Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ HOẠT ĐỘNG LÃNH đạo THỰC HIỆN dân CHỦ ở cơ sở của các ĐẢNG bộ xã, TỈNH bạc LIÊU HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.25 KB, 113 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng ta đã khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế
độ ta, là mục tiêu, đồng thời là động lực của sự nghiệp đổi mới đất nước theo
định hướng XHCN. Thực hiện dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động là động lực to lớn, có ý nghĩa và tầm quan trọng để thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, tạo nền tảng để đến
năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong những năm qua, các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu đã giữ vững được
vai trò của mình trong lãnh đạo THDC ở cơ sở thông qua việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, giải quyết mối quan hệ với cấp uỷ đảng, chính quyền và các
đoàn thể chính trị - xã hội. Nhờ đó đã góp phần xây dựng được không khí dân
chủ, cởi mở trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh ở cơ sở. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã làm nảy
sinh nhiều mối quan hệ mới giữa các giai tầng trong xã hội ở cơ sở. Nhiều chủ
trương, chính sách của Đảng chậm được đưa vào cuộc sống, khối đại đoàn kết
toàn dân và mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và nhân dân ở địa phương
chưa thật bền chặt và đang đứng trước những khó khăn mới. Việc thực hiện
các nội dung, hình thức dân chủ, phối hợp có lúc mang tính hình thức. Sự
phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong HTCT cơ sở trong THDC còn
mang tính “hành chính hoá”. Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa cấp
uỷ, tổ chức cơ sở đảng với chính quyền, MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã
hội trong THDC ở cơ sở vẫn còn những biểu hiện lệch lạc; nhiều nơi cấp uỷ,
tổ chức đảng cơ sở còn có biểu hiện áp đặt một chiều, chưa thật sự tôn trọng
tính tự chủ, hoạt động tích cực, sáng tạo của chính quyền, MTTQ, các đoàn
thể chính trị trong THDC. Ở một số xã, còn có biểu hiện coi nhẹ sự lãnh đạo
của cấp uỷ đảng. Nhận thức của một bộ phận nhân dân về các giá trị dân chủ
XHCN còn có những biểu hiện lệch chuẩn. Năng lực của cán bộ, đảng viên
3


chưa đáp ứng yêu cầu THDC ở cơ sở. Những hạn chế trên đã làm ảnh hưởng


không nhỏ đến THDC ở cơ sở và hoạt động lãnh đạo THDC ở cơ sở của các
đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu.
Từ những lý do cơ bản trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Hoạt động lãnh đạo
thực hiện dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu hiện nay” làm đề
tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều đề tài khoa học của tập thể, cá nhân
cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ
nghĩa và thực hiện dân chủ ở cơ sở. Dưới đây là những công trình tiêu biểu:
Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ với tư cách là một chế độ chính trị”. Tác giả
đã luận giải cách xem xét dân chủ dưới góc độ là một chế độ chính trị và chỉ
ra rằng: Dân chủ có căn nguyên sâu xa về kinh tế, có cơ sở trực tiếp về chính
trị, là sản phẩm của sự phát triển kinh tế và sự vận động của chính trị. Bên
cạnh việc luận giải các mặt không trùng hợp, tác giả còn chỉ ra sự trùng hợp
giữa dân chủ và chính trị dẫn đến sự trùng hợp giữa chế độ dân chủ với chế độ
chính trị và chế độ nhà nước; chỉ ra nguyên lý, tính chất giai cấp của dân chủ
trong hình thái dân chủ chính trị và chế độ chính trị, chế độ dân chủ; khẳng
định dân chủ không chỉ là quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước mà còn là
một nhu cầu và giá trị xã hội, một thành tựu văn hoá, một quá trình sáng tạo
văn hoá.
Đỗ Trung Hiếu: “Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam
hiện nay”. Tác giả đã làm rõ nội dung khái niệm dân chủ thời cổ đại và điểm
khác biệt căn bản giữa dân chủ thời cổ đại với thời hiện đại là ở tính trực tiếp
của mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng và cách hiểu còn hạn hẹp về
khái niệm nhân dân.
Dương Xuân Ngọc: “Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”. Tác giả khẳng định rằng, xã là cơ sở xã hội của hệ thống
chính trị, nơi đại đa số nông dân - lực lượng lao động nông nghiệp đông đảo
4



nhất ở nước ta sinh sống. Vai trò và sức mạnh của lực lượng này chỉ được phát
huy khi quyền dân chủ của nhân được bảo đảm và phát huy.
Phạm Văn Hiền: Thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh Hải Dương hiện nay.
Tác giả đã làm rõ quan niệm, vai trò THDC ở nông thôn; đánh giá thực trạng,
chỉ ra nguyên nhân của việc THDC ở nông thôn tỉnh Hải Dương trong thời gian
qua và phân tích chỉ rõ một số vấn đề đặt ra cần giải quyết; đề xuất yêu cầu và
một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt dân chủ ở nông thôn tỉnh Hải Dương
hiện nay. Để thực hiện tốt dân chủ ở nông thôn hiện nay, theo tác giả phải sử
dụng đồng bộ, tổng hợp nhiều biện pháp tác động đến con người và tổ chức,
trong đó tập trung nâng cao nhận thức, năng lực thực hành dân chủ cho nhân
dân, phát huy trách nhiệm của mỗi cá nhân, của cả hệ thống chính trị, nhất là
vai trò của các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở; tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm việc
THDC ở nông thôn hiện nay.
Mẫn Văn Mai: “Nâng cao trình độ văn hoá dân chủ của nhân dân trong
quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”. Trong
luận án, tác giả đã luận giải làm rõ bản chất của văn hoá dân chủ, nội dung, cấu
trúc trình độ văn hoá dân chủ của nhân dân ta. Trên cơ sở thực trạng, yêu cầu,
phương hướng, mục tiêu, tác giả đã đề xuất một số biện pháp chủ yếu nâng
cao trình độ văn hoá dân chủ. Theo tác giả, để nâng cao trình độ văn hóa dân
chủ trước hết mỗi bộ phận cấu thành hệ thống chính trị phải thực sự là một tổ
chức dân chủ, đảm bảo thực sự có văn hoá; mỗi bộ phận của hệ thống chính
trị phải thực sự tôn trọng và thực hiện tốt quan hệ dân chủ với các bộ phận
khác theo cơ chế dân chủ chung; phải tôn trọng, bảo vệ các quyền tự do dân
chủ của công dân và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện được
quyền làm chủ của mình, trong đó vấn đề mấu chốt nhất là tăng cường mối
liên giữa hệ thống chính trị với nhân dân và thực hiện cơ chế dân chủ; Đảng
phải là tấm gương mẫu mực về văn hoá dân chủ; MTTQ, các đoàn thể chính
trị - xã hội giữ vai trò quan trọng trong thiết chế dân chủ; là những tổ chức đại

5


biểu cho lợi ích, quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân, thông qua đó nhân
dân thực hiện quyền dân chủ của mình, đồng thời đó là môi trường xã hội
thuận lợi, trường học để nâng cao trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân.
Phạm Thu Ngọc: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
xã đáp ứng yêu cầu THDC cơ sở ở Nam Định hiện nay”. Tác giả đã luận giải
làm rõ vị trí, vai trò của HĐND xã trong tổ chức bộ máy nhà nước và trong hệ
thống chính quyền cơ sở, khẳng định vai trò của HĐND xã trong việc đảm bảo
dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay; phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và
hoạt động của HĐND xã hiện nay.
Trần Đức Luận: “Phát huy tốt vai trò của hệ thống chính trị cơ sở tỉnh
Hà Nam trong thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay”, đã làm rõ cơ sở
lý luận, phân tích thực trạng, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy
vai trò HTCTCS tỉnh Hà Nam trong thực hiện dân chủ XHCN.
Hoàng Chí Bảo: Dân chủ và hệ thống chính trị ở Việt Nam trong tiến
trình đổi mới và Hệ thống chính trị nông thôn nước ta hiện nay. Giáo sư, Tiến
sĩ Hoàng Chí Bảo đã luận giải làm rõ về dân chủ và thực hiện dân chủ ở Việt
Nam; vai trò của hệ thống chính trị nông thôn và sự ổn định chính trị cơ sở; vai
trò của Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong sự nghiệp đổi mới;
phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Nhà
nước, quản lý xã hội, cộng đồng dân cư. Theo tác giả, xây dựng và thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở là một đòi hỏi tất yếu của tiến trình phát triển dân chủ ở
nước ta trong sự nghiệp đổi mới, góp phần quan trọng để phát huy nội lực xã hội
từ cơ sở. Dân chủ là một hình thức lịch sử tất yếu của việc tổ chức và thực thi
quyền lực trong xã hội có giai cấp. Do đó, chế độ dân chủ thuộc về giai cấp nào,
hướng tới lợi ích cho ai, vì ai, giải quyết vấn đề con người và quyền công dân
như thế nào là đòi hỏi tất yếu, khách quan đối với việc nghiên cứu và giải quyết
thực tiễn dân chủ. Thực hiện dân chủ cơ sở và Quy chế dân chủ ở cơ sở là một

bước tiến lớn của Đảng ta trong giải quyết thực tiễn vấn đề dân chủ, là sự cần
thiết, tất yếu phải chuyển từ nghiên cứu lý thuyết về dân chủ sang ứng dụng các
6


kết quả nghiên cứu đó vào thực tiễn xã hội. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị, nhất là HTCTCS và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở là
điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở.
Nguyễn Thị Hiền Oanh: “Vai trò của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đối với
việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay”. Tác giả đã
khẳng định: Nội dung, bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân
mà trước hết là quyền lực về chính trị. Quyền lực chính trị của nhân dân thực
chất là quyền làm chủ, quyền dân chủ của nhân dân. Nhân dân làm chủ thông
qua Nhà nước và lực lượng, phương tiện của mình, đó là MTTQ và các đoàn
thể quần chúng - phương thức quan trọng nhất để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng ở cơ sở có vai trò tập
hợp đoàn kết toàn dân, đại diện cho nhân dân tham gia vào ban chỉ đạo, đồng thời
giám sát toàn bộ hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền ở cơ sở.
Trần Thị Băng Thanh: “Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện
quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay”. Tác giả đã tiếp cận vấn
đề dân chủ với tư cách là một chế độ chính trị, một hình thái nhà nước và
khẳng định: Với bản chất cách mạng và ưu việt của mình, Nhà nước XHCN
ngày càng thể hiện rõ vai trò là phương tiện bảo đảm THDC, thực hiện các
quyền dân chủ của nhân dân, đem lại và tạo cho họ những khả năng thực tế để
thực hiện các quyền dân chủ của mình và hưởng thụ thành quả dân chủ. Tác
giả nhấn mạnh vai trò của Nhà nước Việt Nam đối với việc thực hiện quyền
dân chủ của nhân dân trong lịch sử và nhất là trong sự nghiệp đổi mới ở nước
ta. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở
Việt Nam hiện nay là: Đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng

trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước; đẩy mạnh cải cách hành chính nhà
nước; tiếp tục hoàn thiện hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của
nhân dân; đổi mới việc đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức
hành chính nhà nước.
7


Hồ Thị Tú: "Các Đảng bộ phường ở quận Thanh Xuân, thành phố Hà
Nội lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay",
Tác giả đã luận giải làm rõ nội dung, phương thức các Đảng bộ phường
Thanh Xuân lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ; đánh giá thực trạng, đề xuất
các giải pháp chủ yếu để tăng cường sự lãnh đạo của các Đảng bộ phường ở
quận Thanh Xuân đối với việc thực hiện QCDC ở cơ sở trong thời gian tới.
Tác giả khẳng định: Thực hiện dân chủ cơ sở là con đường ngắn nhất và hiệu
quả nhất để mọi công dân được hưởng quyền dân chủ một cách trực tiếp và
rộng rãi nhất. Tác giả cho rằng: Quy chế dân chủ ra đời mang lại cách giải
quyết vừa cơ bản vừa cụ thể đối với việc THDC ở cơ sở; khẳng định vai trò
và quyền làm chủ của người dân lao động, tạo ra một cơ chế phát huy quyền
làm chủ của mọi công dân, nhằm đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân
và góp phần làm phong phú hơn hình thức thực hiện quyền lực chính trị của
nhân dân. Thực hiện QCDC ở cơ sở gắn với xây dựng HTCTCS, có tác động
tích cực tới công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tạo chuyển biến tích cực về ý thức và
phong cách làm việc của cán bộ theo hướng gần nhân dân, tôn trọng nhân dân
và có trách nhiệm với nhân dân hơn; tạo ra được sự chuyển biến rõ rệt theo
hướng tiến bộ trong đời sống văn hóa cơ sở góp phần tích cực vào việc hoàn
thành nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Nguyễn Văn Dũng: “Tổ chức cơ sở đảng nông thôn với ổn định chính trị
- xã hội ở Kon Tum hiện nay”.Tác giả cho rằng, năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của TCCSĐ nông thôn là nguyên nhân và điều kiện bảo đảm ổn

định chính trị- xã hội ở nước ta hiện nay. Các TCCSĐ nối liền Đảng và nhân
dân; là nơi giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng viên, nơi đào tạo cán
bộ cho Đảng, nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng; nơi
trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng vào quần chúng và tổ chức thực
hiện đường lối, chính sách ấy.

8


Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các công trình trên đã nghiên cứu
làm rõ quan niệm về dân chủ, THDC, THDC ở cơ sở; làm rõ quan niệm về ý
thức dân chủ, ý thức thực hiện dân chủ, năng lực thực hành dân chủ, trình độ
văn hóa dân chủ; làm rõ quan niệm, nội dung, phương thức, cách thức, đánh
giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp, biện
pháp phát huy vai trò của Nhà nước, của hệ thống chính trị cơ sở, vai trò của
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội trong thực hiện dân chủ; vai trò của các tổ chức đảng ở cơ sở trong
lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu cơ bản, hệ thống về
hoạt động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ xã, tỉnh Bạc
Liêu. Tác giả luận văn trân trọng kế thừa kết quả nghiên cứu của các công
trình có liên quan để luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn hoạt
động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về lý
luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp chủ yếu tăng cường hoạt động lãnh
đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về hoạt động lãnh đạo thực hiện
dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu.

- Đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra một số kinh nghiệm hoạt
động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu
hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu tăng cường hoạt động lãnh đạo thực
hiện dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở
của các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu.
9


* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động lãnh đạo thực hiện dân
chủ ở cơ sở của các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu. Điều tra, khảo sát một số xã thuộc
các huyện tỉnh Bạc Liêu, số liệu điều tra, khảo sát từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng Đảng,
THDC ở cơ sở; các quy chế, quy định, pháp lệnh; các chỉ thị, nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về TCCSĐ và THDC ở cơ sở.
* Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn việc THDC và hoạt động của TCCSĐ trong
THDC ở xã, phường, thi trấn tỉnh Bạc Liêu từ năm 2010 đến nay; kết quả nghiên
cứu, điều tra, khảo sát của tác giả, kế thừa các tư liệu, báo cáo tổng kết và kết quả
khảo sát của các công trình khoa học đã được công bố có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các phương
pháp nghiên cứu của khoa học liên ngành và chuyên ngành, trong đó chú trọng
phương pháp: phân tích, tổng hợp, lịch sử lôgíc, tổng kết thực tiễn, khảo sát thực
tiễn, điều tra xã hội, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm những luận cứ

khoa học giúp các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu tăng cường hoạt động lãnh đạo
thực hiện dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ xã hiện nay. Luận văn có thể dùng
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy ở các trường đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN
VỀ HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ TỈNH BẠC LIÊU
1.1. Thực hiện dân chủ ở cơ sở và những vấn đề cơ bản hoạt động
lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu
1.1.1. Khái quát về xã, tỉnh Bạc Liêu
Trong hệ thống hành chính bốn cấp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam cấp xã được gọi là đơn vị hành chính cấp cơ sở.
Tỉnh Bạc Liêu có 64 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 10 phường, 5
thị trấn và 49 xã. Hệ thống chính trị ở xã, tỉnh Bạc Liêu được thành lập theo quy
định của Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, bao gồm: Tổ chức đảng,
chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội…hoạt
động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Các xã của tỉnh Bạc Liêu là nơi cộng đồng dân cư làm ăn sinh sống, tập
trung một lực lượng lớn lao động, sản xuất ra lương thực, thực phẩm, cung cấp
nguyên liệu cho các nhà máy, xí nghiệp và các sản phẩm xuất khẩu, liên kết chặt
chẽ với nhau trong các quan hệ dòng họ, làng xóm, nghề nghiệp và quan hệ kinh
tế, tín ngưỡng, tôn giáo…được hình thành từ các xóm, ấp, có các đặc điểm chung

về cấu trúc văn hoá, phong tục, tập quán…nhưng cũng có nhiều nét riêng biệt; là
nơi phản ánh trực tiếp tâm tư, tình cảm, nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân; nơi
tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ở
nông thôn; nơi cung cấp các kinh nghiệm thực tiễn để Đảng, Nhà nước và lãnh
đạo tỉnh Bạc Liêu điều chỉnh bổ sung, hoàn chỉnh các đường lối, chủ trương phát
triển nông nghiệp nông thôn. Là nơi cư trú và hoạt động của người nông dân, nên
mọi biến động tích cực hay tiêu cực của các xã đều tác động trực tiếp đến sự phát
triển chung của toàn tỉnh Bạc Liêu nói riêng cũng như của cả nước nói chung như:
các vấn đề về dân số, dân cư, dân chủ… Đây là những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
11


Các xã của tỉnh Bạc Liêu chủ yếu là nghề trồng lúa và nuôi trồng thủy
sản. Sản xuất nông nghiệp theo hướng nông nghiệp hàng hoá phục vụ cho tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu. Bạc Liêu có nhiều di tích lịch sử, văn hóa. Toàn
tỉnh hiện có 20 di tích lịch sử và văn hoá, có nhiều lễ hội truyền thống phản
ánh khá rõ nét con người, truyền thống, phong tục của nền văn minh lúa nước.
Những năm qua thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở và Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã đã góp phần tạo ra động lực mới, thúc đẩy kinh tế - xã hội ở
địa phương phát triển. Chính quyền và nhân dân các xã đã phát huy được
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng địa phương giàu đẹp, đảm bảo công
bằng xã hội. Tuy vậy, một số xã vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế bất cập trong
thực hiện dân chủ cơ sở, “một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân ở các địa phương vẫn chưa nêu cao ý thức làm chủ, còn mang nặng tư
tưởng ỷ lại, ngại họp hành, đấu tranh; phong cách lãnh đạo, quản lý, làm việc
của một số cán bộ còn biểu hiện quan liêu, nể nang, né tránh. Đó là những lực
cản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đòi hỏi phải tăng
cường hoạt động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ xã, tỉnh
Bạc Liêu hiện nay.

1.1.2. Dân chủ ở cơ sở và thực hiện dân chủ ở cơ sở
* Dân chủ ở cơ sở
Dân chủ là một phạm trù chính trị -xã hội vừa mang tính lịch sử, vừa
mang tính giai cấp, gắn liền với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong
một giai đoạn lịch sử nhất định. Bản chất của dân chủ là quyền lực của
nhân dân, cùng với sự phát triển của lịch sử. Dân chủ được được biểu hiện
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh. Nội dung cốt lõi của dân chủ là mọi quyền lực thuộc về nhân dân, là
sự kiểm soát của nhân dân đối với toàn bộ quá trình ban hành và thực thi
các quyết định chung của chính thể nhà nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII
(tháng 6 năm 1997) khẳng định: Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy
12


quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Theo tinh thần của Nghị quyết đó, ngày
18 tháng 02 năm 1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) ban hành Chỉ thị số 30 - CT/TW về
"Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; Nghị định 29/1998/NĐ-CP
ngày 11/5/1998; Nghị định 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 ban hành Quy chế
dân chủ ở xã; Pháp lệnh số 34/2007/PL - UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội về Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đó là
những văn bản có tính chính trị và pháp lý làm cơ sở để mọi người, mọi tổ chức ở cơ
sở xây dựng và thực hiện dân chủ cơ sở.
Dân chủ ở cơ sở là quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, được tiến hành ở cấp cơ sở là xã (phường, thị trấn) theo phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, bảo đảm đúng đường lối, chủ
trương của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Dân chủ ở cơ sở có nội dung toàn diện trên tất cả các lĩnh vực hoạt động:

Dân chủ về kinh tế: Là việc người dân bàn bạc, xây dựng và tổ chức thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hàng năm của xã trên các
vấn đề: Xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi công cộng; quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai; dự toán và quyết toán ngân sách xã hàng
năm; dự toán, quyết toán thu chi các quỹ, chương trình, dự án, các khoản huy
động nhân dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công
cộng; các chương trình, dự án do Nhà nước, các tổ chức và cá nhân đầu tư, tài
trợ trực tiếp cho xã; chủ trương, kế hoạch vay vốn phát triển sản xuất, xoá
đói, giảm nghèo; bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng về kinh tế của người
dân...
Dân chủ về chính trị: Là việc người dân tham gia vào các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước và ở địa phương liên
quan trực tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân ở xã.
Dân chủ về văn hoá, xã hội: Là việc người dân tham gia các hoạt động văn
13


hóa, xã hội, phòng, chống tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội của
xã; thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ xã,
thôn; xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa, nếp sống văn minh, giữ gìn an
ninh trật tự, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội.
Dân chủ trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh: Là việc người dân
tham gia vào các hoạt động công tác quân sự, quốc phòng địa phương; thực hiện
luật nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ và quốc phòng toàn
dân; thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ; chính sách hậu phương quân đội và
chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương; bảo đảm giữ
gìn an ninh, trật tự nơi công cộng, an toàn xã hội trên địa bàn.
* Thực hiện dân chủ ở cơ sở
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một phạm trù thuộc hoạt động thực tiễn.
Trong đời sống, khái niệm thực hiện dùng để chỉ, bằng các hoạt động để tổ

chức, cá nhân làm cho mục đích hoạt động của mình trở thành hiện thực. Từ
quan điểm đó có thể hiểu, thực hiện dân chủ ở cơ sở là tổng thể các chủ
trương, biện pháp, cách thức của các tổ chức, lực lượng ở xã tiến hành trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp
phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ ở địa phương.
Mục đích thực hiện dân chủ ở cơ sở là nhằm bảo đảm đầy đủ quyền, lợi ích
và nghĩa vụ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,
quốc phòng an ninh…theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng địa phương vững mạnh về
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân ở xã.
Chủ thể lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở, tỉnh Bạc Liêu là các cấp ủy, đảng
bộ xã, chi bộ cơ sở.
Lực lượng thực hiện dân chủ ở cơ sở là tổ chức chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân ở xã, tỉnh Bạc Liêu.

14


Nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở được quy định cụ thể trong Quy chế dân
chủ cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Trên cơ sở đó,
nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở được biểu hiện cụ thể trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, đến văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh:
Trên lĩnh vực kinh tế, thực hiện “Dân biết, bàn, làm, kiểm tra” các chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế, nhất là các vấn
đề liên quan đến lợi ích trực tiếp của nhân dân; kế hoạch phát triển kinh tế- xã
hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế, dự toán, quyết toán ngân sách, dự
án, công trình đầu tư, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng, kế hoạch sử dụng đất và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân
cư trên địa bàn xã...và các công việc khác trong nội bộ công đồng dân cư phù

hợp với quy định của pháp luật.
Trên lĩnh vực chính trị, thực hiện quyền của nhân dân trong tham gia tiếp
nhận thông tin, đóng góp ý kiến và tuyên truyền về các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị của
cấp uỷ, chính quyền địa phương; tham gia đóng góp ý kiến phê bình, nhận xét
cán bộ, đảng viên; tham gia công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
và các đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương; tham gia ứng cử, đề cử, lựa chọn
bỏ phiếu tín nhiệm hay bất tín nhiệm cán bộ, đảng viên ở cơ sở; khiếu nại, tố
cáo, được yêu cầu cán bộ, chính quyền địa phương giải đáp các vấn đề mà mình
quan tâm. Điều 13 Pháp lệnh thực hiện dân chủ chỉ ra những nội dung nhân dân
được tham gia bàn bạc, biểu quyết và đề nghị cấp có thẩm quyền ra quyết định,
như: Hương ước, quy ước của thôn; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn;
bầu, bãi nhiệm thành viên Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của
cộng đồng; tham gia bình xét người có công với cách mạng, gia đình thương
binh, liệt sỹ, nạn nhân chất độc da cam.
Trên lĩnh vực văn hoá xã hội, thực hiện quyền của mỗi người dân trong
sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá, nghệ thuật; tham gia thảo luận
đóng góp ý kiến trong xây dựng các hương ước, quy ước, qui định tự quản
15


trong cộng đồng dân cư, như: các qui định trong các công việc hiếu, hỷ;
đóng góp xây dựng các quỹ khuyến học, khuyến tài; quỹ giúp đỡ gia đình
nghèo khó khăn, gia đình chính sách và các qui định trong giải quyết các
mối quan hệ trong cộng đồng, quyền tham gia bình xét hộ nghèo, người tàn
tật để được hưởng chính sách đãi ngộ của Nhà nước.
Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
trong bảo đảm chế độ nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ và
quốc phòng toàn dân; thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ; thực hiện chính sách
hậu phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở

địa phương; quyết định biện pháp bảo đảm giữ gìn an ninh, trật tự nơi công
cộng, an toàn xã hội, phòng chống cháy nổ, đấu tranh phòng ngừa, chống tội
phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác trên địa bàn.
Phương thức thực hiện dân chủ ở cơ sở: Thực hiện dân chủ ở cơ sở
được thực hiện thông qua các hình thức cơ bản sau:
Dân chủ đại diện, là hình thức nhân dân thực hiện quyền dân chủ của
mình thông qua các cơ quan, các tổ chức đại diện và người đại diện. Các cơ
quan đại diện và người đại diện do nhân dân bầu ra, là đại biểu cho quyền và
lợi ích của nhân dân, như: Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội như: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn
Thanh niên, Hội Cựu chiến binh…và đại biểu của các tổ chức đó.
Dân chủ trực tiếp, là sự tham gia một cách trực tiếp và chủ động của nhân dân
vào các hoạt động quản lý xã hội, quản lý nhà nước, thực hiện các quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của công dân theo qui định của hiến pháp và pháp luật, như: Trực tiếp
tham gia bầu cử, ứng cử, đề cử; trực tiếp bỏ phiều tín nhiệm hay bất tín nhiệm cán bộ
ở cơ sở; trực tiếp chất vấn và nghe trả lời chất vấn với các vấn đề mà mình quan tâm;
trực tiếp bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của mình; trực tiếp tham gia bàn bạc
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Dân chủ tự quản, là hình thức người dân tự hình thành các tổ chức và
người phụ trách, tự thảo luận ban hành các quy định, tự tổ chức thực hiện, tự
16


kiểm tra, tự đánh giá và tự điều chỉnh ý thức, hành vi trong các quan hệ xã
hội, trong thực hiện các quyền, lợi ích của mình trong cộng đồng dân cư…
phù hợp với các qui định của luật pháp và tập quán, như: Các hương ước, quy
ước, qui định của thôn, xóm trong các công việc hiếu, hỷ; việc hình thành các
loại quỹ trong khu dân cư, như: Quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ xoá đói giảm
nghèo; các qui định về giúp nhau vượt khó của các tổ chức.
Ngoài các phương thức THDC cơ bản trên, nhân dân còn thực hiện quyền

dân chủ của mình thông qua nhiều công cụ, phương tiện khác, như: các phương tiện
thông tin đại chúng, các cơ quan tư vấn pháp luật, các văn phòng luật sư…
1.1.3. Những vấn đề cơ bản về hoạt động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ
sở của các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu
* Các đảng bộ xã tỉnh Bạc Liêu
Theo Điều 10, Điều lệ Đảng (Khóa XI) quy định, hệ thống tổ chức của
Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước.
Hiện nay, tỉnh Bạc Liêu có 49bộ xã trong tổng số 64 đảng bộ xã, phường,
thị trấn. Theo Điều 21, Điều lệ Đảng (Khóa XI) quy định, tổ chức cơ sở
đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính
trị ở cơ sở. Các chi bộ cơ sở trực thuộc đảng ủy xã là các chi bộ thôn (xóm,
làng), chi bộ cơ quan, trường học, trạm xá.
Căn cứ Quy định 94, 95 - QĐ/TW ngày 03/3/2004 của Ban Bí thư
Trung ương, các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu có chức năng: Là hạt nhân chính
trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính
trị xã vững mạnh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Nhiệm vụ của các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu:
Một là, lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng. Lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội theo nghị quyết đại hội của đảng bộ xã và của cấp trên; thực
17


hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp; thực hiện quản lý và sử dụng đất và các
nguồn vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm...) theo phương
châm Nhà nước và nhân dân cùng làm; phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo
dục, y tế, bảo vệ môi trường, thực hiện tốt các chính sách xã hội, xoá đói,

giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước; xây dựng xã
giàu đẹp, văn minh.
Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt
phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra''; giám sát mọi hoạt
động ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; kịp thời giải
quyết những vướng mắc phát sinh trong cộng đồng dân cư ở cơ sở theo đúng
luật pháp, không để tích tụ mâu thuẫn trở thành những điểm nóng, không để
xảy ra tình trạng khiếu kiện tập thể, vượt cấp hoặc lợi dụng dân chủ để làm
mất ổn định chính trị ở xã. Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân
và chính sách hậu phương quân đội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội; đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài
sản của Nhà nước, của tập thể, tính mạng và tài sản của nhân dân; ngăn chặn
và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, nhất là ma tuý, mại dâm.
Hai là, lãnh đạo công tác tư tưởng. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh và phát
huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong các tầng lớp nhân
dân, nhất là trong thanh niên, thiếu niên; xây dựng tình đoàn kết, gắn bó
tình làng, nghĩa xóm, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau; xây dựng môi trường
văn hoá lành mạnh ở thôn (xóm, làng, ấp) và trong từng gia đình, chú
trọng tuyên truyền và nhân rộng gương người tốt, việc tốt, các nhân tố
tích cực trên mọi lĩnh vực.

18


Tuyên truyền, vận động làm cho nhân dân hiểu và chấp hành đúng
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các
nhiệm vụ của địa phương; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng

lớp nhân dân để giải quyết và báo cáo lên cấp trên. Lãnh đạo cán bộ, đảng
viên và nhân dân đấu tranh chống các quan điểm sai trái, những hành vi
nói, viết và làm trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bè phái, gia
trưởng, bảo thủ và các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan; phòng, chống sự
suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Ba là, lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ. Lãnh đạo xây dựng chính
quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị, các đơn vị kinh tế, sự nghiệp ở cơ
sở vững mạnh; xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, tích cực tạo nguồn cán bộ tại chỗ, từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ,
công chức xã. Cấp uỷ xây dựng quy chế về công tác tổ chức, cán bộ; nhận
xét, đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, đãi ngộ đối với
cán bộ thuộc quyền; quản lý và kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với cán
bộ theo phân cấp; giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, có tín nhiệm trong tổ chức
đảng và nhân dân để bầu vào các chức danh chủ chốt của Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội theo luật
định và điều lệ của mỗi tổ chức. Cấp uỷ đề xuất ý kiến trong việc lựa chọn,
giới thiệu cán bộ tham gia vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, chính quyền,
đoàn thể nhân dân ở cấp trên và cán bộ chủ chốt ở cơ sở do cấp trên quản lý.
Bốn là, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Lãnh đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở xã vững
mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi đoàn
thể. Thực hiện tốt các chính sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, xây
dựng khối đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thi đua thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính
19


sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của xã, trước hết là

những chủ trương, chính sách về xây dựng và quản lý nông nghiệp, nông dân và
nông thôn.
Năm là, xây dựng tổ chức đảng. Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện
pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh, gắn với xây dựng,
củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, nhất là việc phát hiện và đấu
tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực
khác; chú trọng củng cố, xây dựng và nâng cao chất lượng lãnh đạo của các
chi bộ, tổ đảng ở thôn, ấp. Thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
đảng, nhất và nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình;
thực hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh
hoạt chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.
Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong,
gương mẫu, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, công dân mẫu mực;
nghiêm chỉnh chấp hành và vận động, thuyết phục nhân dân chấp hành
nghị quyết của tổ chức đảng, quyết định của chính quyền và chương trình
hành động của các đoàn thể nhân dân. Cấp uỷ xây dựng kế hoạch và tạo
điều kiện cho đảng viên thực hiện nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng
cao trình độ về mọi mặt. Cấp uỷ xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý, phân
công nhiệm vụ và tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Làm tốt công tác động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng viên; xử lý nghiêm,
kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, bảo đảm về tiêu chuẩn
và quy trình, chú trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
và những người lao động giỏi, có uy tín trong quần chúng. Xây dựng cấp uỷ và
bí thư cấp uỷ bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, thực sự là trung tâm
đoàn kết, hoạt động có hiệu quả, được đảng viên và nhân dân tín nhiệm. Định kỳ
hằng năm, cấp uỷ tổ chức để quần chúng tham gia, góp ý xây dựng Đảng; Bí thư
20



cấp uỷ cơ sở, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tự phê
bình trước đại diện của nhân dân và chịu trách nhiệm khi để xảy ra quan liêu,
tham nhũng, lãng phí ở địa phương.
Cấp uỷ thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành
Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và Quy định
của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Phối hợp với các
tổ chức cơ sở đảng trên địa bàn và các tổ chức cơ sở đảng có đảng viên, cán
bộ, công chức đang cư trú trên địa bàn thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương.
* Quan niệm hoạt động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở của các
đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu
Theo từ điển tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ văn hoá Việt Nam lãnh
đạo là “đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức vận động thực hiện đường lối
đó. Như vậy, có thể hiểu hoạt động lãnh đạo là hoạt động nghiên cứu vận
dụng lý luận, nguyên lý, quan điểm, nguyên tắc, đề ra chủ trương, đường lối,
tuyên truyền vận động, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện đường lối
đã đề ra.
Hoạt động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ xã, tỉnh
Bạc Liêu là tổng thể các chủ trương, biện pháp, cách thức phát huy dân chủ
trong nội bộ cấp ủy, tổ chức đảng của các đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu nhằm
lãnh đạo các tổ chức, các lực lượng thực hiện tốt các quyền và lợi ích hợp pháp
của nhân dân ở xã, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của địa phương
Mục đích hoạt động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ
xã, tỉnh Bạc Liêu là nhằm phát huy cao nhất vai trò của các cấp ủy, chi bộ,
chính quyền, MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội, đội ngũ cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân ở xã trong THDC trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Chủ thể hoạt động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở là các đảng bộ xã,
tỉnh Bạc Liêu trong thực hiện dân chủ là đảng ủy xã; cấp ủy, chi bộ các thôn,

ấp ,xóm, làng, chi bộ cơ quan, trường học, trạm xá.
21


Lực lượng tham gia hoạt động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở của các
đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu là tổ chức chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể chính trị - xã hội, đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân ở xã.
Nội dung hoạt động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ
xã, tỉnh Bạc Liêu bao gồm:
Một là, thực hiện dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của cấp
uỷ, chi bộ. Hoạt động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở của các đảng bộ xã,
tỉnh Bạc Liêu chỉ có thể đạt chất lượng, hiệu quả cao khi dân chủ trong nội bộ
tổ chức đảng được thực hiện nghiêm túc, triệt để nhằm xây dựng cấp ủy, chi
bộ trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; đồng
thời, là tấm gương để thực hiên dân chủ trong xã hội; lãnh đạo các tổ chức,
các lực lượng ở xã phát huy dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh.
Thực hiện dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của cấp ủy, chi
bộ được thể hiện trên nhiều nội dung gắn chặt với việc thực hiện nghiêm
nguyên tắc tập trung, dân chủ; thực hiện tốt chế độ bầu cử ra cơ quan lãnh đạo
của chi bộ, đảng bộ, bảo đảm cho mọi cán bộ, đảng viên được quyền ứng cử, đề
cử, lựa chọn bầu ra cơ quan lãnh đạo của chi bộ; bảo đảm phát huy trí tuệ của tập
thể trong xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo THDC ở cơ sở, xem xét giải
quyết các vấn đề một cách toàn diện, sâu sắc; mọi đảng viên đều bình đẳng, nói
rõ, nói hết ý kiến của mình, vì lợi ích của công việc, lợi ích của Đảng, lợi ích của
nhân dân. Dân chủ trong phân công trách nhiệm cho cấp ủy, đội ngũ đảng
viên, nhất là các đảng viên giữ các cương vị đứng đầu các tổ chức của hệ
thống chính trị ở cơ sở, bảo đảm sát, đúng, phù hợp, nhất là các cá nhân có sự
hiểu biết sâu về THDC, có khả năng giáo dục, thuyết phục, vận động và tổ
chức cho quần chúng nhân dân phát huy quyền làm chủ trên các hoạt động,

các nhiệm vụ chính trị và các lĩnh vực ở địa phương.
Phát huy dân chủ, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình,
bảo đảm đúng quy định của tổ chức trên cơ sở Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
22


Đảng, không lợi dụng tự do thảo luận để nói xấu, đả kích, chia bè, kéo cánh gây
mất đoàn kết nội bộ. Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo, thông báo, công khai,
dân chủ trong công tác cán bộ, công tác chính sách, công tác phát triển đảng, kỷ
luật đảng, kiểm tra, giám sát đảng viên. Thực hiện dân chủ trong sinh hoạt và
hoạt động của cấp uỷ, chi bộ, các hội nghị sinh hoạt, học tập, tự phê bình và phê
bình, đại hội đảng...
Hai là, xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở. Cấp
ủy, chi bộ có trách nhiệm lãnh đạo xây dụng cụ thể hóa Quy chế dân chủ cơ
sở và Pháp lệnh THDC ở xã, phường, thị trấn phù hợp từng địa phương, từng
thôn, xóm, ấp; lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân cụ thể hóa nghị quyết thành các kế hoạch, đề án, chương trình hành động
THDC trên các mặt công tác, mọi lĩnh vực, nhiệm vụ, cuộc vận động, các
phong trào như: Chương trình xây dựng nông thôn mới, phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc”...nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh của địa phương.
Lãnh đạo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của nhân dân quy định trong
Quy chế dân chủ cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Cấp ủy, chi bộ lãnh đạo các tổ chức, các lực lượng thực hiện những việc
thông báo để dân biết như: Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm; dự án,
công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ
trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa
bàn; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy

hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã; quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản
đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động
nhân dân đóng góp; chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển
sản xuất, xoá đói, giảm nghèo.
Lãnh đạo thực hiện những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp về
chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi
23


công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn
bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân
cư phù hợp với quy định của pháp luật.
Lãnh đạo thực hiện những nội dung nhân dân được bàn, biểu quyết;
được kiểm tra, giám sát như: các hương ước, quy ước của thôn; nhân dân trực
tiếp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố; bầu, bãi
nhiệm thành viên ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng;
quyền kiểm tra giám sát thông qua tiếp xúc cử tri, các kỳ họp HĐND, qua hệ
thống truyền thanh, tại các cuộc họp thôn, khu phố, họp đoàn thể hoặc thông
qua ban thanh tra nhân dân.
Lãnh đạo phát huy vai trò của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội trong thực hiện các chương trình, kế hoạch, phát
động các cuộc vận động, các phong trào ở địa phương thực hiện các mục tiêu
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương. Tổ chức
triển khai thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, nghị quyết, quy định của cấp ủy, chính quyền cấp trên và cấp
mình, đảm bảo tốt quyền và nghĩa vụ công dân; tổ chức cho nhân dân phát
huy vai trò trong kiểm tra, giám sát, đấu tranh chống mọi biểu hiện vi
phạm dân chủ của đội ngũ cán bộ, đảng viên và những âm mưu lợi dụng
dân chủ của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an
toàn xã hội ở địa phương. Ngăn chặn, xử lý nghiêm mọi hiện tượng vi

phạm đường lối, chính sách, chỉ thị, nghị quyết, xâm phạm đến quyền dân
chủ và lợi ích của nhân dân.
Lãnh đạo thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân
phát huy vai trò làm chủ; kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh, đấu
tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, vi phạm và lợi dụng dân chủ gây mất ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở. Để nghị quyết lãnh đạo đi vào cuộc
sống, hoạt động của cấp ủy, chi bộ phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục,
vận động sâu rộng, làm chuyển biến tích cực về nhận thức của cán bộ, đảng viên,
24


đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân về THDC một cách kịp thời, thường
xuyên. Cấp ủy, chi bộ lãnh đạo đổi mới nội dung, hình thức công tác tuyên truyền;
tăng cường giáo dục cho nhân dân nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về dân chủ; tuyên truyền các chủ trương, biện
pháp của cấp ủy, chi bộ lãnh đạo các nhiệm vụ chính trị của địa phương; kế hoạch
phát triển kinh tế- xã hội; phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản
xuất, đề án định canh, định cư, phương án phát triển ngành nghề; quy hoạch,
kế hoạch sử dụng quỹ đất; các quy định, hương ước, quy ước của thôn, xóm, tổ
khu phố...Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục, kết hợp với các
phương tiện thông tin, tuyên truyền của các cấp, các ngành, các tổ chức để phổ
biến và tuyên truyền cho nhân dân hiểu và thực hiện thắng lợi.
Kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong cộng đồng dân cư
ở cơ sở theo đúng luật pháp, không để tích tụ mâu thuẫn trở thành điểm nóng,
không để xảy ra tình trạng khiếu kiện tập thể, vượt cấp; tổ chức cho nhân dân
đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, vi phạm và lợi dụng dân chủ gây mất
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở xã, phường, thị trấn là hoạt động
thường xuyên của cấp ủy, chi bộ nhằm bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân lao
động, bảo đảm cho quá trình THDC ở xã, phường, thị trấn đạt hiệu quả cao; mở
rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh các

hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của công dân, những phần tử cơ hội, phản
động lợi dụng dân chủ gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở xã,
phường, thị trấn.
Lãnh đạo thực hiện dân chủ gắn với việc xây dựng và thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội xã. Thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của
người dân không thể tách rời với phát triển kinh tế - xã hội. Cấp ủy, chi bộ lãnh
đạo tổ chức thực hiện bảo đảm các lợi ích chính đáng của nhân dân thực hiện
các quyền và nghĩa vụ trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Thực hiện dân chủ gắn
với đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, coi phát triển công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là vấn đề có tầm quan
25


trọng hàng đầu. Thực hiện công khai, minh bạch việc xây dựng kế hoạch,
ngân sách, tài chính; thực hiện công bằng, bình đẳng trong thu các loại thuế,
các khoản thu khác theo pháp luật. Lãnh đạo việc huy động sự đóng góp của
nhân dân trên nguyên tắc tự nguyện, việc quản lý đóng góp của dân phải công
khai, có kiểm tra, kiểm soát. Lãnh đạo việc thanh tra, kiểm tra chặt chẽ để giữ
nghiêm kỷ cương, pháp luật, góp phần trực tiếp mở rộng dân chủ trên lĩnh vực
ở địa phương.
Kiểm tra, giám sát chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội ở xã trong thực hiện chủ trương, biện pháp lãnh đạo của cấp ủy,
chi bộ về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đây là vấn đề thuộc về chức năng, nhiệm
vụ của tổ chức đảng ở cơ sở. Không kiểm tra coi như không lãnh đạo và mọi
chủ trương sẽ không đi vào cuộc sống, hoặc hiệu quả không cao. Vì vậy, cấp
ủy, chi bộ một mặt kiểm tra giám sát cán bộ, đảng viên trong thực hiện
nguyên tắc, chế độ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của cấp ủy, chi bộ.
Mặt khác phải kiểm tra, giám sát chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính
trị-xã hội, các cán bộ, đảng viên trong thực hiện chủ trương, biện pháp lãnh
đạo của chi bộ trên các lĩnh vực, các nhiệm vụ, nhất là việc THDC. Nội dung

kiểm tra, giám sát phải toàn diện trên các lĩnh vực, các hoạt động và các
nhiệm vụ của địa phương. Kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của cấp ủy, chi
bộ về bảo đảm dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội và
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; việc thực hiện nhiệm vụ được phân
công, việc rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên; việc thực hiện QCDC ở cơ sở, nhất là giám sát việc thi hành công vụ
của cán bộ, công chức trong tiếp nhận, giải quyết hồ sơ hành chính của tổ
chức, cá nhân; việc thu chi ngân sách, công khai tài chính của địa phương, thu
chi các loại quỹ, các công trình có vốn đóng góp của nhân dân; các công trình
dân sinh, phúc lợi xã hội ở cộng đồng dân cư, bảo đảm đời sống vật chất tinh
thần của nhân dân. Kiểm tra, giám sát bằng các hình thức thông qua tổ chức
26


lấy ý kiến của nhân dân; nhân dân thảo luận và biểu quyết công khai, minh bạch;
thông qua các tổ chức, thông qua các kỳ họp của HĐND, UBND, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở xã.
* Phương thức hoạt động lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở của các
đảng bộ xã, tỉnh Bạc Liêu
Một là, ra chỉ thị, nghị quyết và các chủ trương, biện pháp lãnh đạo của
cấp ủy, chi bộ về thực hiện dân chủ
Nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, chi bộ là sự quán triệt, vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng,
Pháp luật của Nhà nước, cụ thể hóa thành các chủ trương, biện pháp lãnh đạo;
là biểu hiện trí tuệ của cán bộ, đảng viên trên tinh thần tập trung dân chủ,
phản ánh đầy đủ, sâu sắc các lĩnh vực, các nhiệm vụ của địa phương, phù hợp
với đặc điểm tình hình và nguyện vọng, mong muốn của nhân dân. Vì vậy cấp
ủy, chi bộ ra nghị quyết lãnh đạo là cơ sở của sự thống nhất nhận thức trong
cán bộ, đảng viên và nhân dân nhằm quán triệt đường lối, chủ trương của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của tỉnh, của huyện về

THDC, bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân; phát huy vai trò trách nhiệm,
trí tuệ của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong việc xác định chủ trương, biện
pháp lãnh đạo các tổ chức trong HTCTCS và các đoàn thể quần chúng, thực
hiện thắng lợi các quy định, quy chế, pháp lệnh THDC cơ sở .
Hai là, tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân
thực hiện dân chủ ở cơ sở
Công tác tuyên truyền, giáo dục có vị trí vai trò quan trọng trong việc nâng
cao nhận thức, giác ngộ chính trị tư tưởng và trách nhiệm cho nhân dân, làm cho
nhân dân có nhận thức, hành động đúng với chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước. Việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý
thức dân chủ và năng lực thực hành dân chủ cho nhân dân, nâng cao tri thức, tình
cảm, thái độ, niềm tin đúng đắn của nhân dân đối đối với quyền lợi và nghĩa vụ
công dân để nhân dân phát huy quyền dân chủ của mình trong thực hiện các chủ
27


×