

biến với tính chất nghiêm trọng. Trẻ em thường thực hiện hành vi phạm tội một cách cơ hội,
ít có dự mưu, tổ chức chặt chẽ từ trước. Tội phạm trẻ em thường tập chung vào các ngày lễ,
tết, dịp nghỉ hè, các ngày chủ nhật, tối thứ bảy…
2.3. Nguyên nhân dẫn đến trẻ vi phạm pháp luật
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến trẻ em vi phạm pháp luật:
2.3.1. Thứ nhất ta phải nói tới yếu tố đời sống tinh thần của trẻ:
Đây được coi là yếu tố chủ yếu và phổ biến nhất. Các nghiên cứu cho thấy ở tuổi vị
thành niên là thời điểm trẻ có sự biến đổi tâm sinh lí để trở thành người lớn do đó tinh thần
hay bị xúc cảm mạnh, sự thay đổi thất thường dẫn đến kết quả là không kiềm chế được bản
thân, không làm chủ được lý chí. Các em thường có tâm lý muốn tự khẳng định mình, không
muốn phụ thuộc và dễ bị tác động, rủ rê, lôi kéo của các đối tượng xấu. Nhiều em bị ảnh
hưởng tâm lý từ các loại phim, ảnh bạo lực, văn hoá phẩm đồi truỵ trên mạng Internet và
ngoài xã hội.
Chính sự vận động tâm lí không được khoẻ mạnh đã chiếm một phần lớn các yếu tố
khác nhau dẫn trẻ đến con đường vi phạm pháp luật
Mặt khác, ở góc độ gia đình, xã hội, môi trường giáo dục yếu kém cũng làm cho trẻ phạm
pháp.
2.3.2. Yếu tố gia đình
19

19


Chưa thành công trong việc giáo dục con cái là nỗi khổ tâm day dứt đối với các bậc
cha mẹ. Nhất là trong giai đoạn hiện nay cha mẹ nào cũng đặt niềm tin và hy vọng và sự
thành đạt của con cái “con hơn cha là nhà có phúc”. Tâm lý đó thôi thúc cha mẹ, dù phải thắt
lưng buộc bụng cũng phải cố gắng cho con đền trường, học hành đến nơi đến chốn. Nhưng
trong thực tế thì trẻ hư trẻ lang thang và vi phạm pháp luật lại xuất phát nhiều từ các gia đình
quá chiều chuộng con cái. Trong các nguyên nhân của gia đình tác động làm cho trẻ phạm
pháp thì được biểu hiện trên các mặt sau:

2.3.2.1 Cha mẹ không quan tâm đến việc giáo dục con cái
Trong trường hợp này thường xuất phát từ các gia đình neo đơn hoặc cha mẹ thường xuyên
vắng nhà, những gia đình chỉ lo tính toán kinh tế, thiếu trách nhiệm đối với con cái, khoán
trắng việc giáo dục cho nhà trường, những gia đình bố mẹ ly hôn vv…Kết quả là bố mẹ
không theo giỏi từng hoạt động của con cái ở nhà cũng như ở trường và ở ngoài xã hội, từ đó
tạo cho trẻ tâm lý sao nhãng học tập, lưu ban kéo dài tạo ra tâm lý chán nản đua đòi và bị lôi
cuốn vào các tệ nạn xã hội.
2.3.2.2 Cha mẹ, gia đình là những gương xấu cho con cái noi theo
Một số gia đình vì mục đích kiếm tiền đã lao vào các trò mua gian bán lận, làm ăn phi pháp
chứa chấp cờ bạc, mại dâm …Trong trường hợp đó, một mặt vì mất lòng tin một mặt vì
thiếu kính trọng cha mẹ, một mặ nữa là phải thưỡng xuyên tiếp xúc với các công việc của
gia đình tạo cho trẻ thói quen phạm pháp và dần dần vi phạm pháp luật.
2.3.2.3 Không khí đạo đức trong gia đình không thuận lợi
Trong gia đình luôn không có sự hòa thuận cư xử trong gia đình cũng thiếu kính trên
nhường dưới, trong gia đình luôn xảy ra mâu thuẩn không khí gia đình luôn nặng nề là cho
tâm lý trẻ chán nản và tham gia vào các tệ nạn xã hội. Vì chúng không có tấm gương noi
theo, đặc biệt là trong gia đình bố mẹ ly hôn thì số lượng của trẻ phạm pháp lại càng nhiều.
2.3.2.4 Cha mẹ không thống nhất phương pháp giáo dục con cái
Cha mẹ bao giờ cũng thương con, lo lắng cho tương lai của con. Nhưng do trình độ
nhận thức và tính cách mỗi người có cách cư xử khác nhau. Người này tỏ thái độ quở trách,
trừng phạt con thì người kia lại tỏ thái độ bênh vực con cái vv…Trong trường hợp như vậy
cha mẹ sẽ bị mất dần quyền uy, trẻ không nghe lời chống đối. Khi mà trong gia dinhd bố mẹ
mất quyền uy thì trẻ sẽ hành động theo ý thích của mình và sa vào các tệ nạn của xã hội
2.3.2.5 Cha mẹ chưa nắm được phương pháp giáo dục con cái
20

20


Sự quá nghiêm khắc hay quá nuông chiều của cha mẹ đối với con cái cũng làm phát sinh các

hành vi xấu của trẻ. Đặc biệt trong thời đại ngày nay khi gia đình chỉ có 1-2 con thì sự nuông
chiều quá mức của cha mẹ đã tạo cơ hội cho con trẻ lao vào các tệ nạn xã hội.
2.3.2.6 Cha mẹ chưa hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ
Cuộc sống đậm màu sắc tình cảm, không giấu được khi vui khi buồn khi yêu khi ghét,
dễ xúc cảm dễ có ấn tượng mạnh, định kiến sâu sắc …Vì thần kinh hưng phấn chiếm ưu thế
nên hành động theo ý thích không quan tâm đến kết quả đúng sai có lợi hay có hại. Mặt khác
cha mẹ lại không quan tâm đến tâm sinh lý của trẻ ở giai đoạn này nên cứ mặc cho hành
động của trẻ vì vậy đã tạo cơ hội cho trẻ lao vào các tệ nạn của xã hội.
Theo kết quả điều tra những năm gần đây 38,8% vị thành niên vi phạm pháp luật xuất
thân từ những gia đình có cha mẹ làm nghề buôn bán; trong đó số trẻ em được trực tiếp
phỏng vấn có 52,4% là đang sống với cha mẹ, được cha mẹ nuôi dưỡng.
Số còn lại là sống trong hoàn cảnh gia đình không bình thường: 12% chỉ sống với mẹ,
4% chỉ sống với bố, 3,1% sống với cha mẹ kế, 9,03% sống với người khác. Trong số vị
thành niên vi phạm pháp luật có tới 17% là những trẻ lang thang, vô gia cư; 71,37% số trẻ
thành niên vi phạm pháp luật trả lời không nhận được sự quan tâm, chăm sóc đầy đủ của cha
mẹ và gia đình.
Như vậy gia đình là nơi gần gủi với trẻ nhất tuy nhiên đây cũng có thể là nơi phát
sinh ra các yếu tố tạo cho trẻ cơ hội tham gia vào các tệ nạn xã hội. Vì vậy trong các bậc cha
mẹ cần phải có thái độ ứng xử hợp lý trong gia đình để trẻ noi theo.
2.3.3. Những yếu tố từ nhà trường
Nhà trường là nơi góp phần quan trọng trong giáo dục và rèn luyện con người. Tuy
nhiên giáo dục trong nhà trường hiện nay còn đặt ra nhiều bất cập: Chỉ chú trọng tới việc
dạy chữ, chạy theo thành tích với những kết quả ảo mà chưa thật sự chú ý tới việc giáo dục
pháp luật, đạo đức nhân cách cho học sinh, đặc biệt là việc trang bị những kiến thức về kỹ
năng sống cho học sinh chưa được đầy đủ.Trong giáo dục thì có nhiều vấn đề tác động vào
trẻ làm chúng không thống nhất được về mặt tư duy, cọ thể như sau:
2.3.3.1 Sự tác động không thống nhất giữa những người giáo dục
Mỗi học sinh đều chịu sự tác động của những người trong gia đình, thầy cô, bạn bè
của các thành viên trong cộng đồng mà đứa trẻ giao tiếp.


21

21


Trên trường học thì trẻ được trang bị các tri thức khoa học, các chuẩn mực hành vi
đạo đức.Nhưng khi về nhà và ra ngoài xã hội thì lại đón nhận những giá trị khác có thể là
ngược lại đối với những gì được dạy vì vậy tạo cho trẻ tâm lý hoang mang và hành động
theo cảm tính và có thể dẫn đến vi phạm pháp luật.
2.3.3.2 Một số giáo viên chưa quan tâm nhiều đến việc giáo dục học sinh cá biệt.
Trong nhà trường thì thường có các học sinh cá biệt tuy nhiên sự quan tâm của các
giáo viên đối với học sinh cá biệt còn rất ít, mặc cho hành động của trẻ và tạo cơ hội cho trẻ
ngày càng vi phạm pháp luật tham gia vào các tệ nạn xã hội.
2.3.3.3 Một số giáo viên không hiểu rỏ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
Trẻ em la giai đoạn mà sự phát triển về thể chất lẩn tinh thần diển ra mạnh mẽ. Sự
phát triển đó đã tạo nên các hiện tượng tâm lý bất thường mà khó có thể kiềm chế
được.Trong cách ứng xử củng như sinh hoạt hằng ngày, vì vậy trong quá trình học tập thì
nếu có sai sót và bọi giáo viên phê phán nặng nề, chê trách chế giễu, trừng phạt … sẽ làm
cho trẻ có cảm giác tội lỗi và ức chế dẫn đến tình trạng sa sút học hành và tham gia vào các
tệ nạn xã hội.
2.3.3.4 Thiếu nghiêm túc trong học hành và thi cử.
Trong quá trình dạy học, sợ điểm học sinh quá thấp và sợ bản thân bị thua kém giáo
viên khác về trình độ dạy học nên nhiều giáo viên đã làm ngơ trong thi cử dẫn đến trẻ học
chăm cũng bằng trẻ lười học tạo ra thói ỷ lại làm cho trẻ không có mục tiêu phấn đấu, thừa
thòi gian rảnh thi đi chơi và bị cuốn hút vào các tệ nạn xã hội.
Ngoài vòng tay gia đình thi nhà trường là nơi dạy dỗ con người thành người nhưng
chính nơi đây cũng là nơi có thể tạo ra cho trẻ hư hỏng,đặc biệt là nếu nhà trường không
quản lý tốt thì sẽ làm cho trẻ sa vào nhiều tệ nạn xã hội.
2.3.4. Yếu tố xã hội tác động làm cho trẻ vi phạm pháp luật
Trẻ sống trong môi trường xã hội có rất nhiều biến đổi như hiện nay thì việc ảnh

hưởng của môi trường xã hội đối với con trẻ rất lớn. Cụ thể các ảnh hưởng đó như sau:
2.3.4.1 Thiếu sót về tổ chức đoàn đội ở địa phương.
Ưa thích hoạt động là một trong những đặc điểm của lứa tuổi đang phát triển mạnh về
thể chất và tâm sinh lý.các hoạt động văn nghệ thể thao, lao động ở xã hội. Tuy nhiên hiện
nay các phong trào ấy ở địa phương đang rất yếu và thiếu nên đã tạo cho trẻ en không có sân
chơi và tham gia vào các tệ nạn của xã hội.
22

22


2.3.4.2 Thiếu sót trong việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong các chương trình phát thanh truyền hình đều mang nội dung giáo dục. Nhưng
với trình độ nhận thức của trẻ em thì chúng tiếp thu không chọn lọc, thiếu khả năng khái
quát đánh giá vì vậy các em chỉ chú ý đến các pha gây cấn rùng rợn kích động …
Việc đưa lên phim ảnh, báo những chuyện bạo lực chém giết tàn nhẫn , thủ đoạn lừa gạt tinh
vi, những thủ thuật trộm xe … Chính những bài học ấy đã vận dụng vào thực tế và đã thành
công làm cho tính chất tội phạm trẻ em ngày càng trầm trọng và trốn tránh pháp luật ngày
càng khéo léo.
2.3.4.3 Ảnh hưởng của các luồng văn hóa phẩm đồi trụy.
Bên cạch hệ thống thông tin đại chúng nhiều gia đình đã có đầu video, trò chơi điện
tử …Không thiếu các băng hình bạo lực dâm ô,trụy lạc, đâm chém .. Đã được trẻ em sử
dụng khi cha mẹ vắng nhà làm khuấy lên dục vọng tầm thường lãng quyên học tập lao vào
các vũ trường xa hoa lãng phí. Khi không có đủ tiền để tiêu xài thì các em lao vào con
đường tội lỗi.
2.3.4.4 Ảnh hưởng của môi trường sống không lành mạnh.
Ngoài thời gian ở nhà thì trẻ thường tiếp xúc ngao du với xã hội bên ngoài với đủ các
loại người. Một khi các em gặp phải những kẻ xấu rủ rê thì các em sẽ bị lôi vào các tệ nạn xã
hội. Khi đã sa chân vào con đường tội lỗi thì các em bị lôi vào đó mà không thoát ra được.
2.3.4.5 Những ảnh hưởng tiêu cực của nề kinh tế thị trường.

Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì nhiều gia đình mãi mê kiếm tiền
không để ý đến con cái. Để bù lại cho sự thiếu vắng tình thương nhiều cha mẹ đã mua sắm
đủ thứ cho con và cho chúng tiền mà không biết vì mục đích gì. Khi có tiền đứa trẻ tiêu xài
phung phí và dẫn đến con đường nghiện ngập và khi không có đủ tiền thì lao vào con đường
tội lỗi.
Mặt khác cũng vì muốn nhanh chóng có tiền nên không ít trẻ em từ các vùng quê bỏ
học ra thành thị tìm việc làm và sa vào các tệ nạn xã hội.
2.4. Hậu quả.
Việc trẻ phạm pháp để lại hậu quả nghiêm trọng không chỉ cho bản thân các em mà
còn cho cả gia đình nhà trường và xã hội. Trước hết, đối với bản thân trẻ phạm tội, sau khi
có hành vi vi phạm sẽ phải chịu nhiều hình thức xử phạt và ảnh hưởng lớn đến đạo đức,
nhân cách của trẻ, kìm hãm sự phát triển của trẻ, gây cho trẻ bị khủng hoảng tâm lí, tự ti, xa
23

23


lánh bạn bè và xã hội.Mặt khác khi đã vi phạm pháp luật thì tương lai của trẻ sau này cũng
bị ảnh hưởng do những tiền án hoặc tiền sự mà trẻ đã có
Còn đối với gia đình của trẻ có hành vi phạm pháp: ảnh hưởng đến đời sống kinh tế,
và chịu nhiều tác động của dư luận xã hội…
Với xã hội: “Trẻ em là tương lai đất nước” nhưng nếu trẻ em vi phạm pháp luật thì
cũng đồng nghĩa với việc đất nước sẽ mất đi một phần nguồn lực. Sẽ ảnh hưởng đến trật tự
xã hội, nếp sống văn minh của xã hội. Chính vì vậy cần thiết đưa ra những biện pháp khắc
phục hiệu quả và nhanh chóng.
2.5. Thái độ của xã hội với trẻ phạm pháp
Hầu hết những trẻ vi phạm pháp luật được phát hiện khi trẻ đã phạm tội và có sự can
thiệp của pháp luật, khi đó gia đình nhà trường mới biết. Khi đó gia đình đổ lỗi cho nhà
trường, nhà trường buộc tội lại gia đình còn xã hội thì coi đứa trẻ đó không được giáo dục, tỏ
thái độ khinh miệt, coi thường. Họ phán xét mà không nhìn thấy nguyên nhân sâu xa bên

trong. Những đứa trẻ phạm pháp này vốn đã không được gia đình nhà trường quan tâm, chỉ
bảo tận tình khiến lấn sâu vào con đường tội lỗi giờ lại bị cả xã hội coi thường, khiến trẻ
càng có những hành động cũng như thái độ tiêu cực, khó sửa chữa lỗi. Như vậy thái độ của
xã hội với những trẻ phạm pháp là chưa tích cực, vẫn có sự miệt thị, coi thường. Như vậy
vai trò của nhân viên công tác xã hội là rất quan trọng không chỉ giúp trẻ nhận thức được
hành vi vi phạm pháp luật của mình là sai, khơi gợi ở trẻ những năng lực tiềm tàng cũng như
là những mặt hạn chế ở trẻ để từ đó đưa ra kế hoạch giáo dục, trị liệu hiệu quả nhất cho trẻ .
Mà muốn làm được điều đó thì cần phải có sự kết hợp không chỉ từ phía trẻ, gia đình của trẻ
mà cần cả sự giúp đỡ của toàn xă hội: đó là bạn bè, thầy cô gia đình nhà trường...
2.6. Các dịch vụ xã hội
Hiện ở Việt Nam có nhiều dịch vụ chăm sóc cho trẻ em vi phạm pháp luật:
Những mô hình Trung tâm tư vấn dịch vụ truyền thông trẻ em nhằm hỗ trợ các em vay vốn
phát triển kinh tế gia đình, hỗ trợ học nghề... học văn hóa ổn định cuộc sống, và đã có những
em đã trưởng thành trở thành công dân tốt cho gia đình và xã hội. Bên cạnh việc hỗ trợ phát
triển kinh tế, hỗ trợ học nghề, các trung tâm phối hợp với ngành công an tổ chức tư vấn cho
phụ huynh và các em vi phạm pháp luật tại cộng đồng. Bên cạnh đó, các ngành chức năng
quan tâm đời sống tinh thần của các em, hàng năm thường xuyên tổ chức các hoạt động vui
chơi giải trí cho các em như trại hè, ngày hội tuổi thơ, diễn đàn trẻ em, đêm hội trăng rằm…
24

24


từ đó nắm bắt tâm tư tình cảm, tâm lý của các em để kịp thời có biện pháp uốn nắn, giáo dục
phù hợp. Hình thành nên các trại giáo dưỡng, phục hồi nhân phẩm cho trẻ nhằm giúp trẻ hòa
nhập vào cộng đồng tốt nhất sau khi có những vi phạm pháp luật.
Tổ chức Cứu Trợ Trẻ em Thụy Điển hỗ trợ Quỹ hỗ trợ Pháp lý quốc gia trong việc hỗ
trợ trẻ em nghèo vi phạm pháp luật ở Việt Nam được tư vấn và đại diện. Công việc này bao
gồm làm việc với chính quyền và những người trợ giúp pháp lý để giúp cho trẻ em tiếp cận
được các dịch vụ trợ giúp pháp lý phù hợp với các chuẩn mực quốc tế cũng như nâng cao

trình độ cho các luật sư và những người hỗ trợ pháp lý về kỹ năng tư vấn và đại diện cho trẻ
em.
Về pháp luật đã hình thành văn bản chính sách pháp luật quan tâm đến quyền trẻ em,
ban hành luật của Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 25/2004/QH11
ngày 15 tháng 6 năm 2004 về bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em.
Ngày 01/9/2009, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng đã ký ban hành Chỉ thị số 1408/CTTTg chỉ đạo tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Tuy nhiên hệ thống luật pháp, chính sách về bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa đầy đủ,
đồng bộ; đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em còn thiếu về số lượng, hạn
chế về năng lực chuyên môn, đặc biệt ở cấp xã; hệ thống dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em
giúp trẻ hòa nhập vào cộng đồng sau khi có hành vi phạm pháp chưa được hình thành đầy đủ
và chưa đáp ứng được yêu cầu. Ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ, chăm sóc trẻ em của
một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, cha mẹ, giáo viên và công dân chưa tốt; kiến
thức, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc trẻ em của nhiều gia đình và trẻ em chưa đầy đủ; hệ thống
thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu về bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa đầy đủ, thiếu tin cậy.
III.Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật trên địa bàn xã ……………
1 . Khái quát về địa phương xã ………………
2. Thực trạng vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật ở xã …..
Xã ………………cũng như bao địa phương khác, trong những năm qua dưới sự lãnh
đạo của Đảng các cấp chính quyền địa phương đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày
một được cải thiện và nâng lên đáng kể. Bên cạnh đó thì tình hình an ninh trật tự cũng có
nhiều diễn biến hết sức phức tạp tội phạm có chiều hướng gia tăng về mọi mặt, nhất là tệ nạn
25

25


×