HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
Lấ VN TH
Lấ VN TH
các tỉnh ủy ở đồng bằng sông hồng lãnh đạo
các tỉnh ủy ở đồng bằng sông hồng lãnh đạo
phát triển văn hóa - xã hội trong giai đoạn hiện nay
phát triển văn hóa - xã hội trong giai đoạn hiện nay
Chuyờn ngnh : Xõy dng ng Cng sn Vit Nam
Mó s
LUN N TIN S KHOA HC CHNH TR
: 62 31 23 01
LUN N TIN S KHOA HC CHNH TR
Ngi hng dn khoa hc: 1. PGS. TS. NGễ HUY TIP
2. TS. LM QUC TUN
H NI - 2015
H NI - 2015
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài
1.2. Những công trình nghiên cứu ở trong nước
1.3. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục phải giải quyết
5
5
6
15
Chương 2: CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH ĐẠO
theo quy định.
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA - XÃ HỘI HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ
YẾU VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lê Văn Thư
2.1. Khái quát về các tỉnh đồng bằng sông Hồng và phát triển văn hoá - xã hội
ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay
2.2. Các tỉnh uỷ ở đồng bằng sông Hồng lãnh đạo phát triển văn hoá - xã hội
hiện nay - khái niệm, nội dung, phương thức lãnh đạo
17
17
54
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VÀ CÁC
TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA - XÃ HỘI HIỆN NAY - NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM
3.1. Thực trạng phát triển văn hoá - xã hội ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng
hiện nay
3.2. Các tỉnh uỷ đồng bằng sông Hồng lãnh đạo phát triển văn hoá - xã hội,
thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm
71
71
101
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG
CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG
HỒNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2025
122
4.1. Những nhân tố tác động và phương hướng tăng cường sự lãnh đạo của
Tỉnh uỷ đối với phát triển văn hoá - xã hội ở các tỉnh đồng bằng sông
Hồng đến năm 2025
4.2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh uỷ đối với
phát triển văn hoá - xã hội ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng đến năm 2025
133
KẾT LUẬN
156
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
159
122
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
160
PHỤ LỤC
168
1
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
BCHTW
: Ban Chấp hành Trung ương
CNH, HĐH
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
xã hội như kinh tế, quốc phòng, an ninh,… lãnh đạo văn hóa - xã hội là vấn đề được
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
đặt ra từ rất sớm, ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo sự nghiệp
ĐBSH
: Đồng bằng sông Hồng
cách mạng giải phóng dân tộc.
HĐND
: Hội đồng nhân dân
Cùng với lãnh đạo chính trị và lãnh đạo các lĩnh vực trọng yếu của đời sống
Phát triển văn hoá - xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc và xây dựng thành công chủ
KH&CN
: Khoa học và Công nghệ
KHCN
: Khoa học công nghệ
Nxb
: Nhà xuất bản
TW
: Trung ương
UBND
: Ủy ban nhân dân
Là khu vực kinh tế - xã hội trọng điểm, các tỉnh đồng bằng sông Hồng
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
(ĐBSH) rất giàu tiềm năng, thế mạnh để phát triển về mọi mặt, không chỉ của vùng,
nghĩa xã hội ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng
đối với phát triển văn hóa - xã hội là đòi hỏi khách quan, có ý nghĩa chính trị quan
trọng, quyết định đối với sự phát triển văn hóa - xã hội của đất nước, nhằm thỏa
mãn nhu cầu ngày càng cao về đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân.
mà còn là động lực và cực tăng trưởng cho toàn miền Bắc và cả nước. Dự báo đến
năm 2020, khu vực các tỉnh ĐBSH, một mặt phải bảo đảm an ninh lương thực cho
vùng, và theo quy hoach, cùng với đồng bằng sông Cửu Long đảm bảo an ninh
lương thực cho cả nước. Mặt khác, các tỉnh ĐBSH sẽ tiếp tục chuyển đổi hàng chục
vạn ha đất nông nghiệp mầu mỡ sang mục đích sử dụng khác; lúc đó diện tích đô
thị, công nghiệp, thương mại - dịch vụ trên địa bàn sẽ chiếm tỷ lệ khá lớn diện tích
tự nhiên của các tỉnh trong vùng. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn các tỉnh đồng bằng sông Hồng tất yếu sẽ tạo ra những biến đổi
căn bản ở một vùng nông thôn rộng lớn, từ một vùng kinh tế lấy sản xuất nông
nghiệp, ở nông thôn, do người nông thực hiện là chủ yếu, sẽ chuyển dần sang nền
kinh tế nông nghiệp công nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh mẽ, phát triển nhanh các
thành phố công nghiệp, thương mại - dịch vụ thuộc tỉnh. Để thích ứng với sự phát
triển khách quan đó, thực tiễn đang đặt ra cho các đảng bộ, chính quyền các tỉnh
ĐBSH những nhiệm vụ to lớn phải giải quyết là nâng cao chất lượng giáo dục - đào
tạo, phát triển khoa học - công nghệ, chăm sóc sức khỏe và đời sống văn hóa tinh
thần của nhân dân, xóa đói giảm nghèo và bài trừ các tệ nạn xã hội… Nếu không
2
3
giải quyết tốt những nhiệm vụ này, sẽ không chỉ làm chậm quá trình phát triển kinh
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
tế - xã hội trên địa bàn, mà còn cản trở quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
2.1. Mục đích nghiên cứu
đại hóa các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng hiện nay.
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ở đồng bằng
Các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng là cơ quan lãnh đạo của các đảng bộ
sông Hồng đối với phát triển văn hóa - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở
tỉnh, có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo phát triển văn hóa - xã hội ở địa phương.
đó đề xuất các giải pháp chủ yếu, có tính khả thi nhằm tăng cường sự lãnh đạo của
Trong những năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo của các tỉnh ủy, đời sống kinh tế, văn
Tỉnh ủy đối với lĩnh vực hết sức quan trọng này
hoá - xã hội ở các địa phương có những bước phát triển mạnh mẽ, các lĩnh vực giáo
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
dục, khoa học - công nghệ y tế, văn hóa, thể thao, an sinh xã hội… đã đạt được
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của phát triển văn hóa - xã hội và
những kết quả rất quan trọng, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của
những vấn đề có liên quan đến phát triển văn hóa - xã hội của các tỉnh ở đồng bằng
nhân dân.
sông Hồng giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, sự lãnh đạo của các tỉnh ủy đối với phát triển văn hóa - xã hội
vẫn còn những mặt yếu kém, khuyết điểm đang đặt ra cần phải giải quyết, như
- Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức, vai trò lãnh đạo của các tỉnh ủy
đối với phát văn hóa - xã hội ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay.
kinh tế có bước phát triển nhanh và mạnh, nhưng văn hoá - xã hội chưa phát triển
- Đánh giá đúng thực trạng phát triển văn hóa - xã hội và sự lãnh đạo của
tương xứng, thậm chí có những bước thụt lùi như: phân hoá giàu nghèo ngày càng
các tỉnh ủy đối với phát triển văn hoa - xã hội ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện
lớn, gia tăng nhanh các tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông và tai nạn lao động; mê
nay, chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng và những kinh nghiệm quý báu từ thực tiễn.
tín, dị đoan, buôn thần, bán thánh; thương mại hoá các hoạt động văn hoá tâm
- Xác định những nhân tố tác động, phương hướng và những giải pháp chủ
linh…Về phía lãnh đạo, có những cấp ủy đảng chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc các
yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh ủy đồng bằng sông Hồng đối với
nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với phát triển văn hoá - xã hội, còn
phát triển văn hoa - xã hội giai đoạn hiện nay.
biểu hiện buông lỏng lãnh đạo, khoán trắng một số nội dung lãnh đạo quan trọng
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
cho các đơn vị chuyên môn; chưa thường xuyên coi trọng việc sơ kết, tổng kết, rút
3.1. Đối tượng nghiên cứu
kinh nghiệm… Những yếu kém đó đã hạn chế năng lực lãnh đạo của tỉnh ủy, làm
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là: các tỉnh ủy ở đồng bằng sông
chậm quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển văn hóa - xã hội trên địa bàn rộng
lớn và hết sức quan trọng này. Song, sự lãnh đạo của các tỉnh uỷ đối với phát triển
Hồng lãnh đạo phát triển văn hóa - xã hội giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
văn hoá - xã hội là vấn đề rất mới và rất khó, cả trên phương diện lý luận và thực
Đề tài nghiên cứu, khảo sát, đánh giá sự lãnh đạo của các tỉnh ủy đối với
tiễn. Trước yêu cầu thực tiễn đang đặt ra, tôi chọn đề tài “Các tỉnh ủy ở đồng
phát triển văn hóa - xã hội ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng từ năm 2005 đến nay;
bằng sông Hồng lãnh đạo phát triển văn hóa - xã hội trong giai đoạn hiện nay”
phương hướng và những giải pháp của đề tài có giá trị đến năm 2025.
làm luận án tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
Việt Nam, với mong muốn luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải
4.1. Cơ sở lý luận
pháp khả thi nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của các tỉnh uỷ ĐBSH đối với phát
triển văn hoá - xã hội hiện nay.
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về sự lãnh đạo của Đảng đối với các
4
5
lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội nói chung, đối với phát triển văn hóa - xã hội
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
nói riêng.
4.2. Cơ sở thực tiễn
Qúa trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện phát triển văn hóa - xã hội
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
của các tỉnh ủy các tỉnh đồng bằng sông Hồng từ năm 2005 đến nay, với tất cả
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về phát triển văn hoá
những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo của
- Đề cương quy hoạch phát triển văn hoá Trung Quốc, Tài liệu dịch - Viện
các tỉnh ủy trong thời gian vừa qua.
Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện khoa học xã hội và Nhân văn Việt Nam, lưu
4.3. Phương pháp nghiên cứu
hành nội bộ [49]. Đây là tài liệu quan trọng trình bày tổng thể mục tiêu phát triển
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
văn hoá của Trung Quốc "năm năm lần thứ 11".
Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành:
Đề cương quy hoạch phát triển văn hoá Trung Quốc thể hiện những tư tưởng
lôgic và lịch sử; phân tích và tổng hợp; thống kê, so sánh; tổng kết thực tiễn và
cơ bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc về đường hướng phát triển văn hoá mang
phương pháp chuyên gia.
đặc sắc Trung Quốc thời kỳ hiện nay, trong đó nhấn mạnh phát triển toàn diện, lấy
5. Những đóng góp mới của luận án
thị trường trong nước, ngoài nước làm động lực thúc đẩy các ngành văn hoá phát
- Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy ĐBSH
triển. Văn hoá hướng vào phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân trên con đường xây
đối với phát triển văn hóa - xã hội ở địa phương giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu, khả thi nhằm tăng cường sự lãnh đạo của
các tỉnh ủy ĐBSH đối với phát triển văn hóa - xã hội ở địa phương đến năm 2025.
6. Ý nghĩa và thực tiễn của luận án
dựng chủ nghĩa xã hội. Những mục tiêu, nhiệm vụ mà đề cương này nêu lên đã gợi
ý cho tác giả luận án suy nghĩ về những nội dung phát triển văn hoá - xã hội các
tỉnh ĐBSH giai đoạn hiện nay.
- Phăn đuông chít vông sa, Công tác lý luận của Đảng nhân dân cách mạng
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các tỉnh
Lào trong thời kỳ mới [51]. Nội dung luận án bàn về công tác lý luận của Đảng
ủy, các ban thường vụ tỉnh ủy trong cả nước, nhất là ở các tỉnh ĐBSH trong lãnh
Nhân dân cách mạng Lào thời kỳ mới, trong đó đáng chú ý là luận án đã trình bày
đạo, chỉ đạo và tổ chức phát triển văn hóa - xã hội giai đoạn hiện nay.
những nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác lý luận, một
- Luận án cũng có thể làm tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu khoa học và
lĩnh vực rất khó khăn, phức tạp. Tác giả nêu 4 nội dung và 4 phương thức lãnh đạo
đào tạo ở các trường chính trị và cơ sở đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước ta
của Đảng. Nội dung của đề tài có tác dụng tham khảo tốt cho NCS tìm hiểu, nghiên
hiện nay.
cứu về nội dung, phương thức lãn đạo của các Tỉnh uỷ ĐBSH lãnh đạo phát triển
7. Kết cấu của luận án
văn hoá - xã hội hiện nay.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả đã
- Lưu Vân Sơn, Tìm tòi thực tiễn và tư duy lý luận xây dựng văn hóa xã hội
công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc [66]. Tạp chí Cộng sản Số 17 (209) năm 2010 (phát
4 chương, 9 tiết.
biểu của đồng chí Lưu Vân Sơn tại Hội thảo lần này với chủ đề "Ðẩy mạnh xây
dựng văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế" giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam và Ðảng Cộng sản Trung Quốc).
6
7
Theo tác giả, trong điều kiện xây dựng kinh tế thị trường XHCN, văn hóa
các nhà khoa học Viện Văn hoá và phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
được thể hiện bằng hai hình thái là sự nghiệp và ngành nghề; mục đích căn bản của
Minh thực hiện. Cuốn sách bàn về một số nội dung phát triển văn hoá ở nông thôn
phát triển văn hóa là vì dân, sức mạnh phải dựa vào dân, đẩy mạnh xây dựng văn
ĐBSH đầu những năm 2000. Ở mỗi một nội dung phát triển văn hoá, các tác giả
hóa xã hội chủ nghĩa cần phải kiên trì lấy con người làm gốc, hướng tới quần
làm rõ cơ sở lý luận thực trạng và giải pháp thực hiện các giải pháp đó. Những nội
chúng, đáp ứng tối đa nhu cầu văn hóa tinh thần của quần chúng nhân dân.
dung phát triển văn hoá được đề cập trong cuốn sách được kế thừa để chọn nghiên
- Phitstamay bounvilay, Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở một số quốc gia và bài học cho thành phố Viêng chăn, (Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào) [53, tr.62-66]. Bài nghiên cứu tổng thuật những kinh nghiệm giáo dục đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, quản trị và thu hút tài năng khoa học công nghệ của
cứu những nội dung phát triển văn hoá - xã hội trong luận án, một nhiệm vụ quan
trọng, đối tượng lãnh đạo của các Tỉnh uỷ ĐBSH mà luận án nghiên cứu.
- Sách tham khảo, Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền thống ở các làng
ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, TS. Ngô Văn Giá [28].
các quốc gia phát triển ở Châu Á như Nhật bản, Hàn Quốc, Sinhgapore, Thái Lan.
Các tác giả cuốn sách nhấn mạnh: trong công cuộc đổi mới hôm nay, sự biến
Bài báo giúp nghiên cứu sinh nhìn rõ hơn công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực
đổi mạnh mẽ của các điều kiện kinh tế - xã hội đã kéo theo sự biến đổi rõ rệt diện
và bồi dưỡng nhân tài ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay.
mạo và các giá trị văn hóa truyền thống ở các làng ven đô. Vì vậy, cùng với yêu cầu
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về phát triển xã hội
phát triển kinh tế - xã hội, việc nghiên cứu, xây dựng và phát triển văn hóa thủ đô,
- Khăm bay ma la sinh, Thực trạng đói nghèo trong các hộ gia đình ở nông
văn hóa các làng ven đô là thực sự cấp thiết.
thôn tỉnh Chăm Pa Sắc, kiến nghị về chính sách, giải pháp [36], tác giả luận văn đã
trình bày hệ thống các quan điểm, đường lối chính sách xã hội của Đảng và Nhà
nước, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào làm cơ sở nghiên cứu vấn đề đói,
nghèo trong các gia đình ở nông thôn tỉnh Chăm Pa Sắc hiện nay. Tác giả luận văn
đã có những đánh giá khá công phu về thực trạng đói nghèo ở tỉnh Chăm Pa Sắc,
chỉ rõ quy mô, mức độ đói, nghèo và nguyên nhân đói, nghèo của địa phương. Tác
giả luận văn đưa ra một số kiến nghị về chính sách và các giải pháp xoá đói, giảm
nghèo cho địa phương. Kết quả nghiên cứu của tác giả góp một gợi ý tốt suy nghĩ
về thực trạng nghèo ở các tỉnh ĐBSH nước ta hiện nay, đồng thời góp nhận thức rõ
hơn về khái niệm phát triển xã hội ở các tỉnh ĐBSH.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về văn hoá và Đảng lãnh đạo phát
triển văn hoá
1.2.1.1. Những công trình nghiên cứu về văn hoá
- Sách tham khảo, Vai trò của văn hoá trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng, PGS.TS. Lê Quý
Đức [27]. Cuốn sách là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp bộ, do tập thể
- Sách tham khảo, Phát triển văn hóa con người và nguồn nhân lực thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, GS.TS. Phạm Minh Hạc [29].
Cuốn sách là chương trình nghiên cứu phát triển văn hóa, con người và
nguồn nhân lực trong bối cảnh đất nước bước vào thế kỷ XXI, trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa. Nội dung cuốn sách tập trung trình bày kết quả
nghiên cứu chủ yếu của chương trình: Những vấn đề mang tính phương pháp luận
về văn hóa, con người, nguồn nhân lực, đời sống văn hóa và xu hướng phát triển
văn hóa ở những vùng, miền khác nhau; đặc điểm con người Việt Nam hiện nay;
thực trạng nguồn nhân lực, phương hướng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu
của đất nước thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, v.v..
- Sách tham khảo, Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về văn hóa,
PGS.TS. Phạm Duy Đức [24]. Nội dung cuốn sách tập trung nghiên cứu quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc, bản chất, chức năng, vai trò của văn hóa, đi
sâu tìm hiểu quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít về xây dựng nền văn hóa xã
hội chủ nghĩa, về một số lĩnh vực cơ bản như văn hóa trong lãnh đạo chính trị; vấn
đề xây dựng con người, đạo đức và lối sống; vấn đề phát triển giáo dục - đào tạo,
8
9
xây dựng đội ngũ trí thức; phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật; báo chí; vấn đề
đại chúng; phát triển công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa, bảo vệ và phát huy di
tín ngưỡng, tôn giáo,... góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
sản văn hóa; đảm bảo sự đa dạng văn hóa giữa các dân tộc. Về xu hướng vận động
đậm đà bản sắc dân tộc.
và quan điểm chỉ đạo xây dựng phát triển văn hóa giai đoạn 2011-2020, tập thể tác
- Sách tham khảo, Sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn hóa một góc nhìn từ Việt Nam, GS.TS. Phạm Xuân Nam [48].
Tác giả đã đi sâu phân tích những đặc trưng, những cơ hội và thách thức; dự
báo chiều hướng phát triển của văn hóa Việt Nam đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế hiện nay, qua đó đề xuất phương châm, nguyên tắc và hệ quan
giả cho rằng, cần phải kế thừa các quan điểm chỉ đạo mà các Nghị quyết của Đảng
đã nêu, đặc biệt là các quan điểm được nêu lên trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII đồng thời phải bổ sung một số điểm mới.
- Sách tham khảo, Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, PGS.TS Nguyễn Duy Bắc [2].
điểm định hướng cho việc thực hiện sự cam kết với tính đa dạng văn hóa, phát huy
Cuốn sách đã xây dựng được hệ thống lý luận cơ bản về văn hóa, giá trị văn
bản sắc văn hóa dân tộc và tăng cường tiếp xúc, giao lưu, đối thoại giữa văn hóa
hóa, biến đổi giá trị văn hóa. Đồng thời đã chỉ ra được thực trạng biến đổi các giá trị
Việt Nam với các nền văn hóa khác trong thế giới đương đại. Nhưng mặt khác, quá
văn hóa, phát triển văn hóa trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định
trình trên cũng làm nảy sinh nguy cơ ghê gớm về sự đồng nhất hóa các hệ thống giá
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay; góp phần bổ sung và hoàn thiện hệ
trị, đe dọa làm suy kiệt khả năng sáng tạo đa dạng của các nền văn hóa - nhân tố cực
thống đường lối, chính sách về phát triển văn hóa và con người, xây dựng nền văn
kỳ quan trọng đối với sự phát triển lành mạnh và bền vững của từng dân tộc và của
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, hình thành các giá trị văn hóa mới
cả nhân loại.
trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị
- Sách tham khảo: Thành tựu trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
25 năm đổi mới (1986-2010), PGS.TS. Phạm Duy Đức [26]. Cuốn sách được biên
- Hà Vũ Tuyến, Công tác đào tạo nghề ở Vĩnh Phúc - kết quả và một số kinh
soạn từ kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học trọng điểm cấp Nhà nước Mã số
nghiệm [103]. Nội dung bài báo nêu những vấn đề sau: Vĩnh Phúc là một trong số
KX04.13/06-10. Nội dung cuốn sách phản ánh thực trạng văn hóa Việt Nam qua 25
chín tỉnh ĐBSH, thuộc vùng kinh tế trọng điểm của Bắc Bộ, tác giả bài báo đã đánh
năm đổi mới, chỉ ra những thành tựu quan trọng, đồng thời vạch ra những mặt yếu
giá khái quát những thành tựu công tác đào tạo nghề ở Vĩnh Phúc những năm vừa
kém, hạn chế, qua đó đề xuất một số giải pháp cơ bản và kiến nghị để xây dựng và
qua. Do tốc độ CNH, HĐH ở Vĩnh Phúc khá nhanh, nên sớm đặt ra nhu cầu đào tạo
phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm tiếp theo. Cuốn sách tập trung nêu
nghề cho địa phương. Chính vì công tác đào tạo nghề phát triển, nên đã có nhiều
lên một số giải pháp chủ yếu để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc
thanh niên, học sinh được học nghề phục vụ nhu cầu phát triển công nghiệp, dịch vụ
xây dựng con người và phát triển văn hóa trong thời gian tới.
- Đề tài khoa học cấp bộ, Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
tại địa phương. Từ thực tiễn đào tạo nghề ở Vĩnh Phúc, tác giả tổng kết một số kinh
nghiệm và giải pháp. Nội dung bài báo phản ánh một góc thực trạng giáo dục đào tạo
Những vấn đề phương pháp luận (2010), PGS.TS Phạm Duy Đức [25]. Các tác giả
nghề ở Vĩnh phúc, một nội dung của phát triển văn hoá - xã hội các tỉnh ĐBSH hiện
của đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-
nay. NCS có thể nghiên cứu, tham khảo cho phần đánh giá thực trạng của luận án.
2020 ở những lĩnh vực cơ bản của đời sống văn hóa dân tộc như: phát triển con
1.2.1.2. Những công trình nghiên cứu về Đảng lãnh đạo văn hoá
người, phát triển môi trường văn hóa cùng với các lĩnh vực hoạt động văn hóa cơ
bản như giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật, thông tin
- Sách tham khảo, Sự lãnh đạo của Đảng trong một số lĩnh vực trọng yếu
của đời sống xã hội nước ta, PGS. Lê Văn Lý [42].
10
11
Đây là công trình khoa học đề tài cấp Nhà nước được in thành sách, một
tranh xung đột xã hội ở nông thôn các tỉnh ĐBSH, song tác giả chọn mẫu nghiên
công trình lớn, bàn khá sớm về sự lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực trọng yếu
cứu là tỉnh Hà Tây cũ, một trong những tỉnh thuộc vùng ĐBSH. Tác giả tiếp cận
đời sống xã hội nước ta. Công trình tuy không bàn chuyên sâu về Đảng lãnh đạo
vấn đề xung đột xã hội trên bình diện lý luận rộng, có điểm qua một cách khái
phát triển văn hoá - xã hội, nhưng đã đề cập đến một mặt của phát triển văn hoá: sự
quát vai trò đất đai với người dân nói chung, với người nông dân trong vùng qua
lãnh đạo của Đảng đối với tư tưởng, lý luận và văn học - nghệ thuật.
các thời kỳ lịch sử, từ đó nhìn nhận những vấn đề xã hội hiện nay khi người dân
Những nghiên cứu của đề tài rất hữu ích cho đề tài luận án của tác giả khi
mất đất trong quá trình CNH, HĐH và đô thị hoá diễn ra khá mạnh mẽ hiện nay.
phải xác định rõ nội dung và phương thức lãnh đạo của các Tỉnh uỷ ĐBSH trong
Tác giả sách tiếp cận vấn đề xung đột xã hội dưới góc độ khoa học, chỉ ra bản
phát triển văn hoá - xã hội. Mặc dù cuốn sách nói trên nghiên cứu trê quy mô toàn
chất, vai trò, chức năng của xung đột xã hội và phương pháp giải quyết xung đột
Đảng, không nghiên cứu ở một đảng bộ địa phương nào đó của ĐBSH, song cuốn
dưới góc độ lý luận. Từ đó nghiên cứu những nảy sinh xung đột xã hội từ các
sách đã cho những gợi ý, chỉ dẫn quan trọng để tác giả luận án xác định nội dung,
phương thức các Tỉnh uỷ lãnh đạo phát triển văn hoá - xã hội hiện nay.
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về phát triển xã hội và Đảng lãnh
đạo phát triển xã hội
1.2.2.1. Những công trình nghiên cứu về phát triển xã hội
- Sách: Tác động của phân tầng mức sống vào quá trình phát triển văn hoá
nông thôn, Trần Thị Lan Hương [34]. Tác giả cuốn sách nghiên cứu phân tầng mức
sống tác động đến qúa trình phát triển văn hoá nông thôn ở các tỉnh ĐBSH vào
những năm 2000, khoảng thời gian nước ta đã vượt qua thời kỳ khủng hoảng kinh
tế - xã hội, cả nước bước vào thời đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tác giả cuốn
sách tiếp cận vấn đề nghiên cứu bắt đầu đi từ các lý thuyết phân tầng xã hội hiện
đại, sau đó chọn cho mình khung lý thuyết ứng với chủ đề nghiên cứu. Nội dung
cuốn sách tiếp cận vấn đề biến đổi, phát triển văn hoá trong cộng đồng cư dân nông
quan hệ đất đai trong xã hội. Kết quả nghiên cứu của cuốn sách là tài liệu tham
khảo tốt nghi nghiên cứu về sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ và các cấp uỷ đảng địa
phương đối với phát triển văn hoá - xã hội không được xem nhẹ những vấn đề
kinh tế - xã hội liên quan đến quan hệ về đất đai.
- Sách: Ứng xử của người dân vùng đồng bằng sông Hồng trong gia đình, Lê
Thị Thanh Hương [33], các tác giả của cuốn sách này làm rõ hàng loạt các mối
quan hệ trong gia đình, từ đó đặt vấn đề nghiên cứu việc xử lý các mối quan hệ gia
đình thông qua các hình thức và phương pháp ứng xử. Các tác giả nhìn nhận mối
quan hệ trao truyền các giá trị văn hoá - xã hội giữa các thế hệ trong gia đình, nhất
là thế hệ các ông bà, cha mẹ với con, cháu vùng ĐBSH hiện nay. Các tác giả đặt ra
vấn đề làm sao để các thế hệ về sao tiếp nhận được những giá trị chuẩn mực của
những thế hệ đi trước, nhưng không rơi vào bảo thủ, nệ cổ. Đồng thời đặt vấn đề có
thôn ĐBSH từ góc nhìn xã hội học, đi từ những biến đổi trong cơ cấu xã hội, phân
bình đẳng hay không bình đẳng trong quan hệ giữa ông bà với con cháu, cần hay
tầng xã hội, phân tầng mức sống để xem xét vấn đề phát triển văn hoá. Những kiến
không cần sự bình đẳng, bình đẳng có tốt hơn không bình đẳng. Cuốn sách giúp
giải của tác giả là những gợi ý sâu sắc cho luận án khi phân tích nguyên nhân của
người đọc nhận diện một vấn đề xã hội rất lớn là các quan hệ trong gia đình hiện đại
những thành tự và hạn chế trong phát triển môi trường văn hoá ở nông thôn các tỉnh
vùng ĐBSH, vai trò của các quan hệ đó trong cộng đồng, vai trò của gia đình trong
ĐBSH hiện nay, cũng như gợi ý cho luận án nghiên cứu những giải pháp tăng
tiếp nhận các chính sách văn hoá của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Phát triển gia
cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng địa phương trong phát triển văn hoá - xã hội
đình là một trong những nội dung quan trọng của phát triển văn hoá - xã hội các
hiện nay.
tỉnh ĐBSH hiện nay, cuốn sách là tài liệu tham khảo tốt nhìn nhận sự tác động
- Sách: Xung đột xã hội về đất đai ở nông thôn thời kỳ đổi mới (trường hợp
chính sách và vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với những vấn đề xã hội
tỉnh Hà Tây cũ) của TS. Phan Tân [67]. Tác giả sách tuy không trình bày bức
không thể xem nhẹ các quan hệ gia đình, nhất là vai trò giáo dục từ trong gia đình.
12
13
Gia đình là tế bào xã hội, gia đình yên vui, hạnh phúc là nguồn nuôi dưỡng những
1.2.2.2. Những công trình nghiên cứu về Đảng lãnh đạo phát triển xã hội
thế hệ tương lai khoẻ mạnh về thể chất, lành mạnh về tâm hồn, vì thế sẽ làm cho
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX02.21/06-10, Đảng lãnh đạo phát triển
toàn xã hội phát triển ổn định. Nội dung cuốn sách gợi ý cho tác giả luận án nghiên
xã hội và quản lý phát triển xã hội thời kỳ đổi mới, PGS. TS. Đinh Xuân Lý [41].
cứu đề xuất giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với phát triển văn
Đề tài gồm 23 bài viết của các tác giả hiện đang công tác ở các trường đại học, học
hoá - xã hội, có nội dung trọng tâm là lãnh đạo xây dựng, phát triển các gia đình và
viện và các viện nghiên cứu. Nội dung tập trung chủ yếu vào bốn vấn đề chính:
các thành viên của nó.
Luận cứ của việc nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với phát
- PGS.TS Ngô Ngọc Thắng, Chính sách an sinh xã hội trong bối cảnh tái
triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta trong quá trình đổi mới; các yếu
cấu trúc mô hình tăng trưởng [71, tr.16-21]. Tác giả bài báo khẳng định, Đảng và
tố tác động đến năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với phát triển xã hội và
Nhà nước ta luôn nhất quán trong quan điểm, đường lối và chính sách xã hội, coi an
quản lý phát triển xã hội; thực trạng năng lực lãnh đạo của Đảng đối với phát triển
sinh xã hội (ASXH) vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định xã hội và phát triển
xã hội và quản lý phát triển xã hội thời kỳ đổi mới - những vấn đề đặt ra; hiệu quả
bền vững đất nước. Tác giả cho rằng những chính sách của Đảng và Nhà nước được
lãnh đạo của Đảng đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trên một số
triển khai đồng bộ trên 3 phương diện: giúp các đối tượng thụ hưởng khả năng tiếp
lĩnh vực.
cận dịch vụ công cộng; hỗ trợ phát triển sản xuất; phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội.
Sau khi khẳng định quan điểm, đường lối nhất quán của Đảng về ASXH, tác
giả xem xét ASXH dưới sự tác động của tái cấu trúc mô hình tăng trưởng, từ tăng
trưởng theo bề rộng chuyển sang tăng trưởng theo chiều sâu, dựa trên tăng năng
xuất lao động, phát triển khoa học công nghệ. Theo tác giả, trong điều kiện tái cấu
trúc mô hình tăng trưởng, đứng trước thách thức: một là, hệ thống chính sách
ASXH chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế thị trường; hai là, những rủi ro về
kinh tế, xã hội, môi trường trong điều kiện tái cấu trúc kinh tế và mô hình tăng
trưởng; ba là, hiện tường già hoá dân số bắt đầu xuất hiện gây áp lực lên hệ thống
an sinh xã hội; bốn là nhận thức của người dân, cơ quan quản lý, cán bộ, đảng viên
chưa đầy đủ về ASXH, một số ASXH mới nảy sinh chưa kịp giải quyết. Từ những
lý giải trên tác giả đưa ra các kiến nghị về quan điểm, về giải pháp. Nội dung bài
báo có tác dụng giúp nghiên cứu sinh nhận thức sâu sắc hơn vai trò của phát triển xã
hội, trên phương diện ASXH gắn với phát triển kinh tế và văn hoá. Sự lãnh đạo của
Theo các tác giả của đề tài, trong thời đại ngày nay, sự bùng nổ của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ, sự hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức,
sự phát triển mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa,... đã đặt ra nhiều thời cơ phát triển
lớn đan xen với những thách thức trong quá trình phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội. Điều này đòi hỏi các quốc gia, dân tộc trên thế giới phải tỉnh táo, trước
mỗi bước đi của mình. Nếu xử lý đúng, vượt qua được thách thức thì sẽ tạo ra thời
cơ mới.
Đối với Việt Nam, một đất nước đang trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập, càng đòi hỏi phải chú trọng phát triển xã hội và tăng cường quản lý phát
triển xã hội nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa và bền vững. Sự lãnh đạo của Đảng
đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội được thể hiện thông qua việc
hoạch định cương lĩnh, đường lối chiến lược, các định hướng về chủ trương và
chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội nhằm đạt tới đời sống vật
chất và tinh thần cao đẹp cho nhân dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh... Tuy nhiên đề tài này chưa bàn về những nội
các cấp uỷ địa phương đối với phát triển văn hoá - xã hội phải chú ý đầy đủ, chu
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quản lý và phát triển xã hội, một
đáo, sâu sắc vấn đề ASXH.
vấn đề trọng tâm của đề tài luận án rất cần nghiên cứu, tham khảo và kế thừa. Dẫu
14
15
sao, những kiến giải của đề tài cũng làm sáng rõ vai trò lãnh đạo của Đảng ta trong
nhiều thành tựu tốt, bền vững. Nội dung bài báo cho thấy, tác giả đã nhận thức được
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội hiện nay.
vai trò lãnh đạo của đảng bộ tỉnh và của Tỉnh uỷ có tính quyết định thắng lợi xáo
- GS. TS. Nguyễn Đình Tấn, Sự phát triển nhận thức của Đảng về công
đói giảm nghèo ở địa phương. Tuy bài báo chưa đi sâu phân tích nội dung, phương
bằng xã hội và xoá đói, giảm nghèo [69, tr.3-7]. Tác giả bài báo khoa học đã lược
thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ, song cũng có thể thấy tác giả đã đề cập theo hướng đó
khảo những quan điểm của Đảng ta qua các đại hội nhiệm kỳ và các Hội nghị Ban
trong bài báo, đề tài luận án của NCS có thể tham khảo.
Chấp hành Trung ương xung quanh vấn đề lãnh đạo giải quyết công bằng xã hội và
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA LUẬN ÁN TIẾP TỤC PHẢI GIẢI QUYẾT
xoá đói, giảm nghèo, kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay. Theo tác
1.3.1. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài
giả, sự phát triển nhận thức của Đảng trong giải quyết công bằng xã hội và xoá đói,
Qua tổng quan một số công trình nghiên cứu của các tác giả người nước
giảm nghèo có sự vận động phát triển gắn liền với những thành tựu của phát triển
ngoài viết về phát triển văn hoá - xã hội được dịch ra tiếng Việt, NCS nhận thấy,
kinh tế xã hội đất nước. Mục tiêu của chính sách là nhất quán hướng tới công bằng
mỗi tác giả thường viết về một số đặc điểm, nội dung nào đó trong số nhiều nội
xã hội, xoá đói giảm nghèo, cùng nhau phát triển để ngày càng giàu có hơn. Mục
dung về phát triển văn hoá - xã hội theo quan điểm của luận án, ví dụ như viết về
tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: tăng trưởng bền
môi trường văn hoá, về giáo dục đào tạo về an sinh xã hội ở quốc gia của các tác
vững, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội. Quan điểm về công bằng xã hội và xoá
giả, chưa có tác giả nào nghiên cứu viết về phát triển văn hoá ở Việt Nam nói
đói, giảm nghèo của Đảng ta hiện nay, là công bằng không chỉ là các chính sách bảo
chung, ở các tỉnh ĐBSH của Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, do ở một số nước, văn
đảm công bằng trong phân phối các nguồn lực, mà còn cần có sự công bằng về cơ
hoá đã trở thành một lĩnh vực được đầu tư phát triển trở thành một ngành kinh tế
hội và điều kiện phát triển. Nội dung bài báo bàn về các quan điểm của Đảng trong
sản xuất các sản phẩm văn hoá để kinh doanh thương mại, nên nhấn mạnh phát
lãnh đạo phát triển văn hoá - xã hội ở nước ta hiện nay, dưới góc độ công bằng xã
triển kinh tế trong văn hoá, còn vấn đề xã hội được xem xét dưới góc độ các thành
hội và xoá đói, giảm nghèo đã giúp cho tác giả luận án có cái nhìn sâu sắc hơn về
tựu phát triển của chế độ chính trị, hoặc là những vấn đề chuyên môn sâu của xã hội
bản chất chính sách phát triển văn hoá - xã hội của nước ta hiện nay, và do vậy suy
học như vấn đề phân tầng xã hội, an sinh xã hội… Vấn đề mà luận án của NCS rất
nghĩ sâu hơn về phát triển văn hoá - xã hội các tỉnh ĐBSH và sự lãnh đạo của cấp
cần tham khảo là sự lãnh đạo của các đảng cầm quyền đã lãnh đạo chính trị, hoạc
uỷ địa phương thực hiện chính sách bảo đảm công bằng xã hội, xoá đói, giảm nghèo
tác động chính trị vào các chính sách phát triển văn hoá - xã hội như thế nào, nhất là
ở khu vực này.
các nội dung và phương thức tác động, thì rất ít tác giả đề cập đến, ngoại trừ một
- Hoàng Thị Bích Phương, Thực hiện xoá đói, giảm nghèo bền vững ở tỉnh
luận án tiến sĩ của NCS nước Cộng hoá dân chủ nhân dân Lào năm 2002, vì vậy
Bác Giang (2008-2013) [55]. Bài báo tuy không viết về sự lãnh đạo Thực hiện xoá
NCS chưa có thể nghiên cứu, tham khảo được nhiều từ các tác giả nước ngoài nhằm
đói, giảm nghèo bền vững ở một tỉnh nào đó của ĐBSH, song viết về sự lãnh đạo
vận dụng cho nội dung luận án.
của Tỉnh uỷ Bắc Giang về vấn đề này. Nội dung bài báo đã hệ thống hoá những
1.3.2. Những công trình nghiên cứu ở trong nước
quan điểm, chủ trương của đảng bộ tỉnh, của tỉnh uỷ về lãnh đạo Thực hiện xoá đói,
Trong vòng 15 năm trở lại đây, sau khi Đảng ta ban hành Nghị quyết chuyên
giảm nghèo bền vững ở địa phương, chỉ ra các giải pháp mà Tỉnh uỷ đã xác định
đề về phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tại Hội nghị
lãnh đạo phát triển vấn đề xã hội này. Trên cơ sở quan điểm, chủ trương, giải pháp
lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, đã có rất nhiều các công trình
lãnh đạo của Tỉnh uỷ và đảng bộ tỉnh, việc xoá đói, giảm nghèo ở Bắc Giang đã đạt
nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, các cuốn sách, bài báo khoa học viết
16
17
về phát triển văn hoá - xã hội, tiêu biểu trong số đó là nhóm các công trình nghiên
Chương 2
cứu của các nhà khoa học thuộc Viện Văn hoá và phát triển thuộc Học viện chinh
CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH ĐẠO PHÁT
trị Quốc gia Hồ Chí Minh và nhóm các tác giả của Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
TRIỂN VĂN HÓA - XÃ HỘI HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU
Có những tác giả đã đánh giá khá toàn diện 12 nội dung phát triển văn hoá ở Việt
VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Nam trong 25 năm đổi mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tinh thần của
Nghị quyết Trung ương năm khoá VIII về văn hoá, chỉ rõ ưu điểm, hạn chế trên
từng nội dung, rút ra kinh nghiệm từ chủ trương lãnh đạo của Đảng, chính sách phát
triển của Nhà nước.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu ở trên không đi sâu nghiên cứu về sự
lãnh đạo của Đảng trong phát triển văn hoá - xã hội, không bàn về những nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực này. Đương nhiên là những công trình
nghiên cứu chuyên sâu của các tác giả về một số Tỉnh uỷ ĐBSH lãnh đạo phát triển
văn hoá - xã hội thì chưa thấy ai đề cập đến. Như vậy góc độ nghiên cứu của luận
án do NCS thực hiện vẫn còn rất nhiều khoảng trống phải thực hiện mà chưa có
người đi trước nghiên cứu.
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ PHÁT
TRIỂN VĂN HOÁ - XÃ HỘI Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY
2.1.1. Khái quát về điều kiện địa lý - tự nhiên và kinh tế các tỉnh đồng
bằng sông Hồng hiện nay
* Về điều kiện tự nhiên
Đồng bằng sông Hồng là một trong hai đồng bằng lớn nhất Việt Nam, ở đó
có chín đơn vị hành chính tỉnh, gồm: Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên,
Quảng Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình và hai thành phố lớn trực
thuộc Trung ương là Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng. Diện tích toàn vùng
đồng bằng bắc bộ là: 23.336 km2 chiếm gần 7,1% diện tích của cả nước. Riêng chín
tỉnh đồng bằng sông Hồng có diện tích 16.207,43km2, chiếm gần 69,4% diện tích
toàn vùng và chiếm hơn 4,9% diện tích cả nước. Dân số chín tỉnh đồng bằng sông
Hồng là 9.765.445 người chiếm 22,7% dân số cả nước (Phụ lục số 1). Các tỉnh
đồng bằng sông Hồng có vị trí địa - kinh tế và địa - chính trị hết sức quan trọng đối
với chiến lược phát triển của đất nước; nơi đây có nguồn tài nguyên khá đa dạng,
khí hậu thuận lợi, kết cấu hạ tầng phát triển, hội tụ đầy đủ điều kiện cho phát triển
kinh tế, văn hoá - xã hội trong vùng.
Các tỉnh ĐBSH có địa hình đa dạng và phong phú, bao gồm đồng bằng, đồi
núi, rừng và biển xen kẽ nhau; là nơi hội tụ và giao thoa giữa vùng Đông Bắc với
vùng Tây Bắc, giữa vùng núi phía Bắc với miền Trung; có hệ thống sông ngòi đa
dạng chảy từ Tây Bắc xuống Đông Nam ra vịnh Bắc Bộ. Một đặc điểm độc đáo về
tự nhiên của các tỉnh ĐBSH là hầu hết các tỉnh (ngoại trừ hai tỉnh Thái Bình và
Hưng Yên) đều có đồi núi xen kẽ châu thổ, thung lũng và đầm lầy. Đặc điểm địa
hình tự nhiên này đã tạo điều kiện thuận lợi để con người khai phá và kiến tạo nên
những giá trị văn hoá - xã hội đặc sắc phục vụ nhân sinh.
18
19
Vùng ĐBSH có khí hậu nhiệt đới, cận nhiệt đới, nhiệt độ không khí trung
Các tỉnh đồng bằng sông Hồng được thừa hưởng một vùng đất mầu mỡ, do
bình năm khoảng 22,5 - 23,5°C, lượng mưa trung bình năm 1400-2000 mm, phù
hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình chảy theo hướng Tây Bắc - Đông nam ra
hợp với việc canh tác lúa nước và các cây công nghiệp ngắn ngày khác như lạc, đậu
vịnh Bắc Bộ bồi đắp mà thành, nơi đây cây trái tốt tươi, sản vật dồi dào, cư dân
tương, ngô… làm cho cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở vùng này khá phong phú, đa
đông đúc, thuần hậu mà can trường. Với một vùng châu thổ phì nhiêu xen lẫn núi
dạng và chất lượng tốt. Bên cạnh đó, các tỉnh ĐBSH có mạng lưới sông ngòi dày
sông hùng vĩ, nơi đây chẳng những lợi về kinh tế, mà còn dễ cho phòng thủ, thuận
đặc, đến mức không có làng quê nào không có một con sông chảy qua; sông ngòi
để tấn công, nên từ mấy ngàn năm trước, cha ông ta đã chọn vùng đất này để định
nhiều, nhưng chế độ thuỷ văn tương đối ổn định nên thuận lợi cho tưới tiêu và nuôi
đô dựng nghiệp. Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, các tỉnh đồng bằng sông Hồng
trồng thuỷ sản.
tiếp tục được hưởng những lợi thế lớn của vùng kinh tế động lực về mọi mặt. Hơn
Đất sản xuất nông nghiệp của các tỉnh ĐBSH là nguồn tài nguyên quý giá
nữa, do được bao quanh Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng, những trung tâm
được bồi đắp bởi phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Đất đai của
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, nên nơi đây rất có điều kiện để phát
các tỉnh rất thuận lợi cho thâm canh lúa nước, trồng rau, màu và cây công nghiệp
triển, gìn giữ, bảo tồn và quảng bá các giá trị văn hoá - xã hội giàu bản sắc của dân
ngắn ngày. Theo số liệu điều tra năm 2012, diện tích đất sản xuất nông nghiệp của
tộc Việt Nam ra cộng đồng quốc tế.
chín tỉnh ĐBSH là 11.280,69 km2, chiếm gần 69,5% diện tích đất của các tỉnh (Phụ
Tuy nhiên, bên cạnh những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn
lục 6). Quátrình mở rộng diện tích đất nông nghiệp gắn liền với quá trình chinh
hoá - xã hội của các tỉnh ĐBSH nói trên, địa lý tự nhiên nơi đây cũng tạo ra không
phục biển thông qua sự bồi tụ của hệ thống sông và quai đê, lấn biển của nhân dân
ít những khó khăn cho sự phát triển của vùng như: hệ thống sông ngòi chằng chịt,
trong vùng.
đồng bằng xen lần đồi, núi, vùng trũng và đầm lầy đã tạo ra sự chia cắt về địa hình,
Bên cạnh tài nguyên đất nông nghiệp và nước để trồng cấy cây lương thực
gây khó khăn cho sản xuất hàng hóa nông nghiệp trên quy mô lớn. Do nằm trong
và nuôi trồng thuỷ sản, trong lòng đất của các tỉnh nơi đây cũng chứa đựng những
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nên các tỉnh ĐBSH thường xuyên chịu tác động
tài nguyên phong phú thuận lợi cho phát triển kinh tế như đất sét đen và đất sét
lớn của bão, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân
trắng phục vụ công nghiệp sành, sứ; than nâu với trữ lượng lớn chưa được khai
dân địa phương. Theo dự báo quốc tế, các tỉnh ven biển thuộc ĐBSH Việt Nam là
thác. Trên mặt đất có trữ lượng đá vôi lớn (ước tính chiếm gần 5% trữ lượng đá vôi
một trong những vùng chịu ảnh hưởng lớn của nước biển dâng do biến đổi khí hậu
cả nước) trải dài trên nhiều tỉnh: Quảng Ninh, Hải Dương, Hà Nam, Ninh Bình rất
toàn cầu gây nên. Hiện tại, về mùa khô, đất sản xuất của các tỉnh ven biển vẫn bị
thuận lợi cho phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng.
tình trạng xâm nhập mặn đe doạ thường xuyên.
Các tỉnh ĐBSH có bờ biển kéo dài từ Móng Cái, Quảng Ninh đến Kim Sơn,
Vị trí địa lý và môi trường tự nhiên cũng có những tác động tiêu cực không
Ninh Bình, với bờ biển thoải, rộng, giàu phù sa nên rất thuận lợi cho nuôi trồng,
nhỏ đối với sự phát triển văn hoá - xã hội nơi đây. Bão lốc, lũ lụt, ẩm thấp là những
đánh bắt và chế biến thuỷ, hải sản. Bờ biển trong vùng còn có tài nguyên vô giá
yếu tố phá hoại rất nghiêm trọng đối với các công trình văn hoá vật thể trên địa bàn;
khác là cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, tạo nên những danh thắng nổi tiếng như Hạ
người ta tính rằng những công trình kiến trúc bằng gỗ nhóm 1, trong điều kiện
Long, Cát Bà, Quan Lạn, Cô Tô, Đồ Sơn... rất thuận lợi cho phát triển ngành du
không bị con người và bão, lũ lụt, động đất phá hoại, cứ sau một trăm năm phải
lịch. Không chỉ vậy, bờ biển trong vùng còn có các cảng biển nước sâu và cảng
trùng tu lớn và rất khó giữ những công trình đó với độ bền năm trăm năm. Sự giao
sông an toàn, thuận lợi cho giao thông thuỷ như: Cái Lân, Quảng Ninh; Lạch huyện,
thoa văn hoá giữa các tỉnh đồng bằng sông Hồng (khu vực được xem là “cái nôi”
Hải Phòng; Xuân Trường, Nam Định.
văn hoá dân tộc) với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, với Hà Nội, Hải Phòng
20
21
và quốc tế rất mạnh nên việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là việc hết sức khó
sản xuất ngành công nghiệp và xây dựng tăng đều qua các năm, trọng điểm là công
khăn. Các tệ nạn xã hội và văn hoá xấu độc vốn phát triển mạnh ở các thành phố
nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất vật liệu
lớn như Hà Nội, Hải Phòng đã lan nhanh đến các tỉnh lân cận trong vùng.
xây dựng và công nghiệp cơ khí. Sản phẩm công nghiệp quan trọng của vùng là
* Về kinh tế
máy công cụ, động cơ điện, phương tiện giao thông, thiết bị điện tử, hàng dệt kim,
Về kinh tế, các tỉnh ĐBSH là một vùng kinh tế động lực quan trọng của cả
giấy viết, vật liệu xây dựng... Công nghiệp phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho
nước, có đủ các thế mạnh để phát triển cơ cấu ngành kinh tế hợp lý: nông nghiệp;
các ngành dịch vụ phục vụ phát triển nhanh như: tài chính, ngân hàng, thương mại
công nghiệp và xây dựng; du lịch và dịch vụ. Nhìn chung nền kinh tế các tỉnh trong
phục vụ các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu đô thị, góp phần quan trọng vào
vùng đang được chuyển dịch mạnh từ sản xuất nông nghiệp phục vụ nhu cầu tiêu
việc phát triển kinh tế - xã hội trong vùng.
dùng lương thực của địa phương sang sản xuất hành hoá nông nghiệp phục vụ thị
Trong phát triển ngành du lịch và dịch vụ, với những tiềm năng to lớn về
trường trong nước và khu vực; giảm dần tỷ trọng giá trị nông nghiệp, tăng dần tỷ
cảnh quan thiên nhiên, về các di tích lịch sử, văn hoá của dân tộc, hơn nữa lại bao
trọng giá trị công nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong cơ cấu thu nhập của các tỉnh.
quanh Thủ đô Hà Nội và thành phố cảng Hải phòng nên các tỉnh ĐBSH có thể hình
Đi liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, là quá trình chuyển dịch cơ
thành các tuyến du lịch liên vùng. Các hoạt động tài chính, ngân hàng, xuất nhập
cấu lao động xã hội, từ lao động làm nông nghiệp là chủ yếu sang lao động làm
khẩu, du lịch, thông tin, tư vấn, chuyển giao công nghệ của các tỉnh ĐBSH có ảnh
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Những biến đổi lớn trong lĩnh vực kinh tế đã dẫn
hưởng lan tỏa trên phạm vi cả nước, nhất là với các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Các
tới những biến đổi mạnh mẽ về mặt văn hoá - xã hội ở các làng quê trong vùng.
Trong phát triển kinh tế nông nghiệp, các tỉnh ĐBSH có diện tích và tổng sản
lượng lương thực chỉ đứng sau vùng Đồng bằng sông Cửu Long, song là các tỉnh có
trình độ thâm canh và năng suất lao động nông nghiệp thuộc loại cao so với cả
nước. Hầu hết các tỉnh ở vùng này, ngoài trồng lúa đều gieo trồng một số cây ưa
lạnh đem lại hiệu quả kinh tế cao như cây ngô đông, khoai tây, su hào, bắp cải, cà
chua và trồng hoa xen canh. Hiện nay, vụ đông đã trở thành vụ chính của một số địa
phương trong vùng. Với những kinh nghiệm của nhân dân về trồng trọt, chăn nuôi,
nhất là trồng lúa và các chính sách khuyến nông của Đảng và Nhà nước là nhân tố
quyết định giải quyết thành công vấn đề lương thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân
trong vùng và phục vụ xuất khẩu. Trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp của vùng, diện
tích trồng cây lương thực luôn giữ địa vị hàng đầu, chiếm khoảng 57.500 ha. Sản
lượng lương thực đạt gần 20% trong tổng sản lượng lương thực toàn quốc. Tuy vậy,
ngành kinh tế công nghiệp và xây dựng, nông nghiệp, du lịch và dịch vụ trong vùng
phát triển mạnh làm cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn các tỉnh ĐBSH diễn ra nhanh chóng hơn các tỉnh khác trong cả nước. Cơ sở hạ
tầng thiết yếu bảo đảm cuộc sống người dân như: mạng lưới điện phục vụ sinh hoạt
và công nghiệp, hệ thống giao thông quốc gia và đường giao thông nông thôn, hệ
thống trường học các cấp, trạm y tế từ nông thôn đến thành thị được xây dựng khá
hoàn thiện và đồng bộ. Quá trình đô thị hoá đã làm cho khoảng cách phát triển về
mọi mặt giữa nông thôn và thành thị trong vùng được rút ngắn đáng kể.
Kinh tế trong vùng phát triển đã giúp các tỉnh ĐBSH giải quyết nhiều vấn đề
văn hoá - xã hội phức tạp như: người lao động có việc làm và thu nhập ổn định, góp
phần đẩy lùi các loại tệ nạn; giáo dục đào tạo và dạy nghề phát triển giúp người lao
động có việc làm tốt; sự hưởng thụ và sáng tạo văn hoá của nhân dân không ngừng
do dân số tăng nhanh và mật độ dân số lớn nên việc đảm bảo an ninh lương thực
nảy nở, phát triển, đời sống tâm linh của quần chúng nhân dân càng hướng về cội
cho con người và cho các nhu cầu kinh tế khác (phục vụ chăn nuôi, công nghiệp chế
nguồn, tổ tiên và các bậc thánh nhân có công dựng nước, giữ nước. Lời ca, điệu
biến v.v…) chưa thật sự vững chắc.
nhạc và các áng văn chương ca ngợi cuộc sống tươi đẹp vang vọng khắp mọi chốn
Trong phát triển công nghiệp và xây dựng, các tỉnh ĐBSH đã có những bước
thôn quê và thị thành...Tuy nhiên, sự phát triển nói trên cũng đang đặt ra nhiều
phát triển sớm và tăng mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Giá trị
thách thức đối với năng lực lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội của đội ngũ cán bộ các
22
23
tỉnh ĐBSH, nhất là lãnh đạo bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường văn hóa - xã
các công cụ sản xuất; trong các sản phẩm lao động và hàng hoá; trong phương thức
hội; lãnh đạo phòng, chống các tệ nạn văn hoá - xã hội, giữ vững an ninh, trật tự và
sản xuất; trong các thể chế chính trị, xã hội; trong phong tục tập quán và quan hệ
an toàn xã hội. Sự chuyển đổi mô hình kinh tế, quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế
giao tiếp giữa người với người; trong trình độ học vấn, khoa học kỹ thuật và công
về nhiều mặt đã tạo nên sự đứt gãy các giá trị văn hoá: giữa truyền thống và hiện
nghệ; trong sáng tạo và thưởng thức văn học, nghệ thuật. Có thể nói văn hóa là
đại, giữa giữ gìn bản sắc và hội nhập. Quan niệm về các chuẩn giá trị trong xã hội
"thiên nhiên thứ hai" do con người tạo ra để phục vụ nhu cầu tồn tại và phát triển
cũng có nhiều thay đổi, cùng với những thay đổi trong đời sống kinh tế.
của chính con người.
2.1.2. Văn hoá - xã hội và những đặc điểm văn hóa - xã hội các tỉnh đồng
bằng sông Hồng hiện nay
2.1.2.1. Khái niệm văn hoá - xã hội
Nhìn một cách khái quát, văn hóa là khái niệm chỉ thuộc tính sáng tạo của
con người trong quá trình cải tạo tự nhiên để sáng tạo ra "thiên nhiên" thứ hai cho
mình, nhờ đó con người vươn tới các giá trị nhân văn cao đẹp. Văn hoá là dấu hiệu
* Khái niệm văn hoá
để phân biệt loài người với loài vật, cá nhân này với cá nhân khác, cộng đồng này
Định nghĩa về văn hoá, Từ điển bách khoa Việt Nam cho rằng: “Văn hoá là
với cộng đồng khác. Đồng thời đây cũng là khái niệm để chỉ chất lượng và trình độ
toàn bộ những hoạt động sáng tạo và những giá trị của nhân dân một nước, một dân
cuộc sống của con người. Tuỳ theo các hướng và mục đích tiếp cận khác nhau,
tộc về mặt sản xuất vật chất và tinh thần trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước”
người ta đưa ra những định nghĩa khác nhau về văn hoá và diễn giải nhận thức về
[102, tr.798]. Theo Hồ Chí Minh:
văn hoá vô cùng đa dạng, phong phú như chính sự phong phú phức tạp của văn hoá,
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
tuy vậy, nguồn gốc và bản chất của văn hoá luôn là thống nhất.
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
Bản chất của văn hóa chính là lao động sáng tạo nhằm cải tạo thế giới khách
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
quan để hướng tới các giá trị nhân văn, hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Thông
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
qua lao động sáng tạo mà loài người đã tạo nên những thành tựu vật chất và tinh
minh đó tức là văn hóa. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức
thần đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của loài người. Trong tác phẩm “Tác dụng của
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người”, Ph.Ăngghen nhận xét:
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sinh tồn [46, tr.431].
Các nhà kinh tế chính trị khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi
Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO, ông Mayor (F.Mayor) đưa ra một khái
của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cái
niệm về văn hoá vừa có tính khái quát, vừa có tính đặc thù: "Văn hoá bao gồm tất
cung cấp những vật liệu cho lao động biến thành của cải. Nhưng lao
cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi
động còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế. Lao động là điều kiện cơ
hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động” [102,
bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người và như thế đến một mức mà
tr.798]. Khái niệm này được cộng đồng quốc tế công nhận tại Hội nghị liên chính
trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản
phủ về các chính sách văn hoá tại Vơnidơ (Venníe, 1970). Như vậy, văn hóa bao
thân con người [45, tr.641].
gồm các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm mục đích phục
Người còn cho rằng:
vụ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng loài người. Văn hoá biểu hiện trong lý
Bàn tay không chỉ là những khí quan của lao động, mà còn là sản phẩm của
tưởng sống, trong thế giới quan và nhân sinh quan, trong tổ chức cuộc sống, trong
lao động nữa. Chỉ nhờ có lao động, nhờ thích ứng được với những động tác
lao động và đấu tranh của con người. Văn hoá thể hiện sống động và cụ thể trong
ngày càng mới, nhờ sự di truyền của sự phát triển đặc biệt đã đạt được bằng
24
25
cách đó của các cơ, của các gân và sau những khoảng thời gian dài hơn, của
là sản phẩm hoạt động sáng tạo của con người trong xã hội, những sản phẩm văn
cả xương nữa và cuối cùng, nhờ luôn luôn áp dụng lại sự tinh luyện thừa
hoá, đến lượt nó cấu thành xã hội có văn hoá. Trong mối quan hệ với chính trị,
hưởng được đó vào những động tác mới, ngày càng phức tạp hơn, mà bàn
chừng nào xã hội còn giai cấp và đấu tranh giai cấp, thì văn hoá trong xã hội có giai
tay con người mới đạt được trình độ hoàn thiện rất cao khiến nó có thể, như
cấp cũng có tính giai cấp. Văn hoá của giai cấp thống trị (thuộc về một hình thái
một sức mạnh thần kỳ, sáng tạo ra các bức tranh của Raphaen, các pho
kinh tế xã hội nào đó), sẽ là văn hoá đặc trưng cho xã hội đó. Những giá trị văn hoá
tượng của Tovanxen và các nhạc điệu của Paganini [45, tr.643].
chính thống do giai cấp thống trị bảo vệ và phát triển, sẽ thực hiện những chức năng
Sự phát triển của lao động đòi hỏi phải gia tăng các mối quan hệ giao tiếp
vốn có của nó để làm nên tính chất, đặc trưng, diện mạo và bản sắc của nền văn
trong xã hội. Nhu cầu giao tiếp xã hội đòi hỏi con người "phải nói với nhau một cái
hoá. Khi bàn về xây dựng nền văn hoá dân tộc Việt Nam trong tương lai, Hồ Chí
gì đấy" và luyện tập cách phát âm ra những âm vận nối tiếp nhau. Đó chính là
Minh chủ trương thực hiện:
nguồn gốc của ngôn ngữ. Theo Ph.Ăngghen: "Trước hết là lao động, sau lao động
Năm điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc.
là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn,
1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập, tự cường.
làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người" [45, tr.646]. Ông
2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
so sánh phương thức kiếm sống của loài vượn với lao động xã hội của loài người:
3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân
"Đàn vượn chỉ biết ăn hết sạch lương thực sẵn có trong khu vực mà điều kiện địa lý
dân trong xã hội.
hoặc là sự kháng cự của đàn vượn bên cạnh đã hạn định cho chúng" [45, tr.647].
4- Xây dựng chính trị: dân quyền
Điều đó có nghĩa là loài vượn không tự tạo ra thức ăn (như chăn nuôi hay trồng trọt)
5- Xây dựng kinh tế [46, tr.431].
mà chỉ ăn những thức ăn sẵn có trong tự nhiên. Từ đó Ph.Ăngghen rút ra nhận định
Nền văn hoá đó, theo tư tưởng của Người, văn hoá phải soi đường cho quốc
quan trọng: "Nhưng tất cả những cái đó vẫn chưa phải là lao động, theo đúng nghĩa
dân đi, văn hoá có liên hệ rất mật thiết với chính trị, phải làm cho văn hoá thấm sâu
của nó. Lao động bắt đầu với việc chế tạo ra công cụ" [45, tr.648].
Như vậy, lao động của con ngời là lao động sáng tạo. Nhờ có sự sáng tạo mà
con người mới tạo ra cái mới trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của con người. Tuy nhiên không phải sự sáng tạo cũng đều
là sản phẩm văn hóa. Chỉ có sự sáng tạo vươn tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp, vươn
tới các giá trị nhân văn thúc đẩy sự tiến bộ xã hội mới trở thành văn hóa. Còn những
sáng tạo chống lại con người, huỷ diệt con người, làm tha hóa nhân cách, đạo đức
và lối sống của con người là những sáng tạo phản văn hóa. Phát hiện ra năng lượng
hạt nhân là thành tựu khoa học công nghệ vĩ đại của nhân loại, là văn hoá; nhưng
ứng dụng năng lượng hạt nhân để chế tạo ra bom hạt nhân huỷ diệt con người là
phản văn hoá, phản phát triển, là tội ác ghê tởm phải bị cấm vĩnh viễn.
Văn hoá có mối quan hệ sâu rộng đối với tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội
như: chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tôn giáo, dân tộc…Văn hoá
vào mọi tầng lớp nhân dân, trở thành cội nguồn sức mạnh của quốc dân, văn hoá
phải trở thành bảo vật để giữ nước và dựng nước; văn hoá còn, thì nước còn, văn
hoá mất thì nước mất.
Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998), Đảng
ta chủ trương xây dựng một nền văn hoá bao gồm toàn bộ các hoạt động tinh thần
của xã hội, từ tư tưởng, đạo đức, lối sống tới văn học, nghệ thuật; thông tin đại
chúng; giáo dục - đào tạo; khoa học - công nghệ; bảo tồn di sản văn hóa; phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số; xây dựng môi trường văn hóa; chính sách văn hoá đối
với tôn giáo; mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá; xây dựng và hoàn thiện thể chế
văn hoá [13, tr.58-68]. Đây là những lĩnh vực góp phần tạo nên nền tảng tinh thần
xã hội, là động lực phát triển bền vững đất nước.
26
27
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII,
nhiên. Học thuyết Mác - Lênin coi xã hội không phải là tổng số các cá nhân mà là
Tại Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát
toàn bộ các quan hệ xã hội giữa các cá nhân tạo nên cộng đồng xã hội. Xã hội, vì
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
vậy, bao gồm tất cả các hoạt động của con người, của xã hội loài người trong kinh
(6-2014), sau khi đánh giá những thành tựu và hạn chế của sự nghiệp xây dựng và
tế, trong chính trị, trong văn hóa và trong tư tưởng. Đây là khái niệm chỉ cái chung,
phát triển văn hoá, con người Việt Nam những năm đã qua, Đảng ta chỉ rõ mục tiêu
cái tổng thể, bao quát và xuyên suốt tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người. Xã
xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam hiện nay là:
hội hiểu theo nghĩa rộng sẽ bao hàm trong đó cả những vật thể tự nhiên đã được con
Xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
người cải tạo, biến đổi. Đất đai, sông ngòi, rừng biển vốn là vật thể tự nhiên được
hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn dân
con người tác động cải tạo, khai thác sử dụng, chiếm hữu đã trở thành một phần
chủ và khoa học. Văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
không thể thiếu của xã hội loài người.
của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền
Xã hội hiểu theo nghĩa hẹp là là khái niệm chỉ một loại hệ thống xã hội cụ
vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
thể nào đó trong lịch sử, một hình thức nhất định của các quan hệ xã hội, là một xã
dân chủ, công bằng, văn minh [22, tr.46-47].
hội ở vào trình độ phát triển nhất định trong lịch sử, như xã hội nô lệ, xã hội phong
Về nhiệm vụ phát triển văn hoá, con người Việt Nam hiện nay, Đảng ta xác
định sáu nội dung sau đây: 1) Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện;
kiến, xã hội tư bản, xã hội xã hội chủ nghĩa. Hiểu theo nghĩa này, xã hội đồng nhất
với khái niệm hình thái kinh tế xã hội (HTKTXH) [102, tr.964].
2) Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh; 3) xây dựng văn hoá trong chính trị và
Quan niệm về xã hội theo nghĩa hình thái kinh tế xã hội thể hiện rõ trong
kinh tế; 4) Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hoá; 5) phát triển công
đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
nghiệp văn hoá đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hoá; 6) Chủ động hội
trong đó xác định:
nhập quốc tế về văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại [22, tr.49-57].
* Khái niệm xã hội
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ; có
Định nghĩa về xã hội có nhiều cách diễn giải khác nhau, song xã hội hiểu
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
theo nghĩa chung nhất và rộng nhất là “toàn bộ các hình thức hoạt động chung của
sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người đã hình thành trong lịch sử” [102, tr.965]. Người ta thường dùng khái
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
niệm xã hội để chỉ một tập đoàn người, cấu thành bởi những cá nhân với các mối
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
quan hệ lẫn nhau hết sức phức tạp, biểu hiện ra như một hiện thực tồn tại của những
trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
thành viên của nó. Xã hội cũng được hiểu là một môi trường hoạt động của con
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
người mà những cá nhân hoà nhập vào đó, môi trường ấy gồm toàn bộ các lực
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới [21, tr.70].
lượng có tổ chức, các thiết chế tổ chức vận hành theo những nguyên tắc nào đó, vẫn
* Khái niệm văn hoá - xã hội
hàng ngày tác động lên mỗi cá nhân. Hiểu theo nghĩa như vậy, khái niệm xã hội đối
Khái niệm văn hoá và xã hội như đã trình bày là những khái niệm có nội
lập lập với khái niệm cá nhân; cũng như khái niệm sống trong xã hội đối lập với
hàm phong phú, có tính độc lập với nhau. Tuy vậy, trên thực tế văn hoá và xã hội là
khái niệm sống đơn độc.
những khái niệm chỉ có tính độc lập tương đối; những vấn đề văn hoá và xã hội gắn
Nói một cách khác, xã hội theo nghĩa rộng là khái niệm chỉ tất cả những gì
bó hết sức chặt chẽ với nhau, là nhân quả của nhau. Con người chỉ có thể sáng tạo
liên quan đến con người, đến xã hội loài người, nhằm phân biệt nó với thế giới tự
các giá trị văn hoá trong xã hội, các giá trị văn hoá trở thành một bộ phận tất yếu
28
29
cấu thành xã hội, trở thành thước đo sự phát triển của xã hội. Ở chiều ngược lại, con
2.1.2.2. Đặc điểm văn hoá - xã hội các tỉnh đồng bằng sông Hồng
người sở dĩ là người bởi họ kết thành xã hội, xã hội nâng đỡ và nuôi dưỡng sự sáng
Nhân dân ở các tỉnh ĐBSH giàu truyền thống yêu nước, mưu trí, dũng cảm
tạo văn hoá của con người. Những vấn đề văn hoá và xã hội luôn gắn bó chặt chẽ
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai, địch hoạ, đồng thời cũng rất
với nhau, có quan hệ nhân quả và tuỳ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, khi diễn đạt những
cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất xây dựng quê hương, đất nước hoà bình.
vấn đề văn hoá và xã hội người ta dùng gạch nối giữa hai khái niệm này (văn hoá -
Với truyền thống bất khuất đó, trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc (sau Công
xã hội) để diễn đạt một nội dung xã hội phong phú hơn, đó là một xã hội cụ thể, đặc
nguyên), nhân dân Việt Nam nói chung, nhân dân các tỉnh ĐBSH nói riêng, luôn
thù có sự thống nhất và không thể tách rời lẫn nhau giữa hai mặt văn hoá và xã hội.
vùng lên đấu tranh giành độc lập, không cam chịu để các thế lực phong kiến
Bản chất của một chế độ xã hội được thể hiện trên mặt văn hoá - xã hội của nó.
Phương Bắc thực hiện âm mưu thôn tính, đồng hoá và biến nước ta thành quận,
Không thể nói một chế độ xã hội tốt đẹp, nếu xã hội đó đầy rẫy bất công, bạo lực,
huyện của chúng. Với chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938,
mất dân chủ và văn hoá suy đồi. Từ những diễn giải nói trên về văn hoá, xã hội và
quân dân ta đã chấm dứt ách đô hộ một ngàn năm của các thế lực phong kiến
mối quan hệ giữa chúng, khái niệm văn hoá - xã hội nêu trong luận án được hiểu:
Phương Bắc, đưa nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập. Kể từ đó về sau, nhân dân
Là thuật ngữ phản ánh xã hội Viêtn Nam thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, trong đó các tầng lớp nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đang không
ngừng lao động sáng tạo, thụ hưởng, bảo tồn và tái tạo những giá trị văn hoá làm
nên diện mạo của xã hội ViêtNam hiện đại; đồng thời, bằng những hoạt động sống
thiết yếu của con người có văn hóa, nhân dân ta đang nỗ lực bảo đảm cho xã hội
phát triển ổn định, nâng đỡ, khuyến khích các sáng tạo văn hóa nhiều hơn nữa. Văn
hoá - xã hội mà luận án đề cập là văn hoá - xã hội ở nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thuộc Hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa, ở vào giai đoạn đầu của
thời kỳ quá độ, với những nội hàm lớn như đã dẫn ở trên. Tuy nhiên, đi vào cụ thể,
nội dung khái niệm đó bao gồm: hoạt động sáng tạo các giá trị văn hoá của các tầng
lớp nhân dân trong lao động sản xuất; trong sinh hoạt cộng đồng; trong đấu tranh
chống thiên tai, địch hoạ; trong hoạt động chính trị - xã hội; trong đời sống tâm
linh… Cùng với quá trình lao động sáng tạo, bảo tồn và phát triển các giá trị văn
hoá, các tầng lớp nhân dân cũng không ngừng chăm lo, gìn giữ những điều kiện bảo
đảm cho đời sống của mình diễn ra bình yên, hạnh phúc, đó là các hoạt động: duy
trì nòi giống, xây dựng gia đình và nuôi dạy con cái; xoá đói, giảm nghèo và khắc
phục những bất bình đẳng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ sức khoẻ cộng
đồng; chống mất an toàn nhân mạng trong lao động, trong giao thông, trong sinh
hoạt… Tất cả những hoạt động đó của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, cấu thành nội hàm của khái niệm văn hoá - xã hội.
Việt Nam còn phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và chiến tranh
giải phóng đất nước khỏi hoạ ngoại xâm của phong kiến Phương Bắc, nhưng đó là
thời kỳ đấu tranh nhân dân ta đã có nhà nước phong kiến tập quyền, bảo vệ độc lập,
chủ quyền của quốc gia, dân tộc.
Bước vào thời kỳ lịch sử cận đại và hiện đại, Việt Nam nói chung, trước hết
là vùng ĐBSH nói riêng, lại hứng chịu âm mưu thôn tính của chủ nghĩa thực dân,
đế quốc Phương Tây. Các giáo sĩ Phương tây đi tiên phong mở mang “nước chúa”
của họ vào Việt Nam, điểm đặt chân đầu tiên là các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Đi
theo sau các giáo sĩ là những tên đế quốc thực dân nhòm ngó lãnh thổ, toan tính âm
mưu xâm lược, biến nước ta thành thuộc địa của chúng. Những diễn biến lịch sử
diễn ra trên đất nước ta trong suốt thế kỷ XIX, đến nửa sau của thế kỷ XX đã minh
chứng rất rõ những mưu toan nói trên của chủ nghĩa đế quốc thực dân cũ và mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 là một đòi hỏi tất yếu của lịch sử
Việt Nam hiện đại, đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam khỏi ách áp bức, xâm
lược của chủ nghĩa thực dân - phong kiến cũ và mới. Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khơi dậy, tiếp nối và phát huy mạnh mẽ truyền thống yêu nước chống giặc ngoại
xâm của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập tự do và thống nhất tổ quốc, đưa cả nước đi lên
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những bản hùng ca bất tử về chiến tranh chống
30
31
ngoại xâm của quân, dân Việt Nam trong suốt thiên niên kỷ thứ hai, chủ yếu diễn ra
miền và cả nước; có tính dân chủ và tính tự chủ” [27, tr.77-90]. Bản sắc văn hoá
ở khu vực ĐBSH. Đặc điểm lịch sử nổi bật đó của các tỉnh ĐBSH chi phối mạnh
làng xã Việt Nam là yếu tố cơ bản của bản sắc văn hoá Việt Nam mà cội rễ là văn
mẽ những đặc điểm văn hoá - xã hội của vùng đất này.
hoá làng xã vùng ĐBSH. Vì vậy có thể nói, cái nôi văn hoá làng xã Việt Nam từ
Các tỉnh ĐBSH được xem là “cái nôi văn hoá” của dân tộc Việt Nam từ ngàn
ngàn xưa đến nay chính là khu vực ĐBSH.
xưa. Trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại và phát triển của vùng đất này, đời sống văn
Làng là không gian sống của người nông dân (chủ nhân chính của các làng)
hoá - xã hội của nhân dân được nuôi dưỡng và phát triển bởi hai dòng chảy chủ đạo
từ lúc chào đời cho đến khi đi vào cõi vĩnh hằng. Đã là người dân của làng, thì dù
của lịch sử Việt Nam, đó là lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, chống thiên tai, địch
sống ở làng, hay sống nơi phố thị, những hình ảnh thân thuộc về làng như: cổng
hoạ và lịch sử xây dựng quê hương đất nước hoà bình, khẩn hoang, mở mang bờ cõi.
chùa, ngôi đình, cây đa, bến nước, dòng sông và luỹ tre xanh luôn in đậm trong tâm
Thực tiễn lịch sử xã hội nói trên đã chi phối, tác động và để lại trong đời sống văn
trí mỗi người dân vùng này. Bởi thế, những dịp lễ hội quan trọng nhất trong năm
hoá - xã hội hiện tại của nhân dân các tỉnh ĐBSH một số đặc điểm chủ yếu sau:
như: Tết Nguyên đán, Tết độc lập (Quốc khánh 2-9) và tiệc làng, người dân vùng
Một là, nhân dân các tỉnh ĐBSH có đời sống tinh thần gắn bó sâu nặng với
văn hoá làng, xã.
này không quên về với làng của mình.
Làng được xem là một không gian văn hoá - xã hội ở nông thôn các tỉnh
Trong đời sống xã hội Việt Nam cổ truyền, làng có vị trí quan trọng đặc biệt:
ĐBSH, trong mỗi làng, người dân có nghĩa vụ đóng góp xây dựng và được hưởng
làng là đơn vị cơ bản hình thành nên quốc gia dân tộc. Nước (quốc gia) chỉ là tổng
chung các thiết chế văn hoá làng như: chùa làng, đình làng, đền và miếu thờ thần,
số, là kết quả của sự liên kết các làng xã. Làng “Là một đơn vị xã hội của văn hoá
hương ước, lệ làng... Chùa làng là nơi người dân trong làng lên chùa lễ phật những
Việt Nam, làng của người Việt là một môi trường văn hoá. Ở đó, mọi thành tố, mọi
ngày mồng một và ngày rằm hàng tháng, nhằm thoả mãn những nhu cầu tâm linh
hiện tượng văn hoá được sinh thành phát triển, lưu giữ và trao truyền tới mọi cá thể”
mà không nhất thiết phải là phật tử. Đình làng vừa để dân làng thờ vọng các vị thần,
[113, tr.47]. Làng xã có vai trò gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc. Các
vừa làm công sở của chính quyền phong kiến xưa, đồng thời là nơi sinh hoạt văn
nhà khoa học, văn hoá học và xã hội học đều thống nhất nhận định: làng, xã ở Việt
hoá cộng đồng: hội họp, tổ chức các lễ hội truyền thống, biểu diễn văn nghệ và vui
Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước, bảo vệ sự
chơi giải trí hàng ngày của nhân dân. Trong sách Việt Nam phong tục, nhà văn hoá
trường tồn của dân tộc Việt trước âm mưu thôn tính, đồng hoá của các thế lực ngoại
Phan Kế Bính cho rằng:
xâm. Còn làng thì còn nước, khi mất nước, nhưng vẫn giữ được làng thì sẽ còn cơ
Mỗi làng phụng thờ một vị Thành hoàng, có làng thờ hai, ba vị, có làng
hội để để giành lại nước. Cái hồn của làng Việt Nam là văn hoá làng xã, tiêu biểu là
thờ năm, bảy vị, tức gọi là Phúc thần, Phúc thần chia làm ba hạng: 1)
văn hoá làng xã vùng ĐBSH. Các nhà khoa học cho rằng: “Văn hoá làng có thể
Thượng đẳng thần; 2) Trung đẳng thần; 3) Hạ đẳng thần. Thượng đẳng
hiểu một cách khái quát nhất là bản sắc riêng của làng, là toàn bộ cuộc sống của
thần là những thần Danh sơn Đại xuyên và các bậc thiên thần như Đổng
làng, với những đặc điểm mang tính truyền thống từ ăn, ở, đi lại, mọi hoạt động,
Thiên Vương, Sóc Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh... các vị ấy
cách tổ chức, những quy ước, lối ứng xử, những phong tục tập quán, tôn giáo, tín
có sự tích linh dị mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, nên gọi là Thiên
ngưỡng cho đến cả tâm lý của mọi thành viên trong làng với những đặc điểm riêng
thần. Hai là các vị Nhân thần như là Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,
của nó” [27, tr.75]. Trên cơ sở quan niệm như vậy, các nhà khoa học cũng chỉ ra ba
v.v... Các vị này khi sinh tiền có đại công lao với dân, với nước lúc mất
đặc trưng quan trọng của văn hoá làng xã vùng ĐBSH là: “văn hoá vùng nông
đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ, hoặc bởi lòng
nghiệp trồng lúa nước; có tính cố kết cộng đồng từ trong gia đình, làng xã đến vùng,
dân nhớ công đức mà thờ.
32
33
Trung đẳng thần là những vị thần dân làng thờ đã lâu, có họ tên mà
trọng sự học và tôn vinh những người có khoa bảng, thực tài. Ở nhiều làng quê các
không rõ công trạng, hoặc có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc những
tỉnh ĐBSH, có những dòng họ đời nối đời sinh ra những người tài danh, đỗ đạt,
thần có chút linh dị... thì triều đình cũng liệt vào tự điển mà phong làm
cống hiến lớn cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nhân dân thường ghi nhớ
Trung đẳng thần. Hạ đẳng thần là những thần dân xã thờ phụng mà
công đức của các vị khoa bảng bằng việc lập đình, đền, miếu thờ. Ví dụ: làng Quan
không rõ sự tích làm sao, nhưng cũng thuộc bậc chính thần thì triều đình
Tử, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc lập đền thờ Đỗ Khắc Chung, một nhà giáo đã
cũng theo lòng dân mà phong cho làm Hạ đẳng thần [10, tr.85-86].
từng dạy học cho các Hoàng tử và nhiều thế hệ con em dân làng thành đạt.
Làng thờ thần phải có đình và miếu. Miếu là nơi thần ngự hàng ngày, đặt ở
Ở Làng Vũ Thành, xã Thái Hưng, huyện Thái Thuỵ tỉnh Thái Bình có đình
nơi yên tĩnh, linh thiêng; đình là nơi dân thờ vọng các vị thần, thường được đặt ở
Đoài thờ Thành hoàng làng là ông Bùi Công Đán. Thần phả chép, ông đỗ tiến sĩ
trung tâm của làng để tiện cho sinh hoạt. Đến ngày tiệc của làng, dân làng rước các
thời vua Huệ Tông nhà Lý, từng làm đến chức tham tri bộ lễ đời nhà Trần. Ông có
linh vị thần từ miếu ra đình, hết tiệc, rước ngược lại. Hầu hết các đình, miếu ở các
công lớn với làng, nước nên được vua ban cho dân làng lập đình thờ để ghi nhớ
tỉnh ĐBSH đều thờ Phúc thần.
công đức. Làng Bảo Tháp, xã Đông Cừu, huyện Gia Bình, tỉnh Băc Ninh lập đền
Mỗi làng thường có cổng làng, sau cổng làng là một không gian văn hoá
thờ Lê Văn Thịnh, quan Trạng thời Lý (1050). Ông là một nhà khoa bảng nổi
trọn vẹn, ở đó chứa đựng những giá trị văn hoá hết sức sâu sắc của người Việt từ
tiếng trong lịch sử Việt Nam, có tài năng lớn, được triều đình Nhà Lý thăng tới
bao đời nay. Ngày nay, do quy mô dân số tăng cao, các xóm trong làng xưa kia
chức Thái sư.
được nâng lên thành thôn, mỗi thôn có trưởng thôn, chi đoàn thanh niên cộng sản
Trong các họ tộc, gia phả và nhà thờ họ luôn dành những nơi trang trọng
Hồ Chí Minh, chi hội phụ nữ, chi hội cựu chiến binh, chi hội Mặt trận tổ quốc
nhất để vinh danh tài năng, công đức của những người có học thức, khoa bảng
Việt Nam thôn... đóng vai trò cánh tay nối dài của chính quyền, Mặt trận tổ quốc
nhằm nêu gương cho con cháu noi theo. Những dòng họ chưa có điều kiện xây nhà
và các đoàn thể chính trị xã hội xã, thị trấn; nhưng làng thì không thể phân chia
thờ họ, thì việc thờ cúng tổ tiên đặt tại nhà trưởng họ, song xu hướng chung là xây
được, bởi dân của một làng có chung chùa thờ phật, miếu, đình thờ thánh đã đi
nhà thờ họ để tiện việc thờ phụng, cất giữ tộc phả và tiến hành các nghi lễ quan
vào tâm thức người dân. Muốn lập làng mới, được nhân dân thừa nhận thì không
trọng của họ. Ngày nay, ở nhiều họ tộc, nhà thờ họ được chọn làm nơi tổ chức hội
thể thiếu không gian văn hoá làng. Tuy nhiên, hiện tại đã có nhiều đơn vị dân cư
nghị khuyến học, khuyến tài; nơi tôn vinh những người trong họ có học vấn, tài
phát triển thành quy mô các làng, ở đó có các nhà văn hoá thôn, nhưng nhà văn
năng đóng góp cho quê hương, đất nước. Có thể nói, hầu hết các dòng họ lớn thuộc
hoá thôn vẫn chưa khoả lấp được sự trống vắng của không gian văn hoá làng
các tỉnh ĐBSH hiện nay đều có nhà thờ của dòng họ mình.
mang tính bản sắc ở các tỉnh ĐBSH.
Hai là, nhân dân các tỉnh ĐBSH có truyền thống hiếu học, tôn vinh những
người có học thức, khoa bảng và tài năng cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Ba là, các thiết chế văn hoá ở các tỉnh ĐBSH có sự bảo tồn, phát triển và
thích ứng nhanh với yêu cầu phát triển hiện đại.
Là vùng đất giàu truyền thống văn hoá, các tỉnh ĐBSH đã sớm có chủ
trương bảo tồn và phát triển các thiết chế văn hoá cho phù hợp với yêu cầu của thời
Trong xã hội hiện đại, việc học tập cho mỗi người dân là công việc không
kỳ mới. Các công trình văn hoá tiêu biểu ở khắp các làng quê như đền, miếu, đình,
chỉ của người dân mà còn là công việc của Nhà nước và toàn xã hội. Học tập đã trở
chùa, nhà thờ họ, văn bia, phả hệ, sắc phong của các đời vua cho các vị thánh,
thành một quyền, một nghĩa vụ, một nhu cầu bức thiết của mỗi người dân để phát
thần... được chính quyền địa phương tạo điều kiện để nhân dân khôi phục, tôn tạo,
triển xã hội. Đối với nhân dân các tỉnh ĐBSH, từ bao đời nay, người dân luôn coi
giữ gìn. Mặt khác, không ít các làng quê khôi phục lại và bổ sung, phát triển các
34
35
hương ước của làng cho phù hợp với luật pháp và nếp sống hiện đại. Nhiều lễ hội
Thiên chúa giáo du nhập vào nước ta theo bước chân của các giáo sĩ Phương
truyền thống có ý nghĩa văn hoá - lịch sử được phục hồi, tạo điều kiện phát triển
Tây từ thế kỷ XVI, “cứ trong quốc sử chép thì đời Nguyên Hoà, nguyên niên nhà
đúng hướng như: lễ hội đền Kiếp Bạc (Hải Dương), lễ hội chùa Yên Tử (Quảng
Lê (1523), người nước Hà Lan tên là I Nê Khu, mới bắt đầu đến các địa phương
Ninh), lễ hội đền Tây Thiên (Vĩnh Phúc), lễ tịch điển (Nam Định), hội Lim (Bắc
Nam Chân, Giao Thuỷ (thuộc tỉnh Nam Định) giảng đạo thiên chúa” [10, tr.85-86].
Ninh), lễ hội Phủ Dầy (Nam Định)... Những giá trị văn hoá phi vật thể như: ca,
Kể từ đó, các tỉnh Nam Định, Ninh Bình đã tiếp cận đạo Thiên chúa và sớm trở
múa, nhạc dân tộc được sưu tầm, phục dựng, khuyến khích phát triển. Có những
thành trung tâm của đạo này ở Việt Nam.
dân ca và điệu múa được công nhận ở tầm quốc tế như: dân ca Quan họ ở Bắc Ninh,
Việc theo hay không theo một tôn giáo nào đó trong các tầng lớp nhân dân
hát múa cửa đình (hát trống quân) ở Vĩnh Phúc, Ca trù, hát Xẩm ở Nam Định, Ninh
các tỉnh ĐBSH là hoà đồng, không có kỳ thị, xung đột. Ở các tỉnh có đông đồng bào
Bình... Cùng với việc phục dựng, bảo tồn vốn văn hoá cổ để lại, hiện tại các tỉnh
theo đạo thiên chúa giáo như Nam Định, Ninh Bình, có những làng tôn giáo toàn
ĐBSH đã đầu tư xây dựng mạng lưới các nhà văn hoá, thư viện ở cơ sở; các bảo
tòng, nhưng cũng có không ít các làng người theo đạo Thiên chúa giáo và người
tàng, nhà truyền thống, nhà hát, rạp chiếu phim ở các trung tâm thị trấn, thị xã,
không theo đạo sống xen lẫn nhau. Người theo đạo Thiên chúa giáo phải tuân theo
thành phố trực thuộc tỉnh. Tương xứng với những vốn văn hoá cổ được bảo tồn và
giáo lý, giáo luật chặt chẽ; song với phật giáo, ngoài những tăng ni tu hành ở chùa,
những cơ sở văn hoá mới được xây dựng, chính quyền địa phương các cấp cũng
người theo hay không theo phật giáo không có ranh giới rõ ràng. Là người dân, ai
chú trọng đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ, nhân viên vận hành các thiết chế văn
cũng có thể lên chùa lễ phật như một nét văn hoá tâm linh, mà không nhất thiết phải
hoá đó một cách hiệu quả. Có thể nói, quá trình bảo tồn và phát triển các giá trị văn
là phật tử hiểu giáo lý, giáo luật nhà phật. Đối với các tôn giáo khác, việc người dân
hoá vật thể và phi vật thể ở các tỉnh ĐBSH là nhanh chóng, mau lẹ, phù hợp với yêu
theo một tôn giáo nào đó (trong số những tôn giáo được Nhà nước công nhận) là tự
cầu sáng tạo và thụ hưởng văn hoá của các tầng lớp nhân dân.
nguyện và việc riêng của họ, những người không theo tôn giáo đều tôn trọng và ủng
Bốn là, sự du nhập và phát triển tôn giáo trong các cộng đồng dân cư hoà
đồng, ít xảy ra xung đột.
Các tỉnh ĐBSH là nơi sớm du nhập và trở thành trung tâm của hai tôn giáo
lớn nhất Việt Nam là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Theo lịch sử phật giáo Việt
Nam, trong các năm từ 168 - 189 (sau Công nguyên), Khâu Đà La đến giảng đạo ở
Luy Lâu (thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay), là trị sở của quận
hộ. Tuy nhiên, cũng có những thời kỳ lịch sử, do các thế lực phản động thực hiện
âm mưu gây chia rẽ giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo để phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nên ở thời kỳ đó đã có những căng thẳng nhất
định trong các cộng đồng dân cư.
Năm là, các tỉnh ĐBSH là một trong những địa phương có nhiều lễ hội dân
gian và lễ hội truyền thống nhất cả nước.
Giao Chỉ lúc bấy giờ. “Chùa Dâu nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu,
Ngoài những ngày lễ mà nhân dân cả nước tổ chức kỷ niệm trọng thể như:
được xây dựng từ năm 187 đến năm 226 thì hoàn thành. Đây là ngôi chùa lâu đời
ngày Giỗ tổ 10-3 âm lịch, ngày Quốc khánh 2-9, ngày Quốc tế lao động 1- 5, nhân
nhất, gắn với lịch sử Phật giáo Việt Nam” [37, tr.364]. Từ thế kỷ X, XI, XII, Phật
dân các tỉnh ĐBSH còn có nhiều lễ hội mang tầm cỡ khu vực và lễ hội của các làng.
giáo được các triều Đinh, tiền Lê, Lý, Trần coi là quốc đạo, giới tăng, lữ Phật giáo
Những lễ hội lớn mang tầm cỡ khu vực với sự tham gia của người dân nhiều tỉnh
được trọng vọng. Vua Trần Nhân Tông (thế kỷ XIII) còn sớm xuất gia tu hành để
như: Lễ hội đền Kiếp Bạc; lễ hội đền Tây Thiên; lễ hội đền Phủ Giầy; lễ hội đền Bà
sáng tạo một dòng phật giáo mới của người Việt, Phật giáo Trúc lâm Yên tử. Có thể
chúa kho; lễ hội Lim; lễ hội Yên Tử; lễ hội chùa Bái Đính; lễ phát Ấn đền Trần...
thấy, Bắc Ninh và các tỉnh thuộc ĐBSH, từ rất sớm trong lịch sử nước ta, đã du
Ngoài những lễ hội lớn đó, hầu hết các làng quê trong vùng đều tổ chức lễ hội trong
nhập và trở thành trung tâm phật giáo Việt Nam.
ngày tiệc làng.
36
Ngày tiệc làng thường là ngày giỗ của các vị Phúc thần có công với nước,
hoặc có công khai mở đất đai, nghề nghiệp cho dân, được dân làng tôn là Thành
37
29,5% lao động xã hội, chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được cải thiện, tạo
điều kiện thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
hoàng, thờ tại miếu và đình làng. Tiệc làng diễn ra hàng năm, có kèm theo lễ và
Mặc dù trong những năm qua, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên trong vùng giảm
hội. Hội làng được tổ chức thường niên, hoặc sau một số năm, tuỳ tình hình kinh
mạnh nhưng mật độ dân số vẫn cao nhất nước, với 934 người/km2, gấp 3,7 lần so
tế - xã hội địa phương mà dân làng quyết định. Trong hội làng có lễ rước Thành
với cả nước, gấp 2,14 lần so với vùng đồng bằng sông Cửu Long, gấp 8 lần so với
hoàng và tổ chức các trò vui dân gian liên quan đến sự tích về Thành hoàng. Ngày
miền núi và trung du phía Bắc và gấp hơn 10 lần so với Tây Nguyên [98, tr.9-12].
nay, một số nơi còn tổ chức hoạt động văn nghệ, thể thao trong ngày hội làng cho
Dân số đông, diện tích đất canh tác bình quân đầu người rất thấp (chưa đạt 450
thêm phần sinh động. Tiệc làng là ngày vui lớn, con trai, con gái của làng sinh
m2/người) lại đang có xu hướng bị thu hẹp… là sức ép đối với sự lãnh đạo của cấp
sống ở xa quê vẫn nhớ và thu xếp công việc về dự. Có những làng quy định, ngày
uỷ các cấp. Bên cạnh đó, tập quán, cách làm ăn cũ vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi, làm
tiệc làng, con gái đi lấy chồng thiên hạ phải có lễ về trình Thành hoàng làng để tỏ
cho kinh tế thị trường ở những nơi đó chưa phát triển mạnh. Mặc dù tỷ lệ hộ nghèo
lòng tri ân với quê hương.
đã giảm nhiều so với trước nhưng khoảng cách giàu, nghèo giữa các gia đình nông
Tiệc làng có thể rơi vào bất kỳ ngày nào trong năm, song thường được tổ
dân, giữa cư dân thành thị và nông thôn có xu hướng ngày càng doãng ra. Một bộ
chức nhiều vào mùa xuân và mùa thu. Mùa xuân, từ sau Tết Nguyên đán đến hết
phận dân cư thuộc vùng sâu, miền núi, hải đảo, dân tộc ít người còn gặp khó khăn
tháng ba âm lịch; mùa thu, từ đầu tháng tám đến hết tháng chín âm lịch. Đây là
về đời sống vật chất và tinh thần. Đây thực sự là thách thức không nhỏ đối với cấp
khoảng thời gian người làm nghề nông khá rảnh rỗi công việc ngoài đồng ruộng nên
uỷ, chính quyền địa phương trong việc lãnh đạo phát triển văn hoá - xã hội, xây
thuận lợi cho mở tiệc. Lễ hội làng có vai trò gắn kết và củng cố mối quan hệ giữa
dựng nông thôn mới, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
các thành viên trong cộng đồng làng, xã; góp phần giáo dục lòng biết ơn của thế hệ
Bảy là, trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước
hôm nay đối với các thế hệ đã qua, tôn vinh và ghi nhớ công đức của những người
ta hiện nay, đời sống văn hoá - xã hội của nhân dân các tỉnh ĐBSH có sự thay đổi
có công với nước, với làng để con cháu noi theo.
nhanh chóng, hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới.
Sáu là, nhân dân các tỉnh ĐBSH có trình độ giáo dục, đào tạo phát triển;
nguồn nhân lực dồi dào, phong phú.
Nằm ở vùng kinh tế động lực của đất nước, các tỉnh ĐBSH đang diễn ra quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhanh và mạnh so với các tỉnh khác trong
Hiếu học là nét truyền thống văn hoá nổi bật của nhân dân các tỉnh ĐBSH.
cả nước. Tiến trình CNH, HĐH đang làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trọng người có học, đề cao học vấn, khuyến khích con cháu học tập, noi theo
các tỉnh ĐBSH theo hướng giảm tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động ngành kinh
những người có khoa bảng cao đã thành một truyền thống tốt đẹp ở mọi làng quê
tế nông nghiệp; tăng dần tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động của ngành kinh tế
nơi đây. Truyền thống hiếu học đó, ngày nay, đã và đang thúc đẩy hàng triệu học
công nghiệp, xây dựng, dịch vụ; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; quy
sinh, sinh viên thi đua học tập đạt thành tích cao để lập thân, lập nghiệp xây dựng và
hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2012
dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng văn minh,
cho thấy, nhân dân các tỉnh ĐBSH có trình độ dân trí khá cao so với các tỉnh khác
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn. Tiến
trong cả nước, nơi đây tập trung rất nhiều trường đại học, cao đẳng, dạy nghề và các
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở các tỉnh ĐBSH đang làm thay đổi sâu
cơ sở nghiên cứu khoa học. Lực lượng cán bộ có trình độ đại học và trên đại học ở
sắc bộ mặt nông thôn và đời sống văn hoá - xã hội của nhân dân trong vùng trên các
các tình này chiếm tới 72,4% so với cả nước; lao động đã qua đào tạo chiếm tới
phương diện:
38
Trước hết, về mặt kinh tế - xã hội, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn
các tỉnh ĐBSH đang được quy hoạch xây dựng nông thôn mới, bộ mặt nông thôn
39
lệch chuẩn giá trị trong nhận thức, thị hiếu và suy nghĩ của một bộ phận thanh niên
hiện nay có nguyên nhân từ những đứt gãy văn hoá nói trên.
thay đổi sâu sắc theo hướng chuyển nhanh sang nông thôn đô thị. Qúa trình đô thị
Sự phát triển kinh tế không phải lúc nào cũng tỷ lệ thuận với phát triển văn
hoá nông thôn làm cho nhiều làng quê yên bình, khép kín sau luỹ tre xanh của
hoá - xã hội. Thực tế phát triển kinh tế ở các tỉnh ĐBSH những năm vừa qua cho
những năm tám mươi, thế kỷ XX trở về trước không còn nữa; thay vào đó là các
thấy, có những vấn đề thuần tuý kinh tế - xã hội như tranh chấp đất đai và ô nhiễm
phố trong làng, phố chợ và các tụ điểm dân cư tập trung bên cạnh các khu công
môi trường ở nông thôn, việc làm và an sinh xã hội ở thành phố, song do quản lý
nghiệp, cụm công nghiệp, cơ sở giáo dục và cơ quan hành chính. Cùng với tiến
chưa tốt đã đẩy thành điểm nóng mang tính chính trị. Mặt khác, quá trình đô thị hoá
trình đô thị hoá nông thôn, cư dân nông thôn làm nghề nông giảm đi nhanh chóng,
khá nhanh làm cho cuộc sống của người dân các tỉnh ĐBSH tiếp cận gần hơn với
nhiều người dân làm nghề nông đã chuyển sang làm công nhân trong các khu công
thành phố, nhưng văn hoá đô thị lại chưa thể một sớm, một chiều hình thành. Làng
nghiệp và cụm công nghiệp, làm dịch vụ và chế biến tiểu, thủ công nghiệp. Những
phát triển dần thành phố làng, đất đai thu hẹp, toàn bộ hoạt động sản xuất và tiêu
người gắn bó với nghề nông thì chuyển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa thay
dùng diễn ra trong phố làng, nạn ô nhiễm môi trường ngày càng lớn và khó giải
thế cho sản xuất tự cung, tự cấp. Trình độ sản xuất và năng lực quản lý của một số
hộ nông dân được nâng lên rõ rệt. Do tiếp cận với nền kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế, nhiều hộ nông dân đã vươn lên sản xuất hàng hóa, làm giàu chính
đáng. Đời sống đại bộ phận nông dân được cải thiện cả về vật chất và tinh thần, một
số hộ trở nên khá giả và giàu có. Cùng với tiến trình này, một hiện tượng đáng chú
ý khác của nông thôn các tỉnh ĐBSH là tình trạng di dân tạm thời của một bộ phận
nông dân từ nông thôn ra thành thị ngày một gia tăng. Những lúc nông nhàn, họ
thường ra thành phố kiếm việc làm tăng thu nhập, đến mùa gieo trồng và thu hoạch
mùa màng, họ lại trở về làm nông nghiệp; thông qua bộ phận dân cư này, xã hội
thực hiện phân công lao động tự nhiên giữa nông thôn và thành thị, giữa nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
quyết. Lối sống xả thải tự nhiên của người dân sống trong ngôi làng xưa vẫn giữ
nguyên trong thời kỳ phố làng, thành ra con người trở nên ích kỷ, nhà dân nào cũng
chỉ lo giữ sạch cho riêng mình, chất thải đẩy ra môi trường để xã hội lo.
Sự hội nhập sâu rộng về kinh tế, văn hoá - xã hội của nhân dân các tỉnh
ĐBSH với các địa phương trong cả nước và với thế giới đã thúc đẩy khu vực này
phát triển toàn diện. Có thể nói trình độ phát triển văn hoá - xã hội tính theo các tiêu
chí về phổ cập giáo dục, về tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề, về chỉ số phát
triển con người, về tỷ lệ mức sinh thô, chết thô, tỷ lệ người mắc các bệnh xã hội
không cách biệt nhiều giữa Thủ đô Hà Nội và các tỉnh ĐBSH. Mức sống của các
tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt; số người sống phụ thuộc trong một gia đình ít
hơn số lao động của hộ. Tuy nhiên, tháp dân số đang thay đổi theo hướng không
như mong muốn, dân số nông thôn đang “già hoá”, “phụ nữ hóa”; mô hình gia đình
Thứ hai, sự thay đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế dẫn đến những biến đổi to
ba, bốn thế hệ đang giảm nhanh, mô hình gia đình hai thế hệ tăng cao, khả năng trao
lớn về văn hoá và xã hội. Việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá, tôn trọng quy luật giá trị,
truyền các giá trị văn hoá truyền thống giữa thế hệ những người lớn tuổi với con trẻ
đề cao lợi ích cá nhân và sức mạnh đồng tiền, bên cạnh mặt tích cực về phát triển
bị hạn chế nhiều.
kinh tế, nó cũng đang làm suy giảm nhanh những giá trị văn hoá làng xã truyền
Tám là, trong quá trình bảo tồn và trao truyền các gía trị văn hoá - xã hội
thống nơi đây. Song, vấn đề là ở chỗ những giá trị văn hoá truyền thống bị xem nhẹ,
truyền thống, nhân dân các tỉnh ĐBSH còn khá bảo thủ trong việc giữ gìn những
những giá trị văn hoá mới lại chưa định hình rõ và chưa đủ khả năng dẫn dắt cộng
phong tục, tập quán không còn phù hợp với điều kiện sống mới.
đồng phát triển. Tình hình trên gây gây nên hiện tượng “đứt gãy văn hoá” trong xã
Văn hoá làng xã, bên cạnh những mặt tích cực to lớn, được xem như “hằng
hội, tác động trước hết và chủ yếu vào tầng lớp thanh niên mới lớn. Phải chăng sự
số văn hoá Việt Nam” nói trên, nó cũng có những mặt tác động tiêu cực không nhỏ
40
41
vào đời sống văn hoá - xã hội hiện nay. Trước hết, nói về xây dựng môi trường văn
văn hoá của vấn đề lại là tư tưởng trọng nam, khinh nữ chưa được khắc phục trong
hoá lành mạnh, giàu bản sắc, việc tổ chức lễ hội truyền thống là cần thiết và phát
số đông người dân nơi đây.
huy trong điều kiện hiện đại để giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam, hướng lòng dân
Kinh tế thị trường, định hướng XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng khó
biết ơn các thế hệ đi trước đã hy sinh xương máu để gìn giữ đất nước tươi đẹp như
tránh khỏi phân hoá giàu nghèo và phân tầng xã hội. Song, thay vì chấp nhận phân
hôm nay. Tuy nhiên, khi lễ hội mở, không ít người dân đến với lễ hội chủ yếu để
tầng hợp thức như một tất yếu của quá trình phát triển để vươn lên, thì một bộ phận
cầu phúc, cầu lộc, cầu tài theo lối mê tín, dị đoan; việc hiểu biết và tri ân thánh nhân
người dân quay ra đổ lỗi chính sách thiếu công bằng, căm ghét hoặc sợ hãi thái quá
trong lễ hội bị xem nhẹ. Một số lễ hội không còn phù hợp với điều kiện sống mới,
người giàu có, tự làm mất đi tính tự chủ bản thân. Thói ích kỷ, đố kị, hẹp hòi, tư hữu
song dân làng vẫn cố duy trì như lễ chém lợn ghê sợ ở Bắc Ninh. Việc cưới, việc
và hám lợi có cơ hội trỗi dậy làm xói mòn tính tương thân, tương ái vốn là nét đẹp
tang là những việc lớn của mỗi gia đình và cộng đồng, cần được coi trọng và tổ
trong văn hoá làng truyền thống Việt Nam.
chức chu đáo; tuy vậy, ở nhiều làng quê các tỉnh ĐBSH còn quá cầu kỳ, hoài cổ, tốn
kém và gây ảnh hưởng môi trường. Lo hậu sự cho người thân, với quan niệm “trần
sao, âm vậy”, hầu hết những người dân (không theo đạo Thiên chúa giáo) đều thực
hiện chôn cất và cải táng; sau cải táng đua nhau xây cất mồ mả to đẹp vừa gây lãng
phí đất công, tiền của vừa gây ô nhiễm môi trường.
2.1.3. Phát triển văn hóa - xã hội của các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng
hiện nay - khái niệm, nội dung
2.1.3.1. Một số khái niệm chủ yếu liên quan đến phát triển văn hóa - xã
hội hiện nay
* Khái niệm phát triển
Tính cộng đồng, truyền thống “lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách
Phát triển là một phạm trù triết học chỉ tính chất của những biến đổi đang
nhiều” là hết sức nhân văn, tốt đẹp, tuy nhiên truyền thống ấy có phần phát triển
diễn ra trong thế giới. Phát triển là một thuộc tính phổ biến của vật chất. Phát triển
lệch lạc khi nó đề cao thái quá tính cộng đồng, quan hệ dòng tộc, lễ nghi, địa vị xã
là một trong những nguyên lý phổ biến của thế giới khách quan. Mọi sự vật và hiện
hội; xem nhẹ trí tuệ, tài năng cá nhân, bằng lòng với suy nghĩ “khôn độc không
tượng trên thế giới không tồn tại ở trạng thái bất biến, mà không ngừng vận động,
bằng ngốc đàn” và không muốn ai hơn mình. Hương ước, gia phong, tục lệ đẹp
biến đổi trải qua các trạng thái: xuất hiện (sinh), hình thành đầy đủ (thành), biến đổi
phù hợp với quy định của pháp luật nhà nước rất cần được khuyến khích phát
(dị) và diệt vong (diệt). Phạm trù phát triển phản ánh tính chất chung ấy của những
triển; tuy nhiên tập quán, lối sống, thói quen, nếp nghĩ: “phép vua thua lệ làng”
biến đổi trong thế giới hiện thực. Nhưng sự vận động, biến đổi diễn ra trong thế giới
không dễ xoá bỏ trong tâm thức người dân. Sức mạnh cộng đồng không gắn với
hiện thực theo chiều hướng nào? Chúng có lặp lại nguyên vẹn những trạng thái đã
yêu cầu sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật có nguy cơ xâm hại kỷ cương
trải qua để trở lại điểm xuất phát? Phạm trù phát triển chỉ ra rằng:
phép nước khôn lường; việc cộng đồng bao che lẫn nhau làm việc sai như: buôn
Bất kỳ một sự vật, một hiện tượng, một hệ thống nào, cũng như cả thế
lậu, trốn thuế, làm hàng giả không khó tìm ví dụ ở các làng quê ĐBSH hiện nay.
giới nói chung không đơn giản chỉ có biến đổi, mà luôn chuyển sang
Tư tưởng trọng nam, khinh nữ “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” vốn không bắt
những trạng thái mới, tức là những trạng thái trước đây chưa từng có và
nguồn từ văn hoá Việt Nam, nhưng do ảnh hưởng lâu dài của Nho giáo đã thấm
không bao giờ lặp lại hoàn toàn chính xác những trạng thái đã có, bởi vì
dần vào văn hoá Việt. Chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, chính sách xoá
trạng thái của bất kỳ sự vật hay hệ thống nào cũng đều được quyết định
đói, giảm nghèo, chính sách giáo dục và an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước gặp
không chỉ bởi các mối liên hệ bên trong mà còn bởi các mối liên hệ bên
rất nhiều khó khăn khi phải đối mặt với tàn dư tư tưởng lạc hậu này. Đông con đi
ngoài. Nguồn gốc của phát triển là sự thống nhất và đâu tranh của các
cùng với thất học, đói nghèo, bệnh tật là vấn đề xã hội ai cũng biết, nhưng gốc rễ
mặt đối lập. Phương thức phát triển là chuyển hoá những thay đổi về
42
43
lượng thành những thay đổi về chất, và ngược lại theo kiểu nhảy vọt.
không bị trói buộc vào một nghề, đó cũng là mục tiêu lâu dài trong phát triển kinh tế
Chiều hướng phát triển là sự vận động xoáy trôn ốc [101, tr.424].
- xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà toàn Đảng và toàn dân chúng ta
Phát triển là sự vận động, biến đổi của thế giới hiện thực tuân theo những
hướng tới là như vậy.
quy luật khách quan, làm cho các sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực không
Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ, để khắc phục thực trạng khác biệt nói trên,
ngừng biến đổi về lượng và chất, trên cơ sở kế thừa những thuộc tính ưu trội vốn có
nhân dân ta kiên định phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, tái
của các sự vật, hiện tượng đó.
cơ cấu nền kinh tế theo hướng tạo ra năng suất lao động cao, giá trị gia tăng lớn; tổ
* Khái niệm phát triển văn hoá - xã hội ở Việt Nam
chức lại lao động xã hội gắn với tổ chức lại đời sống văn hoá - xã hội. Con người là
Khái niệm “Phát triển văn hoá - xã hội” là khái niệm phổ biến của khoa học
chủ thể phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội của đất nước, tuy nhiên đối với mỗi con
chính trị, trong đó chứa đựng quan điểm, chủ trương, chính sách của các đảng cầm
người cụ thể không ai lựa chọn được hoàn cảnh mình sinh ra, thành thử, hoàn cảnh
quyền và các nhà nước hiện đại về những vấn đề văn hoá- xã hội. Phát triển văn hoá
kinh tế, văn hoá - xã hội đến lượt nó tác động trở lại và quy định sự phát triển của
- xã hội Việt Nam là thuật ngữ phản ánh quá trình biến đổi nền văn hoá - xã hội
mỗi cá nhân. Vì vậy, phát triển văn hoá - xã hội trong một nước, cũng như ở mỗi
nước ta thông qua sự gia tăng không ngừng khả năng bảo tồn, sáng tạo và thụ
vùng trong một nước, có vai trò tạo ra nền tảng tinh thần và động lực xã hội cho
hưởng những giá trị văn hoá - xã hội của các tầng lớp nhân dân, cũng như quá
mỗi con người phát triển. Quan niệm nói trên về phát triển văn hoá - xã hội thể hiện
trình đấu tranh ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực của những giá trị phản văn hoá - xã
những nội hàm chủ yếu sau đây:
hội (ngoại lai hoặc nội sinh) tác động vào đời sống văn hoá - xã hội của nhân dân,
Thứ nhất, chủ thể phát triển văn hoá - xã hội ở nước ta là nhân dân Việt
nhằm xây dựng con người mới và xã hội mới. Việt Nam là một nước đang phát
Nam, bao gồm tất cả các giai cấp và tầng lớp nhân dân, từ miền ngược đến miền
triển, xây dựng kinh tế được xem là nhiệm vụ trung tâm, phát triển văn hoá - xã hội
xuôi, từ đồng bằng, đô thị đến trung du và miền núi; bao gồm tất cả các dân tộc và
là nhiệm vụ xây dựng nền tảng tinh thần xã hội và động lực cho sự phát triển nói
tôn giáo, các cộng đồng dân cư trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, trong đó
chung. Nếu phát triển kinh tế ở nước ta là quá trình biến nền kinh tế chậm phát triển
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là nền
thoát khỏi ngèo nàn, lạc hậu, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng trưởng
tảng của xã hội. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa không nói tới vai trò phát
kinh tế bền vững gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, thì phát triển văn hoá - xã hội
triển văn hoá - xã hội của các cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và các cộng
ở nước ta có nội dung cốt lõi là phát triển con người xã hội chủ nghĩa có nhân cách
đồng người nước ngoài đang làm ăn và sinh sống ở Việt Nam.
toàn diện.
Thứ hai, đối tượng phát triển văn hoá - xã hội mà nhân dân ta đang sáng tạo
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhân cách con người
và thụ hưởng bao gồm: các giá trị văn hoá - xã hội vật thể và phi vật thể; các thiết
hình thành và phát triển trong điều kiện còn có sự phân công lao động hết sức sâu
chế văn hoá - xã hội; các cơ cấu văn hoá - xã hội; các thể chế văn hoá - xã hội; đời
sắc giữa lao động chân tay và lao động trí óc; giữa lao động thừa hành và lao động
sống văn hoá - xã hội đang diễn ra hàng ngày của các cộng đồng dân cư; cuộc đấu
quản lý, chỉ huy; còn có sự tách rời giữa trình độ sinh hoạt vật chất với sinh hoạt
tranh của nhân dân ta chống các tàn tích văn hoá - xã cũ, hội lạc hậu, cũng như đấu
tinh thần. Trong điều kiện đó, chúng ta không thể nôn nóng, mong muốn có ngay
tranh chống các giá trị phản văn hoá ngoại lai, nội sinh đang hàng ngày tác động
những con người có nhân cách toàn diện, ở một xã hội hoàn thiện, có nền văn hoá -
vào đời sống xã hội.
xã hội phát triển. Theo C.Mác (trong “Hệ tư tưởng Đức”), con người phát triển toàn
Thứ ba, mục tiêu của phát triển văn hoá - xã hội là trên cơ sở kế thừa những
diện là con người không bị lệ thuộc phiến diện vào phân công lao động xã hội,
giá trị văn hoá - xã hội truyền thống, bản sắc, không ngừng học hỏi các giá trị văn
44
45
hoá - xã hội tiến bộ của nhân loại để sáng tạo và thụ hưởng những giá trị văn hoá -
đoạn hiện nay gồm: một là, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; hai
xã hội mới, nhằm: “Xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn
là, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh; ba là, xây dựng văn hoá trong chính trị
diện, hướng đến chân, thiện, mỹ thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ
và kinh tế; bốn là, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hoá; năm là, phát
và khoa học” [22, tr.46-47] tương xứng với tầm vóc của đất nước trên con đường
triển công nghiệp văn hoá, đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hoá; sáu
phát triển.
là, chủ động hội nhập quốc tế về văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Thứ tư, nội dung phát triển văn hoá - xã hội ở nước ta rất rộng, gồm nhiều
Như vậy có thể thấy, để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hoá của đất
lĩnh vực, nhiều nhiệm vụ, liên quan đến nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Chỉ riêng
nước, trong quan niệm về “phát triển văn hoá” theo tinh thần của Đại hội XI, tuy
trong lĩnh vực phát triển văn hoá, tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
Đảng ta không đưa nội dung “phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học -
ương khoá VIII, Đảng ta chỉ rõ mười nội dung: một là, xây dựng con người Việt
công nghệ” vào mục VI của Văn kiện bàn về “chăm lo phát triển văn hoá” [21,
Nam thời kỳ mới với những đức tính tiêu biểu; hai là, xây dựng môi trường văn
tr.223], nhưng không có nghĩa là Đảng lãnh đạo chăm lo phát triển văn hoá không
hoá; ba là, phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bốn là, bảo tồn và phát huy các
có nội dung “phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ”. Bởi,
di sản văn hoá; năm là, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công
cũng ở Văn kiện này, khi trình bày Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
nghệ; sáu là, phát triển và quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; bảy là, bảo tồn
độ lên chủ nghĩa xã hội, ở mục III của Cương lĩnh, khi bàn “về văn hoá, xã hội” [21,
và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số; tám là, xây dựng chính sách văn hoá với
tr.104]. Đảng ta có đề cập nội dung phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học và công
tôn giáo; chín là, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá; mười là, xây dựng và hoàn
nghệ trong đó.
thiện thể chế văn hoá.
Trong lĩnh vực phát triển xã hội, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, trong Báo cáo chính trị trình Đại
XI xác định nội dung phát triển xã hội gồm: một là, tập trung giải quyết tốt chính
hội, Đảng ta trình bày quan điểm, nhiệm vụ về chăm lo, phát triển văn hoá với bốn
sách lao động, việc làm và thu nhập; hai là, bảo đảm an sinh xã hội; ba là, nâng cao
nội dung chủ yếu: một là, củng cố và tiếp tục xây dựng mội trường văn hoá lành
chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân và công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình,
mạnh, phong phú, đa dạng; hai là, phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật, bảo tồn,
bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; bốn là, đấu tranh phòng, chống có hiệu
phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền thống, cách mạng; ba là, phát triển hệ
quả tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông. Chúng tôi cho rằng quan niệm như vậy về
thống thông tin đại chúng; bốn là, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về
phát triển xã hội là thoả đáng, đã thể hiện được những nội dung quan trọng nhất của
văn hoá. Đáng chú ý là, đến Đại hội này, quan điểm về “chăm lo phát triển văn hoá”
lĩnh vực này.
Đảng ta không đưa vào đó nội dung: phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa
Khái quát lại, khi bàn về khái niệm phát triển văn hoá - xã hội ở nước ta hiện
học - công nghệ, như quan điểm của Hội lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
nay, trên cơ sở quan điểm của Đảng và quá trình nghiên cứu, tiếp thu ý kiến các nhà
khoá VIII (tháng 7 năm 1998).
khoa học đi trước về vấn đề này, chúng tôi xin trình bày tóm tắt những nội dung chủ
Tiếp đến Hội nghị lần thứ IX, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI, sau khi
yếu của khái niệm phát triển văn hoá - xã hội ở nước ta hiện nay gồm: một là, phát
tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về “xây dựng và
triển con người Việt Nam thời kỳ mới với những phẩm chất tiêu biểu về tư tưởng,
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Đảng ta ban
đạo đức, lối sống và khoẻ mạnh về thể chất; hai là, xây dựng môi trường văn hoá -
hành Nghị quyết “về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt nam đáp ứng
xã hội lành mạnh trên các lĩnh vực; ba là, phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật;
yêu cầu bền vững đất nước”, trong đó xác định 6 nội dung về phát triển văn hoá giai
bốn là, bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc (bao gồm bảo tồn di sản văn