Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN lực NGÀNH GIÁO dục HUYỆN ỨNG hòa, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.57 KB, 104 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH GIÁO DỤC BẬC TIỂU

11

HỌC Ở HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1.

Quan niệm về nguồn nhân lực ngành Giáo dục và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục bậc tiểu

1.2.

11

học ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội
Sự cần thiết và các nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục bậc tiểu

22

học ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội


Chương 2

THỰC TRẠNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN
NHÂN LỰC NGÀNH GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC

33

HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1.

Tổng quan về chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dụ ở

2.2.

huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội
Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục

33
37

bậc tiểu học huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội
Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH
GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC Ở HUYỆN ỨNG

56


HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1

Quan điểm cơ bản

56

3.2

Giải pháp chủ yếu

66
81
83
88

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, nó được phân bố trong các ngành, các
lĩnh vực của đời sống xã hội cụ thể, trong đó có ngành giáo dục. Nguồn nhân
lực đó không tự nhiên có, nó được phát triển theo những chương trình kế

hoạch của Nhà nước trên cơ sở các cơ quan chức năng của Nhà nước nhận
thức, vận dụng các quy luật khách quan, trước hết là các quy luật kinh tế,
cùng với thực tiễn tình hình phát triển nguồn nhân lực của nước nhà để xây
dựng nên và được hiện thực hóa thông qua các con đường biện pháp khác
nhau, được khai thác vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội.
Trong các nguồn nhân lực của đất nước, nguồn nhân lực ngành Giáo dục
và đào tạo tuy không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất trực tiếp tạo ra
các sản phẩm vật chất đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội,
nhưng nó có vai trò hết sức quan trọng đối với các quá trình kinh tế - xã hội.
Chính vì vậy Đảng ta đã xác định: Phát triển Giáo dục là "Quốc sách hàng
đầu". Để phát triển toàn diện Giáo dục, rõ ràng cần phải phát triển chính
nguồn nhân lực của ngành Giáo dục.
Chất lượng nguồn nhân lực là cơ sở để đánh giá bộ mặt của nền giáo dục
mà chất lượng giáo dục phổ thông nói chung cũng như chất lượng giáo dục
đại học và chuyên nghiệp đều bắt đầu từ chất lượng giáo dục tiểu học. Chất
lượng giáo dục lại phụ thuộc vào chất lượng người đi giáo dục. Chính vì thế,
chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế - xã hội phải bắt đầu từ nâng cao
phẩm chất và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên tiểu học
và người quản lý giáo dục.
Ứng Hòa là huyện phía Nam của Hà Nội, có diện tích tự nhiên 183.72
km2. Dân số khoảng 200.000 người, gồm 29 đơn vị hành chính: 01 thị trấn, 28
2


xã và là huyện đồng bằng nằm trong vùng thuộc nền văn minh lúa nước sông
Hồng, có điều kiện khí hậu, đất đai đa dạng, phù hợp với khả năng phát triển
một nền nông nghiệp sinh thái toàn diện, mang đặc trưng của nền sản xuất
nông nghiệp truyền thống. Tuy nhiên, Ứng Hòa là huyện thuần nông, điểm
xuất phát thấp. Về giáo dục, đã có nhiều trường đạt chuẩn quốc gia, nhưng

chất lượng nguồn nhân lực trực tiếp giảng dạy còn nhiều hạn chế, như: nhiều
giáo viên còn chưa thực sự dốc hết tâm lực và trí lực cho chuyên môn của
mình, giáo viên vừa giảng dạy, vừa phải tham gia phát triển kinh tế gia đình
nên ảnh hưởng nhất định đến chất lượng giáo dục. Mặt khác, điểm xuất phát
của không ít giáo viên và người quản lý giáo dục thấp; nhận thức của chính
bản thân giáo viên và người quản lý giáo dục chưa toàn diện nên chưa thực sự
quan tâm thường xuyên đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng dạy... Vì
thế, nghiên cứu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục ở
huyện Ứng Hòa thành phố Hà Nội là vấn đề vừa có tính lý luận, vừa có tính
thực tiễn cao, góp phần giải quyết vấn đề giáo dục và đào tạo, phát triển, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực làm cho xã hội phát triển lành mạnh, kinh tế
của Huyện phát triển nhanh, bền vững.
Vì vậy, tác giả chọn: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành
Giáo dục ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc
sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Từ những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây, khi thế giới thực hiện bước
chuyển từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên hạn hẹp sang kinh tế
trí tuệ; cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và quá trình toàn cầu hóa thúc
đẩy nhanh tiến trình tri thức hóa thế giới làm xuất hiện những khái niệm:
Nguồn nhân lực, kinh tế tri thức. Những khái niệm này ngay lập tức đã thu
hút được sự quan tâm của các nhà khoa học trên các lĩnh vực khác nhau; đặc
biệt là các nhà khoa học, các quốc gia, các tổ chức quốc tế chuyên nghiên cứu
3


về kinh tế. Từ đây, họ đã đưa ra những quan niệm và làm rõ những vấn đề lý
luận liên quan đến nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong
những hướng đi quan trọng nhằm hướng tới phát triển nhanh, bền vững,

xóa đói giảm nghèo góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Vì vậy, cho đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu xung quanh vấn đề này, dưới nhiều góc độ khác nhau được
phân thành các nhóm sau:
* Nhóm những công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận, các tiêu chí,
thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, như
PGS Mai Quốc Chánh chủ biên (1999), Nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sách tham
khảo, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã khái quát vai trò
của nguồn nhân lực, sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam và các giải pháp nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lê Thị Ngân (2005),Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh
tế tri thức ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu khái quát lý luận về nguồn nhân
lực, chất lượng nguồn nhân lực, các yếu tố cấu thành nguồn nhân lực và vai
trò của nó trong sự phát triển kinh tế - xã hội và quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức để hệ thống hóa thành lý luận.
Bùi Sỹ Tuấn (2012), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp
ứng nhu cầu xuất khẩu lao động của Việt Nam đến năm 2020, Luận án Tiến sĩ
kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Tác giả đã đưa ra cơ sở lý
luận về chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lao động.
Phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xuất khẩu
lao động của Việt Nam trong thời gian qua và các giải pháp nâng cao chất
4


lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lao động của Việt
Nam đến năm 2020.
Nguyễn Thị Hồng Cẩm (2013), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

trong các doanh nghiệp công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam, Luận án Tiến sĩ
kinh tế Trường Đại học kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Tác giả đã đưa ra khái
niệm nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực, tiêu chí đánh giá chất
lượng nguồn nhân lực, thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh
nghiệp chế biến gỗ ở Việt Nam. Đồng thời, còn đưa ra những nhóm giải pháp
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp chế hiến gỗ ở
Việt Nam hiện nay.
* Nhóm những công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguồn
nhân lực và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, gồm một số
công trình sau
Đỗ Minh Cương và Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển nguồn nhân lực
giáo dục đại học Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội; công
trình này đã đề cập đến cơ sở lý luận về phát triển nguồn nhân lực giáo dục
đại học. Kinh nghiệm trên thế giới và quá trình hình thành, phát triển của giáo
dục đại học Việt Nam. Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
nguồn nhân lực giáo dục đại học.
Lê Thị Hồng Điệp (2010), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng để hình
thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh
tế quốc dân, Hà Nội. Tác giả đã phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức, từ đó đề xuất giải pháp
góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta.
Nguyễn Mạnh Hổ (2012), Phát triển nguồn nhân lực trong công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội, Luận văn Kinh tế Chính trị, Học viện
Chính trị, Hà Nội. Tác giả đã đưa ra quan niệm về phát triển nguồn nhân
lực ở Hà Nội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, những giải
5


pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội.

* Nhóm những công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa nguồn
nhân lực chất lượng cao với sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước và những
vấn đề đặt ra trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
PGS, TS. Vũ Văn Phúc (2012), Phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao trong các doanh nghiệp nhà nước - Thực trạng và giải pháp ,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Tác giả đã đi sâu phân
tích thực trạng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay,
từ đó đưa ra 5 giải pháp để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
các doanh nghiệp nhà nước.
PGS, TS. Phạm Quốc Trung và TS. Đỗ Quang Dũng (2012), Những vấn
đề đặt ra cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay,
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Tác giả đi sâu phân tích
những vấn đề đặt ra cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đồng thời,
tìm ra nguyên nhân chủ quan và khách quan, đưa ra những giải pháp cụ thể
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay.
Vũ Thị Mai Phương (2013), Nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự
nghiệp công nghiệp hóa ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đã phân
tích mối quan hệ giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực chất
lượng cao và những vấn đề đặt ra trong việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao. Đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp để phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam hiện nay.

6


* Nhóm những công trình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến

nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
GS, TS. Nguyễn Ngọc Phú chủ biên (2010), Nguồn nhân lực, nhân tài
của đất nước hiện nay, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Công
trình đã tổng hợp nhiều bài viết có liên quan đến nguồn nhân lực của các giáo
sư, tiến sĩ, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu tâm huyết.
Lê Nguyên Hoàn (2012), Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân
lực, nhân tài - một số kinh nghiệm thế giới, Nhà xuất bản Chính trị Hành
chính, Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu tổng quan về phát triển giáo dục và đào
tạo; giới thiệu một số kinh nghiệm của thế giới về phát triển giáo dục và đào
tạo nguồn nhân lực, nhân tài, danh mục một số công trình nghiên cứu về giáo
dục và đào tạo.
* Nhóm công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực chuyên biệt trong
lực lượng vũ trang nhân dân
Đại tá, PGS, TS. Trần Thanh Chuyền chủ biên (2013) Phát triển nguồn
nhân lực cho công nghiệp quốc phòng nòng cốt thời kỳ mới, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội. Tác giả đã khái quát một số vấn đề lý luận và
thực tiễn phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc phòng; đồng thời,
đưa ra những dự báo về thuận lợi và khó khăn, những giải pháp phát triển
nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc phòng nòng cốt thời kỳ mới.
Đại tá, TS. Nguyễn Văn Quang chủ biên (2013), Xây dựng đội ngũ
cán bộ đầu ngành khoa học xã hội và nhân văn trong Quân đội thời kỳ
mới, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. Tác giả đã đề cập một số
vấn đề lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ đầu ngành khoa học xã hội và
nhân văn trong Quân đội, thực trạng, những nhân tố, yêu cầu xây dựng
đội ngũ cán bộ đầu ngành khoa học xã hội và nhân văn trong Quân đội
thời kỳ mới; đồng thời, đưa ra những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ
đầu ngành trong Quân đội.
7



Nhóm những công trình nghiên cứu đi sâu vào các giải pháp phát
triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Phạm Văn Quý (2005), Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn
nhân lực khoa học - công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Viện Kinh tế Việt Nam, Hà Nội. Tác giả đã
đánh giá thực trạng nguồn nhân lực khoa học - công nghệ ở Việt Nam hiện
nay; đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân
lực khoa học - công nghệ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguyễn Văn Thành (2009), “Phương hướng và giải pháp phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển”, Tạp chí Kinh tế
và Dự báo, Số 2, Hà Nội. Tác giả đưa ra và làm rõ phương hướng, giải pháp phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.
* Tư tưởng kinh tế giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh
PGS, TS. Đặng Quốc Bảo (2012), Phát triển nguồn nhân lực dưới ánh
sáng tư tưởng kinh tế giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện
nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Tác giả đã nghiên
cứu phát triển nguồn nhân lực dưới ánh sáng tư tưởng kinh tế giáo dục của Hồ
Chí Minh, qua đó đưa ra giải pháp phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong những công trình trên đã đề cập đến một số vấn đề về lý luận và
thực tiễn cũng như giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhưng chưa có công
trình nào trực tiếp nghiên cứu đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
ngành Giáo dục của huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong ngành Giáo dục của huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội trong thời
gian qua, để đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực của Ngành ở Huyện trong thời gian tiếp theo.

8


* Nhiệm vụ
Làm rõ cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo
dục của huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
Đánh giá thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục của
huyện Ứng Hòa thành phố Hà Nội trong thời gian vừa qua.
Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong ngành Giáo dục của Huyện trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng
Chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục
* Phạm vi
Nội dung: Chỉ nghiên cứu nguồn nhân lực trong ngành Giáo dục tiểu học
(Giáo viên và người quản lý)
Không gian: Huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
Thời gian: Khảo sát từ năm 2010 đến 2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Phương pháp luận: tác giả sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lê-nin: phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu của môn kinh tế chính trị:
trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lô-gíc với lịch sử, điều tra, thống kê, so
sánh, phân tích tổng hợp, v.v.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể tham khảo trong nghiên cứu, hoạch
định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực ngành Giáo dục ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội. Đồng thời, là

tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy ở một số nhà trường.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận và danh mục,
phụ lục tài liệu tham khảo.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN
LỰC NGÀNH GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC Ở HUYỆN ỨNG HÒA,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực ngành giáo dục và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ngành giáo dục ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
1.1.1. Nguồn nhân lực ngành Giáo dục và chất lượng nguồn nhân
lực ngành Giáo dục”.
* Nguồn nhân lực (nguồn lực con người)
Để hiểu rõ và có quan niệm đúng về nguồn nhân lực ngành Giáo dục,
trước hết, phải có nhận thức đúng về nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực mà nòng cốt là đội ngũ trí thức là nhân tố trung tâm có
vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Do đó,
việc nhận rõ nội dung, tính chất, đặc điểm của sự phát triển và sử dụng hiệu
quả nguồn nhân lực là vấn đề lý luận đặc biệt quan trọng. Vì thế, nguồn nhân
lực đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau và
đã có nhiều phương cách khác nhau được sử dụng để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
Khái niệm "nguồn nhân lực" (Human resources) được sử dụng nhiều
hơn vào thập kỷ 60 của thế kỷ XX ở nhiều nước phương Tây và ở một số
nước Châu Á, khi khoa học "quản trị nguồn nhân lực" phát triển. Hiện nay

thuật ngữ nguồn nhân lực được sử dụng khá rộng rãi để chỉ vai trò và vị trí
con người trong sự phát triển kinh tế, xã hội. Ở nước ta, thuật ngữ "nguồn
nhân lực" được nhắc đến nhiều kể từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu và nhiều cách tiếp cận khác nhau về
nguồn nhân lực. Song, cho đến nay, chưa có tài liệu chính thức nào đưa ra
định nghĩa "nguồn nhân lực", mặc dù có nhiều nghiên cứu và bài viết về
nguồn lực con người, về tài nguyên con người.

10


Theo Liên hợp quốc thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự
phát triển của mỗi cá nhân và của cả đất nước” [55, tr.8].
Theo Tổng cục thống kê Việt Nam, nguồn nhân lực gồm những người đủ
15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình
không có nhu cầu làm việc, những người thuộc các tình trạng khác, như: nghỉ
hưu trước tuổi.
Theo các tác giả của cuốn "Nguồn lực và động lực phát triển trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" do GS, TSKH.
Lê Du Phong (chủ biên) thì "Nguồn lực con người được hiểu là tổng hòa
trong thể thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con người (thể lực, trí
lực, nhân cách) và tính năng động của con người. Tính thống nhất đó được thể
hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con người” [39, tr.14].
Một số nhà khoa học tham gia đề tài, “Con người Việt Nam - mục tiêu
và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” chương trình khoa học - công
nghệ cấp nhà nước mã số KX - 07 do GS, TSKH. Phạm Minh Hạc làm chủ
nhiệm, thì cho rằng: “Nguồn lực con người được hiểu là số dân và chất lượng
con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và

phẩm chất” [22, tr.210]. Do có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nên nguồn
nhân lực có nội hàm rất rộng, nhưng có thể cụ thể hóa và phân loại các yếu tố
cấu thành nguồn nhân lực theo các nhóm sau đây:
Nguồn nhân lực trước hết gắn với con người - sức khỏe, trí tuệ, số lượng
cùng với các đặc trưng về chất lượng, như: trình độ văn hóa, kỹ thuật, kinh
nghiệm nghề nghiệp, ý thức, thái độ và phong cách làm việc. Được biểu hiện
ra là người lao động, là lực lượng lao động, là nguồn lao động (đội ngũ lao
động hiện có và sẽ có trong tương lai gần). Nguồn nhân lực có tính cụ thể 11


xác định cho một quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương (tỉnh, thành phố…). Vì
vậy, nguồn nhân lực bao giờ cũng mang sắc thái riêng, đặc thù cho mỗi quốc
gia, dân tộc đó, nó có tính lịch sử - cụ thể.
Nguồn nhân lực là phạm trù pháp lý, nó được phản ánh trên phương diện
môi trường pháp luật, thể chế và các chính sách tạo động lực để con người
phát triển, phát huy tài năng và sức sáng tạo của mình.
Nguồn nhân lực là phạm trù kinh tế, nó được xem xét với tư cách là một
nguồn lực - nội tại, cơ bản trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã
hội. Là một nguồn lực như các nguồn lực khác (tài nguyên thiên nhiên, vốn,
công nghệ…), con người tạo ra sức mạnh và tham gia vào quá trình thúc đẩy
sự phát triển của một quốc gia, dân tộc. Song, khác với các nguồn lực khác ở
chỗ, có nó, các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích
cực đối với phát triển xã hội, vì thế nó là nguồn lực xuất phát, khởi động của
mọi nguồn lực phi nhân lực.
Trên phương diện xã hội, con người là tế bào xã hội, mọi sự phát triển
của xã hội trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đều do con
người quyết định. Song, con người chinh phục cải biến tự nhiên không phải
chỉ với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, mà với tư cách là con người xã hội
là những thành viên trong cộng đồng xã hội. Do vậy, sự phát triển của con
người bao giờ cũng mang tính chỉnh thể, thống nhất, nhưng cũng hết sức phức

tạp và đa dạng. Chính sự phức tạp và đa dạng đó trong tiến trình phát triển
lịch sử xã hội đã tạo nên tính không đồng đều trong sự phát triển kinh tế - xã
hội ở các nước, các khu vực, các châu lục khác nhau. Điều này ảnh hưởng đến
các giá trị truyền thống, đạo lý xã hội của các quốc gia dân tộc, hình thành
nên bản sắc văn hóa, phong tục, tập quán, truyền thống… của mỗi vùng lãnh
thổ, mỗi nền kinh tế khác nhau.
Ở nước ta, khi nói đến nguồn nhân lực, người ta thường quan tâm đến ba
yếu tố: (1). Tri thức trí tuệ là yếu tố tối cần thiết của mỗi con người; (2). Năng
12


lực hoạt động của con người biểu hiện ở khả năng áp dụng những thành tựu
khoa học - công nghệ, sự nhạy bén thích nghi nhanh làm chủ được những công
nghệ - kỹ thuật hiện đại và khả năng sáng tạo; (3). Sức khỏe được hiểu không
chỉ là tình trạng không có bệnh tật, mà còn là sự hoàn thiện về mặt thể chất,
tinh thần. Hoặc: Nguồn nhân lực hay nguồn lực con người bao gồm lực lượng
lao động và lao động dự trữ. Trong đó lực lượng lao động được xác định là
người lao động đang làm việc và người trong độ tuổi lao động có nhu cầu
nhưng không có việc làm (người thất nghiệp). Lao động dự trữ bao gồm học
sinh trong độ tuổi lao động, người trong độ tuổi lao động nhưng không có nhu
cầu lao động.
Tuy có nhiều cách tiếp cận, với những nội hàm khác nhau, nhưng trên
phương diện kinh tế chính trị thì nguồn nhân lực được hiểu, là tổng hòa thể
lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc
gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một
dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh
thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Tiềm năng của nguồn nhân lực bao gồm thể lực, trí lực và tâm lực (đạo
đức, lối sống). Nguồn nhân lực bao giờ cũng tồn tại dưới dạng một số lượng,
một chất lượng và một cơ cấu nhất định. Trong nguồn nhân lực nói chung, có

nguồn nhân lực ngành Giáo dục.
* Nguồn nhân lực ngành Giáo dục
Nguồn nhân lực ngành Giáo dục là bộ phận nguồn nhân lực xã hội làm
việc trong ngành giáo dục; những người làm công tác nghiên cứu về khoa học
Giáo dục và đội ngũ những thầy cô giáo, những người trực tiếp đứng trên bục
giảng, thắp sáng niềm tin cho các thế hệ học trò. Nguồn nhân lực ngành Giáo
dục nói theo cách biểu cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, họ là những người
làm nhiệm vụ trồng người cho xã hội và đất nước. Suy rộng ra, nâng cao chất

13


lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
cho nền kinh tế. Tóm lại:
Nguồn nhân lực ngành Giáo dục nước ta là một bộ phận nguồn nhân lực
của cả nước gồm toàn bộ lao động tiềm tàng và hiện tại về thể lực, trí tuệ, kỹ
năng nghề nghiệp, tâm lực thuộc mỗi cá nhân hoạt động trong ngành Giáo
dục của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Nguồn nhân lực ngành Giáo dục có nhiều đặc điểm khác biệt so với nguồn
nhân lực của các ngành kinh tế khác.
Một là, nguồn nhân lực ngành Giáo dục được đào tạo bài bản, chính quy
theo đúng chuyên ngành công tác. Một vị trí việc làm ở các ngành kinh tế khác
có thể được tuyển dụng từ nhiều chuyên ngành đào tạo khác nhau. Nhưng một
giáo viên dạy Toán thì chỉ có thể được tuyển dụng từ nguồn nhân lực đã tốt
nghiệp sư phạm Toán. Và nguồn nhân lực được đào tạo theo chuyên ngành sư
phạm Toán đó cũng chỉ có thể dạy Toán chứ không thể dạy Văn hay Thể dục...
Hai là, sản phẩm lao động của nguồn nhân lực ngành Giáo dục mang tính
định tính, không thể nhìn thấy ngay được sau một ngày hay một tuần làm việc.
Kết quả của quá trình lao động miệt mài đó chính là trí tuệ, đạo đức, nhân cách
của người học sinh được hoàn thiện dần theo thời gian. Để nhìn nhận, đánh giá

sản phẩm lao động của nguồn nhân lực ngành Giáo dục phải mất rất nhiều thời
gian và giá trị của quá trình lao động này có thể kéo dài theo suốt cuộc đời của
người học sinh.
Ba là, đối với nguồn nhân lực ngành Giáo dục, chữ tâm, đạo đức nghề
nghiệp là yếu tố được đặt lên hàng đầu. Trong khi với nguồn nhân lực các ngành
kinh tế khác thì yếu tố quan trọng nhất là trình độ chuyên môn. Đội ngũ các nhà
quản lý Giáo dục, các thầy cô giáo cũng như các công nhân viên trong ngành
Giáo dục phải luôn “yêu nghề, mến trẻ” thì hoạt động giáo dục của đất nước mới
có thể phát triển. Đạo đức nghề nghiệp chính là động lực để nguồn nhân lực
ngành Giáo dục không ngừng học tập nâng cao trình độ, nắm vững chuyên môn
14


hoàn thành nhiệm vụ công tác. Trước tác động của kinh tế thị trường, đạo đức
nghề nghiệp cũng chính là yếu tố giúp nguồn nhân lực ngành Giáo dục luôn kiên
định vượt qua mọi khó khăn, cám dỗ, không phụ sự kỳ vọng của xã hội.
Bốn là, nguồn nhân lực ngành Giáo dục có những yêu cầu riêng về ngoại
hình, thể lực, giọng nói... Đội ngũ nguồn nhân lực ngành giáo dục thường là
những người không bị khiếm khuyết về hình thể, dị tật. Yêu cầu nghề nghiệp
cũng không cho phép nguồn nhân lực ngành Giáo dục có những người nói
ngọng, nói lắp vì như thế sẽ gây cản trở tới hoạt động giáo dục.
Nguồn nhân lực ngành Giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò đặc biệt quan trọng đó bắt nguồn từ chính vai
trò của Giáo dục. Khi Giáo dục được xác định là hoạt động “nhằm tác động một
cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó,
làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu
cầu đề ra” [55, tr.379]. Nguồn nhân lực ngành Giáo dục là bộ phận tiến hành các
hoạt động trên. Điều đó đã nói rõ về vai trò quan trọng đặc biệt của nguồn nhân
lực ngành Giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Vai trò của ngành Giáo dục với phát triển kinh tế - xã hội thể hiện trên ba

nội dung dưới đây:
Một là, nguồn nhân lực ngành Giáo dục, trước hết là các thầy cô giáo lực lượng trực tiếp chuẩn bị những tiền đề về tri thức, nhân cách cho nguồn
nhân lực tiềm năng (tiềm tàng) của nền kinh tế.
Trong tất cả các nguồn lực thì nguồn lực con người (vốn người) là nguồn
lực quan trọng bậc nhất của sự phát triển kinh tế. Điều này lý giải vì sao Đảng
Cộng sản Việt Nam coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là
chủ thể của sự phát triển. Đội ngũ những người làm công tác giáo dục trước
hết là các thầy cô giáo - lực lượng trực tiếp chuẩn bị những tiền đề về tri thức,
nhân cách cho nguồn nhân lực tiềm năng (tiềm tàng) của nền kinh tế.

15


Hai là, nguồn nhân lực ngành Giáo dục là lực lượng trực tiếp hiện thực
hóa chiến lược giáo dục và tùy theo cấp đào tạo, bậc học lực lượng nhân lực
ngành Giáo dục trực tiếp hoặc gián tiếp biến chiến lược phát triển nguồn
nhân lực của Đảng và Nhà nước tại địa bàn thành hiện thực.
Chiến lược giáo dục của Đảng và Nhà nước ở phạm vi toàn bộ quốc gia
và tại mỗi địa bàn có được hiện thực hóa hay không, hiện thực hóa ở mức
nào, trước hết phụ thuộc vào những người làm công tác giáo dục.
Tương tự như vậy, chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Đảng và
Nhà nước tại địa bàn có biến thành hiện thực hay không do nhiều ngành tham
gia, trong đó có nguồn nhân lực ngành Giáo dục. Do đó và tùy theo cấp đào
tạo, bậc học nguồn nhân lực ngành Giáo dục là lực lượng trực tiếp hoặc gián
tiếp biến chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Đảng và Nhà nước tại địa
bàn thành hiện thực.
Ba là, nguồn nhân lực ngành Giáo dục là nhân tố quyết định trước tiên
đối với chất lượng giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục tại mỗi cơ sở
giáo dục và mỗi địa bàn cụ thể.
Nguồn nhân lực ngành Giáo dục không chỉ các thầy cô giáo, mà bao

gồm cả những người làm công tác quản lý giáo dục (cả quản lý nhà nước
về giáo dục và quản lý giáo dục trong trường học) là nhân tố quyết định
trước tiên đối với chất lượng giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục tại
mỗi cơ sở giáo dục và mỗi địa bàn cụ thể - Thông qua các hoạt động sư
phạm và hoạt động quản lý.
* Chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục
Chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục, được thể hiện ở trình độ
chuyên môn (đã được đào tạo và tự đào tạo); kỹ năng, kỹ xảo nghiệp vụ; tư
tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; sức khỏe của đội ngũ cán bộ làm
công tác giảng dạy và quản lý giáo dục.
16


1.1.2. Quan niệm, nội dung tiêu chí nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực ngành Giáo dục tiểu học huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội
* Quan niệm về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục
tiểu học ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội
Thuật ngữ “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” chỉ việc thực hiện
một số hoạt động nào đó dẫn đến sự thay đổi về chất lượng nguồn nhân lực
tăng lên so với chất lượng nguồn nhân lực hiện có. Đó là những biểu hiện
tăng lên về trí lực, thể lực và tâm lực của mỗi cá nhân. Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, một mặt, tạo ra nguồn nhân lực có khả năng hơn trong việc
đáp ứng nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội thời kỳ hội nhập quốc tế; mặt khác, tạo ra nguồn nhân
lực tự tin hơn trong quá trình làm việc tạo ra của cải vật chất cho bản thân,
cho tổ chức và tạo ra khả năng cạnh tranh bền vững.
Từ đó tác giả cho rằng: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành
Giáo dục bậc tiểu học huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội là tổng thể các
nội dung, cách thức, phương thức làm biến đổi theo chiều hướng phát
triển một cách hợp lý nguồn nhân lực ngành Giáo dục trên địa bàn nhằm

đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục ngày càng cao của ngành Giáo dục
tiểu học ở Huyện.
Từ quan niệm trên cho thấy:
Thứ nhất, chủ thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục
tiểu học huyện Ứng Hòa, Hà Nội bao gồm:
Cấp ủy, chính quyền các cấp của Thành phố và của Huyện, trong đó có
bản thân ngành Giáo dục địa phương. Đây là chủ thể rất quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành Giáo dục tiểu học huyện Ứng
Hòa, Hà Nội. Thông qua hệ thống cơ chế, chính sách, cấp ủy, chính quyền các
cấp và của ngành Giáo dục của địa phương tạo lập môi trường học tập, học
17


tập suốt đời cho đội ngũ giáo viên, người quản lý giáo dục sẽ tạo ra luồng sinh
khí thi đua học tập, rèn luyện của nguồn nhân lực quan trọng này.
Sự tích cực, tự giác của đội ngũ giáo viên nhà quản lý giáo dục tiểu học
huyện Ứng Hòa. Sự tích cực, chủ động, tự giác học tập, rèn luyện nâng cao
toàn diện về thể lực, trí lực, tâm lực của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
giáo dục tiểu học của huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội quyết định đến hiệu
quả nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục tiểu học của huyện
Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
Thứ hai, nội dung của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành
Giáo dục của huyện Ứng Hòa được thể hiện ở việc nâng cao về: trí lực, thể
lực và tâm lực.
Nâng cao trí lực: Nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn,
kỹ năng và kinh nghiệm làm việc,... trong ngành Giáo dục tiểu học của
huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội. Đây là yếu tố có tính quyết định căn
bản đến nâng cao năng lực giảng dạy và giáo dục trong các nhà trường
trên địa bàn của Huyện.
Nâng cao thể lực: Nâng cao sức khỏe, thể chất của nguồn nhân lực

ngành Giáo dục tiểu học cả về thể chất và tinh thần của đội ngũ giáo viên và
người quản lý giáo dục của ngành Giáo dục huyện Ứng Hòa, Hà Nội.
Nâng cao tâm lực: Đó là nâng cao tinh thần trách nhiệm, thái độ, khả
năng chịu áp lực, sự tâm huyết, say mê, yêu nghề sư phạm... của đội ngũ
người lao động hoạt động trong ngành Giáo dục của huyện Ứng Hòa,
thành phố Hà Nội. Đánh giá được thái độ trong công việc của người lao
động trong ngành Giáo dục tiểu học của Huyện, để biết nguồn nhân lực có
nâng cao về tâm lực hay không là vấn đề rất khó. Cụ thể: Nguồn nhân lực
có tích cực làm việc hay không? Có khả năng kiềm chế cảm xúc hay
không? Hành vi có chuẩn mực không?... Những vấn đề đó còn chịu sự tác
18


động và ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trước hết từ trí lực của nguồn nhân
lực đến môi trường làm việc...
Muốn biết chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục của huyện Ứng
Hòa, Hà Nội có được nâng lên hay không, nâng lên như thế nào, nhiều ít ra
sao phải dựa vào các tiêu chí về trí lực, tâm lực và thể lực để đánh giá. Cụ
thể như sau:
Về trí lực: Đánh giá trí lực của nguồn nhân lực ngành Giáo dục dựa vào
hai căn cứ: trình độ của thầy và trình độ của trò.
Trình độ của thầy: Căn cứ vào việc so sánh sự thay đổi qua các năm về
trình độ chuyên môn đã được đào tạo và tự đào tạo cùng kỹ năng, kỹ xảo
nghiệp vụ của cán bộ trực tiếp giảng dạy, cán bộ làm công tác quản lý giáo
dục để đánh giá. Cùng với đó, là dựa vào tỉ lệ giáo viên dạy giỏi các cấp của
ngành Giáo dục tăng giảm như thế nào qua các năm để đánh giá; cũng như tỉ
lệ giáo viên, cán bộ quản lý đạt chuẩn qua các năm để đánh giá.
Trình độ của trò: Căn cứ vào trình độ của học sinh qua các năm được
biểu hiện bằng tỉ lệ xếp loại ở các mức: giỏi, khá, trung bình, yếu tăng hay
giảm; cùng với đó, là số học sinh đạt thành tích cao qua các kỳ thi của huyện,

thành phố tăng giảm ra sao qua các năm học để đánh giá.
Về tâm lực: đánh giá sự nhiệt tình, tận tâm của đội ngũ giáo viên, cán bộ
quản lý giáo dục bằng kết quả đánh giá, xếp loại đảng viên, công đoàn viên
hằng năm hoàn thành nhiệm vụ ở mức nào: hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ,
hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thành nhiệm vụ nhưng
có mặt còn hạn chế hay không hoàn thành nhiệm vụ. So sánh tỉ lệ của các
mức độ hoàn thành nhiệm vụ các loại ở trên, qua các năm để đánh giá tâm lực
của nguồn nhân lực ngành Giáo dục ở mức nào.
Về thể lực: dựa vào bảng chấm công hằng tháng, số ngày nghỉ ốm trong
năm, việc chi trả bảo hiểm y tế hằng năm đối với đội ngũ giáo viên, cán bộ
quản lý giáo dục để đánh giá.
19


Các tiêu chí trên quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau, phản ánh toàn
diện chất lượng của nguồn nhân lực ngành Giáo dục. Vì vậy, đánh giá chất
lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục phải dựa vào cả ba tiêu chí trên, không
tuyệt đối hóa tiêu chí này, xem nhẹ tiêu chí khác. Đồng thời, cần có phương
pháp xử lý, khả năng vận dụng một cách linh hoạt các tiêu chí để đánh giá
đảm bảo tính khách quan, toàn diện.
Thứ ba, phương thức nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo
dục của huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
Thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, tu dưỡng. Để nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia đều phải chú ý đào tạo, bồi
dưỡng cho đội ngũ người lao động theo những lộ trình thích hợp. Nhưng việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu
học, đội ngũ những người đặt nền móng đầu tiên trong công tác dạy chữ và
dạy người, quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực tham gia phát triển kinh
tế - xã hội trong mọi lĩnh vực thì càng phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
thường xuyên cho đội ngũ những người hoạt động trong ngành Giáo dục tiểu

học của huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
Tự đào tạo, tự bồi dưỡng (tự học, tự rèn) của đội ngũ giáo viên, nhà
quản lý. Đây là một trong những nội dung quyết định nhất đến nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục của huyện Ứng Hòa, thành phố Hà
Nội. Trình độ chuyên môn có được nâng lên hay không chính là ở sự tự học,
tự rèn của đội ngũ giáo viên và người quản lý giáo dục. Nếu trình độ đào tạo
của mỗi cá nhân làm việc trong ngành giáo dục có được khoảng 2 năm, 3 năm
hoặc 4 năm, thì trình độ chuyên môn của mỗi cá nhân ngày càng được bồi đắp
theo năm tháng, cho đến khi không còn lao động.

20


1.2. Sự cần thiết và các nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ngành Giáo dục bậc tiểu học ở huyện Ứng Hòa,
thành phố Hà Nội
1.2.1. Sự cần thiết nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Giáo
dục tiểu học huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội
* Nguồn nhân lực, đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò
quyết định trong phát triển kinh tế - xã hội
Trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào, con người đều là nhân tố
trung tâm của quá trình sản xuất. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn phát triển lịch
sử nhận thức về vai trò của nhân tố con người đối với tăng trưởng và phát
triển lại không hoàn toàn giống nhau. Vào giai đoạn đầu của cuộc cách
mạng công nghiệp, người ta cho rằng, điều kiện tự nhiên thuận lợi chính là
yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển. Hướng ưu tiên tìm kiếm các
nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội thường nhằm vào sự phong phú về
tài nguyên thiên nhiên. Vai trò nhân tố con người bị che lấp bởi các lợi thế
tuyệt đối về điều kiện tự nhiên.
Vào những năm 90 (thế kỷ XX), khi cuộc cách mạng khoa học - công

nghệ bước sang giai đoạn mới, việc áp dụng kỹ thuật tin học, công nghệ
thông tin và những sản phẩm phần mềm tự động hóa làm cho quá trình
sản xuất mang tính sáng tạo nhiều hơn, người ta không chỉ sản xuất để
thỏa mãn nhu cầu mà còn tạo ra nhu cầu để sản xuất, chất lượng sản phẩm
được coi trọng hơn số lượng, hàm lượng trí tuệ và khoa học trong sản
phẩm ngày càng tăng, đầu vào vật chất ngày càng giảm... Tình hình đó đòi
hỏi phải khai thác và sử dụng các nguồn lực có khả năng sáng tạo. Mô
hình sản xuất lấy con người làm trung tâm xuất hiện, chiếm ưu thế và dần
dần trở nên phổ biến. Hướng ưu tiên đầu tư vào con người đã được nâng
lên "Quốc sách hàng đầu", được coi là hướng chính trong chiến lược phát
triển ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
21


Sinh thời, C. Mác, V.I. Lê-nin, Hồ Chí Minh đã thấy rõ vai trò quyết
định của nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội. C. Mác đã
khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất, thì lực lượng sản xuất
hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng"[34, tr.257]. Hơn nữa, C.
Mác còn coi sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển con
người là "Một trong những biện pháp mạnh nhất để cải biến xã hội"[35,
tr.52]. Như vậy, C. Mác đã khẳng định con người là yếu tố có vai trò nhất,
quyết định nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội, mà hơn nữa, con người
đóng vai trò chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Con người vừa là điểm
khởi đầu, vừa là điểm kết thúc; đồng thời, vừa là trung tâm của mọi biến đổi
lịch sử, là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Thông qua hoạt động
sản xuất vật chất, con người sáng tạo ra lịch sử của chính mình và lịch sử xã
hội loài người. "Lực lượng sản xuất chủ yếu của nhân loại, là công nhân" [26,
tr.430].
Giống như C. Mác, V.I. Lê-nin đặt con người vào vị trí hàng đầu. Qua
đó cho thấy các ông nhấn mạnh vai trò người công nhân, giai cấp tiến tiến,

nghĩa là nhấn mạnh đến "Chất lượng" của lao động - lực lượng sản xuất. Tiêu
chí ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc xếp hạng các nước trên thế
giới là sự phát triển con người. Một đất nước chỉ được coi là phát triển khi ở
đó chất lượng sống của con người ngày càng cao, năng lực sáng tạo của con
người ngày càng phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn chúng ta là: "Việc gì có lợi cho dân, ta
phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh"[36, tr.56 - 57].
"Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì ta phải trồng
người"[37, tr.222] và "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con
người xã hội chủ nghĩa"[38, tr.310]. Khi nói đến con người với tư cách
"người chủ xã hội" là cái "vốn quý nhất", là lực lượng xây dựng thành công

22


chủ nghĩa xã hội, Người không chỉ nói đến trí tuệ, tài năng, sức khỏe của con
người, mà còn nói tới nhiều yếu tố khác ở con người, trong đó có những giá
trị xã hội được kết tinh trong bản thân từng con người thông qua hoạt động
thực tiễn cách mạng và cải tạo xã hội.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở trên, trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta một lần
nữa khẳng định: "Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời
là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con
người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân
dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng
tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây
dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm
công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá, nghĩa tình; có
tinh thần quốc tế chân chính"[7, tr.6].
Để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo

định hướng xã hội chủ nghĩa và đưa sự nghiệp cách mạng thành công ở một
nước vẫn còn tình trạng lạc hậu như nước ta, chúng ta không thể không xuất
phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc; không thể không phát triển con người Việt
Nam, nâng đội ngũ những người lao động nước ta lên một tầm cao chất lượng
mới. Đó là động lực mạnh mẽ nhất giúp chúng ta mau chóng thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu và xây dựng xã hội "công bằng, nhân ái", một xã hội "thực sự tốt
đẹp và tiến bộ", mang bản sắc dân tộc và hiện đại. Đại hội VIII của Đảng đã
khẳng định: "Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn con
người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa"[8, tr.21].
Với thực tiễn tiến hành công cuộc đổi mới thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta, với bối cảnh quốc tế và khu vực hiện thời, để phát

23


triển con người Việt Nam, "bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người", chúng
ta "nhất thiết phải từng bước hiện thực hóa đất nước và đời sống xã hội".
Chúng ta "chỉ có thể tăng trưởng nguồn lực con người khi quá trình hiện đại
hóa các ngành giáo dục, văn hóa, văn nghệ, bảo vệ sức khỏe, dân số và kế
hoạch hóa gia đình gắn liền với kế thừa và phát huy những giá trị truyền
thống và bản sắc dân tộc"[9, tr.6]. Chính vì vậy, mọi kế hoạch xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối liên hệ không thể tách rời
với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm,
niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng dân tộc
Việt Nam, cho việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực nhiều về số lượng,
mạnh về chất lượng, đủ sức đáp ứng và đảm đương những đòi hỏi ngày càng
cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển con người là nhiệm vụ không chỉ có ý nghĩa trực tiếp, trước
mắt, mà còn là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, lâu dài. Mọi chủ trương,

đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều nhằm quán triệt tư tưởng
chăm lo bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng tới mục tiêu phát
triển toàn diện con người Việt Nam.
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển sang nền kinh tế dựa chủ yếu vào
tri thức và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta ngày càng
nhận thức rõ hơn về vai trò quyết định của con người trong phát triển, đặc biệt
là nguồn nhân lực chất lượng cao - yếu tố, động lực quan trọng nhất của sự
tăng trưởng kinh tế bền vững. Nguồn nhân lực chất lượng cao, tức là con
người được đầu tư phát triển, tạo lập kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh
nghiệm, năng lực sáng tạo để trở thành "nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân
lực". Bởi vì, trong nền kinh tế toàn cầu đầy biến động và cạnh tranh quyết
liệt, lúc này ưu thế cạnh tranh nghiêng về các quốc gia có nguồn nhân lực chất
lượng cao, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và xã hội ổn định.

24


Tầm quan trọng của nguồn lực con người không chỉ dừng lại ở nhận
thức lý thuyết, ở tư duy của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách,
mà điều này luôn luôn được khẳng định trong cuộc sống sinh động. Nguồn
lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, luôn luôn là nguồn
lực to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội, là yếu tố vật chất quan trọng nhất,
quyết định nhất của lực lượng sản xuất, của kinh tế, của xã hội, trực tiếp sử
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào quá trình sản xuất, và do
đó là một trong những yếu tố quyết định nhất của tăng trưởng kinh tế.
Thực tế này thấy rất rõ ở mô hình tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên
thế giới và trong khu vực. Đồng thời, cũng được chứng minh từ thực tế Việt
Nam qua gần 30 năm đổi mới. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, Nhà nước
đã có nhiều chính sách phát huy mọi nguồn lực, nhất là nội lực nguồn nhân
lực, lao động lành nghề, lao động chất xám tạo ra sản phẩm có hàm lượng trí

tuệ cao đã góp phần tăng trưởng kinh tế nước ta ở mức cao và ổn định, nhiều
sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi
thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh
tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao
dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người
Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại[10, tr.87 - 88].
Do vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam đặc biệt quan
trọng cho sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế. Cho nên, cần tạo ra và cải thiện tất cả các điều kiện cần thiết để phát triển
nguồn nhân lực nhanh, có chất lượng, đáp ứng nhu cầu cấp bách của công
cuộc đổi mới, của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh quốc tế.
* Từ yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay
25


×