MỤC LỤC
Trang
3
MỞ ĐẦU
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THI
ĐUA, KHEN THƯỞNG Ở HUYỆN KIẾN THỤY
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
12
1.1. Công tác thi đua, khen thưởng và những vấn đề cơ
bản về chất lượng công tác thi đua, khen thưởng ở
huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng
1.2. Thực trạng chất lượng và một số kinh nghiệm nâng
12
cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng ở
huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng
36
Chương 2. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN
THƯỞNG Ở HUYỆN KIẾN THỤY THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG HIỆN NAY
60
2.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất
lượng công tác thi đua, khen thưởng ở huyện Kiến
Thụy thành phố Hải Phòng hiện nay
2.2. Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng công
60
tác thi đua, khen thưởng ở huyện Kiến Thụy thành
phố Hải Phòng hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
69
90
92
97
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác TĐ,KT là một nội dung, biện pháp quan trọng trong hoạt
động lãnh đạo của Đảng nói chung, của Đảng bộ thành phố Hải Phòng, Đảng
bộ huyện Kiến Thụy nói riêng. CTTĐ,KT được duy trì ở tất cả các Ban,
ngành, đoàn thể, các cơ quan, đơn vị, lực lượng vũ trang.v.v..Thông qua
CTTĐ,KT mà phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của con người và
những thành tựu, kinh nghiệm điển hình, khắc phục những khó khăn, hạn chế,
thúc đẩy phong trào phát triển đi lên. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua”, “công việc
hàng ngày chính là nền tảng thi đua”.
Thực tiễn những năm qua, trên cơ sở quán triệt và thực hiện Nghị
quyết, Chỉ thị của Đảng, của Ban Chấp hành Trung ương và của Thành ủy
Hải Phòng, CTTĐ,KT của huyện Kiến Thụy đã đạt được nhiều kết quả quan
trọng, góp phần nâng cao nhận thức, định hướng tư tưởng, xây dựng động cơ
đúng đắn, trách nhiệm trong tổ chức, thực hiện nhiệm vụ được giao; khắc
phục nhận thức lệnh lạc, sai trái; cổ vũ phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy vẫn còn
tồn tại một số hạn chế, bất cập. Phong trào thi đua ở một số nơi còn hình thức,
chưa gắn kết thi đua với những công việc thường xuyên, hàng ngày; nội dung,
tiêu chí thi đua chưa thực sự cụ thể. Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phong
trào thi đua, chưa kịp thời nắm bắt những vấn đề từ thực tiễn đặt ra, chưa thực
sự gắn với lợi ích của người lao động, do đó chưa thu hút, phát huy, tạo được
động lực cho công tác thi đua từ cơ sở. Phong trào thi đua chưa phát triển
đồng đều và rộng khắp; nhiều nơi còn lúng túng trong việc đổi mới nội dung,
hình thức, biện pháp tổ chức thi đua. Công tác kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn,
sơ kết, tổng kết chưa được coi trọng; chưa đầu tư đúng mức cho phong trào
thi đua; tính động lực và hiệu quả của các phong trào thi đua còn hạn chế.
3
Công tác khen thưởng chưa bám sát các phong trào thi đua, chưa lấy kết quả
phong trào thi đua làm căn cứ, còn thiếu chính xác, còn nể nang, cào bằng, cá
biệt có trường hợp báo cáo không trung thực, chạy theo thành tích; thủ tục
khen thưởng còn nặng về hành chính, gây phiền hà, khó khăn. Tổ chức bộ
máy và cán bộ chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng nhìn chung chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, tổ chức không ổn định, có nhiều thay
đổi và thiếu thống nhất. Năng lực tham mưu, tổ chức vận động quần chúng
của cán bộ chuyên trách thi đua, khen thưởng còn hạn chế.v.v..
Hiện nay, tình hình thế giới, trong nước và của thành phố Hải Phòng có
những chuyển biến phức tạp, đã và đang tác động mạnh mẽ đến việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị của huyện, đến công tác xây dựng Đảng bộ huyện
TSVM. Do đó, để vượt qua khó khăn, thách thức, đồng thời tranh thủ điều
kiện thuận lợi nhằm thực hiện thành công Nghị quyết chuyên đề số 29 của
Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng về xây dựng và phát triển huyện Kiến
Thụy đến năm 2020, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Kiến Thụy lần thứ
24 (nhiệm kỳ 2015-2020), đòi hỏi công tác xây dựng Đảng nói chung,
CTTĐ,KT ở huyện nói riêng phải không ngừng nâng cao chất lượng.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Nâng cao chất lượng
công tác thi đua, khen thưởng ở huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Đây là vấn đề mang tính
cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, do vị trí, vai trò và tính chất quan trọng của
CTTĐ,KT, đặc biệt là giai đoạn thời kỳ đất nước hội nhập và phát triển trong
tình hình mới nên vấn đề nâng cao chất lượng CTTĐ,KT đã thu hút được rất
nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học. Chính vì vậy,
đã có khá nhiều công trình khoa học khác nhau nghiên cứu về TĐ,KT như:
4
* Nhóm công trình nghiên cứu về thi đua, khen thưởng và công tác
thi đua, khen thưởng ở trong nước
Nguyễn Thị Thu Sương (2007), “Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ,
công chức ngành thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay” Luận văn
Thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội. Tác giả
đã phân tích được thực trạng của đội ngũ cán bộ công chức làm CTTĐ,KT
hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao trình độ lý luận,
nhận thức cho cán bộ công chức trong lĩnh vực này.
Nguyễn Thanh Tình, Đỗ Đức Giang, Nguyễn Văn Súy, Phạm Hồng
Đức (2010), Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng ở Học viện Chính trị hiện nay, Đề tài khoa
học cấp Học viện, Học viện Chính trị. Đề tài đã l uận
giải những vấn đề lý luận về đổi
mới CTTĐKT ở Học viện Chính trị. Đánh giá thực trạng, nguyên nhân và rút
ra một số kinh nghiệm đổi mới CTTĐ,KT ở Học viện Chính trị. Xác định
phương hướng, yêu cầu và đề xuất một số giải pháp cơ bản đổi mới
CTTĐ,KT ở Học viện Chính trị hiện nay. Từ cơ sở khoa học về CTTĐ,KT,
tác giả đề tài luận giải về đổi mới CTTĐ,KT ở Học viện Chính trị là: Đổi mới
CTTĐ,KT ở Học viện Chính trị là tổng thể các biện pháp tác động nhằm tạo
ra sự phát triển về chất lượng, tăng cường, phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của các bộ phận, các yếu tố, các khâu, các bước của công tác này đáp
ứng mục tiêu, yêu cầu của TĐ,KT đã xác định trong những điều kiện hoàn
cảnh cụ thể. Đổi mới CTTĐ,KT về thực chất là những tác động có mục đích,
có định hướng với những biện pháp tích cực, chủ động, khoa học để đẩy
mạnh, tăng cường, phát huy tác dụng của TĐ,KT đối với việc thực hiện thắng
lợi các nhiệm vụ chính trị trung tâm, xây dựng các tổ chức đảng TSVM, xây
dựng các hệ, tiểu đoàn học viên VMTD. Đổi mới CTTĐ,KT chính là tạo môi
trường thuận lợi cho mỗi người, mỗi tổ chức được rèn luyện thử thách, được
cống hiến sức mình, qua đó mà rèn luyện, tiến bộ trưởng thành.
5
Lương Khánh Diệu (2011), “Một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt
động của bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta hiện nay”,
Luận văn của Thạc sĩ, Hà Nội. Tác giả đề cập đến thực trạng về tổ chức và
hoạt động của bộ máy làm CTTĐ,KT nói chung và đề ra giải pháp đổi mới tổ
chức và hoạt động của bộ máy trong phạm vi cả nước giai đoạn hiện nay.
Dương Thị Thanh, “Đổi mới quản lý nhà nước về công tác thi đua,
khen thưởng ở địa phương”, Luận văn Thạc sĩ, Hà Nội, 2012. Tác giả đánh
giá tình hình quản lý nhà nước về TĐ,KT nói chung. Từ đó, tác giả chỉ ra một
số các biện pháp để đổi mới công tác quản lý TĐ,KT ở địa phương.
Kiều Kim Cương (2013),“Bồi dưỡng năng lực tiến hành công tác
TĐKT của đội ngũ chính trị viên đại đội ở Binh chủng Tăng-Thiết giáp hiện
nay”, luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng, Học viện Chính trị. Tác giả đã phân
tích khái quát những vấn đề cơ bản về năng lực tiến hành công TĐKT; đưa ra
quan niệm bồi dưỡng năng lực tiến hành CTTĐKT của đội ngũ chính trị viên
đại đội; đánh giá khá toàn diện ưu, khuyết điểm, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra
những kinh nghiệm và làm rõ các yếu tố tác động, xác định các yêu cầu và đề
xuất những giải pháp bồi dưỡng năng lực tiến hành công tác TĐKT của đội
ngũ chính trị viên đại đội ở Binh Chủng Tăng - Thiết giáp hiện nay.
Nguyễn Công Hoan (2013), “Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Hà
Nội. Luận văn đã khẳng định sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện tổ chức
bộ máy quản lý nhà nước về TĐ,KT trong giai đoạn phát triển mới hiện nay
trước yêu cầu cải cách hành chính nhằm tạo dựng sự hợp lý về mô hình tổ
chức và hoạt động, đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
hướng tới nâng cao chất lượng, vai trò, tác dụng tích cực và hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về TĐ,KT trong phạm vi cả nước.
Phạm Vũ Khánh (2013), “Tăng cường quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng trong giai đoạn 2010-2020”, luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục,
6
Hà Nội, 2013. Tác giả luận văn đã chỉ ra những vấn đề còn hạn chế trong giai
đoạn từ khi có Luật Thi đua, Khen thưởng và đề ra giải pháp nhằm tăng
cường quản lý nhà nước về TĐ,KT trong giai đoạn 2010 - 2020.
Trần Đức Lương, “Thi đua vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh”, lời kêu gọi tại lễ kỷ niệm 50 năm Chủ tịch Hồ Chí
Minh phát động phong trào Thi đua ái quốc. Trong bài viết này, tác giả chỉ rõ:
Những ĐHTT, các anh hùng, chiến sĩ thi đua là những người con ưu tú được
tôn vinh qua các phong trào thi đua yêu nước và trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc của nhân dân ta. HĐTĐ, KT ở Trung ương cũng như ở các
ngành, các cấp cần đi sát phong trào của các cơ sở, các ngành, các giới, các
vùng của đất nước phát hiện để khen thưởng biểu dương các cá nhân, tập thể
có thành tích một cách kịp thời, điều khắp và liên tục. Sự trân trọng và tôn
vinh của Nhà nước, của xã hội chính là giá trị cao quý, là động lực tinh thần
có sức có vũ lớn lao mọi người hăng hái thi đua yêu nước.
Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương (2014), “Tập bài giảng: tập
huấn nghiệp vụ thi đua, khen thưởng”. Bài giảng nêu những điểm mới, so
sánh với những vấn đề cũ sau khi Luật sửa đổi một số điều của Thi đua, Khen
thưởng năm 2013.
Đặng Phước (2014), “Ban Nội chính Trung ương: Tiếp tục đổi mới
công tác thi đua, khen thưởng”, Trong bài
viết này, tác giả đã đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng CTTĐ,KT
của cán bộ lãnh đạo cơ quan, đơn vị, các cấp ủy và tổ chức đoàn thể Ban Nội
chính Trung ương về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của CTTĐ,KT; thực
hiện Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07-4-2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi
mới công tác thi đua, khen thưởng.
* Nhóm công trình nghiên cứu về thi đua, khen thưởng và công tác
thi đua, khen thưởng ở thành phố Hải Phòng
Đào Thị Thúy (2012), “Hoàn thiện nội dung quản lý nhà nước đối với
hoạt động thi đua khen thưởng trên địa bàn thành phố Hải Phòng”, luận văn
7
thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội. Tác giả
đánh giá thực trạng, cùng với những nghiên cứu thực tế về các cơ chế, chính
sách về TĐ,KT, đề xuất về giải pháp, cơ chế, chính sách về TĐ,KT.
Trần Thị Hà (2013), “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay”, đề tài khoa học cấp Bộ, Hải
Phòng. Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về
TĐ,KT; trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp
nhằm đổi mới hoạt động TĐ,KT và quản lý nhà nước về TĐ,KT, trực tiếp góp
phần kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Thi đua, Khen thưởng để TĐ,KT thật sự
là động lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới.
Trần Thị Thanh Loan (2014), “Quản lý nhà nước về công tác thi đua,
khen thưởng trên địa bàn thành phố Hải Phòng”, Luận văn Thạc sĩ chuyên
nhành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội. Luận văn đã làm rõ cơ
sở lý luận và thực tiễn, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế, cũng như đề
xuất một số giải pháp chủ yếu của công tác quản lý nhà nước về TĐ,KT trên
địa bàn thành phố Hải Phòng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
của thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay.
Ban Thi đua - Khen thưởng thành phố Hải Phòng (2008) “Kỷ yếu 60
năm thi đua, khen thưởng thành phố Hải Phòng” (11/6/1948 - 11/6/2008). Kỷ
yếu ghi nhận và tuyên dương thành tích xuất sắc của Đảng bộ, quân và dân
thành phố Hải Phòng trong phong trào thi đua yêu nước 60 năm qua.
Ngoài ra còn có các bài viết: Lê Văn Dũng, “CTTĐ, KT của quân đội
trong thời kỳ mới” - Tạp chí Cộng sản số 18 tháng 9/1999; Phạm Thanh
Ngân: "Phong trào thi đua quyết thắng trong quân đội" - Tạp chí Quốc phòng
toàn dân tháng 11/2000; Trương Mỹ Hoa: “Đổi mới CTTĐ, KT trong 5 năm
qua” - Tạp chí Cộng sản số 30 tháng 10/2003; Phùng Khắc Đăng: "Quân đội
nhân dân Việt Nam thực hiện tốt lời kêu gọi "Thi đua ái quốc" của Bác Hồ
trong thời kỳ mới" - Tạp chí Quốc phòng toàn dân tháng 6/2003; Nguyễn Thị
8
Doan: “Đẩy mạnh phong trào thi đua và công tác thi đua, khen thưởng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh” - Tạp chí Cộng sản số 788 tháng 6/2008; Nguyễn
Quang Phát, Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước ý nghĩa đối với
phong trào thi đua Quyết thắng ở Học viện Chính trị hiện nay, Tạp chí Giáo
dục lý luận chính trị quân sự số 5/2014; Ngô Xuân Lịch: “Tiếp tục đổi mới
công tác thi đua, khen thưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, Tạp chí
Quốc phòng toàn dân số 9/2014. “Thi đua quyết thắng - động lực thúc đẩy
toàn quân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” - Tạp chí Quốc phòng toàn dân số
6 - 2015..v.v.v...
Tóm lại, những luận án, luận văn, những công trình, bài viết khoa học
tiêu biểu ở trên được triển khai nghiên cứu công phu, số liệu thực tế phong
phú, lại được các nhà khoa học giàu kinh nghiệm hướng dẫn khoa học, đã đề
cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về TĐ,KT và công tác quản lý nhà nước
về TĐ,KT, đây là những tài liệu có giá trị để tác giả tham khảo và kế thừa
trong luận văn của mình. Tuy nhiên do đối tượng, mục tiêu, nội dung và phạm
vi nghiên cứu của các đề tài khác nhau mà chưa có công trình nào đề cập một
cách trực tiếp, cơ bản, có hệ thống về nâng cao chất lượng CTTĐ,KT ở huyện
Kiến Thụy thành phố Hải Phòng với tính chất là một công trình khoa học độc
lập. Vì vậy, đề tài tác giả lựa chọn nghiên cứu không trùng lặp với các công
trình, đề tài đã được nghiên cứu, công bố trước đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng
CTTĐ,KT đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng CTTĐ,KT ở huyện
Kiến Thụy thành phố Hải Phòng hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về chất lượng CTTĐ, KT ở huyện Kiến
Thụy thành phố Hải Phòng.
9
- Đánh giá thực trạng chất lượng CTTĐ, KT, làm rõ nguyên nhân và rút
ra một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy
thành phố Hải Phòng hiện nay
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất
lượng CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu chất lượng CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy
thành phố Hải Phòng hiện nay. Các tài liệu, số liệu khảo sát phục vụ nghiên
cứu đề tài được giới hạn từ năm 2010 đến năm 2016.
5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên hệ thống lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng; chỉ thị,
nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về
TĐ,KT và đổi mới CTTĐ,KT trong tình hình mới.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn tiến hành CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy thành phố Hải
Phòng qua các thời kỳ, trọng tâm là giai đoạn 2010-2016.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tác giả sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và
liên ngành, trong đó chú trọng các phương pháp: phân tích, tổng hợp; lôgíc và
lịch sử; thống kê, so sánh; điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương
pháp chuyên gia.
10
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm phong phú thêm lý luận
về CTTĐ,KT; cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho cấp ủy, tổ chức
đảng, HĐTĐ,KT của huyện Kiến Thụy trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn và
tổ chức tiến hành CTTĐ,KT. Đồng thời đề tài có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn lý luận chính trị ở các
trung tâm, trường chính trị trên địa bàn thành phố và các huyện ở Hải Phòng.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
11
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
Ở HUYỆN KIẾN THỤY THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
1.1. Công tác thi đua, khen thưởng và những vấn đề cơ bản về
chất lượng công tác thi đua, khen thưởng ở huyện Kiến Thụy thành
phố Hải Phòng
1.1.1. Thi đua, khen thưởng và công tác thi đua, khen thưởng ở
huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng
* Quan niệm về thi đua, khen thưởng
Thi đua, theo từ điển Bách khoa Việt Nam là: “Tác động kích thích lẫn
nhau trong quá trình cùng nhau hoạt động nhằm phát huy tài năng của từng
người và nhiều người để đạt kết quả cao hơn” [53, tr.208]. Trong đời sống xã
hội, con người luôn muốn vươn lên, tự tìm tòi, đưa ra cá sáng kiến, những
cách làm hay để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc nhằm
đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của cá nhân và cộng đồng. Do đó, thi
đua là hiện tượng xã hội mang tính khách quan của con người. C. Mác Ph.Ănghen đã dạy: Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong
hoạt động chung và kế hoạch của con người. Sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi
đua và nâng cao theo lối đặc biệt tăng thêm nghị lực cho riêng trong người.
Tuy nhiên, trong các chế độ xã hội khách nhau, thi đua được hiểu và
vận dụng cũng không giống nhau. Các chế độ xã hội cũ, thi đua được tổ chức
trong một số lĩnh vực hoạt động cụ thể, có phạm vi hẹp. Dưới chế độ XHCN,
việc vận dụng và tổ chức thi đua một cách hết sức rộng rãi trên tinh thần giác
ngộ về mục tiêu xã hội, về sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Thi đua là đòn bẩy mạnh mẽ nhằm nâng cao năng suất lao động, là phương pháp
để giáo dục đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Thi đua khơi dậy trong từng cá nhân,
tập thể và toàn xã hội tính tích cực, chủ động, sáng tạo, đua sức, đua tài hoàn
12
thành thắng lợi các nhiệm vụ đặt ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã dạy: “Tưởng lầm
rằng thi đua là một việc khác với những công việc làm hàng ngày. Thật ra, công
việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua. Thí dụ: Từ trước đến giờ ta vẫn ăn, vẫn
mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn, mặc, ở cho sạch sẽ, cho hợp vệ sinh, cho khỏi đau
ốm. Xưa nay ta vẫn làm ruộng. Nay ta thi đua làm cho đất ruộng tốt hơn, sản
xuất nhiều hơn” [26, tr.169]. Từ đó, Người khẳng định: “Thi đua là một cách rất
tốt, rất thiết thực để làm cho mọi người tiến bộ. Thi đua giúp cho đoàn kết chặt
chẽ thêm. Và đoàn kết chặt chẽ để thi đua mãi” [27, tr.146].
Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2005,
2013) xác định: “Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện
của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” [38, tr.26]. Thi đua là hoạt động có tổ chức. Thi đua
phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Hoạt động
có tổ chức từ khi lập kế hoạch, xác định mục tiêu, hình thức, đối tượng, tổ
chức phát động, cho đến ký kết giao ước thi đua, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết,
tổng kết phong trào thi đua, biểu dương, nhân rộng điển hình tiên tiến, với sự
tham gia của các tổ chức đảng, công đoàn, phụ nữ, thanh niên và cá nhân.
Hiện nay, người phát động phong trào thi đua là người có thẩm quyền được
quy định bởi Luật Thi đua, Khen thưởng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng
và Nhà nước ta. Nội dung thi đua được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc quy
định và khi tặng danh hiệu phải dựa trên các căn cứ, tiêu chuẩn cụ thể. Đó
cũng là những điểm khác nhau giữa thi đua có tổ chức và thi đua tự phát.
Khen thưởng, là hoạt động tồn tại khá lâu và phát triển gắn liền với sự
phát triển của xã hội loài người. Dưới các hình thái kinh tế xã hội khác nhau,
khen thưởng cũng tồn tại dưới các hình thức, giá trị khác nhau tuỳ thuộc vào
bản chất của nhà nước ở trong mỗi giai đoạn lịch sử. “Khen” là sự nhận xét
đánh giá tốt về một con người nào đó, một tổ chức nào đó, về cái gì, việc gì
đó với ý nghĩa hài lòng. “Thưởng” là tặng cho bằng hiện vật hoặc tiền .
13
Ở nước ta, khen thưởng đã được thực hiện từ các triều đại phong kiến,
trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên biên soạn đã ghi rõ các
hình thức khen thưởng như sau: “Khen thưởng người có công trong chiến
trận; Khen thưởng người có công trong việc đi sứ; Khen thưởng người phò tá
có công lao tài đức; Khen thưởng người tiến cử, người hiền tài; Khen thưởng
người có lời tâu đúng; Khen thưởng người cấp dưới giữ đúng phép công,
không vị nể người quyền quý cấp trên; Khen thưởng người có công làm thuỷ
lợi; Khen thưởng người có tài văn chương; Khen thưởng người cao tuổi ...”
[16]. Qua đó ta có thể thấy được các triều đại phong kiến ở nước ta chú trọng
tới việc khen thưởng để khuyến khích, khích lệ động viên mọi người hăng hái
lập công để được khen thưởng. Cũng qua việc hăng hái lập công đó cho thấy
được tinh thần yêu nước sâu sắc của dân tộc.
Trong điều kiện hiện nay, cùng với thi đua, khen thưởng giữ một vị trí,
vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Khen thưởng là sự động viên, biểu
dương, ghi nhận công lao, thành tích của tập thể, cá nhân có thành tích tốt cần
được nhân rộng. Khen thưởng còn góp phần quan trọng trong việc xây dựng
cuộc sống mới, nền văn hoá mới, con người mới hoàn chỉnh và toàn diện hơn,
thực sự làm cho mặt thiện trong mỗi con người ngày càng sinh sôi nảy nở như
hoa mùa xuân và mặt ác ngày càng bị đẩy lùi. khen thưởng lại càng có vai trò
quan trọng là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, là phương thức lãnh đạo của
Đảng, là biện pháp của người quản lý thực hiện nhiệm vụ trọng tâm chính trị
của cơ quan đơn vị mình nhằm khuyến khích động viên các tầng lớp trong xã
hội tích cực hăng hái lập thành tích cao trong lao động sản xuất và công tác.
Trong Khoản 2, Điều 3 của Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2003, sửa đổi bổ
sung năm 2005 và 2013 đã chỉ rõ: “Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu
dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá
nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[38].
14
* Khái quát về huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng
Huyện Kiến Thụy nằm về phía Đông Nam, cách trung tâm thành phố
Hải Phòng 20 km. Diện tích 10.753 ha, dân số gần 13 vạn người, gồm 18 đơn
vị hành chính, với 17 xã và 1 thị trấn. Phía Bắc và Tây Bắc huyện giáp quận
Dương Kinh và quận Kiến An; phía Đông và Đông Nam giáp quận Đồ Sơn và
vịnh Bắc Bộ; phía Nam và Tây Nam giáp huyện Tiên Lãng; phía Tây giáp
huyện An Lão; huyện lỵ đóng tại thị trấn Núi Đối. Trên địa bàn huyện có sự
hội tụ các trục giao thông lớn trong tương lai gần, như đường ô tô cao tốc Hà
Nội – Hải Phòng, đường cao tốc ven biển Duyên Hải. Kiến Thụy còn nằm
trong vùng hưởng lợi, chịu sự chi phối tác động trực tiếp từ tiềm năng phát
triển kinh tế - xã hội tổng hợp của cả vùng Đông Nam thành phố với các cơ
sở hạ tầng lớn như sân bay, cảng biển, cảng quân sự Nam Đồ Sơn, khu kinh tế
biển cửa sông Văn Úc, khu du lịch Đồ Sơn và các cụm công nghiệp, các khu
đô thị của thành phố. Kiến Thụy được xác định là đô thị vệ tinh của thành
phố, phát triển mạnh về du lịch, dịch vụ, sinh thái và là nơi nghỉ dưỡng cuối
tuần.
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển huyện Kiến Thụy, một miền
quê ven biển đầy nắng và gió; người dân và quê hương Kiến Thụy có quyền
tự hào về truyền thống vẻ vang, tinh thần yêu nước nồng nàn, bề dày văn hóa
lâu đời và tinh thần năng động, sáng tạo trong suốt tiến trình dựng nước và
giữ nước của dân tộc. Kiến Thụy là nơi phát tích vương triều Nhà Mạc, là
trung tâm của Dương Kinh, kinh đô thứ hai của Nhà Mạc; nơi sớm có phong
trào đấu tranh cách mạng, đỉnh cao là phong trào Kim Sơn kháng Nhật dành
chính quyền đầu tiên của vùng Duyên hải Bắc Bộ, nơi đầu tiên đi đầu phong
trào khoán sản phẩm trong nông nghiệp, nông thôn. huyện Kiến Thụy cùng
với thành phố Hải Phòng là pháo đài thép bên bờ biển khơi trong chiến lược
phòng thủ về quốc phòng – an ninh của vùng Duyên hải Bắc Bộ. Trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, quân và dân
15
huyện Kiến Thụy có 12 xã và 3 cá nhân được Nhà nước phong tặng danh hiệu
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 119 bà mẹ được phong tặng danh hiệu
Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng; hàng ngàn gia đình và cá nhân được tặng thưởng
Huân Huy chương các loại và Bằng khen có công với nước. Phát huy truyền
thống cách mạng của quê hương, trong thời kỳ đổi mới quân và dân Kiến
Thụy tiếp tục vươn lên giành được thành tích xuất sắc, được Nhà nước tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang năm 1999; Huân chương Lao động
hạng Nhì năm 2002; Huân chương Độc lập hạng Ba năm 2004, Huân chương
Độc lập Hạng Nhì năm 2009.
Nghị quyết số 29-NQ/TU, ngày 25/11/2009 của Ban Thường vụ Thành
ủy và Quyết định số 1472/QĐ-UBND, ngày 03/8/2009 của Ủy ban nhân dân
thành phố phê duyệt đề án quy hoạch tổng thể về xây dựng và phát triển
huyện Kiến Thụy đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 đã xác định: Xây
dựng huyện Kiến Thụy sớm trở thành địa phương đạt trình độ phát triển
chung của các quận, huyện, cùng thành phố hoàn thành sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; có kết cấu kỹ thuật hạ tầng đồng bộ, có công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ phát triển với cơ cấu hợp lý; khai thác toàn diện
lợi thế kinh tế biển, lợi thế của một huyện ven đô; đẩy mạnh xây dựng đô thị
nông thôn theo hướng đô thị sinh thái hài hòa có bản sắc riêng, gắn với phát
triển du lịch; văn hóa xã hội phát triển; có hệ thống chính trị, quốc phòng an
ninh vững chắc; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một nâng
cao.
* Chức năng nhiệm vụ của Hội đồng thi đua, khen thưởng ở huyện
Kiến Thụy thành phố Hải Phòng
Hội đồng TĐKT được UBND huyện Kiến Thụy thành lập, trong đó
Chủ tịch UBND huyện làm Chủ tịch hội đồng, các thành viên là lãnh đạo các
ban, ngành, đoàn thể của huyện, trong đó Phòng Nội vụ là cơ quan thường
16
trực của HĐTĐ,KT huyện. Chức năng, nhiệm vụ của HĐTĐ,KT huyện Kiến
Thụy được thể hiện ở những nội dung sau:
Một là, tham mưu, tư vấn cho huyện ủy, UBND huyện về CTTĐ,KT
theo sự lãnh đạo của Đảng và đúng quy định của pháp luật và tình hình thực
tế của địa phương hiện nay.
Hai là, phối hợp với các cơ quan Đảng của huyện ủy Kiến Thụy gồm:
Ban Tổ chức huyện ủy, Ủy ban Kiểm tra huyện ủy, Ban Tuyên giáo huyện ủy,
Ban Dân vận, Văn phòng huyện ủy trong công tác lãnh đạo của huyện ủy đối
với các Chi, Đảng bộ trực thuộc về CTTĐ,KT; cụ thể là mục tiêu, quan điểm
xây dựng và triển khai kế hoạch trong 5 năm và từng năm của các tổ chức
Đảng về nâng cao chất lượng CTTĐ,KT của huyện Kiến Thụy, thành phố Hải
Phòng. Yêu cầu các phong trào thi đua yêu nước phải luôn đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhất là phong trào thi đua thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ
Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”. Bên cạnh đó, HĐTĐ,KT huyện phối hợp tốt với
Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện và các đoàn thể, các tổ chức xã
hội, xã hội nghề nghiệp trong việc tuyên truyền, vận động nâng cao chất
lượng CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng hiện nay.
Ba là, định kỳ tổng kết, đánh giá tình hình phong trào thi đua và công
tác khen thưởng; phổ biến kinh nghiệm, xây dựng và nhân rộng các mô hình,
phong trào thi đua, các gương điển hình tiên tiến; tham mưu cho huyện xây
dựng kế hoạch tổ chức phong trào thi đua trong từng năm, từng giai đoạn.
Bốn là, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các
chủ trương, chính sách về TĐ,KT đối với các Phòng ban ngành, đoàn thể, các
cơ quan, đơn vị, các xã, thị trấn. Đây là nhiệm vụ thường xuyên của
HĐTĐ,KT huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng, nhằm đảm bảo việc nâng
cao chất lượng TĐ,KT ở cơ sở theo đúng sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo sự
quản lý của chính quyền và biến TĐ,KT thực sự trở thành động lực trong quá
17
trình phấn đấu thực hiện nhiệm vụ được giao của mỗi đơn vị, tổ chức, mỗi cá
nhân trên tất cả các lĩnh vực, các mặt trận thi đua yêu nước.
Năm là, xét chọn những tập thể, cá nhân xuất sắc trong phong trào thi
đua yêu nước trình Chủ tịch UBND huyện khen thưởng theo quy định. Theo
đó, Thường trực HĐTĐ,KT huyện (Phòng Nội vụ) tiếp nhận, tổng hợp, thẩm
định hồ sơ đề nghị công nhận danh hiệu thi đua và khen thưởng của các tập
thể, cá nhân, trình Chủ tịch UBND huyện xem xét, quyết định khen thưởng.
Riêng danh hiệu Tập thể lao động Tiên tiến, Chiến sĩ thi đua cơ sở phải được
thông qua hoặc xin ý kiến HĐTĐ,KT của huyện xem xét trước khi trình Chủ
tịch UBND huyện quyết định công nhận. Đối với các trường hợp đề nghị
khen thưởng ở cấp thành phố và Trung ương, HĐTĐ,KT huyện xét duyệt,
biểu quyết thông qua báo cáo Chủ tịch UBND huyện, xin ý kiến Ban Thường
Vụ huyện ủy trước khi Chủ tịch UBND huyện đề nghị thành phố và Trung
ương khen thưởng.
* Quan niệm về công tác thi đua, khen thưởng ở huyện Kiến Thụy
thành phố Hải Phòng
Thi đua và khen thưởng là hai khái niệm dùng để chỉ hai hoạt động có
nội dung cụ thể khác nhau, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời
nhau cùng nhằm tạo động lực phấn đấu để có thành tích tốt nhất trong phát
triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, giáo dục rèn luyện, phát
triển trí tuệ tài năng của con người. Thi đua là cơ sở nền tảng của khen
thưởng. Khen thưởng tạo động lực thúc đẩy thi đua. Thi đua, khen thưởng
luôn gắn bó chặt chẽ với nhau tạo tiền đề, hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động của con
người. Từ phong trào thi đua để lựa chọn những cá nhân và tập thể tiên tiến
nhất, xứng đáng nhất để kịp thời khen thưởng. Đồng thời khen thưởng đúng
người, đúng việc sẽ động viên và thúc đẩy phong trào thi đua. Chủ tịch Hồ
Chí Minh coi thi đua là đoàn kết, là cải tạo con người. Theo Người, thi đua
phải toàn dân, toàn diện, thường xuyên, khen thưởng phải có tác dụng động
18
viên giáo dục, nêu gương. Thiếu khen thưởng hoặc khen thưởng không tương
xứng thì không đẩy mạnh được thi đua và khen thưởng có kịp thời, chính xác,
đúng người, đúng việc mới có tác dụng động viên, thúc đẩy thi đua. Gắn chặt
thi đua với khen thưởng là một yêu cầu có tính nguyên tắc của thi đua, khen
thưởng. Vì vậy, hình thành khái niệm CTTĐ,KT.
Công tác TĐ,KT của huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng là một bộ
phận CTTĐ,KT của Đảng và được tiến hành bởi cơ quan chuyên trách là
HĐTĐ,KT do huyện ủy bầu ra, có cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn theo quy định của Điều lệ Đảng, hoạt động dưới sự lãnh đạo của
huyện ủy và chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của Thành ủy, HĐTĐ,KT Thành
ủy. Việc tiến hành CTTĐ,KT và chất lượng CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy
phụ thuộc một phần rất quan trọng vào việc xây dựng và phát huy vai trò của
HĐTĐ,KT của huyện ủy - với tư cách là cơ quan tham mưu, giúp việc cho
huyện ủy và trực tiếp tiến hành CTTĐ,KT theo quy định.
Công tác TĐKT là nội dung, biện pháp quan trọng của hoạt động công
tác xây dựng Đảng ở huyện Kiến Thụy được duy trì, phát động, triển khai
thực hiện ở tất cả các phòng ban ngành, các cơ quan, đơn vị, các tổ chức
chính trị xã hội, lực lượng vũ trang, đơn vị doanh nghiệp, trường học, các xã
thị trấn trên địa bàn huyện. Thông qua CTTĐ,KT mà phát huy tính tích cực
chủ động, sáng tạo của cán bộ, công chức, viên chức, chiến sĩ, công nhân,
người lao động và các tầng lớp nhân dân trong thi đua lao động sản xuất, bảo
vệ và xây dựng huyện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, để xây dựng
huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng phát triển nhanh, bền vững, góp phần
xây dựng thành phố Cảng xanh, văn minh hiện đại theo tinh thần nghị quyết
29 về xây dựng và phát triển huyện Kiến Thụy và nghị quyết 32 của Bộ Chính
trị về xây dựng thành phố Hải Phòng trong thời kỳ mới.
Từ cách tiếp cận vấn đề như trên, có thể quan niệm: Công tác thi đua,
khen thưởng ở huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng là tổng thể các hoạt
19
động có mục đích, có kế hoạch của các chủ thể, các lực lượng trong việc sử
dụng các biện pháp tư tưởng, tổ chức, chính sách tác động vào đối tượng thi
đua, khen thưởng nhằm giáo dục, cổ vũ, động viên họ phát huy phẩm chất,
năng lực, tinh thần đoàn kết trên các lĩnh vực đời sống xã hội, góp phần xây
dựng cá nhân, tổ chức vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Quan niệm trên chỉ ra một số vấn đề cơ bản sau:
Mục đích
CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy
là nhằm tạo động lực, động viên,
khuyến khích, phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo của mọi cán
bộ, đảng viên, nhân dân trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; hăng
hái học tập, rèn luyện, công tác, lao động sản xuất, phát triển hoàn thiện phẩm
chất đạo đức cách mạng; xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng TSVM, các đoàn thể
chính trị xã hội của huyện VMTD…
Chủ thể và lực lượng tiến hành CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy là huyện
ủy, HĐTĐ,KT huyện ủy, các cấp ủy, tổ chức đảng và mọi cán bộ, đảng viên
và quần chúng nhân dân. Trong đó, huyện ủy giữ vai trò lãnh đạo; HĐTĐ,KT
huyện ủy là chủ thể chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện theo chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Luật thi đua, khen thưởng; cán bộ,
đảng viên, nhân dân là lực lượng tham gia tích cực và chủ động
Đối tượng tác động của CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy là toàn bộ cán
bộ, đảng viên, công nhân, chiến sĩ, quần chúng nhân dân, các tập thể ở huyện
Kiến Thụy.v.v..Tuy nhiên, CTTĐ,KT là hoạt động có tổ chức với sự tham gia
của cá nhân và tập thể, vì vậy đối tượng tác động của CTTĐ,KT còn là các tổ
chức lãnh đạo, chỉ huy, tổ chức quần chúng và tập thể đơn vị…
Nội dung CTTĐ, KT ở huyện Kiến Thụy luôn bám sát vào nhiệm vụ
chính trị trung tâm của huyện, của thành phố Hải Phòng và được cụ thể hóa
bằng các nội dung, chỉ tiêu cụ thể. Nội dung CTTĐ,KT bao gồm tổng thể
những hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức việc giáo dục động cơ quyết tâm
thi đua; xây dựng mục tiêu, các chương trình kế hoạch, quy chế, quy định;
20
phát động các phong trào thi đua và tổ chức các hoạt động thực tiễn để thực
hiện mục tiêu, nội dung thi đua; chỉ đạo hướng dẫn việc thực hiện, tổng kết
đánh giá thi đua, xét, quyết định khen thưởng; củng cố kiện toàn bộ máy tổ
chức TĐ,KT. Nội dung CTTĐ,KT tập trung vào nâng cao chất lượng thực
hiện nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị trong huyện; đi sâu vào thực hiện có
hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo; xây dựng
chính quy, cải cách thủ tục hành chính; xây dựng tổ chức đảng TSVM, xây
dựng các cơ quan, đơn vị VMTD, các đoàn thể chính trị vững mạnh xuất sắc.
Hình thức tiến hành CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy bao gồm thi đua
thường xuyên và thi đua đột kích. Hình thức thi đua thường xuyên nhằm thực
hiện nhiệm vụ chính trị thường xuyên hàng quý, sáu tháng hoặc hàng năm của
các cơ quan, đơn vị, thường được phát động khi bước vào mùa huấn luyện,
đợt công tác... và được tiến hành hàng ngày ở mọi lúc, mọi nơi mang tính liên
tục, dài ngày cho đến khi kết thúc nhiệm vụ. Hình thức thi đua đột kích là
nhằm tập trung cao độ sức lực, trí tuệ để dứt điểm một mặt, một khâu công tác
quan trọng hoặc một nhiệm vụ trọng tâm đột xuất trong một thời gian ngắn.
Thời cơ phát động thi đua thường gắn với các ngày lễ lớn, ngày truyền thống
của huyện, của các cơ quan, đơn vị, hoặc bước vào thực hiện nhiệm vụ quan
trọng, đột xuất...Trong quá trình tổ chức thi đua cần phải kết hợp giữa thi đua
thường xuyên và thi đua đột kích với nội dung, mục tiêu cụ thể, nhằm đẩy
mạnh phong trào cả về bề rộng và chiều sâu, đạt chất lượng, hiệu quả cao
nhất.
Biện pháp tiến hành CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy bao gồm tổng hợp các
biện pháp công tác tư tưởng, công tác tổ chức, chính sách kết hợp với các biện
pháp hành chính, kinh tế, tâm lý xã hội để thực hiện mục tiêu, nội dung, các
hình thức TĐ,KT. Các biện pháp công tác tư tưởng bao gồm giáo dục, thuyết
phục, động viên cổ vũ, xây dựng động cơ quyết tâm thi đua thông qua các
hình thức tuyên truyền cổ động phong trào thi đua.... Các biện pháp công tác
21
tổ chức được sử dụng là thông qua sinh hoạt, hoạt động của các tổ chức mà
cán bộ, đảng viên, công nhân, chiến sĩ..v.v.. là thành viên trong đó. Các biện
pháp chính sách bao gồm: chính sách khen thưởng, động viên của Nhà nước,
của tỉnh, thành phố, của huyện đối với tập thể, cá nhân có thành tích trong
phong trào thi đua. Các hình thức, biện pháp CTTĐ,KT phải được kết hợp
chặt chẽ trong đó lấy vận động giáo dục thuyết phục là căn bản vì thi đua phải
lấy tính tự nguyện, tự giác, chủ động là nền tảng.
* Nội dung, phương thức công tác thi đua, khen thưởng ở huyện Kiến
Thụy thành phố Hải Phòng
Nội dung, phương thức CTTĐ,KT ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải
Phòng được thực hiện theo quy định tại Điều 15,16 Luật Thi đua, khen
thưởng; Điều 7 Nghị định số 42/2010/NĐ-CP và Điều 2,3 Thông tư số
07/2014/TT-BNV. Theo đó, CTTĐ,KT được đặt dưới sự lãnh đạo của huyện
ủy; thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của của Ban Thường vụ huyện ủy, UBND
huyện đã có Quyết định về việc ban hành Quy định CTTĐ,KT trên địa bàn
huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
Phương thức tổ chức phát động phong trào thi đua huyện Kiến Thụy,
thành phố Hải Phòng hiện nay dựa trên cơ sở mục tiêu phấn đấu nhằm thực
hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, hằng năm Chủ tịch UBND
huyện Kiến Thụy phát động phong trào thi đua thường xuyên, thi đua theo đợt
hoặc theo chuyên đề trong phạm vi toàn huyện.
Căn cứ nội dung phong trào thi đua do Chủ tịch UBND huyện phát
động, căn cứ chức năng nhiệm vụ được giao, thủ trưởng các ban, ngành, đoàn
thể, Chủ tịch UBND các xã, thị trấn xây dựng kế hoạch thực hiện và tổ chức
phát động phong trào thi đua thuộc phạm vi quản lý của cơ quan, đơn vị, địa
phương theo các nội dung cụ thể: phong trào thi đua có chủ đề, tên gọi dễ nhớ
dễ tuyên truyền, dễ thực hiện; nội dung bám sát nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ
trọng tâm cấp bách để đề ra nội dung, phương pháp thi đua cụ thể, thiết thực
phù hợp với điều kiện, khả năng tham gia của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Căn
22
cứ và nội dung, chỉ tiêu của các phong trào thi đua để xây dựng các tiêu chí
đánh giá thi đua phù hợp với thực tiễn và để làm căn cứ khen thưởng trong
các kỳ sơ kết, tổng kết.
Đối với các Ban xây dựng Đảng, Văn phòng huyện uỷ, Uỷ ban Mặt
trận tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể của huyện, các phòng, ban ngành trực
thuộc UBND huyện, UBND các xã, thị trấn, các đơn vị phối quản đóng trên
địa bàn huyện: Hằng năm tổ chức cho các đơn vị trực thuộc ký kết giao ước
thi đua; đăng ký các chỉ tiêu, tiêu chí thi đua; các danh hiệu thi đua và gửi bản
tổng hợp đăng ký thi đua của đơn vị đến Thường trực HĐTĐ,KT huyện
(phòng Nội vụ) trước ngày 15/02 hàng năm.
Đối với các phong trào thi đua theo đợt do Chủ tịch UBND huyện phát
động trong một thời gian ngắn, nhằm hoàn thành kế hoạch, nhiệm vụ trọng
tâm đột xuất theo từng giai đoạn và thời gian xác định thì việc đăng ký thi
đua, đánh giá, tổng kết phong trào thi đua gắn với việc tổng kết nhiệm vụ
công tác năm thi đua.
Đối với phong trào thi đua theo chuyên đề do Huyện uỷ, UBND huyện
phát động: Trên cơ sở kế hoạch tổ chức thực hiện phong trào thi đua, các xã,
thị trấn, các phòng, ban ngành, Mặt trần tổ quốc và các đoàn thể huyện xây
dựng, đăng ký các mục tiêu, chỉ tiêu thi đua, giải pháp thực hiện và kết quả
phấn đấu đạt được các hình thức khen thưởng cụ thể, gửi tới Thường trực
HĐTĐ,KT huyện (phòng Nội vụ) để theo dõi, tổng hợp.
Đối với các phong trào thi đua chuyên đề do ban ngành, đoàn thể Trung
ương, thành phố phát động: trên cơ sở kế hoạch của trung ương, thành phố có
đầy đủ các nội dung (theo quy định tại Điển b Khoản 3 Điều 4 Quy định này)
gửi tới Thường trực HĐTĐ,KT (phòng Nội vụ) sau 05 ngày kể từ ngay triển
khai Kế hoạch.
* Đặc điểm công tác thi đua, khen thưởng ở huyện Kiến Thụy thành
phố Hải Phòng
23
Một là, công tác thi đua, khen thưởng ở huyện Kiến Thụy thành phố
Hải Phòng luôn đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, sâu sát của huyện ủy,
Hội đồng thi đua khen thưởng huyện ủy
Ban chấp hành Đảng bộ huyện, Ban Thường vụ huyện ủy trực tiếp lãnh
đạo CTTĐ,KT thông qua HĐTĐ,KT huyện do Chủ tịch UBND huyện làm
Chủ tịch Hội đồng, phòng Nội vụ là cơ quan thường trực của Hội đồng. Các
tập thể, cá nhân trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, nhân dân lao
động, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội –
nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế
thuộc các thành phần kinh tế, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân trên địa bàn
huyện; cá nhân, tổ chức người ngoài địa bàn, người nước ngoài tự nguyện
đăng ký thi đua và có thành tích xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển huyện Kiến Thụy đều được xem xét khen thưởng theo quy định.
Hai là, công tác thi đua, khen thưởng ở huyện Kiến Thụy thành phố
Hải Phòng được tiến hành một cách công khai, dân chủ, tự giác và phát triển
Các tập thể cá nhân trực thuộc huyện bao gồm các Phòng, Ban ngành,
các cơ quan, đơn vị trực thuộc và các xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Việc xét
tặng các danh hiệu thi đua phải căn cứ vào kết quả thực hiện nội dung thi đua
của tập thể, cá nhân đã đăng ký tham gia phong trào thi đua; xác định rõ mục
tiêu, chỉ tiêu thi đua. Những trường hợp không đăng ký thi đua sẽ không được
xem xét, công nhận các danh hiệu thi đua. Chính xác, công khai, công bằng
và kịp thời. Thành tích khen thưởng phải rõ ràng, cụ thể, trên cơ sở đánh giá
đúng hiệu quả công tác và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tập thể và cá
nhân để khen thưởng. Quan tâm khen thưởng cho các tập thể nhỏ, cá nhân
trực tiếp lao động, sản xuất, công tác và các tầng lớp nhân dân; kịp thời động
viên, khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân trong điều kiện thực hiện
nhiệm vụ khó khăn nhưng năng động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ, thành tích có phạm vi ảnh hưởng lớn, nhân rộng điển hình tiên tiến.
24
Ba là, công tác thi đua, khen thưởng ở huyện Kiến Thụy thành phố Hải
Phòng được tiến hành trên cơ sở quy định của Luật Thi đua, khen thưởng
Theo đó, nội dung, hình thức tổ chức các phong trào thi đua, tiêu chuẩn
các danh hiệu thi đua; các hình thức, đối tượng, tiêu chuẩn khen thưởng; thủ
tục, hồ sơ đề nghị khen thưởng; quỹ TĐ,KT; kiểm tra, xử lý vi phạm trong
TĐ,KT; sơ kết, tổng kết TĐ,KT được quy định một cách chặt chẽ trong các
văn bản, chỉ thị, hướng dẫn. Thi đua phải thường xuyên, được tổ chức thực
hiện hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng quý, hàng năm theo ngành, địa
phương và theo cụm, khối thi đua nhằm hoàn thành toàn diện và vượt mức
mục tiêu, chỉ tiêu và chương trình công tác đề ra hàng năm.
Bốn là, tiêu chuẩn các danh hiệu thi đua, khen thưởng đối với tập thể và
cá nhân ở huyện Kiến Thụy được quy định chặt chẽ, thống nhất.
Trên cơ sở quy định của Luật Thi đua, khen thưởng (sửa chữa, bổ sung
2013) và hướng dẫn của Thành ủy Hải Phòng, các tiêu chuẩn danh hiệu thi
đua đối với tập thể và cá nhân được quy định cụ thể như sau:
Danh hiệu “Lao động tiên tiến”: Danh hiệu “Lao động tiên tiến” xét
tặng hàng năm cho cá nhân vào dịp tổng kết năm công tác; đối với hệ thống
giáo dục và đào tạo thực hiện vào dịp tổng kết năm học; trong năm có đăng
ký thi đua và đạt các tiêu chuẩn quy định cụ thể như sau: Hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, đạt năng suất và chất lượng cao; chấp hành tốt chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có tinh thần tự lực, tự
cường; đoàn kết, tương trợ, tích cực tham gia phong trào thi đua; tích cực học
tập chính trị, văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; có đạo đức, lối sống lành
mạnh. Đối với cá nhân được cử tham gia đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn dưới 01
năm (hệ tập trung), chấp hành tốt quy định của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng thì
thời gian học tập được tính vào thời gian công tác tại cơ quan, đơn vị để được
bình xét danh hiệu “Lao động tiên tiến”. Trường hợp được cử tham gia đào
tạo, bồi dưỡng từ 01 năm trở lên (hệ tập trung), chấp hành tốt quy định của cơ
25
sở đào tạo, bồi dưỡng, có kết quả học tập từ loại khá trở lên thì được xét tặng
danh hiệu “Lao động tiên tiến”. Đối với cá nhân chuyển công tác, cơ quan,
đơn vị mới có trách nhiệm xem xét, bình bầu danh hiệu “Lao động tiên tiến”
(trường hợp có thời gian công tác ở cơ quan cũ từ 06 tháng trở lên phải có ý
kiến nhận xét của cơ quan cũ). Trường hợp được điều động, biệt phái đến cơ
quan, đơn vị khác trong một thời gian nhất định thì việc xem xét, bình bầu
danh hiệu “Lao động tiền tiến” do cơ quan, đơn vị điều động, biệt phái xem
xét quyết định (có ý kiến nhận xét của cơ quan, đơn vị tiếp nhận cá nhân được
điều động, biệt phái). Đối tượng nữ nghỉ thai sản theo chế độ quy định thì thời
gian nghỉ vẫn được tính để xem xét tặng danh hiệu “Lao động tiên tiến”.
Trường hợp mới tuyển dụng dưới 10 tháng; nghỉ việc từ 40 ngày làm việc trở
lên; bị kỷ luật từ hình thức khiển trách trở lên thì không được xét tặng danh
hiệu “Lao động tiên tiến”.
Danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”: Danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”
xét tặng hàng năm cho các cá nhân đạt tiêu chuẩn sau: Đã đạt danh hiệu “Lao
động tiên tiến”; Có sáng kiến, đề tài khoa học hoặc giải pháp công tác để tăng
năng suất lao động, tăng hiệu quả công tác được Hội đồng sáng kiến khoa học
huyện công nhận. Đối với cá nhân là Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị: Ngoài
các tiêu chuẩn trên còn phải đảm bảo các điều kiện sau: Cơ quan, đơn vị phải
hoàn thành tốt các chỉ tiêu thi đua và các chỉ tiêu kế hoạch trong năm; đạt
danh hiệu tập thể lao động tiên tiến và không có cá nhân bị kỷ luật từ hình
thức khiển trách trở lên. Tỷ lệ tối đa không quá 15% tổng số “Lao động tiên
tiến” của cơ quan, đơn vị.
Danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cấp thành phố”: Danh hiệu “Chiến sĩ thi
đua cấp thành phố” được xét tặng hàng năm cho cá nhân đạt tiêu chuẩn quy
định tại Điều 4 Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày 01/7/2014 của Chính phủ;
Điều 5 Thông tư số 07/2014/TT-BNV ngày 29/8/2014 của Bộ Nội vụ.
Danh hiệu “Chiến sĩ thi đua Toàn quốc”: Danh hiệu “Chiến sĩ thi đua
cấp thành phố” được xét tặng hàng năm cho cá nhân đạt tiêu chuẩn quy định
26