MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1
1.1.
1.2.
Chương 2
2.1.
2.2.
Chương 3
3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU
LỊCH GẮN VỚI GIỮ GÌN TRẬT TỰ AN TOÀN
XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
Một số vấn đề chung về phát triển du lịch và giữ gìn
trật tự an toàn xã hội
Quan niệm, nội dung và sự cần thiết phát triển kinh tế
du lịch gắn với giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
GẮN VỚI GIỮ GÌN TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI
Đặc điểm địa bàn và tình hình kinh tế chính trị xã hội liên
quan đến phát triển kinh tế du lịch gắn với giữ gìn trật tự
an toàn xã hội ở huyện Ba Vì
Thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra cần giải quyết
trong phát triển kinh tế du lịch gắn với giữ gìn trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
KINH TẾ DU LỊCH GẮN VỚI GIỮ GÌN TRẬT
TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
3.1. Phương hướng, mục tiêu phát triển triển kinh tế du lịch
gắn với giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện
Ba Vì, thành phố Hà Nội thời gian tới
3.2. Giải pháp phát triển kinh tế du lịch gắn với giữ gìn trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố
Hà Nội thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
12
12
25
32
32
39
65
65
67
88
90
95
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển kinh tế du lịch và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là hai lĩnh vực
khác nhau nhưng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Trong đó, phát triển kinh tế
du lịch là phát triển ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã
hội hóa cao. Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam coi
phát triển du lịch như là hướng chiến lược quan trọng trong sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước do lợi ích nhiều mặt mà ngành kinh tế này
mang lại. Sự phát triển kinh tế du lịch đem lại nhiều tác động tích cực tạo
công ăn việc làm cho người lao động, phát triển các ngành dịch vụ, tạo ra
nguồn thu ngoại tệ, tăng thu ngân sách, góp phần tăng trưởng kinh tế và thúc
đẩy phát triển nhiều ngành kinh tế khác như: giao thông vận tải, bưu chính
viễn thông, các ngành nghề thủ công truyền thống… Đó cũng là những nhân
tố tích cực tác động đến công tác giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên,
hoạt động du lịch có nhiều yếu tố tác động tiêu cực liên quan đến công tác giữ
gìn trật tự, an toàn xã hội nếu không được quan tâm chú trọng, nhất là trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
các thế lực thù địch, các loại tội phạm sẽ triệt để lợi dụng con đường du lịch
để tiến hành các hoạt động vi phạm pháp luật, tác động xấu đến tình hình giữ
gìn trật tự an toàn xã hội tại các địa điểm du lịch, do vậy kìm hãm sự phát
triển kinh tế du lịch
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn đều cho thấy, kinh tế du lịch chỉ có
thể phát triển trong điều kiện đất nước hòa bình, ổn định về chính trị, lành
mạnh về môi trường kinh tế - xã hội. Vì vậy, phát triển du lịch phải luôn gắn
kết với hoạt động liên ngành, trong đó đặc biệt chú trọng đến gắn kết phát triển
kinh tế du lịch với củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh nói chung, với
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội nói riêng.
3
Huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội là một trong những địa phương có
nhiều tiềm năng về phát triển kinh tế du lịch đang được du khách mến mộ và
đến du lịch ngày càng đông. Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng
bộ, chính quyền Thành phố, du lịch huyện Ba Vì đã có nhiều khởi sắc và thực sự
trở thành ngành kinh tế "mũi nhọn" của Thủ đô. Đồng thời, trật tự, an toàn xã hội
trên địa bàn huyện cũng được duy trì và giữ vững, góp phần tích cực đối với phát
triển bền vững của huyện Ba Vì nói riêng, của thành phố Hà Nội nói chung. Mặc
dù vậy, quá trình phát triển kinh tế du lịch và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên
địa bàn huyện Ba Vì thời gian qua vẫn còn bộc lộ những bất cập, đó là việc
chưa khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch, chưa đánh giá đúng mức vai trò của
việc giữ gìn, trật tự an toàn xã hội với phát triển kinh tế du lịch, có lúc việc thực
hiện gắn phát triển kinh tế du lịch với giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn
huyện Ba Vì còn hạn chế. Từ đó, làm ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh
tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh của huyện Ba Vì nói chung, đến phát
triển kinh tế du lịch và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì
nói riêng. Bởi vậy, việc tiếp tục nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, từ đó
đề xuất phương hướng và giải pháp gắn phát triển kinh tế du lịch với giữ gìn trật
tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì trong thời gian tới là vấn đề có ý
nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Với lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề: "Phát triển kinh tế du lịch gắn
với giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà
Nội" làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về phát triển kinh tế du lịch nói
chung, kinh tế du lịch trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội nói riêng
và một số công trình nghiên cứu về kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh,
trong đó có kết hợp phát triển kinh tế du lịch với giữ gìn an ninh, trật tự an
toàn xã hội. Trong đó, tiêu biểu là các công trình như:
4
* Các công trình nghiên cứu liên quan đến kinh tế du lịch và phát triển
kinh tế du lịch
- Nguyễn Thị Nguyên Hồng (2004), Giải pháp khai thác tiềm năng du
lịch của Thủ đô và phụ cận nhằm phát triển du lịch Hà Nội đến năm 2010,
Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội. Tác giả luận án
đã tập trung làm rõ tiềm năng du lịch của Hà Nội, trong đó có Ba Vì, vùng đất
ngàn năm lịch sử với tiềm năng đặc biệt để phát triển du lịch sánh tầm khu vực
và thế giới. Đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác tiềm năng du
lịch của Thủ đô đến năm 2010.
- Trần Tiến Dũng (2006), Phát triển du lịch bền vững ở Phong Nha – Ke
Bàng, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Công trình đã phân tích, luận
giải cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về phát triển du lịch bền vững; đánh
giá thực trạng phát triển du lịch ở Phong Nha- Kẻ Bàng và đề xuất giải pháp
phát huy tiềm năng du lịch dựa vào danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử…
của địa phương.
- Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa (đồng chủ biên) (2006), Giáo
trình kinh tế du lịch, Nhà xuất bản Lao động, Hà nội. Nội dung giáo trình đề
cập các vấn đề liên quan đến du lịch và kinh tế du lịch. Trong đó, trình bày khái
niệm về du lịch; cơ sở hình thành, xu hướng phát triển, ý nghĩa kinh tế – xã hội
của du lịch; nhu cầu, loại hình và các lĩnh vực kinh doanh du lịch; điều kiện
kinh doanh du lịch; tính thời vụ trong du lịch; lao động, cơ sở vật chất – kỹ
thuật, chất lượng dịch vụ và hiệu quả kinh tế du lịch cũng như quy hoạch phát
triển kinh tế du lịch, tổ chức quản lý ngành du lịch ở Việt Nam và thế giới.
Chu Thị Thanh Hiền (chủ nhiệm) (2012), Nghiên cứu tiềm năng phát
triển du lịch cộng đồng trên địa bàn Thành Phố Hà Nội, Đề tài khoa học cấp
Thành Phố, 2012. Đề tài đã tập trung nghiên cứu các điều kiện hình thành và
phát triển, đồng thời đã đánh giá sơ bộ được hiện trạng cũng như tiềm năng
phát triển hình thức du lịch cộng đồng trên địa bàn Thành Phố Hà Nội; phân
5
tích, đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong tổ chức thực hiện và những
hiệu quả phát triển kinh tế xã hội do du lịch cộng đồng mang lại, từ đó đưa ra
các giải pháp khai thác tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn
Thành phố đáp ứng yêu cầu đề ra.
- Nguyễn Minh Luân (2015), Phát triển kinh tế du lịch ở huyện Ba Vì,
Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị, Hà
Nội. Luận văn đã phân tích, luận giải cơ sở lý luận về phát triển kinh tế du lịch
ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội trên một số vấn đề như quan niệm, nội dung,
sự cần thiết và các nhân tố ảnh hưởng; trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và đề
xuất một số quan điểm, giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch ở huyện
Ba Vì, Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Các công trình liên quan đến kết hợp, gắn phát triển kinh tế nói chung,
kinh tế du lịch nói riêng với bảo đảm, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội
- Tô Lâm (Chủ nhiệm) (1999), Vấn đề đảm bảo an ninh quốc gia trong
hoạt động du lịch – thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ
Công an. Trên cơ sở tình hình đặc điểm của quốc gia, đặc điểm của khách du
lịch trong nước, nước ngoài và thực trạng công tác quản lý Nhà nước về an
ninh trật tự đối với du lịch, đề tài đưa ra một số dự báo về số lượng, thành
phần, hình thức du lịch của người nước ngoài đến địa phương; sự phát triển
của ngành du lịch cũng như âm mưu, hoạt động trong thời gian tới của các thế
lực thù địch đối với quốc gia; đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý Nhà nước về an ninh trật tự.
- Nguyễn Xuân Hiến (2003), An ninh trong lĩnh vực du lịch của người
nước ngoài và những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh của cơ
quan an ninh Việt Nam, luận án tiến sĩ chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng
hình sự, Học viện An ninh nhân dân. Tác giả đã phân tích làm rõ khái niệm,
đặc điểm người nước ngoài du lịch tại Việt Nam; chỉ rõ an ninh trong lĩnh vực
du lịch của người nước ngoài tại Việt Nam; phân tích thực trạng hoạt động
6
xâm phạm an ninh quốc gia của người nước ngoài du lịch tại Việt Nam và
công tác đấu tranh của cơ quan an ninh Việt Nam. Trên cơ sở đó tác giả đưa
ra dự báo và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh của cơ quan an ninh Việt Nam.
- Nguyễn Đình Sơn (2007), Phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch
Bắc bộ và tác động của nó tới quốc phòng – an ninh, luận án tiến sĩ kinh tế,
chuyên ngành kinh tế chính trị, Học viện Chính trị - quân sự. Luận án đã đưa
ra quan niệm về kinh tế du lịch, phát triển kinh tế du lịch, phân tích tác động
của phát triển kinh tế du lịch đối với quốc phòng, an ninh; đề cập một số kinh
nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế du lịch kết hợp với quốc phòng, an ninh
và rút ra bài học vận dụng cho Việt Nam; đánh giá thực trạng và đưa ra
phương hướng, mục tiêu, giải pháp cơ bản phát triển kinh tế du lịch ở vùng du
lịch Bắc bộ kết hợp với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh.
- Nguyễn thị Minh Loan (2008), Tác động của hoạt động du lịch với
vấn đề giữ gìn trật tự an toàn xã hội ở Quảng Ninh, thực trạng và giải pháp,
đề tài khoa học cấp cơ sở, Học viện Cảnh sát nhân dân. Đề tài đã phân tích rõ
hoạt động du lịch và mối quan hệ giữa hoạt động du lịch với giữ gìn trật tự an
toàn xã hội; phân tích đặc điểm, thực trạng hoạt động du lịch ở Quảng Ninh;
làm rõ tác động của hoạt động du lịch đến giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên
địa bàn tỉnh Quản Ninh. Trên cơ sở đó đưa ra dự báo tác động và một số giải
pháp góp phần ngăn chặn tiêu cực của hoạt động du lịch đối với trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Quản Ninh thời gian tới.
- Nguyễn Văn Tự (2008), Khánh Hòa gắn kết phát triển kinh tế - xã hội
với tăng cường quốc phòng, an ninh trong giai đoạn mới, Tạp chí Quốc
phòng toàn dân, số 10/2008. Trong đó, tác giả phân tích, làm rõ nét nổi bật
của Khánh Hòa trong quá trình kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường quốc phòng, an ninh; chỉ rõ thực chất của sự kết hợp, thực trạng, đưa ra
phương phương và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã
hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh ở Khánh Hòa trong thời gian tới.
7
- Nguyễn Văn Khánh (2011), An ninh trong hoạt động du lịch quốc tế ở
thành phố Hà Nội và một số tỉnh thành phía Bắc. Thực trạng và giải pháp, Đề
tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an. Đề tài đã chỉ rõ thực trạng an ninh trong
hoạt động du lịch quốc tế ở thành phố Hà Nội và đề xuất một số giải pháp đối
với công tác an ninh trong hoạt động này thời gian tới. Trong đó, lực lượng vũ
trang địa phương cần phát huy vai trò tham mưu cho Đảng và Nhà nước và
lãnh đạo, chính quyền địa phương về lĩnh vực an ninh trật tự khi thực hiện
các dự án du lịch trọng điểm tại những khu vực có vị trí quan trọng về an ninh
của địa phương và của đất nước; làm tốt công tác xây dựng kế hoạch tác chiến
phương án huy động lực lượng, thường xuyên tổ chức huấn luyện diễn tập các
phương án chiến đấu cho lực lượng an ninh khu vực, lao động trong các
doanh nghiệp kinh doanh du lịch, động viên các doanh nghiệp, các thành phần
kinh tế tham gia thực hiện các nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, sẵn sàng cho
huy động lực lượng và cơ sở vật chất khi có tình huống đặt ra; kiên quyết đề
nghị xử lý kịp thời đối với những doanh nghiệp, những tập thể và các cá nhân
không thực hiện các nhiệm vụ an ninh trật tự; có chế tài đủ mạnh để xử lý
nghiêm minh những trường hợp chống đối theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật hiện hành v.v...
- Nguyễn Anh Tuấn (2011), Gắn phát triển kinh tế du lịch với củng cố
quốc phòng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, Tạp chí Quốc phòng toàn dân điện
tử, ngày 07/4/2011. Nội dung bài viết khái quát đặc điểm tự nhiên tỉnh Khánh
Hòa và đưa ra một số giải pháp gắn phát triển kinh tế du lịch với quốc phòng,
an ninh ở tỉnh Khánh Hòa bao gồm, nâng cao nhận thức cho các lực lượng;
làm tốt công tác quy hoạch; kiện toàn, nâng cao chất lượng tổ chức dân quân
tự về, dự bị động viên; phát huy vai trò lực lượng quân đội trong thực hiện
gắn phát triển kinh tế du lịch với quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh.
- Nghiêm Xuân Yêm (2014), Về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, phòng chống tội phạm trong tình
8
hình hiện nay, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 14/11/2014. Bài viết luận giải
cơ sở lý luận, thực tiễn và chỉ ra một số vấn đề cần quan tâm về kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, phòng chống tội
phạm ở nước ta hiện nay.
Tóm lại, mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến phát
triển kinh tế du lịch nói chung, phát triển kinh tế du lịch ở Thành phố Hà Nội
và huyện Ba Vì nói riêng và nghiên cứu về kết hợp hay gắn phát triển kinh tế,
trong đó có kinh tế du lịch với đảm bảo quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự
an toàn xã hội. Song chưa có công trình nào nghiên cứu về phát triển kinh tế
du lịch gắn với giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì, Thành
phố Hà Nội. Vì vậy, đề tài “Phát triển kinh tế du lịch gắn với giữ gìn trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn Huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội” không trùng lặp
với các các công trình, đề tài đã nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu:
Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn phát triển kinh tế du lịch gắn với giữ
gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, trên cơ
sở đó luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế du lịch
gắn với giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Huyện Ba Vì, Thành phố
Hà Nội trong thời gian tới .
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận giải quan niệm, nội dung và sự cần thiết phát triển kinh tế du
lịch gắn với giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn Huyện Ba Vì, Thành
phố Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế du lịch gắn với giữ gìn trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn Huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội thời gian qua và xác
định những vấn đề đặt ra cần giải quyết
9
- Đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế du lịch gắn với
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn Huyện ba Vì, Thành phố Hà Nội
trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu phát triển kinh tế du lịch gắn với giữ gìn trật tự an toàn xã hội
dưới góc độ kinh tế chính trị học Mác - Lê nin
* Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu phát triển kinh tế du lịch gắn với giữ gìn trật tự an toàn xã
hội trên địa bàn Huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.
- Số liệu đánh giá thực trạng được thực hiện chủ yếu từ năm 2011 đến 2015.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận, thực tiễn:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng
Hồ chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và kết quả nghiên cứu của các
công trình liên quan đến kết hợp giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc
phòng, an ninh nói chung, đến phát triển kinh tế, trong đó có phát triển kinh tế
du lịch và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội nói riêng là cơ sở lý luận của đề tài.
Đồng thời, các số liệu thống kê, báo cáo của các cơ quan chức năng về phát
triển kinh tế du lịch và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba
Vì… là cơ sở thực tiễn của đề tài luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị là trừu
tượng hoá khoa học và các phương pháp nghiên cứu như: kết hợp lô gíc với
lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia
để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
10
6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm những luận
cứ khoa học giúp Đảng bộ, Chính quyền, các cơ quan chức năng Huyện Ba
Vì, Thành phố Hà Nội tham khảo trong xác định chủ trương, giải pháp vừa
bảo đảm thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch, vừa giữ gìn tốt hơn trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của Huyện Ba Vì nói
riêng, của Thành phố Hà Nội nói chung.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy
và học tập môn kinh tế chính trị trong các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục danh mục tài liệu tham khảo,
mục lục, phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
DU LỊCH GẮN VỚI GIỮ GÌN TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Một số vấn đề chung về phát triển kinh tế du lịch và giữ gìn trật
tự an toàn xã hội
1.1.1. Khái niệm về du lịch và phát triển kinh tế du lịch
* Khái niệm về du lịch
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về du lịch. Hội nghị Quốc tế về
thống kê du lịch năm 1991 tại Otawa (Canada) định nghĩa: Du lịch là hoạt
động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên, trong một
khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định
trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm
tiền trong phạm vi vùng tới thăm.
Khoa Du lịch và Khách sạn - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội
cho rằng: Du lịch là ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng
dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ của những doanh nghiệp,
nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, thăm quan, giải trí, tìm
hiểu và các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi
ích kinh tế, chính trị - xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân
doanh nghiệp.
Trong Điều 4, Chương I, Luật Du lịch Việt Nam, xác định: Du lịch là
các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí,
nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định....
Từ các định nghĩa trên cho thấy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc
thù, gồm nhiều thành phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp.
Hoạt động du lịch vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của
12
ngành văn hóa – xã hội. Mặc dù có rất nhiều quan niệm và cách định nghĩa
khác nhau về du lịch. Song tác giả luận văn cho rằng, định nghĩa về du lịch
trong Luật Du lịch Việt Nam là phù hợp.
* Các loại hình du dịch
Có nhiều cách phân chia du lịch theo các tên gọi khác nhau.
Thứ nhất, căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi, du lịch được phân
thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa.
Thứ hai, theo môi trường tài nguyên, du lịch được xác định gồm: du
lịch văn hóa và du lịch thiên nhiên.
Thứ ba, căn cứ vào mục đích chuyến đi, có các loại hình: du lịch chữa
bệnh, du lịch nghỉ ngơi, giải trí, du lịch thể thao, du lịch văn hóa, du lịch công
vụ; du lịch thương gia, du lịch tôn giáo…
Thứ tư, căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi, du lịch được phân
thành du lịch theo đoàn và du lịch cá nhân.
Thứ năm, theo phương tiện đi lại của hoạt động du lịch, các hình thức
du lịch gồm: du lịch xe đạp, ôtô, tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay.v...
* Khái niệm kinh tế du lịch
Theo cách hiểu thông dụng nhất, kinh tế du lịch là hiệu quả kinh tế do
du lịch mang lại. Vì vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về kinh tế du lịch.
Theo tác giả Đổng Ngọc Minh và Vương Đình Lôi (Trung Quốc): “Kinh tế du
lịch là một hoạt động kinh tế, là tổng thể các hành vi phối hợp với nhau của
hoạt động kinh tế nói chung với hoạt động kinh tế du lịch nhằm đáp ứng nhu
cầu về du lịch” [36, tr.228].
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Kinh tế du lịch là một loại
hình kinh tế có tính đặc thù mang tính dịch vụ và thường được xem như ngành
công nghiệp không khói, gồm du lịch quốc tế và du lịch trong nước, có chức
năng nhiệm vụ tổ chức việc khai thác tài nguyên và cảnh quan của đất nước...
13
nhằm thu hút khách du dịch trong nước và ngoài nước tổ chức buôn bán xuất,
nhập khẩu tại chỗ hàng hóa dịch vụ cho khách du lịch” [47, tr.586].
Các quan niệm trên về kinh tế du lịch mới chỉ đề cập đến mặt kinh tế –
kỹ thuật là chủ yếu mà chưa, hoặc có đề cập nhưng chưa thực sự rõ nét mặt
kinh tế – xã hội trong hoạt động kinh doanh du lịch. Tiếp cận dưới góc độ
kinh tế chính trị, quan niệm kinh tế du lịch của tác giả Nguyễn Đình Sơn là
khá hợp lý khi cho rằng: “Kinh tế du lịch là một ngành kinh tế kinh doanh trên
lĩnh vực du lịch dịch vụ, nó là một loại hình kinh tế phản ánh bước tiến mới
của của lực lượng sản xuất, là quá trình tổ chức khai thác các tài nguyên du
lịch của đất nước thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách du lịch trong và
ngoài nước, tổ chức buôn bán, xuất nhập khẩu tại chỗ hàng hóa và dịch vụ
thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng cho du khách, góp phần nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho con người, thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển. Ở các
quốc gia có chế độ chính trị – xã hội khác nhau thì có mục đích, tính chất và
chiến lược phát triển kinh tế du lịch khác nhau” [45, tr.23].
Như vậy, kinh tế du lịch là hoạt động có tính chuyên nghiệp. Trong
ngành đó, có những người chuyên làm công việc xây dựng, tiếp thị, quảng bá
và thực hiện các chương trình du lịch phục vụ nhu cầu đa dạng của du khách,
mà trong nghề thường gọi là các tour. Nói cách khác, du lịch là một ngành
kinh tế có chức năng tổ chức các dịch vụ phục vụ những nhu cầu du lịch của
khách như: đi lại, ăn ở, vui chơi, nghỉ ngơi, thăm viếng, tham quan, khám phá,
thử thách… Cũng có thể hiểu, kinh tế du lịch là một lĩnh vực thuộc ngành
kinh tế dịch vụ, bằng hoạt động cung ứng sản phẩm du lịch, thông qua các tổ
chức sản xuất kinh doanh thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch, nhằm thu được
lợi ích kinh tế và xã hội từ các hoạt động đó.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể khái quát: kinh tế du lịch là ngành
kinh tế dịch vụ, ngành kinh doanh trong lĩnh vực cung ứng sản phẩm du lịch,
thoả mãn nhu cầu tinh thần của du khách, nhằm đem lại lợi ích kinh tế, chính
14
trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân doanh nghiệp du lịch.
Kinh tế du lịch là ngành công nghiệp không khói, ngành sản xuất phi vật chất
nhưng mang lại những giá trị vật chất và tinh thần rất cao. Kinh tế du lịch ra
đời và phát triển như một tất yếu khách quan, trở thành một ngành kinh tế độc
lập với những đặc trưng riêng.
* Đặc điểm của kinh tế du lịch
Thứ nhất, kinh tế du lịch mang tính nhạy cảm. Do ngành kinh tế du lịch
gồm nhiều bộ phận tạo thành nên trong quá trình cung cấp dịch vụ đối với du
khách nhà cung ứng cần bố trí chính xác về thời gian, có kế hoạch chu đáo chi
tiết về nội dung các hoạt động, cần phải kết hợp một cách hữu cơ, liên hệ chặt
chẽ giữa các khâu đi lại, du ngoạn, ăn ở, vui chơi, giải trí, mua sắm… Hơn
nữa, các nhân tố thiên nhiên, chính trị, kinh tế và xã hội như chiến tranh, động
đất, khủng bố kinh tế, dịch bệnh… đều ảnh hưởng lớn và gây cản trở đối với
sự phát triển kinh tế du lịch.
Thứ hai, kinh tế du lịch mang tính thời vụ. Do ảnh hưởng của yếu tố địa lý
tự nhiên, thời tiết khí hậu, nên du lịch hầu khắp các nước đều mang “tính thời
vụ” đặc trưng. Chẳng hạn, loại hình du lịch biển thường rất đông khách vào mùa
hè, vắng khách vào mùa đông, ngược lại loại hình du lịch leo núi, trượt tuyết thì
thường vắng khách vào mùa hè nhưng lại nhiều khách vào mùa đông.
Thứ ba, kinh tế du lịch mang tính chi phí, tính tổng hợp cao. Mục đích
của khách du lịch là hưởng thụ các sản phẩm du lịch chứ không phải với mục
tiêu kiếm tiền. Du khách sẵn sàng trả những khoản chi phí trong chuyến đi của
mình về các khoản dịch vụ như: ăn, uống, ở, đi lại và nhiều các chi phí khác
nhằm thực hiện được mục đích vui chơi, giải trí, hưởng thụ vẻ đẹp của thiên
nhiên, giá trị văn hoá, lịch sử... Vì vậy, sản phẩm của ngành kinh tế du lịch là
sản vật tác dụng chung của nhiều bộ phận, là sản phẩm tổng hợp được biểu
hiện ra bằng nhiều loại dịch vụ.
Thứ tư, kinh tế du lịch mang tính đa ngành. Điều này được thể hiện ở
đối tượng khai thác phục vụ cho hoạt động du lịch. Du lịch sẽ không phát triển
15
được nếu không có sự trợ giúp của các ngành kinh tế - xã hội khác như bảo
hiểm, y tế, giao thông vận tải, môi trường... Ngược lại, du lịch cũng mang lại
nguồn thu cho nhiều ngành kinh tế khác nhau thông qua các sản phẩm dịch vụ
cung cấp cho khách du lịch như: điện, nước, hàng nông sản, hàng thủ công mỹ
nghệ, tranh ảnh, sách báo…
* Phát triển kinh tế du lịch
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin: phát triển là một quá trình
vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn. Vì vậy, có thể tiếp cận phát triển kinh tế du lịch trên cơ sở
sự hoàn thiện không ngừng cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Các mối liên hệ kinh tế nảy sinh và vận hành trong kinh tế du lịch thể hiện
trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất, bao gồm: quan hệ giữa người với người
trong sở hữu về tư liệu sản xuất để sản xuất và cung ứng các dịch vụ du lịch;
quan hệ giữa người với người trong quá trình tổ chức điều hành, quản lý
việc sản xuất và cung ứng các dịch vụ du lịch và quan hệ trong tổ chức phân
phối các sản phẩm, dịch vụ du lịch. Các quan hệ trên diễn ra ở cả bốn khâu
của quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng các sản phẩm, dịch
vụ du lịch. Vì vậy, có thể quan niệm: Phát triển kinh tế du lịch là mở rộng
quy mô hoạt động kinh doanh du lịch, nâng cao chất lượng, hiệu quả khai
thác, sử dụng các nguồn tài nguyên du lịch, giải quyết hài hóa các lợi ích,
đáp ứng nhu cầu của du khách trong nước và quốc tế, làm tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho nhân dân.
Cũng như những ngành kinh tế khác, phát triển kinh tế du lịch cũng cần
có những điều kiện và những yếu tố tiền đề để thúc đẩy kinh tế du lịch phát
triển. Trong đó, đáng chú ý một số điểm sau:
Thứ nhất, nền kinh tế phải phát triển ở một trình độ nhất định, người dân
có thu nhập đủ sống mới có điều kiện đi du lịch.
16
Thứ hai, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế phát triển đặc biệt là các ngành
nghề phục vụ ngành du lịch như: giao thông vận tải, phục vụ ăn nghỉ, vui chơi
giải trí v.v...
Thứ ba, có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển ngành du lịch.
Thứ tư, trật tự, an toàn xã hội tốt, thủ tục thông thoáng cho du khách.
1.1.2. Khái niệm về giữ gìn trật tự an toàn xã hội
* Khái niệm về trật tự, an toàn xã hội
Ở Việt nam thuật ngữ “ Trật tự an toàn xã hội” được sử dụng chính thức
trong văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV và trong hiến
pháp năm 1992. “Trật tự an toàn xã hội là trạng thái xã hội bình yên, trong
đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy
tắc và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định” [6],[23,trang13].
Trật tự an toàn xã hội là hệ thống các quan hệ xã hội được hình thành và
điều chỉnh bởi hệ thống các quy phạm pháp luật của Nhà nước, quy phạm đạo
đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng của mỗi dân tộc, quốc gia,
nhờ đó mọi công dân được sống, lao động yên ổn, có tổ chức, có kỷ cương,
mọi quyền và lợi ích chính đáng được tôn trọng, bảo vệ và không bị xâm hại.
Trật tự an toàn xã hội bao gồm nhiều nội dung tạo nên một trạng thái xã
hội bình yên, có trật tự, kỷ cương, bao gồm: an ninh xã hội được bảo đảm,
công tác phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao, hạn chế tới mức thấp nhất
tội phạm hình sự; Trật tự an toàn giao thông, hoạt động giao thông được
thông suốt, an toàn, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông; Trật tự công cộng,
vệ sinh, văn hóa, mỹ quan được tuân thủ, chấp hành, trong lao động, sinh
hoạt, nghỉ ngơi, phong tục, tập quán được thừa nhận tình trạng yên ổn, có trật
tự, tôn trọng lẫn nhau; Phòng ngừa tai nạn, bài trừ tệ nạn, nhất là tệ nạn mại
dâm, mê tín dị đoan; Bảo vệ môi trường được thực hiện tốt nhất [23].
* Khái niệm giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
Giữ gìn trật tự an toàn xã hội là giữ gìn cho bộ máy chính quyền, xã hội
được an toàn, có trật tự, kỷ cương và phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh
17
chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn
trật tự nơi công cộng, bảo đảm trật tự an toàn giao thông, phòng ngừa tai nạn, bài
trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường [23, trang 14]. Khoản 2, điều 3 Luật Công an
nhân dân quy định: “. Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là phòng ngừa, phát
hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật
về trật tự, an toàn xã hội.”
Giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, lực
lượng Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt và có chức năng tham mưu,
hướng dẫn và trực tiếp tham gia triển khai thực hiện. Giữ gìn trật tự, an toàn
xã hội bao hàm nhiều nội dung như: đấu tranh phòng, chống tội phạm; giữ gìn
trật tự công cộng; đảm bảo trật tự an toàn giao thông; tham gia phòng ngừa tai
nạn, bài trừ tệ nạn xã hội; bảo vệ môi trường. Trong đó:
Đấu tranh phòng, chống tội phạm bao gồm đấu tranh phòng chống các
loại tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người; các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; các tội xâm
phạm quyền sở hữu, các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, các tội xâm phạm về môi trường; các tội
phạm về ma túy; các tội xâm phạm an toàn công cộng; các tội xâm phạm trật
tự quản lý hành chính; các tội phạm về tham nhũng; các tội phạm về chức vụ;
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp . Đấu tranh phòng, chống tội phạm là
việc tiến hành các biện pháp loại trừ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm;
phát hiện để ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội, hạn chế đến mức thấp
nhất hậu quả, tác hại do tội phạm gây ra cho xã hội; điều tra khám phá tội
phạm và người phạm tội để đưa ra xử lí trước pháp luật đảm bảo đúng người,
đúng tội; giáo dục, cải tạo người phạm tội giúp họ nhận thức được lỗi lầm và
cố gắng cải tạo tốt, có thể tái hoà nhập cộng đồng xã hội, trở thành người
lương thiện, sống có ích cho xã hội. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
đang diễn ra quyết liệt, đa dạng và ngày càng phức tạp. Đặc biệt là sự xuất
18
hiện những loại tội phạm mới, phương thức thủ đoạn mới phi truyền thống
như tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm về
môi trường, tội phạm tiền giả quốc tế, rửa tiền, tội phạm mua bán người, tội
phạm về ma túy…
Giữ gìn trật tự nơi công cộng. Trật tự công cộng là trạng thái xã hội có
trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở
những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo. Trật tự công cộng là một
mặt của trật tự, an toàn xã hội và có nội dung bao gồm những quy định chung
về trật tự, yên tĩnh, vệ sinh, nếp sống văn minh; sự tuân thủ những quy định
của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận.
Giữ gìn trật tự nơi công cộng chính là giữ gìn trật tự, yên tĩnh chung, giữ gìn
vệ sinh chung, duy trì nếp sống văn minh ở những nơi công cộng - nơi diễn ra
các hoạt động chung của nhiều người, đảm bảo sự tôn trọng lẫn nhau trong
lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi của mọi người.
Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông. Trật tự, an toàn giao thông là trạng
thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp
luật trong lĩnh vực giao thông, vận tải công cộng mà mọi người phải tuân theo
khi tham gia giao thông, nhờ đó đảm bảo cho hoạt động giao thông thông
suốt, có trật tự, an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông gây
thiệt hại về người và tài sản. Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông không phải
là nhiệm vụ của riêng các lực lượng chức năng (cảnh sát giao thông, thanh tra
giao thông công chính...) mà là trách nhiệm của tất cả mọi người khi tham gia
giao thông. Đó là việc nắm vững và tuân thủ nghiêm túc Luật giao thông, mọi
hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông phải được xử lí
nghiêm khắc, những thiếu sót, yếu kém là nguyên nhân, điều kiện gây ra các
vụ tai nạn giao thông phải được khắc phục nhanh chóng.
Phòng ngừa tai nạn lao động, chống thiên tai, phòng ngừa dịch bệnh.
Đó là các biện pháp phòng ngừa không để xẩy ra tai nạn lao động và luôn tích
19
cực, chủ động trong phòng chống thiên tai, dịch bệnh. Tai nạn là những việc
rủi ro, bất ngờ xảy ra gây thiệt hại cho con người. Trong thực tế, tai nạn xảy
ra ngoài ý muốn chủ quan của con người. Chính vì vậy, công tác phòng ngừa
tai nạn giữ vai trò quyết định trong việc giảm thiểu thiệt hại do tai nạn gây ra.
Phòng chống và bài trừ các tệ nạn xã hội: Tệ nạn xã hội là hiện tượng xã
hội bao gồm những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, có tính phổ biến như: vi
phạm nguyên tắc về lối sống, truyền thống văn hoá, đạo đức, trái với thuần
phong mỹ tục, các giá trị xã hội tốt đẹp; vi phạm những quy tắc đã được thể
chế hoá bằng pháp luật, kể cả pháp luật hình sự, làm ảnh hưởng xấu về đạo đức
và gây hậu quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng. Tệ nạn xã hội bao
gồm: mại dâm, nghiện ma túy, cờ bạc, mê tín dị đoan.... Tệ nạn xã hội là cơ sở
xã hội của tình trạng phạm tội, là một trong những nguồn gốc phát sinh tội
phạm.Tệ nạn xã hội ở nước ta chịu ảnh hưởng lớn của vấn đề văn hóa truyền
thống bị xói mòn, lối sống thực dụng và sự xuống cấp của đạo đức xã hội của
một bộ phận dân cư. Phòng, chống tệ nạn xã hội là nhiệm vụ của toàn xã hội,
phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, bằng những biện pháp đồng bộ,
tích cực, kiên quyết và triệt để.
Bảo vệ môi trường. Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời
sống của con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất
nước, dân tộc và nhân loại. Bảo vệ môi trường là tập hợp những biện pháp giữ
cho môi trường trong sạch, sử dụng hoặc phục hồi một cách hợp lý sinh giới
(vi sinh vật, thực vật, động vật) và môi sinh (đất, lòng đất, nước, không khí,
khí hậu...), đảm bảo sự cân bằng sinh thái... nhằm tạo ra một không gian tối
ưu cho cuộc sống của con người.
1.1.3. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế du lịch với giữ gìn trật tự,
an toàn xã hội
Phát triển kinh tế du lịch và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là hai lĩnh
vực khác nhau, hoạt động theo những quy luật riêng, song giữa chúng có mối
20
liên hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau, nếu tác động tích cực sẽ thúc
đẩy nhau cùng phát triển, nếu tác động tiêu cực sẽ kìm hãm sự phát triển của
nhau. Trong đó, kinh tế nói chung và kinh tế du lịch nói riêng phát triển là
tiền đề để xây dựng và củng cố, thiết lập nền trật tự, an toàn xã hội của quốc
gia nói chung và của địa phương nói riêng. Ngược lại, trật tự, an toàn xã hội
được giữ vững sẽ tạo điều kiện để kinh tế du lịch phát triển ổn định và bền
vững, đặc biệt là những địa phương có tiềm năng, lợi thế, có điều kiện để phát
triển kinh tế du lịch.
Sự phát triển của kinh tế du lịch vừa tạo tiền đề, điều kiện cho giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội, vừa đặt ra với giữ gìn trật tự, an toàn xã hội nhiều vấn
đề phải giải quyết. Điều này thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
Kinh tế du lịch phát triển làm tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương,
góp phần tích cực trong tạo và giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người
lao động. Đây là yếu tố quan trọng bảo đảm cho công tác giữ gìn trật tự, an toàn
xã hội được giữ vững, tăng cường.
Về mặt hình thức hoạt động du lịch bao gồm nhiều nội dung liên quan
đến yêu cầu giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Chẳng hạn như du lịch vận chuyển
nhằm đưa khách từ nơi cư trú đến các địa điểm du lịch. Để thực hiện nội dung
này người ta có thể sử dụng nhiều loại phương tiện như máy bay, tàu hỏa, tàu
thủy, ô tô, xe máy... Đồng thời, để đảm bảo cho du khách thực hiện nhu cầu
du lịch thì vấn đề nhà trọ, khách sạn, vấn đề ăn ở, sinh hoạt, nhu cầu văn
hóa, vui chơi giải trí, mua sắm, … cũng cần được quan tâm đáp ứng. Với
hình thức phong phú như vậy, liên quan đến công tác tổ chức làm sao để
đảm bảo an toàn, thuận lợi cho chuyến du lịch của các du khách, vấn đề này
liên quan đến giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Nghịch lý của vấn đề là ở chỗ
lượng du khách càng đông, du lịch càng sầm uất thì áp lực đặt ra đối với yêu
cầu giữ gìn trật tự, an toàn xã hội càng lớn. Hơn nữa, du khách đi du lịch
không chỉ tập trung ở những trung tâm kinh tế chính trị văn hóa, mà cả
21
những nơi hẻo lánh nguyên sơ đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn sự yên tĩnh
(du lịch môi trường sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng...) của con người. Với tính
cơ động cao về địa bàn du lịch như vậy, công tác quản lý con người, quản lý
nhân khẩu, hộ khẩu, ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh các loại tội phạm lợi
dụng các hoạt động du lịch là rất phức tạp, khó khăn. Đôi khi bọn tội phạm
đã lợi dụng chính địa bàn du lịch để lẩn trốn, hoặc thực hiện hành vi phạm
tội. Xét từ góc độ này lĩnh vực kinh tế du lịch có quan hệ nhân quả với lĩnh
vực giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Hoạt động du lịch là nơi tập trung của các quan hệ xã hội đa dạng, tính
liên ngành, đan chéo, phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau làm cho mối liên hệ
của nó với lĩnh vực giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trở lên rõ nét hơn. Du lịch
với nhiều loại hình, du lịch tài nguyên thiên nhiên, du lịch nhân văn đặt ra
những yêu cầu không chỉ là quản lý con người quản lý du khách, mà bản thân
các hoạt động kinh tế du lịch luôn nảy sinh các ngành nghề kinh doanh đặc
biệt như cho thuê nhà trọ, khách sạn nhà hàng ngày càng phát triển đặt ra yêu
cầu đối với giữ gìn trật tự, an toàn xã hội như vấn đề quản lý các phần tử
chống đối, tình báo, tuyên truyền chính trị, tôn giáo, kích động bạo loạn; quản
lý phương tiện phục vụ cho hoạt động kinh tế du lịch; vấn đề đảm bảo an toàn
xã hội, an toàn vui chơi giải trí, an toàn giao thông, yêu cầu về trật tự công
cộng; yêu cầu về công tác phòng cháy chữa cháy, vấn đề tệ nạn xã hội nảy
sinh trong môi trường hoạt động kinh tế du lịch v.v...
Một trong những vấn đề cần chú ý là tính không ổn định của thị trường
du lịch. Do tính đặc thù thị trường du lịch vốn không ổn định, sự đột biến, do
cung và cầu các sản phẩm du lịch tăng giảm theo thời vụ. Tình trạng này
thường kéo theo hiện tượng đầu cơ, nâng giá, lối làm ăn chụp giật, trái pháp
luật, thậm chí có cả những hiện tượng lợi dụng sự nhạy cảm và thất thường
của thị trường du lịch để thực hiện những hành vi chèn ép, tước đoạt tài sản
công dân, lừa đảo, buôn bán hàng giả, bán hàng không đúng với giá cả thị
22
trường và các tệ nạn xã hội như cờ bạc, mê tín dị đoan, mại dâm, ma túy…
thường nảy sinh ở những khu du lịch, làm ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự,
an toàn xã hội.
Do tác động của quy luật thị trường, lợi nhuận là mục tiêu động lực của
các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ. Một số doanh nghiệp, cá nhân tìm
mọi cách để đạt được lợi nhuận tối đa. Họ chạy theo lợi nhuận đơn thuần, bất
chấp đạo lý, chỉ thấy được cái lợi trước mắt, không thấy được cái hại lâu dài
cho cộng đồng. Theo đó, tài nguyên du lịch bị khai thác bừa bãi, môi trường
sống bị ô nhiễm, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, làm phương hại đến lợi ích của
cộng đồng. Bên cạnh đó, một số đối tượng lợi dụng du lịch để truyền bá văn
hóa phẩm đồi trụy, lối sống “lai căng”, làm ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc
sống, đến văn hóa và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Điều này đòi hỏi việc
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội phải được tăng cường cùng với sự phát triển của
kinh tế du lịch.
Giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế du lịch là hai lĩnh
vực có quan hệ biện chứng, nhân quả tác động lẫn nhau. Sẽ không thể phát
triển kinh tế du lịch nếu tình hình trật tự, an toàn xã hội không đảm bảo. Trật
tự, an toàn xã hội tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế du lịch thể hiện ở
một số nội dung sau:
Làm tốt công tác đấu tranh phòng chống tội phạm sẽ tạo môi trường để
phát triển kinh tế du lịch bền vững, hiệu quả. Thực tế cho thấy, do tính đặc
thù của kinh tế du lịch đặt ra yêu cầu hàng đầu là yếu tố an toàn. Nếu mất an
toàn, tâm trạng lo lắng, thì không thể bảo đảm kinh doanh du dịch hiệu quả.
Bởi vậy, bảo đảm trật tự, an toàn, thuận lợi, là mối quan tâm hàng đầu của các
nhà hoạch định chính sách phát triển kinh tế du lịch. Điều đó nói lên tính phụ
thuộc lẫn nhau giữa phát triển kinh tế du lịch với công tác giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội .
23
Giữ gìn trật tự nơi công cộng là một nội dung của công tác giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội có vai trò quan trọng thúc đẩy các hoạt động kinh
doanh và tiếp thị mở rộng thị trường du lịch. Kinh nghiệm thực tiễn cho
thấy, môi trường xã hội ổn định là điều kiện hàng đầu để thu hút khách du
lịch, nhất là đối với các loại hình du lịch lễ hội, du lịch nghỉ mát, vui chơi
giải trí hoặc loại hình du lịch thể thao.
Công tác phòng ngừa tai nạn (tai nạn thiên nhiên và tai nạn xã hội) với
sự phát triển kinh tế du lịch có quan hệ mật thiết với nhau. Về bản chất du lịch
luôn hướng đến sự thưởng ngoạn, vui chơi, thỏa mãn nhu cầu và đem đến cho
con người cảm giác hạnh phúc. Vì thế, công tác phòng ngừa tai nạn trong giữ
gìn trật tự, an toàn xã hội là một trong những nội dung quan trọng đối với
thúc đẩy kinh tế du lịch phát triển.
Bài trừ tệ nạn xã hội thuộc nội dung công tác giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội và có quan hệ mật thiết với phát triển kinh tế du lịch. Thực tiễn đấu tranh
phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội cho thấy tệ nạn xã hội luôn lấy du lịch
làm mảnh đất để hoạt động. Du lịch và tệ nạn xã hội dường như song hành.
Tệ nạn xã hội chính là mặt trái của hoạt động du lịch. Các đối tượng tệ nạn xã
hội như mại dâm, cờ bạc, bói toán, mê tín dị đoan, lối sống hiện sinh, đồi trụy,
trác táng thường nảy sinh từ mảnh đất du lịch. Do đó làm tốt công tác bài trừ
tệ nạn xã hội có tác động tích cực nhằm ngăn chặn mặt trái trong phát triển
kinh tế du lịch.
Hoạt động du lịch trong thời kỳ đổi mới, mở cửa hiện nay đang là
ngành kinh tế mũi nhọn, ngành công nghiệp không khói hàng năm thu về
nguồn lợi nhuận to lớn. Chính vì bùng nổ của nhu cầu du lịch mà cuộc cạnh
tranh trong hoạt động du lịch trở lên khốc liệt. Không thể chấp nhận hiện
tượng cạnh tranh không lành mạnh, lối làm ăn phi pháp, bất chấp các chuẩn
mực pháp luật và các chuẩn mực đạo đức. Bởi vậy, ngăn chặn các tệ nạn xã
hội cũng đồng nghĩa với việc làm lành mạnh hóa hoạt động kinh tế du lịch,
24
khắc phục sự chệch hướng, bảo đảm tính văn hóa, nhân văn của kinh tế du
lịch trong tình hình hiện nay.
Phòng chống ô nhiễm môi trường là một nội dung của công tác giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội. Với hoạt động kinh tế du lịch vấn đề môi trường sinh
thái cấu thành yếu tố tài nguyên du lịch, là nguồn lực cho sự phát triển của
kinh tế du lịch. Nhìn từ góc độ này, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội góp phần
thúc đẩy và bảo đảm cho sự phát triển bền vững của kinh tế du lịch.
1.2. Quan niệm, nội dung và sự cần thiết phát triển kinh tế du lịch
gắn với giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì, thành
phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm phát triển kinh tế du lịch gắn với giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
Từ quan niệm phát triển kinh tế du lịch và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
đã nêu ở trên, có thể quan niệm: Phát triển kinh tế du lịch gắn với giữ gìn trật
tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì là tổng thể các hoạt động chủ động
của Đảng bộ, chính quyền các cấp, cơ quan chức năng quản lý, từng cơ sở,
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch và người dân huyện
Ba Vì trong việc phát triển, mở rộng quy mô kinh doanh du lịch, nâng cao chất
lượng hoạt động dịch vụ du lịch đồng thời kết hợp tuyên truyền, tăng cường
triển khai, thực hiện tốt công tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội, kịp thời phòng
ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi
phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, hướng tới sự phát triển kinh tế du
lịch bền vững, xã hội bình yên, có tổ chức, có kỷ cương, mọi quyền và lợi ích
chính đáng của người dân được tôn trọng bảo vệ.
Quan niệm trên chỉ rõ:
Chủ thể, lực lượng trong gắn phát triển kinh tế du lịch với giữ gìn trật
tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì là Đảng bộ, chính quyền các cấp,
của các ngành chức năng, của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh
du lịch và mọi người dân trên địa bàn huyện với tổng thể các hoạt động bao
25
gồm: lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế du lịch và giữ
gìn trật tự, an toàn xã hội.
Mục đích gắn phát triển kinh tế du lịch với giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
trên địa bàn huyện Ba Vì là nhằm bảo đảm cho sự phát triển cân đối, nhịp
nhàng, hợp lý của hai nhiệm vụ phát triển kinh tế du lịch và giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội, bảo đảm mỗi bước phát triển kinh tế du lịch cũng đồng thời bảo
đảm cho trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì được giữ vững, hướng
tới sự phát triển bền vững của huyện Ba Vì.
Nội dung gắn phát triển kinh tế du lịch với giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
trên địa bàn huyện Ba Vì thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội của huyện nói chung, kế hoạch phát triển kinh tế du lịch
và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội nói riêng cũng như trong thực tế triển khai
thực hiện các hoạt động phát triển kinh tế du lịch và giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội trên địa bàn huyện Ba Vì.
Phương thức gắn phát triển kinh tế du lịch với giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội trên địa bàn huyện Ba Vì vừa gián tiếp, vừa trực tiếp thông qua việc xây
dựng chiến lược, chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện trên thực tế nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch theo đúng lộ trình, hợp pháp, hợp Hiến, đồng
thời thực hiện tốt công tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ an toàn tính
mạng, tài sản cho khách du lịch; phòng chống tội phạm, các phần tử xấu lợi
dụng du lịch xâm hại đến trật tự an toàn xã hội, trong kế hoạch phát triển kinh
tế du lịch luôn phải gắn với công tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Trật tự an
toàn xã hội được giữ vững góp phần nâng cao uy tín, thương hiệu, tạo niềm tin
cho du khách yên tâm đến thăm quan du lịch, vui chơi, thoải mái, tăng lượng
khách du lịch, thúc đẩy kinh tế du lịch phát triển.
1.2.2. Nội dung phát triển kinh tế du lịch gắn với giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
Phát triển kinh tế du lịch gắn với giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa
bàn huyện Ba Vì bao gồm nhiều nội dung, trong đó đáng chú ý một số nội
dung cơ bản sau:
26