Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bảo đảm NGUỒN NHÂN lực báo CHÍ NGÀNH THANH TRA ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.58 KB, 94 trang )

MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUỒN NHÂN LỰC BÁO
1.1.
1.2.
Chương 2
2.1.

2.2.
Chương 3

3.1.
3.2.

CHÍ NGÀNH THANH TRA Ở NƯỚC TA
Những vấn đề chung về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực
báo chí
Quan niệm, nội dung, nhân tố tác động đến bảo đảm nguồn
nhân lực báo chí ngành thanh tra
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM NGUỒN NHÂN LỰC BÁO
CHÍ NGÀNH THANH TRA Ở NƯỚC TA
Khái quát về tổ chức bộ máy, biên chế đội ngũ và tình hình
công chức, viên chức, lao động hợp đồng của cơ quan báo
chí ngành thanh tra
Thành tựu và hạn chế, nguyên nhân, vấn đề đặt ra về bảo
đảm nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NGUỒN
NHÂN LỰC BÁO CHÍ NGÀNH THANH TRA THỜI
GIAN TỚI
Quan điểm bảo đảm nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra
Giải pháp bảo đảm nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra
thời gian tới



KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
3
11
11
20
30

30
33

54
54
62
80
82
86


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, xét đến cùng yếu tố giữ vai trò chi phối, quyết định
sự vận động, phát triển của xã hội chính là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản
xuất bao gồm sức lao động và tư liệu sản xuất trong đó người lao động là yếu
tố quan trọng hàng đầu. Vai trò của NNL xuất phát từ vai trò quan trọng của
con người trong sự phát triển của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển của

kinh tế xã hội. Bởi vậy, Đảng ta chủ trương: “Xây dựng chiến lược phát triển
NNL cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng
bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại NNL” [18, tr.116].
Là một bộ phận trong hệ thống báo chí cả nước, báo chí ngành thanh tra
luôn luôn khẳng định là cơ quan ngôn luận, vũ khí sắc bén của Thanh tra
Chính phủ và ngành thanh tra thực hiện chức năng tuyên truyền đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trọng tâm là lĩnh
vực thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; xây
dựng lực lượng ngành; thông tin trung thực, khách quan, kịp thời về hoạt
động của ngành thanh tra theo quy định của pháp luật về báo chí và Thanh tra.
Thực hiện được điều đó, vai trò được kể đến đầu tiên là đội ngũ cán bộ công
chức, phóng viên cơ quan báo chí ngành thanh tra.
Do yêu cầu phát triển của ngành thanh tra, cơ quan báo chí ngành thanh
tra đang phải cơ cấu lại bộ máy cùng với hệ thống báo chí cả nước theo chủ
trương của Chính phủ. Chính vì thế, báo chí ngành thanh tra đang đứng trước
những yêu cầu mới bảo đảm NNL về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Về số
lượng, hiện còn đang thiếu các vị trí lãnh đạo các phòng của Báo và Tạp chí
thanh tra; về bố trí, sử dụng các viên chức ở các vị trí làm việc còn chưa phù
hợp dẫn đến chưa hợp lý về cơ cấu đội ngũ; về chất lượng cũng còn nhiều bất
cập như một số cán bộ có nghiệp vụ báo chí những lại chưa tinh thông pháp
luật và nghiệp vụ thanh tra, số khác có nghiệp vụ thanh tra lại chưa được đào
3


tạo cơ bản hoặc am hiểu chưa sâu về chuyên ngành báo chí; đồng thời, một bộ
phận viên chức trong cơ quan báo chí thanh tra còn hạn chế về năng lực, trình
độ, kỹ năng tiếp cận, xử lý và định hướng thông tin, thậm chí còn vi phạm đạo
đức nghề nghiệp. Những vấn đề trên đây đặt ra cấp thiết phải tăng cường bảo
đảm NNL cho báo chí ngành thanh tra đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong điều
kiện mới. Từ những lý do nêu trên, học viên lựa chọn vấn đề “Bảo đảm

nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn
thạc sĩ Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài này, có nhiều công trình khoa học nghiên cứu và
tiếp cận dưới các góc độ khác nhau:
Công trình “Đi vào thế kỷ XXI bảo đảm nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”(2003) KX - 05, ngày 11 tháng 3 của tác giả
Phạm Minh Hạc đã luận giải rất sâu sắc vai trò của nguồn nhân lực trong thế
kỉ XXI. Tác giả cho rằng, trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển
như vũ bão hiện nay thì nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực sẽ là
yếu tố quyết định đến sự thành công trong chiến lược phát triển của mỗi quốc
gia trong đó có Việt Nam. Song hiện nay nguồn nhân lực nước ta đang ở trình
độ của các nước đã phát triển cao trong thời kỳ cách mạnh công nghiệp lần
thứ nhất do vậy chưa đáp ứng được yêu cầu của thời đại công nghệ thông tin,
kinh tế tri thức hiện nay. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực để chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh
tế công nghiệp trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN. Chúng ta phải chuẩn bị một nguồn nhân lực chất lượng cao
hướng đến nền kinh tế tri thức. Do vậy, chăm lo, phát huy, bồi dưỡng nguồn
lực con người là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp giáo dục nước ta trong
những năm tới.
Công trình“Nguồn nhân lực Việt Nam: vấn đề đào tạo, thu hút và sử
4


dụng”(2003) của tác giả Nguyễn Văn Tài, Đại học KHXH&NV (Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) trong Hội thảo khoa học về Bảo đảm
nguồn nhân lực - KX - 05, 11 tháng 3, đã đi sâu phân tích vấn đề đào tạo
nguồn nhân lực, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - xã
hội trong bối cảnh nước ta gia nhập WTO [30]. Tác giả đã đặc biệt quan tâm

tới vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam để đủ sức cạnh tranh trên thị
trường sức lao động thế giới. Theo tác giả, đào tạo phải gắn với sử dụng và
tập trung vào những ngành, dịch vụ đang thiếu hụt nguồn nhân lực. Việc đào
tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển KTXH của Việt Nam không chỉ là biện pháp mang tính kỹ thuật mà
còn là nghệ thuật. Nó đòi hỏi phải hiểu biết thấu đáo về đặc điểm dân cư,
truyền thống dân tộc, những đặc điểm tâm lý con người, những ưu điểm và
nhược điểm của lực lượng lao động... để từ đó mới có thể đề ra những chính
sách, những giải pháp hợp lý phát huy nguồn nhân lực đạt hiệu quả cao nhất.
Cuốn sách“Phát triển văn hoá con người và nguồn nhân lực thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”(2007) do GS-VS Phạm Minh Hạc
(chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia là một công trình nghiên cứu sâu
sắc về con người trên những góc độ tiếp cận độc đáo [21]. Công trình đã phân
tích sự thống nhất biện chứng giữa văn hoá, con người và NNL. Theo đó, phát
triển văn hoá là cơ sở hình thành hệ giá trị nhân cách, đó cũng chính là cơ sở
phát triển nguồn nhân lực cả về trí lực, tâm lực và thể lực. Phát triển văn hoá,
con người và NNL phải đặt trong một tổng thể không tách rời nhau, chúng
gắn kết với nhau trong một thể thống nhất. Hệ thống giá trị vật chất và tinh
thần qua giáo dục trở lại với con người, được con người kế thừa và phát triển
trở thành sức mạnh ở con người trong lao động và trở thành nguồn vốn con
người. Nguồn lực con người tạo ra giá trị mới, đáp ứng nhu cầu phát triển của
từng người, nhóm người và cả xã hội. Công trình đã tập trung phân tích và
khẳng định: chất lượng NNL hay NNL chất lượng cao là NNL với những con
5


người lao động có tri thức tốt, có kĩ năng cao và có tính nhân văn.
Cuốn sách Giáo dục và bảo đảm nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI
(2010) của PGS.TS Trần Khánh Đức, Nxb Giáo dục Việt Nam, nghiên cứu về
vai trò đặc biệt của GDĐT trong phát triển con người nói chung và nguồn

nhân lực đất nước nói riêng [19]. Tác giả đã trình bày có hệ thống sâu sắc về
nhiều vấn đề trong đó có quá trình phát triển các chính sách quốc gia về giáo
dục và bảo đảm NNL. Tác giả đưa ra khái niệm và thuật ngữ cơ bản về NNL,
chất lượng NNL cùng những tiêu chí đánh giá chất lượng NNL các nước trên
thế giới. Công trình có hệ thống tiếp cận mới, hiện đại và độc đáo về NNL
của đất nước trong bối cảnh cách mạng KHCN. Đồng thời cũng đặt ra nhiều
vấn đề cần phải giải quyết trong việc xác định phải đổi mới, cải cách GDĐT
làm khâu đột phá để phát triển nâng cao chất lượng NNL đất nước.
Công trình “Thực trạng nguồn nhân lực, nhân tài của đất nước hiện
nay. Những vấn đề đặt ra – giải pháp” (2010) do Nguyễn Ngọc Phú chủ biên.
Đây là cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của nhiều nhà khoa học trong lĩnh
vực giáo dục học, luận giải sâu sắc nhiều vấn đề xung quanh lĩnh vực nhân
lực, nhân tài như phân tích, hệ thống các quan điểm lý luận, đặc trưng cơ bản,
những vấn đề thực tiễn, thực trạng và đề xuất các giải pháp đào tạo, phát huy
nguồn nhân lực, nhân tài của đất nước hiện nay. Tuy nhiên, đây là công trình
tiếp cận vấn đề nhân lực dưới góc độ khoa học giáo dục, do vậy, hệ thống
quan điểm, giải pháp đều được luận giải theo hướng phát huy vai trò của hệ
thống giáo dục quốc dân trong đào tạo và phát huy nhân lực, nhân tài đất
nước. Mặc dù không đề cập đến lĩnh vực nhân lực cụ thể như báo chí truyền
thông. Song đây là công trình cung cấp cho tác giả những luận cứ khoa học có
giá trị về nhân lực, nhân tài nói chung, làm cơ sở để luận giải những vấn đề cụ
thể trong phạm vi luận văn của mình.
Công trình “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH,HĐH và
hội nhập quốc tế” (2012) do PGS,TS Vũ Văn Phúc và TS Nguyễn Duy Hùng
6


đồng chủ biên. Cuốn sách là tập hợp nhiều bài tham luận khoa học có giá trị
về phát triển NNL trong tình hình hiện nay. Cuốn sách được chia làm 3 phần
gồm nội dung đề cập đến những vấn đề lý luận chung, cách tiếp cận nghiên

cứu; kinh nghiệm thực tiễn phát triển NNL và luận giải sâu sắc thực trạng,
giải pháp phát triển NNL cho sự nghiệp CNH,HĐH. Theo các tác giả để đẩy
mạnh CNH,HĐH và hội nhập quốc tế, Việt Nam cần lực lượng đông đảo
nhân lực có trình độ cao, có khả năng thích ứng và làm việc hiệu quả trong
môi trường công nghệ, cạnh tranh, đây là yếu tố then chốt để phát triển theo
hướng hiện đại, bền vững. Với nhiều bài viết phân tích sâu sắc về lý luận và
thực tiễn phát triển NNL, cuốn sách đã cung cấp nhiều thông tin khoa học có
giá trị về kinh nghiệm đào tạo, tuyển dụng, đãi ngộ và chính sách sử dụng
NNL bảo đảm về số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ cho sự nghiệp CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế nước ta hiện nay.
Trong lĩnh vực quản lý báo chí, Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí
đến năm 2025, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 10 khoá XI, Quy hoạch phát
triển nhân lực ngành Thông tin & Truyền thông giai đoạn 2011 – 2020...là
định hướng cơ bản và thiết thực để thông tin và truyền thông, báo chí nói
riêng tiếp tục phát triển phù hợp thực tế hiện nay của Việt Nam.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức nhiều hội thảo để xây dựng
Dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực báo chí, phát thanh truyền hình đến
năm 2020. Theo đó, trong quy hoạch nhân lực báo chí quan trọng là phải bảo
đảm được xu hướng phát triển của hệ thống báo chí. Đào tạo nhân lực báo chí
có sự khác biệt, không chỉ là chỉ đào tạo thuần túy chuyên môn về nghiệp vụ
báo chí mà báo chí phản ánh toàn diện mọi mặt đời sống nên kiến thức về
chuyên ngành là hết sức quan trọng. Nhân lực báo chí là nhân lực để tác
nghiệp, để hình thành những sản phẩm báo chí, tác phẩm báo chí chứ không
phải là người làm nghiên cứu nên phải có yếu tố, tố chất để đáp ứng được yêu
cầu này. Nhân lực báo chí còn là những người làm nhiệm vụ tuyên truyền tập
7


thể, cổ động tập thể, những nhà chính trị nên phải hội tụ đầy đủ các phẩm chất
về chính trị, trình độ, năng lực chuyên môn, đạo đức, thể lực. Tất cả những

cái đó cần phải tính toán trong bảo đảm nguồn nhân lực. Theo đó, quy hoạch
nhân lực báo chí cần phải tính tới cả xu hướng trong hội tụ thông tin, khi một
cơ quan báo chí có cả báo in, phát thanh truyền hình, báo điện tử sẽ có nhu
cầu nhân lực khác với bốn đơn vị báo chí riêng rẽ. Sự hội tụ đó không chỉ
diễn ra trong một tòa soạn, mà còn diễn ra trong một cá nhân nhà báo. Bất cập
ở các trường đào tạo nhân lực báo chí hiện nay là hầu hết giáo viên không
hoặc ít hành nghề báo trong thực tế. Đó chính là lý do sinh viên ra trường
không thể tác nghiệp được. Bởi vậy, những mâu thuẫn đó cần được giải quyết
bằng các quan điểm quy hoạch phát triển nhân lực báo chí.
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới luận văn cho thấy đã có
nhiều công trình khoa học, các công trình nghiên cứu sâu sắc về vấn đề phát
triển NNL hiện nay. Bằng nhiều phương pháp, góc độ và nội dung tiếp cận
khác nhau. Các công trình đã phân tích sâu sắc cả về lý luận, thực tiễn, từ đó
luận giải thuyết phục vai trò đặc biệt NNL trong sự nghiệp CNH,HĐH, phát
triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay. Các công trình cũng đưa ra những
phân tích về hiệu quả, lợi ích và dự báo khoa học về tương lai bảo đảm NNL
cho sự phát triển của đất nước nói chung và hệ thống báo chí nói riêng, trong
đó báo chí ngành Thanh tra.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu NNL, có công trình nghiên
cứu tổng thể về bảo đảm NNL, NNL chất lượng cao, có công trình đi sâu vào
phân tích bảo đảm NNL ở từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể, có cả những công
trình đã đề cập đến NNL một số ngành báo chí. Tuy nhiên, do những đặc thù
riêng biệt, những mục đích nghiên cứu khác nhau, nên cho tới nay chưa có
một công trình nào đi sâu nghiên cứu NNL báo chí ngành thanh tra dưới góc
độ khoa học KTCT với tư cách là một công trình khoa học độc lập. Khoảng
trống khoa học này chính là đối tượng nghiên cứu của luận văn bảo đảm
8


nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra. Tuy có kế thừa kết quả nghiên cứu

của nhiều nhà khoa học đi trước, song không trùng lặp với bất kỳ một công
trình khoa học nào đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo đảm NNL báo chí ngành
thanh tra, đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm NNL báo chí ngành thanh
tra ở nước ta thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về bảo đảm NNL báo chí ngành thanh tra; đưa ra
quan niệm, phân tích nội dung và những nhân tố ảnh hưởng đến bảo đảm
NNL báo chí ngành thanh tra.
- Phân tích thực trạng bảo đảm NNL báo chí ngành thanh tra, chỉ ra
những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, các vấn đề đặt ra từ thực trạng đó.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp bảo đảm NNL báo chí ngành
thanh tra thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Bảo đảm NNL báo chí ngành thanh tra.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Nghiên cứu bảo đảm NNL báo chí ngành thanh tra. Đó là
NNL đang và sẽ hoạt động công tác tại các cơ quan báo chí của ngành Thanh tra
(báo, tạp chí in và điện tử thanh tra);
- Về không gian: Ở cơ quan báo chí ngành thanh tra ở Việt Nam.
- Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
9



Minh, đường lối quan điểm của Đảng về nguồn lực con người và bảo đảm nguồn
lực con người cho phát triển kinh tế - xã hội.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa trên cơ sở thực tiễn bảo đảm NNL trong phát triển kinh tế xã hội ở nước ta để nghiên cứu vấn đề bảo đảm NNL báo chí ngành thanh tra ở
Việt Nam hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu nền tảng là phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp trừu tượng hoá khoa học;
các phương pháp nghiên cứu tư liệu, phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử,
tổng kết thực tiễn, thống kê và so sánh và phương pháp chuyên gia để hoàn
thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo đảm
NNL báo chí ngành thanh tra; qua đó làm phong phú thêm lý luận về nguồn
nhân lực, NNL báo chí nói chung.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc xây dựng và thực hiện qui
hoạch, kế hoạch bảo đảm nguồn nhân lực báo chí ngành Thanh tra.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của luận văn gồm: phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM
NGUỒN NHÂN LỰC BÁO CHÍ NGÀNH THANH TRA Ở VIỆT NAM

1.1. Những vấn đề chung về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực báo
chí ngành thanh tra

1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho
con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển
của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham
gia vào quá trình lao động- con người có sức lao động.
Thuật ngữ nguồn nhân lực xuất hiện vào thập niên 80 thế kỷ XX khi có
sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý sử dụng con người trong hoạt
động KTXH, thể hiện sự nhìn nhận lại vai trò yếu tố con người trong quá
trình phát triển. Nguồn nhân lực bao giờ cũng là trung tâm của mọi chiến lược
phát triển và bất kỳ quốc gia, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp nào muốn
phát triển, đứng vững trong mọi cuộc cạnh tranh đều phải dựa vào yếu tố con
người. Bởi con người với trí tuệ và sức sáng tạo chính là tài nguyên vô tận,
càng khai thác, sử dụng càng được nhân rộng, phát triển.
Trong lý luận về nguồn nhân lực nổi lên một số quan niệm sau:
Theo quan niệm của C.Mác, nguồn nhân lực xã hội chính là lực lượng
lao động, trực tiếp sản xuất tạo ra giá trị hàng hóa, dịch vụ hay làm tăng của
cải vật chất xã hội. Đây là lực lượng những con người bình thường, có sức
khỏe, có kỹ năng, có năng lực và khả năng lao động sản xuất tạo ra của cải vật
chất. Yếu tố cơ bản tồn tại trong người lao động chính là sức lao động hay
năng lực lao động, vì thế C.Mác cho rằng: “sức lao động hay năng lực lao
động là toàn bộ năng lực thể chất, tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con
người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một
11


giá trị sử dụng nào đó” [31, tr.257].
Quan niệm của V.I.Lênin: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân, là người lao động” [28, tr.430]. Theo quan niệm này
con người được coi là yếu tố quyết định trong LLSX của bất kỳ chế độ xã hội
nào trong lịch sử. Yếu tố con người với sức lực, trình độ, kỹ năng, tay nghề

chuyên môn luôn là yếu tố “động” trong LLSX. Đây chính là nguồn nhân lực
quyết định việc sáng tạo nên mọi của cải vật chất xã hội.
Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương trích dẫn quan niệm của
Liên Hiệp Quốc cho rằng: “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự
phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước” [50, tr.8]. Viện Nghiên cứu phát
triển giáo dục trích dẫn quan niệm của Tổ chức lao động Quốc tế (ILO0 cho
rằng: “Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi
có khả năng tham gia lao động”[49, tr.4].
Dưới góc độ giáo dục đào tạo, NNL được xác định là những người
được đào tạo ở các bậc trình độ khác nhau, đáp ứng nhu cầu hoạt động nghề
nghiệp đem lại thu nhập cho bản thân và cộng đồng. Đó là những con người
có đủ những điều kiện về sức khoẻ, bằng cấp, trình độ nghiệp vụ chuyên môn
cao, có kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp, tham gia trực tiếp vào quá trình
hoạt động thực tiễn đem lại hiệu suất lao động cao. Giáo sư, Phạm Minh Hạc
cho rằng, nguồn lực con người được thể hiện thông qua số lượng dân cư, chất
lượng con người (bao gồm thể lực, trí lực và năng lực phẩm chất). NNL
không chỉ bao hàm chất lượng NNL hiện tại mà còn bao hàm cả nguồn cung
cấp nhân lực trong tương lai [25].
Bộ Luật Lao động Việt Nam quy định tuổi lao động của nam từ 15 đến
60 tuổi và nữ từ 15 đến 55 tuổi. Theo quy định này, công dân trong độ tuổi
lao động có khả năng lao động (có thể lực, sức khỏe, trí lực, nhân cách, nhận
thức, thái độ, động cơ, nhu cầu lao động) thì thuộc nguồn lực lao động xã hội.
12


Từ phân tích trên đây, tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị, NNL được
hiểu là Tổng hòa thể lực, trí lực và tâm lực tồn tại trong nguồn lực lao động
xã hội với một cơ cấu phù hợp được huy động, sử dụng để sản xuất ra của cải
vật chất, tinh thần phục vụ nhu cầu hiện tại và tương lai của một quốc gia.

Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy quan niệm trên về NNL là:
Chất lượng NNL. Là yếu tố tổng hợp của nhiều yếu tố bộ phận như trí
tuệ, trình độ, sự hiểu biết, kỹ năng, phẩm chất đạo đức, thể trạng sức khoẻ,
thẩm mỹ.v.v.của người lao động. Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là
hai yếu tố quan trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
Số lượng NNL. Nói đến NNL của bất kỳ một tổ chức, một địa phương
hay một quốc gia nào câu hỏi đầu tiên đặt ra là có bao nhiêu người và sẽ có
thêm bao nhiêu nữa trong tương lai. Đấy là những câu hỏi cho việc xác định
số lượng NNL. Số lượng NNL dựa trên hai nhóm yếu tố bên trong (chẳng
hạn: nhu cầu thực tế công việc đòi hỏi phải tăng số lượng lao động) và những
yếu tố bên ngoài của tổ chức như sự gia tăng về dân số hay lực lượng lao
động do di dân.
Cơ cấu NNL. Cơ cấu NNL là yếu tố không thể thiếu khi xem xét đánh
giá về NNL. Cơ cấu NNL thể hiện trên các phương diện khác nhau như: cơ
cấu trình độ đào tạo, giới tính, độ tuổi .v.v. Cơ cấu NNL của một quốc gia nói
chung được quyết định bởi cơ cấu đào tạo và cơ cấu kinh tế theo đó sẽ có một
tỉ lệ nhất định NNL.
1.1.2. Nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra
* Nguồn nhân lực của tổ chức
Nguồn nhân lực của tổ chức là một bộ phận cấu thành NNL xã hội. Hay
nói cách khác, NNL của tổ chức là một hệ con của hệ thống NNL xã hội. Đó
là tất cả những ai làm việc trong tổ chức, từ thủ trưởng cao nhất (chẳng hạn
như bộ trưởng) đến nhân viên bình thường nhất, thấp nhất, làm việc tay chân,
đơn giản. Đó cũng là những người đang chờ đợi để có thể vào làm việc cho tổ
13


chức, tức là nguồn dự trữ của tổ chức.
Nguồn nhân lực của mỗi một tổ chức có những yêu cầu, đòi hỏi riêng
do tính chất, đặc điểm và việc làm trong tổ chức quyết định. Đó chính là lý do

tại sao các tổ chức phải xây dựng, nuôi dưỡng, bảo đảm NNL cho chính mình
một cách hợp lý. Mặt khác, NNL của các tổ chức có thể giao thoa với nhau.
Đó là những khu vực mà NNL xã hội trở thành NNL của các tổ chức. Tại đó
các tổ chức có thể phải cạnh tranh với nhau để có được NNL của chính mình.
Nguồn nhân lực của tổ chức có nội hàm rất phong phú và đủ đáp ứng
mục tiêu của tổ chức. Tiềm năng con người trong tổ chức để đáp ứng mục
tiêu cụ thể của tổ chức trong từng thời kỳ nhất định bao gồm không chỉ yếu tố
sức lao động, mà còn bao gồm cả những gì thuộc bên trong người lao động
tức cả về thể lực, trí lực hay chất xám.
Nguồn nhân lực của tổ chức là nguồn lực chủ yếu và quyết định nhất
trong các nguồn lực của tổ chức (nguồn nhân lực, nguồn lực về tài chính,
khoa học công nghệ, trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu). Một tổ chức, một
cơ quan muốn phát triển được phải bảo đảm đủ nguồn nhân lực cần thiết, đáp
ứng mục tiêu phát triển tổ chức.
* Quan niệm về nguồn nhân lực báo chí
- Báo chí và nhiệm vụ của báo chí
Báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, LLVT, của tổ chức
chính trị-xã hội và là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Báo chí là phương tiện truyền thông đại
chúng hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Vì vậy, báo chí luôn phải đảm
bảo tính chính trị, tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính đại chúng,
tính chiến đấu và tính đa dạng của các hoạt động báo chí. Báo chí có sứ mệnh
thực hiện các nhiệm vụ: 1) Nắm vững, tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có
hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, bám sát nhiệm vụ công tác tư tưởng, tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành
14


tựu công cuộc đổi mới và sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. 2) Coi trọng đúng
mức việc phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tích cực

đấu tranh, góp phần ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn xã hội; phản bác có hiệu quả những thông tin,
quan điểm sai trái, phản động, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng
của Đảng. 3) Báo chí “tiếp tục phát huy tiềm lực và ưu điểm, khắc phục các
yếu kém, khuyết điểm, nâng cao chất lượng tư tưởng, văn hoá, mở rộng đối
tượng độc giả, vươn lên hiện đại về mô hình tổ chức hoạt động, về cơ sở vật
chất, kỹ thuật và công nghệ”[16]. Theo đó, phải từng bước hiện đại hóa hệ
thống thông tin đại chúng về cơ sở vật chất kỹ thuật, về phương thức hoạt
động, theo kịp trình độ chung của thế giới.
Báo chí là hoạt động đặc biệt mang tính chính trị xã hội sâu sắc. Mỗi
tác phẩm báo chí được công bố, được phát hành rộng rãi đến đông đảo độc
giả đều trực tiếp hay gián tiếp tác động làm chuyển biến nhận thức, tâm tư,
tình cảm, tư tưởng và hành vi của quần chúng. Tính chất đặc thù đó của hoạt
động báo chí quy định chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực báo chí, đòi hỏi đội
ngũ làm báo phải luôn đặt trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của mình
lên hàng đầu trong hoạt động nghiệp vụ báo chí. Khi và chỉ khi mỗi nhà báo
nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm xã hội thì báo chí cách mạng Việt Nam
mới thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm xã hội.
Báo chí cách mạng Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong công tác
tuyên truyền của Đảng. Là công cụ sắc bén để tuyên truyền đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, luật pháp Nhà nước đồng thời lại chính là cầu
nối giữa ý Đảng, lòng dân, phản ảnh tâm tư nguyện vọng, những nhu cầu
chính đáng của quần chúng nhân dân. Thông qua đó Đảng, Nhà nước lắng
nghe, nắm bắt và kịp thời có những chính sách phù hợp nhằm thỏa mãn ngày
càng tốt hơn nhu cầu chính đáng của nhân dân. Vì vậy, báo chí vừa phản ảnh
những nét chung của nền báo chí thế giới song lại có những nét đặc thù, thể
hiện qua các chức năng cơ bản của báo chí đó là: chức năng thông tin; chức
15



năng định hướng, giáo dục chính trị tư tưởng; chức năng văn hóa, giáo dục;
chức năng giám sát, phản biện xã hội.
- Nguồn nhân lực báo chí
Chính từ sứ mệnh thực hiện các chức năng của cơ quan báo chí cho nên
nó quy định những yêu cầu rất khắt khe đối với đội ngũ người làm báo. Hay
nói cách khác, nó đòi hỏi số lượng đủ, chất lượng cao và cơ cấu phù hợp đối
với đội ngũ NNL báo chí.
Cũng như NNL trong các lĩnh vực khác, NNL báo chí đảm nhiệm vận
hành mọi hoạt động của cơ quan báo chí theo đúng chức năng nhiệm vụ hay
tôn chỉ, mục đích đã đặt ra. NNL báo chí giữ vai trò quyết định việc hiện thực
hoá chức năng, nhiệm vụ quan trọng của báo chí trong đời sống KTXH. Hơn
nữa, so với NNL trong các lĩnh vực khác, đặc thù của NNL báo chí thể hiện kết
quả lao động nghề nghiệp bằng những ấn phẩm được đăng tải, những khuôn
hình luôn đảm bảo tính chính trị, tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân,
tính đại chúng, tính chiến đấu và tính đa dạng của hoạt động báo chí.
Nguồn nhân lực báo chí là bộ phận NNL lĩnh vực thông tin, truyền
thông. Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, mọi thông
tin đa chiều được biểu đạt hết sức đa dạng bằng mọi phương tiện, mọi hình
thức, dường như không còn khoảng cách về không gian, thời gian. Một thông
tin, một sự kiện, một diễn biến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước
hay quốc tế ngay lập tức được truyền tải đến người nghe, người xem, người
đọc ở bất kỳ đâu trên thế giới không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thể
chế chính trị. Báo chí, truyền thông là lĩnh vực nhạy cảm, đem lại cho con
người nhiều sắc thái cả về nhận thức cả về cảm xúc thậm chí cả về trách
nhiệm với cộng đồng xã hội cho độc giả; từ đó cho thấy, chưa bao giờ NNL
báo chí gánh vác trách nhiệm hết sức nặng nề như hiện nay.
Từ phân tích trên và kế thừa quan niệm về NNL nói chung, có thể
quan niệm: NNL báo chí là tổng hòa thể lực, trí lực và tâm lực tồn tại trong
NNL của cơ quan báo chí với một cơ cấu phù hợp được huy động, sử dụng để
16



thực hiện chức năng, nhiệm vụ của báo chí phục vụ nhu cầu thông tin của
nhân dân về các vấn đề chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước.
* Quan niệm về nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra
- Khái quát về ngành Thanh tra và báo chí ngành thanh tra nước ta.
Ngành Thanh tra thực hiện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng ngừa, chống tham nhũng theo
quy định của pháp luật. Với chức năng của ngành, Thanh tra đã và đang là
“vũ khí” quản lý của Nhà nước trong việc bảo đảm trong sạch hóa bộ máy
nhà nước ở các cấp. Khi chức năng được thực hiện thì một mặt nó tăng cường
tính chất phòng ngừa, cảnh báo, mặt khác kịp thời phát hiện những sai phạm
về quản lý nhà nước ở các cấp qua đó kiến nghị, xử lý kịp thời. Bộ máy trong
sạch nghĩa là chất lượng hoạt động được nâng lên và luôn thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ. Theo nghĩa đó, ngành Thanh tra đã đóng góp một phần
không nhỏ vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, phát triển kinh tế, bảo
đảm trong sạch bộ máy, giữ gìn kỷ cương, trật tự xã hội. Trải qua bao biến cố
và thăng trầm của lịch sử, ngành Thanh tra đã và đang khẳng định rõ được
được vị trí, vai trò không thể thay thế trong hệ thống cơ quan nhà nước.
Ngành thanh tra luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước
giao phó, xứng đáng với lòng tin của Chính phủ, sự mến phục của nhân dân,
mãi mãi là “Tai mắt của trên, người bạn của dưới” như Hồ Chí Minh đã dạy.
Báo chí ngành thanh tra có vai trò quan trọng giữ vững vị thế, vị trí,
chức năng và thành tích của Ngành Thanh tra. Báo chí ngành thanh tra thực
hiện chức năng là cơ quan ngôn luận của Thanh tra Chính phủ và của ngành
Thanh tra (trong đó thực hiện chức năng trội của báo chí là thực hiện giám
sát, phản biện xã hội, cầu nối ý Đảng - lòng dân trong thực hiện đường lối,
chính sách pháp luật nhà nước); thực hiện truyền thông về vị trí, vai trò của
công tác thanh tra trong hệ thống cơ quan Nhà nước; chức năng và nhiệm vụ

17


của Thanh tra Nhà nước.
Báo chí ngành thanh tra đã phản ánh mọi mặt hoạt động thanh tra
KTXH; giải quyết khiếu nại tố cáo; phòng, chống tham nhũng theo Luật Báo
chí, Luật Thanh tra và Luật Khiếu nại Tố cáo. Phản ánh sự tận tụy và tinh
thần trách nhiệm cao của toàn ngành trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ
thanh tra. Phát hiện và phản ảnh kịp thời nhiều sai phạm trong quản lý nhà
nước về kinh tế; Tham mưu, đề xuất, kiến nghị giúp nhà nước, các cơ quan bị
thanh tra chấn chỉnh công tác quản lý, sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách
quản lý vận hành bộ máy. Qua đó tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế xã hội, giữ vững ổn định tình hình kinh tế xã hội, tạo
sức mạnh nội lực góp phần hạn chế đến mức thấp nhất tác động, ảnh hưởng
trước những biến động tiêu cực của tình hình chính trị, kinh tế, tài chính khu
vực, toàn cầu .
- Từ nghiên cứu về ngành thanh tra và báo chí ngành thanh tra, kế thừa
quan niệm về NNL, NNL báo chí, tác giả luận văn quan niệm:
Nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra là tổng hòa thể lực, trí lực và
tâm lực tồn tại trong NNL của cơ quan báo chí ngành thanh tra với một cơ
cấu phù hợp được huy động, sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
báo chí ngành phục vụ nhu cầu thông tin của nhân dân về hoạt động thanh
tra, về các vấn đề chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước.
Khái niệm nêu trên được hiểu trên những vấn đề sau:
Nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra có đầy đủ các yếu tố cấu thành
NNL và NNL báo chí về số lượng, chất lượng (thể lực, trí lực, tâm lực) và cơ cấu.
Nguồn nhân lực này được huy động, sử dụng để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của báo chí ngành; nghĩa là hoạt động theo tôn chỉ mục đích của cơ
quan báo chí ngành tra.
Ngoài việc đáp ứng nhu cầu thông tin về mọi mặt của nhân dân, NNL

báo chí ngành thanh tra, bằng nghiệp vụ báo chí ngành còn phục vụ nhu cầu

18


thông tin của nhân dân về hoạt động thanh tra trong hệ thống cơ quan nhà
nước và trong xã hội.
* Đặc điểm nguồn nhân lực báo chí ngành Thanh tra
Một là: Là một bộ phận đặc biệt trong NNL Thanh tra. Bởi nguồn nhân
lực báo chí ngành thanh tra chính là tổng hòa giữa kỹ năng, trình độ nghiệp
vụ Thanh tra và nghiệp vụ báo chí. Do vậy, đây là nguồn nhân lực đặc biệt
với tất cả những kiến thức, kỹ năng, năng lực, vừa có khả năng đảm bảo là
nguồn nhân lực cho sự phát triển ngành báo chí vừa có khả năng đảm bảo là
nguồn nhân lực cho phát triển ngành thanh tra. Nguồn nhân lực “kép” này
cùng lúc hội tụ đủ chức năng nhiệm vụ ngành báo chí và Thanh tra phục vụ
mục đích, tôn chỉ của báo chí ngành Thanh tra. Do đó, nó đòi hỏi trình độ tư
duy theo hướng thực hiện đầy đủ chức năng Thanh tra trên cơ sở thực hiện tốt
các chức năng báo chí.
Hai là: Nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra đòi hỏi cao về trình độ
chuyên môn về thanh tra và kỹ năng nghiệp vụ báo chí của Ngành. Kỹ năng
thanh tra và kỹ năng phản ảnh, truyền thông nghiệp vụ thanh tra dưới góc độ
báo chí là kỹ năng đặc thù, môi trường hoạt động đặc thù và hết sức nhạy cảm
bởi hoạt động chuyên môn này luôn bảo đảm cho pháp luật, quy tắc luật lệ xã
hội được duy trì và tuân thủ nghiêm túc. Do đó nó “đụng chạm” đến những
vấn đề nhạy cảm của bộ máy, của các mặt hoạt động KTXH, quan hệ công
dân với công dân, công dân với cơ quan công quyền…Vì vậy để bảo đảm mọi
hoạt động nghiệp vụ vừa tuân thủ tôn chỉ, mục đích của báo chí, vừa bảo đảm
hoạt động nghiệp vụ đúng pháp luật, quy chế, quy định của ngành thanh tra là
đòi hỏi mang tính đặc thù. Do đó, nó quy định đặc điểm của ngành báo chí
ngành thanh tra về trình độ chuyên môn nghiệp vụ là vừa nắm chắc nghiệp vụ

Thanh tra vừa có nghiệp vụ báo chí sắc bén.
Ba là: Nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra có phạm vi hoạt động
nghiệp vụ báo chí rộng khắp trên phạm vi toàn quốc. Do tham gia trên phạm
19


vi rộng của tất cả các hoạt động KTXH cả ở trung ương và địa phương. Vì
vậy, luôn có bộ phận nhân lực được cắm chốt ở các địa phương và luôn bám ở
tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng an ninh...Đặc điểm
này nói lên tính phức tạp trong quản lý, tổ chức hoạt động nghiệp vụ, đặc biệt
là khâu bảo đảm nguồn nhân lực bảo chí thanh tra. Tuy nhiên, đây cũng là thế
mạnh bởi mạng lưới và phạm vi hoạt động rộng lớn do vậy việc phát hiện, bồi
dưỡng, tuyển dụng bổ sung NNL có điều kiện và khả năng thực hiện thuận lợi
hơn so với các ngành khác.
1.2. Quan niệm, nội dung, nhân tố tác động đến bảo đảm nguồn
nhân lực báo chí ngành thanh tra
1.2.1. Quan niệm bảo đảm nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra
* Quan niệm về bảo đảm
Theo Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học (1996) định nghĩa
“Bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy
đủ những gì cần thiết” [47, tr.36]. Ở góc độ ràng buộc về trách nhiệm, Từ
điển bách khoa toàn thư tiếng Việt định nghĩa “Bảo đảm là nhận trách nhiệm
và làm tốt” [45,tr.53]. Thuật ngữ “bảo đảm” có thể tiếp cận theo khía cạnh
trách nhiệm chủ thể tổ chức thực hiện (cơ quan, tổ chức, cá nhân) hay quá trình
phát triển, kết quả thực hiện một vấn đề nào đó trong đời sống KTXH với sự
khẳng định về hiệu quả thực hiện. Từ đó, có thể hiểu: Bảo đảm là phạm trù
phản ánh quá trình hành động của tổ chức, người đứng đầu bằng cơ chế,
chính sách để thực hiện một vấn đề, một lĩnh vực nào đó có kế hoạch, lộ trình
tổ chức thực hiện và có hiệu quả chắc chắn thông qua đánh giá các yếu tố liên
quan đến vấn đề cần thực hiện.

* Quan niệm về bảo đảm nguồn nhân lực báo chí ngành Thanh tra
Kế thừa kết quả nghiên cứu các khái niệm công cụ, tác giả đưa ra quan
niệm: Bảo đảm nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra là tổng thể các hoạt
động của ngành Thanh tra, cơ quan báo chí ngành và lực lượng hữu quan
20


nhằm đáp ứng kịp thời số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực báo
chí theo yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan báo chí ngành
tranh tra.
Nội hàm của quan niệm gồm có những vấn đề sau:
- Chủ thể bảo đảm NNL báo chí ngành thanh tra là Thanh tra Chính
phủ, cơ quan báo chí ngành và các lực lượng hữu quan. Các chủ thể bằng hoạt
động của mình bảo đảm NNL báo chí ngành thanh tra về số lượng, chất
lượng, và cơ cấu phù hợp với tổ chức biên chế và chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan báo chí ngành.
- Các phương thức đảm bảo thông qua cơ chế, chính sách của ngành về
thu hút, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, miễn nhiệm NNL báo chí
ngành thanh tra theo yêu cầu nhiệm vụ hoạt động báo chí ngành.
- Nội dung bảo đảm: đúng đủ về số lượng, chất lượng ngày càng cao
với cơ cấu hợp lý NNL báo chí của ngành Thanh tra.
- Mục tiêu bảo đảm: Có được đội ngũ công chức, viên chức đủ mạnh để
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của cơ quan báo chí ngành tranh tra.
1.2.3. Nội dung bảo đảm nguồn nhân lực báo chí ngành Thanh tra
Một là, bảo đảm đủ về số lượng NNL báo chí ngành thanh tra theo biên
chế và yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan báo chí ngành thanh tra.
Số lượng là tổng số NNL theo biên chế, theo yêu cầu nhiệm vụ của
từng loại hình báo chí ngành thanh tra. Đây là yêu cầu về số lượng phù hợp
trong tổ chức bộ máy của báo, tạp chí theo vị trí công việc tại các phòng chức
năng. Nếu số lượng không được bảo đảm, hoặc ít hoặc nhiều hơn số lượng

cần thiết đều có tác động tiêu cực đến hiệu quả, chất lượng của quá trình thực
hiện nhiệm vụ chuyên môn.
Theo đó, cần bảo đảm số lượng đủ theo biên chế tổ chức như: bảo đảm
đủ nhân sự có bằng cấp chuyên ngành báo chí và được đào tạo về thanh tra
hặc nhân sự có nghiệp vụ thanh tra và được đào tạo bổ sung nghiệp vụ báo
21


chí; bảo đảm số lượng lao động hợp đồng phù hợp với chức năng nhiệm vụ
của báo chí ngành Thanh tra. Bảo đảm nguồn nhân lực dự trữ như đào tạo bổ
sung nghiệp vụ báo chí cho đội ngũ thanh tra viên để xây dựng lực lượng
cộng tác viên thường xuyên trên từng lĩnh vực, nội dung của loại báo, tạp chí
in và điện tử.
Hai là, bảo đảm chất lượng NNL báo chí ngành thanh tra đủ mạnh để
thực hiện tốt nhiệm vụ của cơ quan báo chí ngành tranh tra.
Chất lượng NNL có nội dung tổng hợp, bao gồm những đặc trưng về
trạng thái thể lực (tình trạng sức khỏe); trí lực hay năng lực trí tuệ (trình độ
đào tạo, trình độ chuyên môn nghiệp vụ báo chí, nghiệp vụ thanh tra, kỹ năng,
kinh nghiệm nghề nghiệp); tâm lực (phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp
của người làm báo) đã được Hội Nhà báo Việt Nam cụ thể hoá thành 9 điều
qui định. Hiện nay báo chí đang phát triển theo xu hướng hội tụ thông tin, khi
một cơ quan quan báo chí thanh tra có cả báo in, báo điện tử sẽ đòi hỏi chất
lượng nguồn nhân lực khác trước. Sự hội tụ đó không chỉ diễn ra trong mỗi cơ
quan báo chí mà còn diễn ra trong 1 cá nhân nhà báo. Nguồn nhân lực báo chí
thanh tra không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ báo chí mà phải vững về
kiến thức về chuyên ngành. Nguồn nhân lực báo chí thanh tra là những người
làm nhiệm vụ tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, là những nhà chính trị nên
phải hội tụ đầy đủ các phẩm chất về chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn.
Theo đó, các nhà báo thanh tra phải thể hiện lòng trung thành, mối liên hệ với
nhân dân, trung thực, lối sống lành mạnh, chấp hành pháp luật, bảo vệ và giữ

bí mật, đoàn kết phối hợp lẫn nhau, học tập nâng cao trình độ, giữ gìn bản sắc
văn hoá dân tộc và tiếp thu các nền văn hoá khác [Phụ lục 3]. Bên cạnh đó,
người làm báo ngành thanh tra cần đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn của thanh tra
viên. Nhưungx tiêu chuẩn đó là: phải có lòng trung thành; phẩm chất đạo đức
tốt; có trình độ đại học trở lên, có kiến thức quản lý nhà nước và am hiểu pháp
luật; có bằng cấp, chứng chỉ về nghiệp vụ thanh tra [Phụ lục 4]. Theo đó,
22


trong bảo đảm NNL báo chí ngành thanh tra về chất lượng, đặc biệt quan tâm
cả ba mặt phản ánh chất lượng tổng hợp của NNL có vai trò vô cùng quan
trọng. Bởi nguồn nhân lực báo chí ngành thanh tra là đội ngũ vừa hoạt động
chuyên môn nghiệp vụ theo khuôn khổ pháp luật về thanh tra và báo chí, vừa
là những chiến sỹ xung kích trên lĩnh vực văn hóa, truyền thông. Trong quá
trình bảo đảm NNL phải đáp ứng yêu cầu về chất lượng tổng hợp luôn là tiêu
chí hàng đầu đối với cơ quan báo chí ngành thanh tra. Có thể thông qua phát
hiện, tạo nguồn, thông qua tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ, lý luận chính trị, kiến thức pháp luật...để bảo đảm NNL có chất lượng.
Như vậy, bảo đảm về chất lượng NNL báo chí ngành thanh tra chính là bảo
đảm NNL đạt được đầy đủ yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề
nghiệp; trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm, kỹ năng người làm
báo; sức khoẻ thể chất và tinh thần.
Ba là, bảo đảm cơ cấu NNL báo chí ngành thanh tra phù hợp với tổ
chức bộ máy và nhiệm vụ của cơ quan báo chí ngành thanh tra.
Về lý luận, C.Mác cho rằng, cơ cấu nguồn lao động có nghĩa là bàn về
cấu trúc bên trong của quá trình phân công lao động xã hội. Đó là các quan hệ
về tỷ lệ cũng như xu hướng vận động, phát triển nguồn lao động giữa các
ngành nghề khác nhau. Theo đó, trong nội bộ một ngành, cơ cấu NNL được
bảo đảm theo tỷ lệ với nhiều góc độ khác nhau như cơ cấu trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về giới tính, độ tuổi, cơ cấu lao động trong

các thành phần, các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế…
Bảo đảm cơ cấu NNL báo chí ngành thanh tra cũng thực hiện theo
những nội dung trên. Nó được xem xét ở các góc độ như: theo trình độ đào
tạo, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, theo biên chế từng loại hình báo chí
thuộc ngành thanh tra, theo phòng ban, theo hợp đồng, theo giới tính, trực tiếp
và gián tiếp. Do quy định đặc thù hoạt động báo chí ngành thanh tra cho nên
cơ cấu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của NNL báo chí là cơ cấu kép
23


nghĩa là sự bảo đảm phải tính đến cả 2 yếu tố trong một con người đó là cả
nghiệp vụ thanh tra và nghiệp vụ báo chí.
1.2.4. Các nhân tố tác động đến bảo đảm nguồn nhân lực báo chí
ngành thanh tra
* Các nhân tố bên ngoài cơ quan báo chí ngành thanh tra
Một là: Điều kiện kinh tế, xã hội đất nước.
Thực tiễn cho thấy, sức sống, trình độ phát triển LLSX hiện đại đều bắt
nguồn từ yêu cầu đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu cuộc sống con người. Xét về
bản chất đó chính là quá trình xã hội hóa không ngừng của LLSX, điều đó
khẳng định sự phát triển không ngừng của tiềm năng con người. Mức độ khai
thác các tiềm năng trí tuệ và cả vật chất của xã hội thể hiện rõ ở quy mô phát
triển LLSX, riêng mức độ huy động và sử dụng tốt tiềm năng trí tuệ xã hội
chính là chỉ số về chất lượng và trình độ phát triển của LLSX hiện đại.
NNLnói chung, báo chí ngành thanh tra nói riêng với tư cách là một bộ phận
của LLSX xã hội luôn nằm trong xu hướng và đòi hỏi chung của yêu cầu phát
triển, hiện đại hóa LLSX hiện nay. Quá trình đó chi phối mọi mặt đời sống
KTXH đất nước do vậy, bảo đảm NNL ngành báo chí cũng chịu tác động sâu
sắc của điều kiện KTXH. Nước ta đang thực hiện mô hình KTTT định hướng
XHCN, đây vừa là thuận lợi song cũng là thách thức cho việc bảo đảm NNL
báo chí ngành thanh tra. Bởi khi vận hành theo quy luật thị trường tất yếu

phải tuân thủ theo quy luật vận động của nó. Nghĩa là kể cả sự tồn tại, phát
triển của NNL nói chung và từng cá nhân người lao động nói riêng đều chịu
tác động sâu sắc bởi quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế.
Nếu không có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ tốt để có năng suất,
hiệu quả công việc cao (thể hiện qua chất lượng sản phẩm báo chí theo phân
công lao động) thì tất yếu giá trị gia tăng mà sức lao động mang lại sẽ không
cao và tất yếu sẽ bị quy luật cạnh tranh thải loại. NNL báo chí ngành thanh tra
còn chịu tác động của quy luật cung cầu lao động, biểu hiện cơ bản của nó là
24


xu hướng vận động về điểm cân bằng cung cầu. Điểm cân bằng được thiết lập
mặc dù là tạm thời song cũng là tín hiệu cho thấy điều kiện, khả năng về nhân
lực hiện có đáp ứng được cầu về chức năng nhiệm vụ. Sự vận động đến điểm
cân bằng là vận động tự nhiên của thị trường, không bị chi phối bởi ý chí con
người, khi nhu cầu đặt ra tất yếu bắt buộc con người phải có nhận thức để
điều chỉnh, bố trí, sắp xếp NNL bảo đảm sự vận hành hiệu quả. Khi điều kiện
KTXH phát triển thuận lợi sẽ có điều kiện bảo đảm NNL chất lượng tốt hơn
cho báo chí ngành thanh tra. Ngược lại KTXH phát triển khó khăn cũng sẽ
khó khăn hơn trong bảo đảm số, chất lượng NNL. Theo đó, sẽ ảnh hưởng sâu
sắc đến tính hấp dẫn của các sản phẩm báo chí ngành thanh tra do hạn chế về
chất lượng, số lượng, cơ cấu đội ngũ chưa được bảo đảm phù hợp.
Hai là: Giáo dục đào tạo chuyên ngành báo chí và thanh tra.
Trong nền kinh tế dựa vào tri thức hiện nay, giáo dục là nền tảng cơ
bản để phát triển NNL, bởi giáo dục là con đường ngắn nhất, truyền thụ kiến
thức, kinh nghiệm nghề nghiệp, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo theo từng chuyên
môn cho người lao động. Mọi khoảng cách về trình độ đều có thể rút ngắn
thông qua con đường giáo dục, truyền thụ, bồi dưỡng tri thức. Nguồn nhân
lực báo chí ngành thanh tra không nằm ngoài xu thế này. Trong thời đại bùng
nổ thông tin và cạnh tranh tri thức toàn cầu thì môi trường giáo dục hiện đại

chính là cơ sở để phát triển NNL trong các ngành nghề. Do vậy, nội dung,
cách thức, phương pháp, chất lượng giáo dục đào tạo có ảnh hưởng sâu sắc
đến chất lượng và khả năng bảo đảm NNL báo chí ngành thanh tra. Mạng lưới
các trường đào tạo chuyên sâu hoặc có chuyên ngành nghiệp vụ báo chí luôn
bảo đảm chất lượng, uy tín, đáp ứng được yêu cầu thị trường thì tất yếu tạo ra
được mức cung thị trường về nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng tốt, có khả
năng đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và ngược lại. Vì vậy, NNL nói chung
và NNL báo chí ngành thanh tra phụ thuộc chặt chẽ vào sự phát triển của giáo
dục đào tạo đất nước nói chung và ngành báo chí, thanh tra nói riêng.
25


Ba là: Cơ chế chính sách về bảo đảm NNL thông tin, truyền thông của
quốc gia, của bộ ngành, địa phương.
Cơ chế chính sách chính là chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, biện pháp
từng giai đoạn cụ thể trong tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng
NNL thông tin truyền thông ở cấp vĩ mô. Đây chính là nguồn “đầu vào” cho
NNL báo chí ngành thanh tra. Cơ chế chính sách bao giờ cũng xuất phát từ
nhu cầu thực tiễn và phản ảnh thực tiễn đòi hỏi của NNL thông tin truyền
thông cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu. Điều đó cho thấy, cơ chế, chính
sách đúng đắn, phù hợp chính tạo kênh thu hút được nguồn cung nhân lực dồi
dào từ trong nội bộ ngành và cả thị trường. Bởi cơ chế năng động, khách
quan, chính sách phù hợp sẽ là cơ hội để thu hút, tuyển dụng những người có
trình độ, có khả năng để bổ sung vào đội ngũ nhân lực của ngành. Cơ chế
chính sách bảo đảm chưa phù hợp, còn bị chi phối bởi những vấn đề tiêu cực
xã hội trong tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ chính là rào cản cho sự vận động tự
nhiên của thị trường lao động.
Bốn là: Thị trường lao động - nguồn cung cho báo chí ngành thanh tra.
Sự phát triển, từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường về bản
chất là quá trình từng bước hình thành, hoàn thiện và đồng bộ các yếu tố thị

trường và các loại thị trường. Sự đồng bộ của hệ thống thị trường bảo đảm
cho cơ chế thị trường được vận hành theo đúng nghĩa của nó, tạo ra cuộc cạnh
tranh đồng thời là cơ hội bình đẳng trong tiếp cận, bổ sung, sử dụng hiệu quả
các nguồn lực giữa các doanh nghiệp, các chủ thể sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ. Thị trường lao động là yếu tố căn bản trong nền kinh tế thị
trường, ở đó cơ chế thị trường điều tiết đầu vào, đầu ra thông qua hoạt động
giao dịch của thị trường lao động. Chính vì vậy, đã tạo ra sự dịch chuyển theo
qui luật, minh bạch các nguồn lao động có chất lượng, có trình độ chuyên
môn không chỉ trong nội bộ nền kinh tế mà cả ở khu vực, quốc tế. Bảo đảm
NNL báo chí ngành thanh tra cũng chịu sự tác động do sự vận hành chung của
26


×