Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ đảm bảo AN SINH xã hội CHO đối TƯỢNG CHÍNH SÁCH ở HUYỆN CHƯƠNG mỹ, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.48 KB, 99 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Chương 1:

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI CHO
ĐỐI TƯỢNG CHÍNH SÁCH Ở HUYỆN CHƯƠNG MỸ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ
ĐỊA PHƯƠNG

10

An sinh xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đối tượng chính sách
được bảo đảm an sinh xã hội

10

Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng tới bảo đảm an
sinh xã hội cho đối tượng chính sách ở huyện Chương Mỹ,
thành phố Hà Nội

20

Kinh nghiệm bảo đảm an sinh xã hội cho đối tượng chính sách
ở một số địa phương và bài học rút ra cho huyện Chương Mỹ,
thành phố Hà Nội

36

THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI CHO ĐỐI


TƯỢNG CHÍNH SÁCH Ở HUYỆN CHƯƠNG MỸ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN QUA

45

Thành tựu, hạn chế trong bảo đảm an sinh xã hội cho đối tượng
chính sách ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội

45

Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết từ thực
trạng bảo đảm an sinh xã hội cho đối tượng chính sách ở huyện
Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội

59

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM AN SINH XÃ
HỘI CHO ĐỐI TƯỢNG CHÍNH SÁCH Ở HUYỆN
CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI

66

1.1.
1.2.

1.3.

Chương 2:

2.1.

2.2.

3.1.
3.2.

Quan điểm chỉ đạo về bảo đảm an sinh xã hội cho đối tượng
chính sách ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội thời gian tới

66

Một số giải pháp cơ bản về bảo đảm an sinh xã hội cho đối
tượng chính sách ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội thời
gian tới

73

KẾT LUẬN

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91

PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực hiện tốt bảo đảm an sinh xã hội cho đối tượng chính sách là một

nội dung quan trọng để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Hoạt động của hệ thống ASXH là nơi thể hiện rõ nhất
tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” của nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Chính sách ASXH tạo điều kiện cho các thành viên trong xã hội, nhất là đối
tượng yếu thế trong xã hội, cảm nhận một cuộc sống yên ổn và an toàn, có
khả năng phòng ngừa những cú sốc và có những “chiếc phao cứu sinh” khi
gặp phải những biến cố, rủi ro bất thường. Dưới góc độ của khoa học kinh tế
chính trị, việc đảm bảo chính sách ASXH được xem như là một khâu của quá
trình tái sản xuất xã hội: Phân phối lại thu nhập quốc dân để tái sản xuất sức
lao động. Từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và
tổ chức thực hiện các chính sách ASXH, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động
lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa. Diện thụ hưởng chính sách ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được
nâng lên; nguồn lực đầu tư phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng lớn; nước
ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Huyện Chương Mỹ là một trong những huyện có số lượng đơn vị hành
chính rộng (có 32 xã, thị trấn), dân số đông, đối tượng chính sách tương đối
nhiều. Trong những năm qua, huyện đã phát huy tốt nguồn lực tại chỗ và tận
dụng tối đa nguồn lực hỗ trợ của Chính phủ, của thành phố Hà Nội, cũng như
của các tổ chức kinh tế, tổ chức nhân đạo, từ thiện trong và ngoài nước nhằm
thực hiện tốt việc bảo đảm ASXH cho các đối tượng chính sách trên địa bàn
Huyện. Vì vậy, đời sống của người dân cũng như đối tượng chính sách trên địa
bàn huyện Chương Mỹ đã từng bước được nâng lên. Tuy nhiên, trên thực tế
việc bảo đảm ASXH cho đối tượng chính sách tại một số xã thuộc huyện
Chương Mỹ chưa tốt, tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững, tỉ lệ hộ cận
3


nghèo thuộc đối tượng chính sách tái nghèo còn cao; mức trợ cấp xã hội còn
thấp; giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; công tác bảo vệ và

chăm sóc sức khoẻ cho đối tượng chính sách còn nhiều hạn chế; đời sống của
một bộ phận đối tượng chính sách là người nghèo còn nhiều khó khăn. Trong
khi đó, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu làm rõ cơ sở
lý luận, thực trạng, đề xuất hệ thống giải pháp đồng bộ để thực hiện tốt hơn
công tác đảm bảo ASXH cho đối tượng chính sách của huyện Chương Mỹ.
Làm thế nào để thực hiện tốt công tác bảo đảm ASXH cho đối tượng
chính sách trên địa bàn huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội là một câu hỏi
lớn cần phải có sự trả lời thỏa đáng. Với mong muốn góp phần làm rõ cơ sở lý
luận, thực tiễn giải pháp để thực hiện tốt hơn nữa công tác bảo đảm ASXH
cho đối tượng chính sách trên địa bàn huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội
thời gian tới, tôi chọn vấn đề: “Bảo đảm an sinh xã hội cho đối tượng chính
sách ở huyện Chương Mỹ – Thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học chuyên ngành kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Bảo đảm ASXH là một nhiệm vụ lớn của nước ta hiện nay, vì vậy đã có
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, trong đó đáng chú ý là công trình của
các tác giả sau:
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã xây dựng Đề án chiến lược
ASXH giai đoạn 2011-2020. Đề án đã đề cập trên góc độ lý luận về quá trình
thực hiện công tác ASXH như: quan điểm, đối tượng, mục tiêu, định hướng giải
pháp và kinh phí thực hiện ASXH.
Công trình nghiên cứu cấp nhà nước mang mã số KX 04.05: “Luận cứ
khoa học cho việc đổi mới và hoàn thiện các chính sách bảo đảm xã hội trong
điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam”, do Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội thuộc
4


Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, làm chủ đề tài. Kết quả nghiên cứu
của đề tài đề cập đến một cách hệ thống vấn đề bảo đảm xã hội như: đã làm rõ

khái niệm về bảo đảm xã hội; mối quan hệ giữa bảo đảm xã hội với các chính
sách xã hội, vị trí, vai trò và sự cần thiết khách quan của bảo đảm xã hội trong
nền kinh tế thị trường, khẳng định bảo đảm xã hội vừa là nhân tố ổn định, vừa
là động lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Đề tài đã nghiên cứu khá công phu
về các bộ phận cấu thành quan trọng của bảo đảm xã hội là BHXH, trợ giúp
xã hội, ưu đãi xã hội; đã đánh giá thực trạng của các bộ phận cấu thành này,
chỉ ra những thành tựu, hạn chế của nó và chỉ ra quan điểm, phương hướng và
giải pháp phát triển trong tương lai của hệ thống bảo đảm xã hội ở nước ta.
Luận án Tiến sỹ của tác giả Mai Ngọc Anh – Chuyên ngành quản lý
kinh tế, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội với tên đề tài: “ASXH đối
với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”. Đề tài đã nghiên
cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống ASXH đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường; tổng kết
kinh nghiệm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân ở
một số nước trên thế giới, rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào việc
xây dựng hệ thống ASXH đối với nông dân ở nước ta; khái quát thực trạng hệ
thống ASXH ở nước ta hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân hạn chế của hệ thống ASXH hiện hành đối với nông dân.
Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Chương Phát – Chuyên ngành
Kinh tế nông nghiệp, Trường đại học Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Đại học
Thái Nguyên với đề tài: “Ảnh hưởng của hệ thống ASXH tới vấn đề nghèo đói
của hộ nông dân huyện Văn Chấn - tỉnh Yên Bái”. Đề tài có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn, tạo điều kiện cho các cơ quan chính quyền, đoàn thể và nhân dân có
5


thể nhận diện bức tranh toàn cảnh về ASXH và ảnh hưởng của hệ thống ASXH
tới vùng nông thôn với một mức độ nhất định. Từ đó, giúp cho nhà nước có căn
cứ xây dựng pháp luật, chế độ, chính sách; phương hướng hoạt động phù hợp
nhằm tăng cường ASXH; cải thiện đời sống, xoá đói, giảm nghèo và giảm thiểu

rủi ro cho những người bị thiệt thòi trong xã hội; đưa đất nước phát triển bền
vững đi lên trong nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây nhiều nhà khoa học, nhà nghiên
cứu đã có những bài viết, công trình nghiên cứu bàn về hệ thống ASXH, cũng
như bảo đảm ASXH ở nước ta hiện nay. Có thể nêu lên một số công trình nghiên
cứu, bài viết của một số tác giả như sau: Đặng Cảnh Khanh, vấn đề trợ giúp xã
hội trong chính sách bảo đảm xã hội ở Việt nam đề tài KX. 04. 05 (năm 1994);
Nguyễn Văn Định, tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam trong nền kinh tế
thị trường đề tài cấp Bộ (năm 2000); Bùi Văn Hồng, nghiên cứu mở rộng đối
tượng tham gia BHXH đối với người lao động tự tạo việc làm và thu nhập, đề tài
cấp Bộ năm 2002; Nguyễn Tiệp, các giải pháp nhằm thực hiện xã hội hoá công
tác trợ giúp xã hội, đề tài cấp Bộ năm 2002; PGS.TS, Mai Ngọc Cường chủ
biên, Chính sách xã hội nông thôn; kinh nghiệm CHLB Đức và thực tiễn Việt
Nam. Nxb lý luận chính trị, Hà nội 2006; “Về an sinh xã hội ở Việt Nam giai
đoạn 2012- 2020 Nxb chính trị Quốc gia (năm 2013); Nguyễn Hải Hữu, Phát
triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; Patricia Justino, khuôn khổ xây dựng tổng thể quốc gia
về an sinh xã hội ở Việt Nam (UNDP); PGS, TS Vũ Văn Phúc – Tổng biên tập
Tạp chí Cộng sản, An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn;
GS, TS Hoàng Chí Bảo – Hội đồng lý luận Trung ương, An sinh xã hội với ổn
định và phát triển bền vững ở Việt Nam (Tạp chí Tuyên giáo, năm 2014); ThS.
6


Nguyễn Văn Chiều – khoa Khoa học quản lý, trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, ASXH và định hướng nghiên cứu nhằm
nâng cao vai trò của khoa học xã hội vào quá trình hoạch định chính sách ASXH
ở Việt Nam; Cùng tác giả ThS. Nguyễn Văn Chiều có bài đăng trên Báo điện tử
Đảng Cộng sản, Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện an sinh xã
hội trong thời kỳ đổi mới; ThS.Nguyễn Văn Hội, Phó cục trưởng Cục Bảo trợ xã

hội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tiếp tục thực hiện chính sách xóa đói,
giảm nghèo và ASXH vùng đặc biệt khó khăn…
Gần đây nhất tháng 1 năm 2014, Viện khoa học Lao động và xã hội thuộc
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam đã phát hành cuốn sách có nội
dung đặc biệt quan trọng đến hệ thống các chính sách về ASXH của Việt Nam
với tên: “Phát triển hệ thống ASXH ở Việt Nam đến năm 2020”. Cuốn sách đã
nêu lên toàn bộ cơ sở lý luận, thực tiễn cũng như những nội dung, chính sách
chủ yếu và thực trạng của hệ thống ASXH ở Việt Nam hiện nay; định hướng
phát triển chính sách ASXH đến năm 2020; cuốn sách đã cung cấp đầy đủ
những nội dung cơ bản về hệ thống ASXH của Việt Nam, nêu lên thực trạng
công tác ASXH trong những năm qua, đồng thời đề ra những mục tiêu cụ thể cả
trước mắt cũng như lâu dài, định hướng chính sách phát triển công tác ASXH
trong thời gian tới.
Các công trình khoa học nghiên cứu trên đã góp phần cung cấp cơ sở
khoa học, lý luận thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH ở
nước ta những năm qua. Đây là tài liệu tham khảo bổ ích cho tác giả tham
khảo trong quá trình xây dựng luận văn. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thực hiện
bảo đảm chính sách ASXH cho đối tượng chính sách dưới góc độ kinh tế
chính trị ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội cho đến nay vẫn chưa có
7


công trình nào được nghiên cứu, vì vậy đề tài không sự trùng lặp với các công
trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo đảm ASXH cho đối
tượng chính sách ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội hiện nay; trên cơ sở
đó đề xuất quan điểm và giải pháp để thực hiện tốt hơn nữa công tác bảo đảm
ASXH cho đối tượng chính sách trên địa bàn huyện trong thời gian tới.

* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về bảo đảm ASXH cho đối tượng chính sách ở
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm ASXH cho đối tượng chính
sách ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội thời gian qua và chỉ ra những vấn
đề cần giải quyết trong thời gian tới.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm ASXH cho đối tượng chính
sách ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Bảo đảm ASXH cho đối tượng chính sách.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu thực hiện chính sách ASXH cho đối
tượng chính sách như: Bảo hiểm xã hội; Bảo hiểm y tế; trợ giúp xã hội và cứu
trợ xã hội; dịch vụ xã hội cơ bản cho đối tượng chính sách.
- Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi huyện Chương Mỹ, Thành
phố Hà Nội.
- Về thời gian: Các số liệu được lấy từ năm 2011 đến hết năm 2015.
8


5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, Nghị quyết của
Đảng bộ huyện Chương Mỹ về các vấn đề có liên quan đến đảm bảo an sinh
xã hội.
* Cơ sở thực tiễn: Luận văn dựa trên cơ sở khảo sát thực tiễn của tác
giả; báo cáo tổng kết của huyện Chương Mỹ hàng năm về đảm bảo an sinh xã
hội của huyện.
* Phương pháp nghiên cứu: trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, tác giả sử dụng các phương pháp như: phương pháp
trừu tượng hoá khoa học; kết hợp lôgíc và lịch sử; phân tích, tổng hợp; thống

kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về công
tác bảo đảm ASXH cho đối tượng chính sách ở huyện Chương Mỹ, thành phố
Hà Nội nói riêng và cả nước ta nói chung.
- Góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho các cơ quan chức năng của
huyện trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác thực hiện bảo đảm ASXH trong thời
gian tới.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và học tập môn
Kinh tế chính trị ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn gồm
3 chương (7 tiết).

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI CHO ĐỐI TƯỢNG
CHÍNH SÁCH Ở HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ KINH
NGHIỆM TỪ MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG

1.1. An sinh xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đối tượng chính sách
được đảm bảo an sinh xã hội
1.1.1. Khái niệm an sinh xã hội
An sinh xã hội là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Thực chất
đây là hoạt động thuộc khâu phân phối, cụ thể là sự phân phối lại thu nhập quốc
dân trong quá trình tái sản xuất để nhằm tái sản xuất sức lao động. Chính vì vậy
trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” C.Mác đặt vấn để phân phối trong
sự liên hệ với trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội. Trên cơ sở phê phán

quan điểm phân phối toàn vẹn của Latxan, C.Mác cho rằng trong giai đoạn đầu
của xã hội cộng sản việc phân phối cho tiêu dùng cá nhân còn mang dấu ấn của
pháp quyền tư sản, “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Đây là sự phân
phối công bằng bình đẳng gấp trăm lần phân phối dưới chủ nghĩa tư bản. Theo
C. Mác, tổng sản phẩm xã hội trước khi phân phối theo lao động thì phải được
trích: Một phần bù đắp tư liệu sản xuất đã hao phí; một phần để mở rộng sản
xuất, số còn lại mới đem ra phân phối cho tiêu dùng cá nhân. Song trước khi
phân phối chi tiêu dùng cá nhân phải trích ra một phần để nuôi dưỡng những
người không có khả năng lao động; một phần dự phòng để xử lý những vấn đề
bất trắc do thiên tai, địch họa gây ra; số còn lại được phân phối theo lao động
theo nguyên tắc: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, người có sức lao động
không làm thì không hưởng. Theo Lê Nin, cách phân phối này là một “bước
tiến vĩ đại” vì nó nói lên bọn bóc lột đã bị tiêu diệt, ai nấy đều tham gia lao
động, mọi người đều có quyền làm việc và có quyền hưởng theo lao động của
mình, được hưởng những thành quả của chủ nghĩa xã hội. Nhưng khi chuyển
10


sang giai đoạn của xã hội cộng sản, C.Mác nói rõ: “cùng với sự phát triển của
xã hội xã hội chủ nghĩa, sức sản xuất xã hội được phát triển, trình độ văn hóa
được nâng cao; sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa
thành thị và nông thôn được xóa bỏ, lao động trở thành nhu cầu cần thiết bậc
nhất cho sức sống của mọi người, và do đó, tất nhiên phải chuyển sang một
giai đoạn mới, một nguyên tắc mới là “làm theo năng lực, hưởng theo nhu
cầu”. Đó là lúc xã hội có thể sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng dồi dào đến mức
không cần dùng phân phối lợi ích vật chất để kích thích lao động nữa, con
người khi đó được giải phóng một cách triệt để, được tự do phát triển theo
những khả năng của mình.
Hiện nay ASXH là một thuật ngữ được dịch ra từ cụm từ social
security (Tiếng Anh) hoặc từ sécurites sociale (Tiếng Pháp). Đây là thuật

ngữ xuất hiện trong một đạo luật của Mỹ năm 1935. Trong đạo luật này
ASXH được hiểu là sự bảo đảm nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị cá
nhân, đồng thời tạo lập cho mỗi con người một đời sống sung mãn và hữu
ích để phát triển tài năng đến tột độ.
Theo Liên hiệp quốc, ASXH tiếp cận trên quyền của người dân (Điều
25, Hiến chương Liên hiệp quốc năm 1948): “…Mọi người dân và hộ gia
đình đều có quyền có mức tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội bao
gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế (bao gồm cả thai sản), dịch vụ xã hội thiết yếu và
có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa
phụ, tuổi già… hoặc các trường hợp bất khả kháng khác…” [15, tr.11]
ASXH là một “khái niệm mở”, nên có thể hiểu theo hai nghĩa: rộng và
hẹp. Theo nghĩa rộng, ASXH bao trùm lên nhiều mặt cuộc sống của con
người. Đó là các quan hệ hình thành trong nhiều lĩnh vực nhằm ổn định đời
sống, nâng cao chất lượng sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn định,
phát triển và tiến bộ xã hội. Theo nghĩa hẹp, ASXH là sự bảo vệ của xã hội
đối với các thành viên của mình, trước hết và chủ yếu là những trường hợp
11


bị giảm sút thu nhập đáng kể do gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, mất việc làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ
thai sản, về già cũng như các trường hợp bị thiên tai, dịch họa. Đồng thời, xã
hội cũng ưu đãi những thành viên của mình đã có những hành động xả thân
vì nước, vì dân, có những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp cách mạng, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ở Việt Nam, thuật ngữ ASXH được tiếp cận dưới nhiều tên gọi khác
nhau như: bảo trợ xã hội, bảo đảm xã hội, an toàn xã hội. Hiện nay có quan
điểm cho rằng ASXH trước hết là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên
của mình nhờ một loạt các biện pháp công cộng nhằm giúp đỡ chống lại sự
thiếu hụt về kinh tế mà họ có thể gặp phải do mất đi hoặc bị giảm quá nhiều

nguồn thu nhập bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Tiếp thu có chọn lọc các khái niệm về ASXH như trên, tác giả cho
rằng: ASXH là một hệ thống các cơ chế, chính sách, biện pháp của nhà nước
và xã hội nhằm trợ giúp các thành viên yếu thế trong xã hội để họ vượt qua
những khó khăn trong cuộc sống do gặp phải những rủi ro như bị ốm đau,
thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì
những nguyên nhân khách quan làm cho họ có nguy cơ bị suy giảm mất
nguồn thu nhập rơi vào cảnh nghèo khổ.
Khái niệm đã chỉ ra: ASXH là sự bảo đảm an toàn thu nhập ở mức tối
thiểu thông qua hệ thống các chính sách can thiệp của nhà nước nhằm khắc
phục những rủi ro, như: rủi ro về sức khỏe, thiếu hoặc mất việc làm, tuổi già,
trẻ em, tàn tật… dẫn đến không có thu nhập tạm thời hoặc vĩnh viễn so với
mức tối thiểu đủ sống (được luật hóa hoặc quy định).
ASXH là các chính sách do Nhà nước tổ chức thực hiện là chính, ngoài
ra còn có sự tham gia của các tổ chức xã hội, cộng đồng và thị trường trong
việc tổ chức thực hiện và cung cấp dịch vụ ASXH. Các chính sách này hướng
đến mọi thành viên trong xã hội, bảo đảm cho mọi thành viên được bình đẳng
12


về tiếp cận và chất lượng dịch vụ, tuy nhiên, nhấn mạnh đến nhóm đối tượng
yếu thế (lý do chính để có sự tham gia của nhà nước).
ASXH là lưới an toàn cho mọi thành viên trong xã hội. Do đó, phạm vi
của ASXH là bao phủ toàn dân và toàn diện.
* Các nguyên tắc của ASXH
Thứ nhất: Nhà nước quản lý hoạt động ASXH
Nhà nước có trách nhiệm tổ chức các biện pháp bảo đảm xã hội đối với
các đối tượng bị giảm hoặc mất thu nhập. Nhà nước thành lập Ban chỉ đạo
thực hiện các chính sách về ASXH.
Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý điều

chỉnh các hoạt động của ASXH; việc ban hành các văn bản, các chính sách,
pháp luật về ASXH tạo sự đồng bộ, thống nhất thực hiện từ Trung ương đến
địa phương.
Nhà nước thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của ASXH. Thực
hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát là cách ngăn ngừa tốt nhất những vi phạm,
sai sót trong quá trình tổ chức thực hiện công tác bảo đảm ASXH.
Nhà nước tăng cường công tác thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm
minh mọi hành vi vi phạm pháp luật về ASXH.
Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí để thực hiện hoạt động ASXH
trong phạm vi cả nước.
Thứ hai: ASXH hướng vào bảo đảm cuộc sống cho mọi người bị giảm
hoặc mất khả năng lao động dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập do bị mất
việc làm, do gặp thiên tai, hoả hoạn hoặc các rủi ro khác.
Thứ ba: Thực hiện bảo đảm ASXH trên cơ sở sự đóng góp của các bên
và sự trợ giúp của toàn xã hội, sự chia sẻ của cộng đồng. Cùng với ngân sách
nhà nước và sự tham gia đóng góp của các thành phần trong xã hội và các tổ

13


chức nước ngoài và bằng chính sự tham gia, đóng góp của người thụ hưởng
các chính sách này.
Thứ tư: ASXH không nhằm mục đích lợi nhuận mà chủ yếu thực hiện
mục đích xã hội vì cộng đồng.
Thứ năm: Mức ASXH nhằm trợ giúp bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho
những người thụ hưởng.
1.1.2. Khái niệm bảo đảm an sinh xã hội
Về thuật ngữ “Bảo đảm an sinh xã hội” mỗi nước lại sử dụng thành
những từ khác nhau, mặc dù nội dung đều hiểu như nhau nhưng do được dịch
từ nhiều ngôn ngữ khác nhau (tiếng Anh: Social Security; tiếng Pháp:

Securite Sociale) nên có tài liệu dùng tên gọi là: Bảo đảm xã hội, An toàn xã
hội, Bảo trợ xã hội hoặc bảo đảm an sinh xã hội. Để tránh lẫn với cụm từ
“Trật tự an toàn xã hội”, mà ở nước ta hay dùng với một ý nghĩa khác. Trong
luận văn, tác giả sử dụng cụm từ “Bảo đảm an sinh xã hội” cho nội dung này.
Theo nghĩa chung nhất Social Security là sự bảo đảm thực hiện các quyền của
con người được sống trong hoà bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển,
phát biểu chính kiến trong khuôn khổ luật pháp; được bảo vệ và bình đẳng
trước pháp luật; được học tập, được có việc làm, có nhà ở; được đảm bảo thu
nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi
già... Theo nghĩa hẹp (Social Security) được hiểu là sự bảo đảm thu nhập và
một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho người lao động và gia đình họ
khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm; cho những người già cả, cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật,
những người nghèo đói và những người bị thiên tai, địch hoạ...
Ở Việt Nam, bảo đảm an sinh xã hội đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta đặc biệt quan tâm. Trong cuốn “Đường cách mệnh” xuất bản năm
1927, nói về công hội, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Lại có bất thường phí như
để dành lúc bãi công hoặc giúp những hội khác bãi công, hoặc giúp đỡ người
14


mất việc làm, khi ốm đau, tai nạn, hoặc làm những việc công ích” [30, tr.24].
Đây là ý tưởng manh nha của ASXH. Ngay sau khi giành được chính quyền,
năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đứng đầu Nhà nước ta xây dựng và
ban hành Hiến pháp, trong đó quy định những người già, hoặc người tàn tật
không việc làm thì được giúp đỡ. Trong giai đoạn từ năm 1947 đến những
năm 50 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo, ban hành một
loạt chính sách, chế độ liên quan đến cán bộ, công chức, người lao động như
chế độ tiền lương, phụ phí, chế độ trợ cấp BHXH đối với cán bộ, công chức,
viên chức; chế độ đãi ngộ quân nhân. Trong những năm 60 của thế kỷ XX,

khi tổ chức công đoàn phát triển, chế độ BHXH, chế độ thai sản, ốm đau, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu, tuất được Chủ tịch Hồ Chí Minh
quan tâm chỉ đạo, ban hành. Đây là những yếu tố nền tảng của ASXH.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, chăm lo đến toàn bộ các lĩnh
vực đời sống, các giai cấp, tầng lớp với tầm nhân văn, nhân sinh rộng lớn.
Hàng loạt bài nói, viết, chính sách chế độ được ban hành từ rất lâu, nhưng đến
nay vẫn còn nguyên tính chỉ đạo và giá trị thời đại như các tác phẩm, bài báo,
bài nói, các chính sách về lao động, việc làm; về dân số - kế hoạch hóa gia
đình; về y tế giáo dục; về tất cả các đối tượng, giai tầng, nghề nghiệp, các đối
tượng đặc thù, khó khăn trong xã hội [30, tr.24].
Có thể khẳng định rằng cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều
nhằm phụ vụ nhân dân, tất cả vì dân, vì hòa bình, độc lập, tự do, ấm no hạnh
phúc của nhân dân. Trong điều kiện hoàn cảnh nước nhà còn nhiều khó khăn,
Bác Hồ đã quan tâm đến ASXH cụ thể: Các chính sách liên quan đến thương
binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, những người đã phải chịu những hy sinh,
mất mát vì nền độc lập, thống nhất của dân tộc. Bác đã nhiều lần nhắc nhở:
“Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân, gia đình liệt sỹ là người có
công với Tổ quốc với nhân dân cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn,
phải thương yêu, giúp đỡ họ, để họ có cuộc sống ổn định, bớt đi những khó
15


khăn của sự mất mát hy sinh”[ 30, tr.25]. Một trong những vấn đề luôn được
Bác quan tâm là vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động. Trong bài
viết ngày 29/10/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Công đoàn có
nhiệm vụ giữ gìn quyền lợi cho công nhân và giúp cho Chính phủ xây dựng
đất nước. Chính phủ Việt Nam luôn là Chính phủ dân chủ vì vậy đã ban hành
Bộ luật lao động ấn định giờ làm, tiền công, bảo vệ đàn bà, người già và trẻ
em”[30, tr.25]. Toàn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh thắm đượm tư
tưởng vì nhân dân, vì nhân loại. Lý tưởng, mục tiêu phấn đấu của Người là

hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người Việt Nam và nhân
dân lao động trên thế giới. Người quan tâm đến lợi ích thiết thân, hàng ngày
của quần chúng nhân dân, người lao động. Người nói: Tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Thấm nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ASXH, trong
mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta đều quan tâm đến vấn đề ASXH. Nội hàm
của ASXH cũng ngày càng được Đảng ta nhận thức đầy đủ, toàn diện. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: bảo đảm
ASXH là tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả
năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế,
dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. Tăng tỉ lệ
người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm. Đẩy mạnh xã hội hoá dịch
vụ bảo hiểm xã hội, chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ xã hội sang cung
cấp dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Bảo đảm cho các đối tượng
chính sách có cuộc sống ổn định, hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng, có cơ hội
tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu. Thanh tra, kiểm tra, xử lý
nghiêm các vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo đảm thực hiện đúng, đầy
đủ chế độ quy định đối với mọi đối tượng. Tập trung triển khai có hiệu quả
16


các chương trình xoá đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn. Đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức xoá đói, giảm nghèo gắn với
phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết
việc làm để xoá đói, giảm nghèo bền vững; tạo điều kiện và khuyến khích người
đã thoát nghèo vươn lên làm giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo. Huy động
mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất
và tinh thần của người dân và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn

đọng về chính sách với người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí
mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong trong các thời kỳ cách mạng và
kháng chiến. Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có công tích cực
tham gia phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức sống
cao hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn.
Gần đây nhất PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn – Hiệu trưởng Trường đại học
kinh tế (Đại học quốc gia Hà Nội) trong bài: “Kinh nghiệm phát triển kinh tế
gắn với đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Tuyên giáo số
1/2013 đã nêu khái niệm về đảm bảo ASXH: Đảm bảo ASXH là đảm bảo cuộc
sống an bình, hạnh phúc cho mọi tầng lớp dân cư trong xã hội, tránh được sự
bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống của người dân. Hệ thống ASXH theo quan
điểm hiện đại là một cấu trúc thống nhất bao gồm năm yếu tố: Bảo hiểm xã
hội; Bảo hiểm y tế; Bảo hiểm thất nghiệp; Cứu trợ xã hội và trợ giúp; Ưu đãi xã
hội. Trên cơ sở nghiên cứu, kế thừa kết quả những công trình đã được nghiên
cứu, tác giả luận văn đưa ra quan niệm của mình về đảm bảo ASXH như sau:
Bảo đảm An sinh xã hội là tổng thể các hoạt động của
toàn xã hội dựa trên các quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm huy động, hình
thành và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn lực
vật chất, tài chính để bảo đảm cho các đối tượng được hưởng

17


chính sách ASXH, tạo điều kiện cho họ nâng cao mức sống vật
chất, văn hóa, tinh thần và tái sản xuất sức lao động.
Cần hiểu rằng theo nghĩa đầy đủ hoạt động bảo đảm ASXH là công
việc của toàn xã hội trên một lĩnh vực rất rộng lớn, phức tạp và quan trọng
của toàn bộ đời sống xã hội. Đó là hoạt động mà mục tiêu cao cả của nó là vì
cuộc sống hạnh phúc và các quyền con người trong chế độ ta. Cho nên bảo

đảm ASXH không phải là sự ban phát hay đem đến cho đối tượng nào đó
được hưởng thụ những giá trị vật chất mang tính tạm thời giống như một sự
cứu trợ vì lý do của những hoàn cảnh không may mà đây là hoạt động có ý
nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội mang tính nhân văn hết sức sâu sắc. Nếu xét
trong quá trình tái sản xuất xã hội thì nó thuộc về quá trình tái sản xuất sức
lao động và tái sản xuất các quan hệ sản xuất xã hội. Rõ ràng bảo đảm ASXH
phản ảnh bản chất của một chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Bởi vậy, ở nước
ta bảo đảm ASXH được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành
của Nhà nước, là sự nghiệp của toàn dân mà đối tượng được hưởng là mọi
công dân Việt Nam. Tất nhiên tùy theo hoàn cảnh, điều kiện khác nhau việc
bảo đảm ASXH cho từng đối tượng cụ thể sẽ có những nội dung và sự quan
tâm không giống nhau. Để xây dựng hoàn thiện hệ thống các giải pháp về bảo
đảm ASXH, không thể không tiếp cận theo phương pháp trong cách nhìn
nhận đánh giá bảo đảm ASXH về hình thành, vận hành trên nền tảng kinh tế xã hội với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, khách quan. Yêu cầu việc bảo đảm
ASXH là xuất phát từ thực tiễn khách quan, tất yếu, tự thân đối với mỗi đất
nước, mỗi cộng đồng nếu muốn hướng tới sự phát triển bền vững. Vì vậy, cần
phải xác định các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng các chính sách bảo đảm
ASXH hoàn thiện vì mục tiêu lâu dài trong phát triển.
Cần khẳng định rằng điều có ý nghĩa quyết định để thực hiện được mục
tiêu, nhiệm vụ bảo đảm ASXH là việc phải tạo ra được các nguồn lực kinh tế,
vật chất tài chính cần thiết, trong điều kiện nước ta đang phát triển nền kinh tế
18


thị trường định hướng XHCN ở những bước đầu tiên. Dù cho khi nền kinh tế
còn đang nghèo hay khi đã phát triển nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước thì
không bao giờ có thể giải quyết được các yêu cầu lớn lao của bảo đảm ASXH.
Do đó việc xã hội hóa để tạo ta các nguồn lực sẽ là con đường cơ bản để thực
hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ bảo đảm ASXH. Nói cách khác phải coi đó
là trách nhiệm, nghĩa vụ của các thành phần và tổ chức kinh tế, của tất các

nguồn lực trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với các hoạt động của
các tổ chức, cá nhân và các thành phần xã hội khác.
1.1.3. Đối tượng chính sách được bảo đảm an sinh xã hội
Do trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh ác liệt, cho nên chính sách ưu đãi
xã hội ở Việt Nam chủ yếu thực hiện đối với các đối tượng là người có cống
hiến đặc biệt trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Họ là những người đã hy sinh
tính mạng, của cải cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; hoặc những
người đã mất mát một phần thân thể, hay phải chịu hậu quả nặng nề của bom
đạn, chất độc hóa học do chiến tranh để lại. Ngoài thực hiện các chính sách
đãi ngộ, ưu đãi đối với người có công theo quy định tại pháp lệnh ưu đãi
người có công với cách mạng số 26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29/6/2005
(đã được sửa đổi, bổ sung tại Pháp lệnh số 35/2007/PL-UBTVQH11 ngày
21/6/2007; Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày 16 tháng 7 năm 2012;
Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng) đối
tượng chính sách được bảo đảm ASXH bao gồm:
+ Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945;
+ Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945;
+ Liệt sĩ;
+ Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
+ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Anh hùng lao động;
19


+ Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;
+ Bệnh binh;
+ Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;
+ Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày;
+ Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và

làm nghĩa vụ quốc tế;
+ Người có công giúp đỡ cách mạng.
Chính sách an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước ta coi là một
quốc sách truyền thống, việc bảo đảm ASXH cho đối tượng chính sách vừa là
trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn dân.
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng tới bảo đảm an
sinh xã hội cho đối tượng chính sách ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm về bảo đảm an sinh xã hội cho đối tượng chính
sách ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
Trên cơ sở kế thừa quan niệm về bảo đảm an sinh xã hội ở phần trên,
tác giả cho rằng: bảo đảm an sinh xã hội cho đối tượng chính sách ở huyện
Chương Mỹ thành phố Hà Nội là tổng thể các hoạt động của các chủ thể (dựa
trên các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước) nhằm huy động, hình thành và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các
nguồn lực vật chất, tài chính để bảo đảm cho đối tượng chính sách trên địa
bàn huyện, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho họ.
Quan niệm trên chỉ ra:
Chủ thể thực hiện bảo đảm ASXH trên địa bàn huyện Chương Mỹ là:
Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân của huyện. Trong đó, mỗi
chủ thể có một nhiệm vụ cụ thể, phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của từng
tổ chức. Trong đó, Đảng bộ huyện Chương Mỹ giữ vai trò lãnh đạo; trên cơ
sở đường lối, chủ trương của Đảng về bảo đảm ASXH đề ra chủ trương, biện
20


pháp lãnh đạo sát đúng với điều kiện của huyện Chương Mỹ. Chính quyền
các cấp của huyện tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Nghị
quyết của Đảng bộ huyện về bảo đảm ASXH; các tổ chức chính trị, xã hội,
đoàn thể, nhân dân của huyện thực hiện đảm bảo ASXH theo chức tránh
nhiệm vụ được giao.

Đối tượng được bảo đảm ASXH là các đối tượng chính sách của
huyện, theo quy định tại pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng số
26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29/6/2005 (đã được sửa đổi, bổ sung tại Pháp
lệnh

số

35/2007/PL-UBTVQH11

ngày

21/6/2007;

Pháp

lệnh

số

04/2012/UBTVQH13 ngày 16 tháng 7 năm 2012; Nghị định số 31/2013/NĐCP ngày 09/4/2013 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của
Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng)
Mục đích của bảo đảm ASXH cho đối tượng chính sách là để các đối
tượng này có được cuộc sống vật chất, văn hóa, tinh thần tốt hơn mức trung
bình của xã hội.
1.2.2. Nội dung bảo đảm an sinh xã hội cho đối tượng chính sách ở
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
Căn cứ vào đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về
bảo đảm ASXH cho các đối tượng, nội dung bảo đảm ASXH cho đối tượng
chính sách ở huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội gồm:
Một là, Thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho đối tượng

chính sách
Bảo hiểm là sự bảo đảm thay thế hay bù đắp một phần thu nhập của
người dân khi họ gặp rủi ro trong đời sống (sức khỏe, tai nạn, mùa màng…)
thông qua việc đóng thường xuyên một khoản tiền (phí bảo hiểm) cho tổ chức
(nhà nước hoặc tư nhân) tương ứng với xác xuất xảy ra và chi phí của rủi ro
liên quan đến chu kỳ sống của người lao động và gia đình họ.

21


Đối với đối tượng chính sách của huyện Chương Mỹ nói riêng, của nước
ta nói chung không phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế mà ngân sách nhà
nước sẽ đài thọ cho họ. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đối
tượng chính sách là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính
trị. Để đối tượng chính sách có cuộc sống cao hơn mức trung bình của xã hội,
Đảng và Nhà nước ta đã có chế độ chính sách ưu đãi cho đối tượng chính sách.
Việc chi trả chế độ, BHXH, BHYT do ngân sách nhà nước đài thọ. Các cấp, các
ngành, các địa phương trên cơ sở chế độ chính sách của nhà nước thực hiện chi
trả cho đối tượng chính sách theo quy định.
Hai là, thực hiện chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho
đối tượng chính sách.
Đây là chính sách về đào tạo nghề, giải quyết việc làm, hỗ trợ vay vốn
ưu đãi tín dụng… cho đối tượng chính sách đang có nhu cầu tìm việc làm,
thường là người thất nghiệp, thiếu việc làm và thậm chí là cả những người
đang có nhu cầu tìm việc làm tốt hơn với mục tiêu nâng cao cơ hội tham gia
hoặc tái hòa nhập vào thị trường lao động. Đối với đối tượng chính sách, Nhà
nước ta có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và tạo việc làm cho họ. Nguồn tài
chính dành cho việc thực hiện các chính sách này thường được lấy từ thuế và
từ đóng góp của nhân dân.
Ba là, thực hiện trợ giúp và cứu trợ xã hội cho đối tượng chính sách

Trợ giúp xã hội là sự trợ giúp bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật của Nhà
nước (lấy từ nguồn thuế, không phải đóng góp của người nhận) nhằm bảo đảm
mức sống tối thiểu cho đối tượng được nhận. Nguồn trợ giúp xã hội chủ yếu
lấy từ ngân sách và một phần từ sự đóng góp tự nguyện của các tổ chức, doanh
nghiệp và nhân dân. Theo quan điểm hiện đại, trợ giúp xã hội bao gồm 3 loại
hình: hỗ trợ thu nhập, trợ cấp gia đình và dịch vụ xã hội. Các chính
sách/chương trình này hướng vào những người sống trong nghèo cùng cực và
dễ bị tổn thương, ngăn chặn sự suy giảm trong thu nhập và năng lực tiêu dùng
22


của những người trong tình huống dễ bị tổn thương, kết nối và tạo điều kiện
tiếp cận các dịch vụ trợ giúp xã hội.
Chính sách hỗ trợ như: hỗ trợ về xây, sửa nhà ở cho hộ chính sách người
có công thuộc hộ nghèo; hỗ trợ đột xuất, 1 lần cho đối tượng chính sách không
may bị tai nạn rủi ro…
Chính sách giảm nghèo là tập hợp các chính sách, biện pháp và dự án
nhằm thúc đẩy khả năng tiếp cận của người nghèo đến dịch vụ sản xuất và
dịch vụ xã hội, như: chương trình mục tiêu giảm nghèo, chương trình 134,
chương trình 135 và chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại 63
huyện nghèo trong cả nước (Nghị quyết 30a của Chính phủ). Hỗ trợ giảm
nghèo cho các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế (đối tượng bảo trợ xã
hội) bao gồm trợ cấp xã hội hàng tháng cho đối tượng bảo trợ xã hội (trẻ em
mồ côi; người già cô đơn; người 90 tuổi trở lên không có nguồn thu nhập;
người tàn tật nặng; gia đình có từ hai người tàn tật nặng trở lên không có khả
năng tự phục vụ; người có HIV/AIDS nhà nghèo; gia đình, người nhận nuôi
dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt); trợ giúp
về y tế; giáo dục; dạy nghề, tạo việc làm; tiếp cận các công trình công cộng;
hoạt động văn hoá thể thao và trợ giúp khẩn cấp mà từ trước đến nay hay gọi là
trợ giúp xã hội cho những người không may gặp rủi ro đột xuất bởi thiên tai.

Bốn là, nhóm thực hiện các chính sách dịch vụ xã hội cơ bản
Dịch vụ xã hội cơ bản có vai trò rất quan trọng trong hệ thống ASXH.
Các hoạt động giúp người dân tiếp cận hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản là
những hoạt động đầu tiên và ở tầng thấp nhất trong hệ thống ASXH, tạo điều
kiện cho người dân từng bước vươn lên để có cuộc sống tốt hơn.
Các dịch vụ xã hội cơ bản, gồm: Dịch giáo dục đào tạo; dịch vụ y tế
chăm sóc sức khỏe; dịch vụ thông tin, truyền thông; dịch vụ nước sạch… cho
đối tượng chính sách. Đây là một hệ thống chính sách, giải pháp mới được hình
23


thành trong vài thập kỷ gần đây, ở Việt Nam bắt đầu từ thập kỷ 90 của thế kỷ
XX [16, tr.20 - 27].
1.2.3. Vai trò bảo đảm an sinh xã hội cho đối tượng chính sách ở
huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội
Thực hiện chính sách ASXH cho đối tượng chính sách là một lĩnh vực
hoạt động rất rộng lớn trong toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội lấy con người
làm đối tượng nên nó có ý nghĩa rất quan trọng trên nhiều mặt kinh tế, chính
trị, xã hội của địa phương.
Thứ nhất: Thực hiện chính sách ASXH nói chung, cho đối tượng chính
sách nói riêng là sự thể hiện rõ nét bản chất ưu việt của chế độ XHCN, mục
tiêu xây dựng xã hội dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh tất
cả vì hạnh phúc của con người.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước và sự
phấn đấu nỗ lực vượt bậc của toàn dân, đến nay công tác bảo đảm ASXH đã
đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được nhân dân đồng tình, quốc tế đánh giá
cao: số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn 9,5% (năm 2011); chỉ
số phát triển con người (HDI) tăng từ mức 0,683 (năm 2000) lên mức 0,728
(năm 2011), xếp thứ 128/187 nước, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới;
năm 2011 nước ta đã hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ

(MDGs) do Liên hợp quốc đề ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015.
Như vậy, công cuộc xóa đói, giảm nghèo, thực hiện bình đẳng giới, nâng cao
chỉ số phát triển con người, nâng cao tuổi thọ trung bình, đẩy mạnh sự nghiệp
giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho toàn dân, Liên hiệp quốc đã coi Việt Nam
như một điểm sáng của việc thực hiện các mục tiêu thiên kỷ.
Thứ hai: Thực hiện bảo đảm ASXH cho đối tượng chính sách là sự thể
hiện và phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người
trồng cây” của dân tộc ta.
24


Trong suốt một ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước dân tộc ta có
những truyền thống lịch sử và nền văn hóa với những giá trị hết sức quý giá.
Đó là lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong lao động và chiến
đấu chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai, cùng với tinh thần đoàn kết cộng
đồng, yêu thương gắn bó, lòng vị tha cao thượng... trong đó truyền thống
“uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây” là một trong những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Những nhân tố đó tạo nên nét văn
hóa Việt Nam với sức mạnh bất diệt để giúp dân tộc ta vượt qua mọi thử
thách đánh thắng mọi kẻ thù, giữ gìn và bảo vệ nền độc lập dân tộc và trường
tồn của Tổ quốc. Những truyền thống và tài sản vô giá đó được mang những
nội dung mới và phát huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh – thời đại của
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Các đối tượng chính sách là những người đã không tiếc máu xương,
hiến dân cả đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì phải hy sinh tính mạng, của cải, một phần máu
thịt hoặc bị phơi nhiễm chất độc hóa học nên các đối tượng chính sách là
những người dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Mặc dù kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, song Đảng ta đã xác định
phải bảo đảm tốt ASXH cho đối tượng chính sách để họ có cuộc sống vật

chất, tinh thần cao hơn mức trung bình của xã hội. Bảo đảm ASXH cho đối
tượng chính sách ở nước ta hiện nay chính là thể hiện và phát huy truyền
thống “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc ta.
Thứ ba: Thực hiện bảo đảm ASXH cho đối tượng chính sách nhằm xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nền tảng chính trị của chế độ
XHCN và thế trận quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trên địa bàn huyện Chương Mỹ Hà Nội.
Thực hiện bảo đảm ASXH cho đối tượng chính sách xã hội không chỉ có
ý nghĩa trực tiếp về mặt kinh tế như là một sự đãi ngộ hay trợ giúp đối với những
25


người được hưởng chính sách mà còn có ý nghĩa chính trị, xã hội hết sức to lớn
vì đó là sự thể hiện về thái độ, quan điểm của chế độ với con người. Bởi vậy
cùng với các hoạt động khác nó là sự giáo dục, truyền bá có hiệu quả các quan
điểm, đường lối, chính sách đến từng người dân và cộng đồng xã hội. Thông qua
đó nâng cao trình độ giác ngộ, lòng yêu nước, yêu chế độ, truyền thống và các
giá trị văn hóa lịch sử làm cho mọi người vững tin ở sự lãnh đạo của Đảng, tính
ưu việt của chế độ XHCN, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao nhận thức về thái
độ, trách nhiệm của công dân, nhận rõ những âm mưu thủ đoạn, hành động của
các thế lực thù địch tự giác và tích cực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
bảo vệ Đảng bảo vệ chế độ.
Thứ tư: Thực hiện bảo đảm ASXH cho đối tượng chính
sách của huyện Chương Mỹ góp phần cùng thành phố Hà Nội,
cả nước hội nhập quốc tế, nâng cao uy tín và vị thế của nước
ta trên trường quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay bảo đảm
ASXH đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, như là một hoạt động tham gia tích
cực vào xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế và các mặt khác của đời sống
quốc tế. Các hoạt động thuộc lĩnh vực ASXH đã trở thành mối quan tâm

chung của cả cộng đồng quốc tế vì con người. Liên hiệp quốc đã có những
mục tiêu và chương trình thiên niên kỷ về chống bênh tật, đói nghèo; các tệ
nạn, đối phó với những biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu với sự tham
gia của cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Với tư cách là một quốc gia
thành viên của tổ chức lớn nhất hành tinh và nhiều tổ chức văn hóa, nhân đạo
khác lại là nước chịu nhiều đau thương, hậu quả nặng nề của các cuộc chiến
tranh tàn khốc thì việc nước ta thực hiện tốt bảo đảm ASXH sẽ được cộng
đồng quốc tế đánh giá cao. Liên hiệp quốc và nhiều tổ chức quốc tế coi Việt
Nam như là một tấm gương trong thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Mặt
26


×