Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO đạo đức CÁCH MẠNG CHO đội NGŨ cán bộ CHỦ TRÌ ở các CHI NHÁNH VIETTEL TỈNH, THÀNH PHỐ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.04 KB, 107 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG
CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CHỦ TRÌ Ở CÁC CHI NHÁNH VIETTEL TỈNH,
THÀNH PHỐ THUỘC TẬP ĐOÀN VIỄN THÔNG
QUÂN ĐỘI

1.1. Đạo đức cách mạng và những vấn đề cơ bản về nâng
cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ trì ở
các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố thuộc Tập đoàn
Viễn thông Quân đội
1.2. Thực trạng và một số kinh nghiệm nâng cao đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh
Viettel tỉnh, thành phố thuộc Tập đoàn Viễn thông
Quân đội
Chương 2. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CHỦ TRÌ Ở CÁC CHI NHÁNH
VIETTEL TỈNH, THÀNH PHỐ THUỘC TẬP ĐOÀN
VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

2.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh
Viettel tỉnh, thành phố thuộc Tập đoàn Viễn thông
Quân đội hiện nay
2.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh
Viettel tỉnh, thành phố thuộc Tập đoàn Viễn thông
Quân đội hiện nay
KẾT LUẬN


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
3

10

10

36

60

60

68
93
95
100


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức cách mạng có vai trò rất quan trọng, là phẩm chất cao quý, là
“cái gốc”, “nền tảng” của người cán bộ cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dạy: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân” [37, tr.292]. Để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, người

cán bộ cách mạng nói chung, ĐNCBCT ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành
phố thuộc Tập đoàn Viễn thông Quân đội nói riêng phải thường xuyên được
bồi dưỡng phẩm chất và năng lực - cả đức và tài, trước hết là ĐĐCM. Bởi vì,
ĐĐCM có vai trò hết sức to lớn, là phẩm chất cơ bản tạo nên nhân cách và uy
tín của người cán bộ cách mạng nói chung và người CBCT ở các chi nhánh
tỉnh, thành phố nói riêng, là động lực giúp họ hoàn thành tốt mọi chức trách,
nhiệm vụ được giao.
Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) là doanh nghiệp kinh tế quốc
phòng 100% vốn nhà nước, do Bộ Quốc phòng thực hiện quyền chủ sở hữu
và là một doanh nghiệp quân đội kinh doanh trong lĩnh vực viễn thông và
công nghệ thông tin. Cùng với đó còn tham gia cổ phần vào các ngành nghề
có liên quan như: Bưu chính, đầu tư tài chính, kinh doanh vốn và dịch vụ
ngân hàng; truyền thông và nội dung thông tin; thương mại điện tử và dịch vụ
kho vận; đầu tư và kinh doanh bất động sản; các ngành nghề khác theo quy
định của pháp luật và quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Đây là những ngành nghề liên quan trực tiếp đến tài chính, rất dễ xảy ra
tình trạng tham nhũng, thất thoát tài sản của Nhà nước. Để xây dựng Viettel
vững mạnh đòi hỏi ĐNCB nói chung, CBCT ở các CNVTT,TP nói riêng (đây
là những cán bộ có tuổi đời còn rất trẻ, học ở ngoài quân đội, chưa qua thực
tiễn quản lý, lãnh đạo.. ) phải có phẩm chất, năng lực, trước hết là phẩm chất
đạo đức, phải cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư,... Nhận thức đầy đủ vai
3


trò của ĐNCBCT và phẩm chất đạo đức của ĐNCBCT các CNVTT,TP, trong
những năm qua, các cấp ủy, chi bộ ở công ty trực thuộc tập đoàn đã thường
xuyên quan tâm, bồi dưỡng nâng cao ĐĐCM cho họ và đã đạt được những
kết quả phấn khởi. ĐNCBCT luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực, tự
giác và chủ động tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM. Do đó, ĐNCBCT ở các
CNVTT,TP luôn vững vàng về chính trị tư tưởng, có phẩm chất đạo đức tốt,

có lối sống trung thực, lành mạnh, có tinh thần trách nhiệm cao; luôn đoàn kết
thống nhất, kỷ luật tự giác, nghiêm minh, phát huy tốt vai trò tiền phong
gương mẫu, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên, trước sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, sự cám dỗ
của đồng tiền, sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch trên các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chính trị tư tưởng, đạo đức, lối
sống, đã ảnh hưởng trực tiếp đến ĐNCBCT ở các CNVTT,TP… không ít cán
bộ đã bị thoái hóa, biến chất, sa sút về đạo đức thể hiện ở chủ nghĩa cá nhân
phát triển mạnh: kèn cựa địa vị, lợi dụng chức quyền trục lợi, tha hóa về lối
sống, đánh mất đạo đức trong kinh doanh ... Đáng chú ý sự suy thoái về phẩm
chất này trong cán bộ đang có chiều hướng gia tăng, làm xói mòn bản chất
cách mạng của ĐNCBCT, làm suy giảm uy tín của Đảng, quân đội và suy
giảm niềm tin của cán bộ, nhân viên trong công ty đối với tập đoàn.
Trong khi đó, việc bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ này thời
gian qua có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức; nội dung, hình thức,
phương pháp bồi dưỡng chưa phong phú, chưa hiệu quả; một bộ phận cán bộ,
nhất là cán bộ trẻ có biểu hiện lệch lạc cả về nhận thức và hành vi đạo đức,
sống buông thả, thực dụng, sa sút về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, vi
phạm pháp luật nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín và danh dự của
Viettel; trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện nhiệm vụ được giao.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Nâng cao đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố hiện
nay” làm luận văn tốt nghiệp.
4


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đạo đức cách mạng và bồi dưỡng ĐĐCM cho cán bộ, đảng viên là vấn
đề hệ trọng, luôn được Đảng, Bác Hồ đặc biệt quan tâm. Đây cũng là một lĩnh
vực được nhiều nhà khoa học tập trung nghiên cứu với cách tiếp cận và

phương diện khác nhau. Đã có nhiều công trình khoa học, luận văn, luận án
được công bố và bảo vệ. Tiêu biểu như:
Một là, nhóm các công trình nghiên cứu về đạo đức, đạo đức cách
mạng và tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạnh.
Phùng Xuân Thành (1991), Nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay. Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện
Chính trị quốc Hồ Chí Minh, Hà Nội; Thành Duy (chủ biên 1997), Tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;
Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên 1999), Sự biến đổi thang giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước
ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đào Duy Quát (2003), “Giáo dục
rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ rất quan trọng
và cấp bách”, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 8; Hoàng Chí
Bảo (2008), “Thực hành đạo làm người của người cách mạng trong cuộc sống
hôm nay theo tấm gương Hồ Chí Minh”, Tạp chí Phát triển nhân lực, số 5 (9);
Đặng Công Thành (2013), “Xây dựng đạo đức của cán bộ, đảng viên trong nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí
Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 4 (140); Cao Hồng Phong (2013), “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 6 (142)...
Các công trình khoa học nêu trên đã tập trung nghiên cứu các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng về đạo
đức, ĐĐCM, chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam, của ĐNCB, đảng
viên trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; xác định phương
hướng và giải pháp xây dựng đạo đức mới cho ĐNCB, đảng viên hiện nay.
5


Đặc biệt là công trình “Nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong giai đoạn hiện nay” của Phùng Xuân Thành, đã khẳng định

bước vào thời kỳ đổi mới, nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi, quan niệm về đạo đức, giá
trị, chuẩn mực đạo đức cũng có sự biến đổi là tất yếu. Để tạo ra động lực cho
công cuộc đổi mới, đồng thời khắc phục những hạn chế từ mặt trái cơ chế thị
trường tác động đến ĐĐCM của ĐNCB, đảng viên hiện nay, tác giả đã đề
xuất phương hướng và hệ thống các giải pháp nâng cao ĐĐCM cho ĐNCB,
đảng viên hiện nay.
Hai là, nhóm các công trình về đạo đức cách mạnh, nâng cao đạo đức
cách mạng ở từng lĩnh vực cụ thể.
Tác giả Phạm Văn Nhuận (chủ biên 2004), với công trình “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạnh của người cán bộ quân đội”, Nxb
QĐND, Hà Nội đã làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐCM của người cán bộ
quân đội, đánh giá thực trạng đạo đức cán bộ quân đội hiện nay; làm rõ đặc
điểm, yêu cầu mới về đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao ĐĐCM của
người cán bộ quân đội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tác giả Phạm Văn Vinh (2005) với công trình “Nâng cao đạo đức cách
mạnh của độ ngũ cán bộ chủ trì ở đơn vị cơ sở Binh chủng hợp thành Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng, Học viện
Chính trị, Hà Nội đã chỉ rõ đặc điểm, bản chất về ĐĐCM của ĐNCBCT ở
đơn vị cơ sở Binh chủng hợp thành quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay;
quan niệm, tiêu chí đánh giá, những nhân tố tác động đến việc nâng cao
ĐĐCM cho đội ngũ này và từ đó đưa ra các giải pháp giáo dục, rèn luyện
nhằm nâng cao ĐĐCM cho ĐNCBCT này.
Tác giả Đặng Nam Điền (2006) với công trình “Nâng cao đạo đức
cách mạnh đội ngũ cán bộ chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình
hình mới”, Nxb QĐND, Hà Nội đã chỉ ra đặc trưng, bản chất của ĐĐCM, vai
trò ĐĐCM của người cán bộ chính trị trong xây dựng quân đội; quan niệm và
6



tiêu chí đánh giá về nâng cao ĐĐCM của cán bộ chính trị quân đội; trên cơ sở
đó chỉ ra những yếu tố tác động, những yêu cầu và đề xuất các giải pháp chủ
yếu nâng cao ĐĐCM của người cán bộ chính trị quân đội trong tình hình mới.
Tác giả Đặng Sỹ Lộc (2009) với công trình “Bồi dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạnh của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp quân đội trong giai đoạn
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện
Chính trị, Hà Nội đã luận giải những vấn đề cơ bản về ĐĐCM, đánh giá đúng
thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, kinh nghiệm và xác định những yêu cầu, giải
pháp cơ bản bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của ĐNCB danh nghiệp quân đội
trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tác giả Bùi Nam Hưng (2011) với đề tài “Bồi dưỡng đạo đức cách
mạnh cho học viên cấp phân đội ở Học viện Hậu Cần hiện nay”, Luận văn
thạc sĩ Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị, Hà Nội đã luận giải làm rõ
những vấn đề về lý luận và thực tiễn bồi dưỡng ĐĐCM, trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp cơ bản bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho học viện cấp phân
đội ở Học viện Hậu cần hiện nay.
Ngoài ra còn có các bài viết đề cập đến vấn đề này như: “Xây dựng
chuẩn mực đạo đức quân nhân ở đơn vị cơ sở trong Quân đội ta hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của Lê Trọng Tuyến (2006), Tạp chí Giáo dục lý
luận chính trị quân sự, số 2 (138); “Cán bộ quân đội nêu gương đạo đức cách
mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của Tác giả Bùi Mạnh Hùng (2013), Tạp
chí Nhà trường quân đội, số 3; “Bồi dưỡng đạo đức cách mạng đối với nhà
báo quân đội hiện nay” của tác giả Ngô Đình Phiếm (2014), Tạp chí Quốc
phòng toàn dân, số 2….
Có thể nói, những công trình trên đã tập trung nghiên cứu quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của ĐCSVN, phân tích
làm rõ nội dung ĐĐCM của các chủ thể gắn với từng cương vị và chức trách
khác nhau, những tác động của điều kiện lịch sử mới đến sự phát triển đạo
đức, từ đó khẳng định hệ thống các giá trị, chuẩn mực đạo đức và xác định
những yêu cầu, giải pháp xây dựng ĐĐCM cho ĐNCB, đảng viên trong giai

đoạn hiện nay. Những công trình này là nguồn tư liệu, tài liệu rất quý giá, nó
7


cung cấp cơ sở lý luận hết sức quan trọng giúp cho tác giả trong quá trình
nghiên cứu, kế thừa và phát triển khi xây dựng và hoàn thiện đề tài của mình.
Tuy nhiên, mỗi công trình trên lại tiếp cận theo một hướng nhất định,
với một đối tượng nghiên cứu cụ thể và chủ yếu chỉ dừng lại ở việc khái quát,
hệ thống hóa bước đầu về ĐĐCM; bản chất, tiêu chí đánh giá; các nhân tố tác
động ảnh hưởng và bước đầu đưa ra được những giải pháp cơ bản để giáo
dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất ĐĐCM của cán bộ, đảng viên nói chung.
Cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách
có hệ thống, cơ bản về nâng cao ĐĐCM cho ĐNCBCT ở các đơn vị kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường có sự định hướng của Nhà nước XHCN. Vì
vậy, nghiên cứu vấn đề: “Nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ
chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố hiện nay” làm luận văn tốt
nghiệp là một vấn đề mới, không trùng lập với bất kỳ công trình nào khác và
có thể góp phần làm phong phú hơn về mặt lý luận đối với quá trình giáo dục,
rèn luyện nâng cao ĐĐCM cho ĐNCBCT trong các doanh nghiệp hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn và đề xuất
những giải pháp chủ yếu nâng cao ĐĐCM cho ĐNCBCT ở các CNVTT,TP
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về ĐĐCM và nâng cao ĐĐCM
cho ĐNCBCT ở các CNVTT,TP.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm nâng cao ĐĐCM cho ĐNCBCT ở các CNVTT,TP.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao

ĐĐCM cho ĐNCBCT ở các CNVTT,TP hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao ĐĐCM cho ĐNCBCT ở các CNVTT,TP hiện nay.

8


* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động nâng cao ĐĐCM cho
ĐNCBCT ở các CNVTT,TP.
Các số liệu, tư liệu phục vụ cho nghiên cứu giới hạn chủ yếu từ năm
2010 đến nay. Đối tượng điều tra, khảo sát là CBCT ở các CNVTT,TP.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, quan điểm của ĐCSVN về ĐĐCM; về xây dựng
ĐNCB, xây dựng doanh nghiệp Nhà nước của Đảng, quân đội hiện nay.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn sử dụng tư liệu, tài liệu tổng kết thực tiễn của cấp ủy, chi bộ
thuộc các CNVTT,TP về hoạt động nâng cao ĐĐCM của cán bộ. Thực tiễn
hoạt động nâng cao ĐĐCM cho ĐNCB ở các CNVTT,TP và kết quả điều tra,
khảo sát thực tiễn của doanh nghiệp.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chuyên ngành và khoa học liên ngành, trong đó tập trung vào phương pháp
phân tích, tổng hợp, lôgíc - lịch sử, tổng kết thực tiễn, khảo sát, điều tra xã hội
học và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa
học giúp lãnh đạo, quản lý của Viettel tham khảo, đề ra chủ trương, biện pháp
lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao ĐĐCM cho ĐNCBCT ở các CNVTT,TP đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy,
bồi dưỡng ĐĐCM cho ĐNCBCT ở các doanh nghiệp trong quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: phần mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ TRÌ
Ở CÁC CHI NHÁNH VIETTEL TỈNH, THÀNH PHỐ
1.1. Đạo đức cách mạnh và những vấn đề cơ bản về nâng cao đạo
đức cách mạnh cho đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh,
thành phố
1.1.1. Đội ngũ cán bộ chủ trì các chi nhánh
Viettel tỉnh, thành phố và đạo đức cách mạng của
cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố
* Giới thiệu khái quát về Tập đoàn Viễn thông Quân đội và các chi
nhánh Viettel ở các tỉnh, thành phố.
Viettel được thành lập theo quyết định 2079/2009/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ký vào ngày 14/12/2009, là doanh nghiệp kinh tế quốc
phòng 100% vốn nhà nước với số vốn điều lệ 50.000 tỷ đồng, có tư cách pháp
nhân, có con dấu, biểu tượng và điều lệ tổ chức riêng; được mở tài khoản tại
Kho bạc Nhà nước, các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài theo
quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm kế thừa các quyền, nghĩa vụ pháp lý

và lợi ích hợp pháp của Viettel.
Viettel là Tập đoàn Viễn thông và Công nghệ thông tin lớn nhất Việt
Nam, đồng thời là một trong những công ty viễn thông có tốc độ phát triển
nhanh nhất thế giới và nằm trong Top 15 các công ty viễn thông toàn cầu về
số lượng thuê bao. Hiện nay, Viettel đã đầu tư tại 7 quốc gia ở 3 Châu
lục gồm Châu Á,Châu Mỹ, Châu Phi, với tổng dân số hơn 190 triệu. Năm
2012, Viettel đạt doanh thu 7 tỷ USD với hơn 60 triệu thuê bao trên toàn cầu.
Viettel trực thuộc Bộ Quốc Phòng là một công ty lớn bao gồm nhiều
công ty con và nhiều chí nhánh phân bổ khắp cả nước và vươn ra cả nước
ngoài như: Công ty Viễn thông Viettel; Công ty truyền dẫn Viettel; Trung tâm
đào tạo Viettel; Công ty bất động sản Viettel; Công ty Phát triển dịch vụ mới
Viettel; Các chi nhánh Viettel tại các tỉnh, thành phố.
10


Ngành nghề kinh doanh chủ yếu của Viettel là: Cung cấp các dịch vụ
bưu chính, viễn thông trong nước và quốc tế (như dịch vụ chuyển phát, dịch
vụ điện thoại di động, dịch vụ điện thoại cố định, internet, VOIP,....); Khảo
sát, thiết kế, xây dựng các công trình viễn thông, dự án phát thanh và truyền
hình; Sản xuất, lắp đặt, bảo trì bảo dưỡng và kinh doanh các thiết bị điện tử,
viễn thông và truyền hình; Xuất, nhập khẩu các thiết bị điện tử viễn thông;
Kinh doanh đầu tư tài chính và địa ốc. Nhiệm vụ quốc phòng: Mạng lưới của
Tổng công ty Viễn thông quân đội là hạ tầng thông tin thứ hai của Quân đội,
thực hiện phục vụ cho mạng thông tin quân sự trong thời bình và nhanh chóng
chuyển sang phục vụ nhiệm vụ quốc phòng khi có tình huống xảy ra.
Các CNVTT,TP được thành lập theo quyết định số 2982/QĐ-BQP
ngày 15 tháng 11 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, do Thứ trưởng,
Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh ký thay. Hiện nay Tập đoàn Viễn thông
Quân đội có 61 chi nhánh (trừ Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) tại các
tỉnh, thành phố trong cả nước. Mỗi chi nhánh biên chế gồm: Giám đốc chi

nhánh; 3 phó giám đốc; Ban chính trị, Phòng tổ chức hành chính; Phòng Tài
chính; Phòng Kế hoạch tổng hợp; Phòng Kinh doanh di động; Phòng Kinh
doanh cố định băng rộng; Phòng Dịch vụ giải pháp; Phòng Kỹ thuật; Phòng
Hạ tầng; 1 lớp Trung tâm quận (huyện).....
Chức năng, nhiệm vụ của các CNVTT,TP được xác định là: 1. Lãnh
đạo đơn vị tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh doanh mà Tập đoàn
giao; 2. Tổ chức nghiên cứu thị trường, xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh
doanh các sản phẩm, dịch vụ của Viettel trên địa bàn tỉnh, thành phố; 3. Chỉ
đạo, hướng dẫn các Trung tâm xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh các
dịch vụ được giao quản lý; 4. Chỉ đạo, điều hành thực hiện chỉ tiêu, kế hoạch
kinh doanh các dịch vụ được giao; 5. Quản lý và tổ chức các hoạt động quảng
cáo truyền thông, xây dựng và duy trì hình ảnh Viettel trên địa bàn chi nhánh;
6. Chỉ đạo các nghiệp vụ bán hàng và công tác bảo đảm hàng hóa các dịch vụ
được giao đối với các Trung tâm Viettel huyện/quận.....
11


* Đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố thuộc
Tập đoàn Viễn thông Quân đội
Quan niệm về đội ngũ cán bộ chủ trì
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, cán bộ được hiểu theo hai nghĩa: “Người
làm công tác có chuyên môn nghiệp vụ trong cơ quan, tổ chức nhà nước” và
“Người giữ chức vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước” [10, tr.249]; chủ trì
nghĩa là: “Điều hành và chịu trách nhiệm chính về công việc”[10, tr.394].
Theo nghĩa đó, CBCT là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, đoàn thể hay lĩnh
vực hoạt động, chịu trách nhiệm chính trong quản lý, điều hành và tổ chức
cho cơ quan, đơn vị, đoàn thể đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Đội ngũ cán bộ ở các CNVTT,TP là một bộ phận của đội ngũ cán bộ
của Đảng, Nhà nước và quân đội, hoạt động trong hệ thống tổ chức đảng, hệ
thống tổ chức quản lý, hệ thống tổ chức quần chúng, công đoàn. Đội ngũ cán

bộ ở các CNVTT,TP rất đa dạng (sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp...) và giữ
các cương vị, chức trách, nhiệm vụ khác nhau với vai trò không ngang bằng
nhau (cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ chuyên môn nghiệp vụ). Trong đó, cán
bộ chủ trì được xác định, bao gồm: Ban Giám đốc chi nhánh (gồm Giám đốc,
phó giám đốc); cán bộ đứng đầu các Phòng, Ban, Trung tâm của các chi
nhánh (Ban chính trị, Phòng tổ chức hành chính; Phòng Tài chính; Phòng Kế
hoạch tổng hợp; Phòng Kinh doanh di động; Phòng Kinh doanh cố định băng
rộng...) là những người đảm nhiệm các vị trí then chốt trong bộ máy tổ chức ở
các chi nhánh, hợp thành ĐNCBCT của đơn vị, có vai trò rất quan trọng trong
tổ chức và hoạt động của các CNVTT,TP.
Từ cách tiếp cận trên có thể quan niệm: Đội ngũ cán bộ chủ trì ở các
chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố là bộ phận cán bộ của Đảng, của Tập đoàn
Viễn thông Quân đội, giữ vị trí trọng yếu ở các chi nhánh, bao gồm những
người đứng đầu tổ chức đảng, doanh nghiệp, tổ chức quần chúng, hệ thống
quản lý điều hành có vai trò rất quan trọng trong lãnh đạo, quản lý chi nhánh
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
12


Nhiệm vụ của ĐNCBCT ở các CNVTT,TP được xác định là: Nghiên
cứu thị trường; Quảng cáo, truyền thông, duy trì hình ảnh Viettel; Xây dựng
kế hoạch kinh doanh; Định hướng đánh giá sản xuất kinh doanh dịch vụ di
động; Điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh; Điều hành công tác bảo
đảm; Công tác xây dựng kênh phân phối....
Để lãnh đạo, quản lý các CNVTT,TP thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ,
đòi hỏi ĐNCBCT phải có đủ phẩm chất và năng lực, đặc biệt là phải thực sự
tiêu biểu về ĐĐCM. Nếu thiếu gương mẫu về ĐĐCM thì ĐNCBCT dù trình
độ, kiến thức có cao rộng bao nhiêu, tài năng có kiệt xuất đến đâu cũng không
thể thu phục, lôi cuốn, tập hợp cán bộ, công nhân viên để tạo thành sức mạnh
to lớn thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố.
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố
trực tiếp góp phần quyết định việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Viettel.
Đội ngũ cán bộ chủ trì ở các CNVTT,TP là những người trực tiếp điều
hành các hoạt động của các chi nhánh và hướng hoạt động của các chi nhánh
đi đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nhiệm vụ chính trị và đường hướng kinh doanh của Tập đoàn, của chi nhánh.
Với trình độ, năng lực cùng với phẩm chất đạo đức tốt, hết mình vì công việc
ĐNCBCT là lực lượng trực tiếp nghiên cứu, cụ thể hóa nghị quyết của Đảng,
Đảng bộ Tập đoàn thành các kế hoạch, biện pháp, chương trình hành động cụ
thể phù hợp đặc điểm, tình hình của các tỉnh, thành phố. Đồng thời, trực tiếp
chỉ đạo, hướng dẫn, quản lý cán bộ, công nhân viên chi nhánh thực hiện các
nội dung, chương trình, kế hoạch kinh doanh được xác định một cách chủ
động, sáng tạo. Kịp thời nắm bắt và giải quyết các tình huống nảy sinh trong
tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Thực tế cho thấy, chất lượng, hiệu quả thực hiện
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của các chi nhánh phụ thuộc rất nhiều vào trình
độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của ĐNCBCT. Nếu trình độ, năng lực, phẩm
chất của ĐNCBCT tốt thì việc lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động của các

13


chi nhánh gặp thuận lợi, đạt kết quả cao. Nếu trình độ, năng lực, phẩm chất
đạo đức của ĐNCBCT hạn chế thì việc nắm bắt tình hình, việc đề xuất các
biện pháp lãnh đạo, quản lý hoạt động kinh doanh sẽ khó khăn, bỏ mất cơ hội
vì thế kết quả, chất lượng trong thực hiện nhiệm vụ sẽ không cao.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố
góp phần nâng cao chất lượng tham mưu, đề xuất và hiệu quả triển khai
đường lối, chủ trương, chính sách kinh doanh của tập đoàn.
Đây là chức năng, nhiệm vụ thể hiện vai trò rất quan trọng của

ĐNCBCT ở các CNVTT,TP. Trước hết, ĐNCBCT luôn nắm chắc đường lối,
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước; nắm chắc
nhiệm vụ chính trị, đường hướng kinh doanh của Tập đoàn từ đó phát huy vai
trò tiên phong, tính năng động, sáng tạo, ý thức trách nhiệm chính trị cao, tích
cực, chủ động đề xuất các biện pháp lãnh đạo, quản lý các chi nhánh một cách
chặt chẽ; tích cực tham mưu cho cấp ủy, Ban Giám đốc chi nhánh việc kiện
toàn tổ chức bộ máy, triển khai kinh doanh, tìm kiếm thị trường, khách hàng,
chính sách kinh doanh dịch vụ; tích cực tham mưu trong công tác khảo sát,
thiết kế, điều hành, triển khai hạ tầng, dịch vụ, quản lý, khai thác hạ tầng
mạng lưới và hỗ trợ xử lý sự cố. Trong từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể,
ĐNCBCT đều có những ý tưởng kinh doanh rất sáng tạo, đã đề xuất được các
nội dung, chương trình kinh doanh cụ thể, phù hợp với đặc điểm chi nhánh,
tình hình và nhu cầu của nhân dân địa phương. Nhiều chủ trương, biện pháp,
nội dung, chương trình, kế hoạch kinh doanh do ĐNCBCT tham mưu, đề xuất
đã được cấp ủy các chi nhánh nghiên cứu, vận dụng trong thực tiễn đem lại
kết quả cao; nhiều tổ chức và cá nhân ở các chi nhánh đã hoàn thành xuất sắc
các nhiệm vụ, các chỉ tiêu kinh doanh đặt ra. Có thể thấy, nâng cao chất lượng
tham mưu, đề xuất và hiệu quả triển khai đường lối, chủ trương, chính sách
kinh doanh là một trong những chức năng trội, thể hiện trình độ và năng lực
của ĐNCBCT ở các CNVTT,TP hiện nay.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố
có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý kinh doanh.
14


Hoạt động quản lý kinh doanh của Viettel là hoạt động khá phức tạp
đòi hỏi nhà quản lý kinh doanh phải có năng lực và trình độ rất cao.
ĐNCBCT ở các CNVTT,TP là cán bộ chủ chốt, với phẩm chất, năng lực của
mình ngày càng thể hiện vai trò đặc biệt quan trọng. Họ chính là người lập kế
hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát hoạt động sản xuất, kinh doanh của cán

bộ, công nhân viên, tài chính, vật chất ở các chi nhánh và thông tin một cách
có hiệu quả để đạt được mục tiêu xác định. Chất lượng, hiệu quả và sự phát
triển bền vững của các chi nhánh, của Tập đoàn phụ thuộc vào năng lực quản
lý của ĐNCBCT. Với chức trách của mình, ĐNCBCT đảm đương nhiều vai
trò khác nhau hoạt động quản lý kinh doanh như: Xác định kế hoạch kinh
doanh, mục tiêu kinh doanh; Hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh và doanh thu
mà công ty đề ra; Phối hợp với lãnh đạo doanh nghiệp, xác định sản phẩm cần
tiêu thụ và sách lược tiêu thụ sản phẩm; Tổ chức các cuộc họp định kỳ để
truyền đạt, sắp xếp các nhiệm vụ công việc đến các nhân viên dưới quyền;
Động viên tinh thần làm việc của cán bộ, nhân viên, giúp nhân viên vượt qua
mọi khó khăn để hoàn thành tốt công việc; đồng thời, quản lý và bồi dưỡng
các nhân viên dưới quyền; Xác định nội dung, sắp xếp và tiến hành giám sát
cán bộ, công nhân viên trong việc thực hiện các chế độ có liên quan....
Thứ tư, đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố
trực tiếp góp phần xây dựng tập đoàn, các tổ chức đảng, tổ chức quần chúng
vững mạnh.
Đội ngũ CBCT ở các CNVTT,TP không chỉ là đối tượng mà còn là chủ
thể trực tiếp tham gia xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức quần chúng
TSVM, xây dựng Tập đoàn VMTD. Họ là những người trực tiếp lực lượng
chủ yếu tham gia các ý kiến có chất lượng vào xây dựng nghị quyết, các
chương trình, kế hoạch kinh doanh của Tập đoàn, của các chi nhánh, các tổ
chức đảng, tổ chức quần chúng. Đồng thời, là lực lượng đi đầu trong nghiên
cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện thắng lợi các nghị quyết, chỉ thị, chương
trình, kế hoạch đó. Kết quả xây dựng Tập đoàn vững mạnh, xây dựng tổ chức
15


Đảng, tổ chức quần chúng ở các CNVTT,TP TSVM phụ thuộc rất nhiều vào
trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức, lối sống của ĐNCBCT. Với tính
đảng, tính khoa học, sự tận tâm, tận lực, trách nhiệm cao với nghề nghiệp, sự

trong sáng về đạo đức, lối sống, ĐNCBCT luôn là tấm gương sáng có sức ảnh
hưởng, giáo dục, thuyết phục cao đối với cán bộ, đảng viên, công nhân viên
khác trong toàn Tập đoàn, chi nhánh. Thực tiễn chứng minh, ở đâu và khi nào
ĐNCBCT ở các CNVTT,TP có chất lượng, có trình độ, năng lực cao, có
phẩm chất đạo đức trong sáng, lành mạnh thì ở đó cấp ủy, tổ chức đảng, tổ
chức quần chúng luôn TSVM, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, qua đó góp
phần xây dựng Tập đoàn vững mạnh. Ngược lại, ở đâu ĐNCBCT ở các chi
nhánh thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực trình độ chuyên môn, tha hóa về
phẩm chất, đạo đức, lối sống thì ở đó cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức quần
chúng sẽ yếu kém, luôn gặp khó khăn trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nội
bộ mất đoàn kết và do đó làm hạn chế đến kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh
doanh của chi nhánh, Tập đoàn. Từ vấn đề trên, đặt ra cho cấp uỷ, tổ chức
đảng, tổ chức quần chúng ở các CNVTT,TP và cả Tập đoàn cần phải quan
tâm hơn nữa đến việc nâng cao chất lượng toàn diện ĐNCBCT, đặc biệt là
trình độ, năng lực chuyên môn cùng với những phẩm chất, đạo đức mới của
người cách mạng.
Đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố.
Một là, đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố
phong phú, đa dạng về chức danh, chuyên môn, năng động, sáng tạo trong
công tác và giải quyết các mối quan hệ.
Các CNVTT,TP hiện nay sản xuất, kinh doanh đa dạng nhiều lĩnh vực
khách nhau như: dịch vụ chuyển phát, dịch vụ điện thoại di động, dịch vụ
điện thoại cố định, internet, VOIP,...Để bảo đảm các lĩnh vực đó đạt chất
lượng, ở mỗi chi nhánh thành lập nhiều phòng ban khác nhau, với chức năng,
nhiệm vụ riêng. Mỗi phòng, ban được biên chế các chức vụ từ trưởng phòng,
ban, các phó trưởng phòng, ban đến các trợ lý và các nhân viên. Mỗi vị trí,
16


chức vụ có nhiệm vụ cụ thể. Chính điều này, đã tạo nên sự đa dạng về các

chức danh, chuyên môn nghiệp vụ.
Mặt khác, hoạt động sản xuất kinh doanh luôn chịu sự chi phối của quy
luật thị trường, trong đó thị hiếu người tiêu dùng ngày càng lớn và đa dạng,
đòi hỏi chất lượng dịch vụ, chất lượng phục vụ ngày càng tốt hơn. Đồng thời,
quá trình sản xuất, ĐNCBCT phải thường xuyên tiếp xúc với khách hàng,
trang thiết bị hiện đại, với tập thể cán bộ, công nhân viên của công ty. Điều
này, làm cho ĐNCBCT phải thường xuyên có sự nghiên cứu, lắng nghe, sâu
sát trong công việc; có bản lĩnh, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo trong ứng xử,
giải quyết các tình huống nảy sinh, duy trì nề nếp, chế độ. Nếu không nhạy
bén, năng động, không giải quyết tốt các mối quan hệ, người CBCT sẽ không
thể phát huy được trí tuệ tập thể, không xây dựng được uy tín của mình và
như thế rất khó có thể hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
mà chi nhánh đã xác định.
Hai là, hoạt động của đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel
tỉnh, thành phố thường xuyên tiếp xúc với công nghệ thông tin, thị trường,
khách hàng, vật chất, tiền, hàng.
Hoạt động của các CNVTT,TP là sản xuất kinh doanh đem lại lợi
nhuận cho nhà sản xuất. Muốn thực hiện được vấn đề này thì việc nắm bắt thị
trường, thị hiếu của người tiêu dùng để có chính sách phù hợp đóng vai trò
quyết định. Thị trường của Viettel nói chung, các CNVTT,TP nói riêng hiện
nay rất rộng lớn, không chỉ bó hẹp trong nước mà còn mở rộng ra nhiều nước
khác trên thế giới. Đây là thuận lợi để các CNVTT,TP quảng bá hình ảnh,
thúc đẩy hoạt động kinh doanh, thu lợi nhuận, song cũng đặt ra thách thức với
ĐNCBCT ở các chi nhánh là làm sao có thể thâm nhập, hiểu phong tục tập
quán, thói quen, nhu cầu của người tiêu dùng ở các nước để có chiến lược
kinh doanh phù hợp. Một trong những giải pháp thiết thực nhất là sử dụng
công nghệ thông tin. Với ưu điểm của mình, công nghệ thông tin đang trở
thành phương tiện không thể thiếu, sử dụng thường xuyên của cán bộ, nhân
17



viên ở các CNVTT,TP hiện nay. Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất kinh doanh
bản thân nó là hoạt động mở, đa chiều. Do vậy, trong quá trình sản xuất kinh
doanh, cán bộ nhân viên chi nhánh không chỉ ngồi một chỗ mà phải tiến hành
nhiều khâu, nhiều bước như: tiếp xúc khách hàng, nghe những phản ánh của
họ về chất lượng dịch vụ; thực hiện các giao dịch bằng tiền, bằng sản phẩm cụ
thể; sữa chữa, thay mới các thiết bị, xây dựng cơ bản....
Ba là, hoạt động đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh,
thành phố vừa chịu sự chỉ phối của các quy định, kỷ luật của quân đội, vừa
tuân thủ những chi phối của quy luật kinh tế thị trường, đồng thời phải phối
hợp và giải quyết mối quan hệ với nhiều tổ chức, lực lượng khác nhau.
Đội ngũ CBCT ở các CNVTT,TP là cán bộ của Đảng nhưng đồng thời
là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng hoạt
động trong tổ chức đặc thù – tổ chức quân đội, chịu sự chi phối mạnh mẽ của
Điều lệnh, điều lệ và các quy định, kỷ luật. Chính Điều lệnh, điều lệ, kỷ luật
quân đội đã tạo nên sự thống nhất cao về ý chí và hành động, làm nên sức
mạnh to lớn giúp cán bộ, chiến sĩ vượt qua thử thách, khó khăn, đánh thắng
mọi kẻ thù xâm lược. Vì thế, mọi hoạt động của ĐNCBCT ở các CNVTT,TP
cũng giống như mọi quân nhân khác luôn phải chấp hành một cách nghiêm
minh những nội dung quy định trong Điều lệnh, điều lệ. Mọi hành động trái
với các quy định đó sẽ phải trả giá bằng các hình thức kỷ luật khác nhau. Tuy
nhiên, hoạt động của các CNVTT,TP nói riêng, của Tập đoàn Viễn thông
Quân đội nói chung có những nét đặc thù so với các đơn vị khác. Đây là tổ
chức kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
Quân ủy Trung ương, của Đảng bộ Tập đoàn và luôn chịu sự tác động của các
quy luật kinh tế thị trường. Chỉ khi nào nắm bắt được các quy luật kinh tế thị
trường và giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh trong quá trình sản xuất kinh
doanh thì khi đó các CNVTT,TP mới tồn tại, phát triển được. Hay nói cách
khác, sự tồn tại, phát triển của các CNVTT,TP dựa vào năng lực quản lý điều
hành của ĐNCBCT, vào sự nắm bắt và giải quyết các quy luật kinh tế cơ bản.

18


Thực tiễn cho thấy, để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển,
ĐNCBCT ở các CNVTT,TP phải giải quyết rất nhiều công việc như: nghiên
cứu thị trường, quảng cáo, truyền thông, duy trì hình ảnh Viettel; xây dựng kế
hoạch, định hướng, đánh giá sản xuất kinh doanh; điều hành hoạt động....tất
cả các hoạt động đó đem lại kết quả cao hay thấp đều dựa trên phương châm
hoạt động của công ty, dựa trên các quy định của pháp luật Nhà nước, kỷ luật
quân đội, quy định của đơn vị.
* Đạo đức cách mạng của cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh,
thành phố
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
qui tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
người trong mối quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực
hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Cũng như đạo đức nói chung, ĐĐCM là một hiện tượng xã hội mang
tính lịch sử, cụ thể. Trên nền đạo đức chung của xã hội, mỗi lĩnh vực hoạt
động có những yêu cầu đạo đức riêng, mỗi đối tượng cụ thể có những phẩm
chất đạo đức đặc thù. Cán bộ chủ trì ở các CNVTT,TP là cán bộ của Đảng và
Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, ĐĐCM của họ vừa mang đầy
đủ những phẩm chất chung của người cán bộ cách mạng, người quân nhân
trong quân đội, vừa có những phẩm chất đặc thù do vị trí, chức năng, nhiệm
vụ của họ ở các CNVTT,TP quy định.
Từ cách tiếp cận trên, có thể quan niệm: Đạo đức cách mạng của cán
bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố thuộc Tập đoàn Viễn thông
Quân đội là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực đạo đức, phản ánh đòi hỏi
khách quan của đời sống hoạt động kinh doanh, dịch vụ, được biểu hiện
trong nhận thức, tình cảm, hành vi đạo đức và trong toàn bộ nhân cách người
cán bộ hoạt động kinh doanh; định hướng và điều khiển mọi hành vi hoạt

động của người cán bộ, giúp họ có thái độ tích cực, chủ động, sáng tạo trong
công việc, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
19


Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ chủ trì ở các chi nhánh
Viettel tỉnh, thành phố.
Một là, trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện đúng đường lối của
Đảng và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Đây là phẩm chất đạo đức - chính trị cơ bản, bao trùm và quan trọng
nhất trong hệ thống những phẩm chất ĐĐCM, là truyền thống tốt đẹp mà các
thế hệ cán bộ, công nhân viên của Tập đoàn đã dày công xây dựng, vun đắp.
Đồng thời, đây còn là cơ sở bảo đảm cho ĐNCBCT ở các CNVTT,TP xác
định đúng mục tiêu, phương thức sản xuất kinh doanh, không ngừng nâng cao
ý chí quyết tâm, tinh thần cầu tiến bộ, tích cực cải tiến trang thiết bị, nâng cao
chất lượng sản phẩm, phục vụ ngày càng tốt hơn đời sống nhân dân. Nội dung
trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân của ĐNCBCT ở các
CNVTT,TP rất rộng lớn bao gồm: Tinh thần hết lòng, hết sức phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân; luôn tận trung với Đảng, tận hiếu với dân; trong bất
cứ hoàn cảnh nào cũng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; kiên
định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH vì mục tiêu: “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; đồng thời, luôn phát huy tinh thần
trách nhiệm trong lãnh đạo, giáo dục, xây dựng trận địa chính trị, tư tưởng,
làm cho cán bộ, công nhân viên ở các CNVTT,TP có bản lĩnh chính trị vững
vàng, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị được giao.
Hai là, có lối sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham
nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” là phẩm chất nền tảng của
ĐĐCM, là bốn “đức” cơ bản tạo nên cốt cách của người cán bộ nói chung,

ĐNCBCT ở các CNVTT,TP nói riêng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Trời có
bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì không thành
trời. Thiếu một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức, thì không thành
người” [38, tr.117].
20


Đội ngũ cán bộ chủ trì ở các CNVTT,TP là những người có chức, có
quyền, trực tiếp lãnh đạo, quản lý đơn vị thì phẩm chất này càng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Nếu thiếu đức tính “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư” thì ĐNCBCT sẽ khó tránh khỏi việc lợi dụng chức quyền để tham ô, tham
nhũng, sử dụng lãng phí của công, làm thất thoát vật tư, tài sản của Nhà nước,
đơn vị. Đức tính “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” của ĐNCBCT ở các
CNVTT,TP được thể hiện ở sự cần cù, chăm chỉ trong công tác, tích cực chủ
động, sáng tạo trong mọi công việc, mang lại hiệu quả cao trong lãnh đạo,
quản lý đơn vị. Có ý thức tiết kiệm, giữ gìn và quản lý chặt chẽ vật tư, tài sản
của đơn vị, không xa hoa lãng phí, không tiêu xài bừa bãi. Không lợi dụng
chức quyền để tham ô, tham nhũng, đục khoét tiền bạc, tài sản của đơn vị,
không lợi dụng danh nghĩa tập thể đơn vị mà mưu cầu lợi ích cá nhân, làm
giàu bất chính. Trong giai đoạn hiện nay cần, kiệm, liêm, chính đòi hỏi
ĐNCBCT không những phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện nâng cao ĐĐCM mà
còn phải kiên quyết đấu tranh, khắc phục mọi biểu hiện chủ nghĩa cá nhân,
tham nhũng, tiêu cực ở các CNVTT,TP.
Ba là, có ý chí phấn đấu vươn lên, chấp hành nghiêm pháp luật nhà
nước, kỷ luật, nguyên tắc, quy định trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đạo
đức nghề nghiệp.
Đây là phẩm chất đặc trưng của ĐNCBCT ở các CNVTT,TP. Bởi vì,
hiện nay, cuộc cách mạng KHCN hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ làm cho sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế trở nên căng thẳng, gay

gắt hơn bao giờ hết. Để thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, kế hoạch, nhiệm vụ
đã đề ra đòi hỏi cán bộ, công nhân viên ở các doanh nghiệp quân đội phải có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý chí, quyết tâm phấn đấu vươn lên, có kiến
thức toàn diện, có khả năng làm chủ trang thiết bị khoa học kỹ thuật, có tính
kỷ luật cao và năng lực tốt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Là người đứng đầu,
chịu trách nhiệm về mọi mặt công tác, ĐNCBCT ở các CNVTT,TP đã thể
hiện được những phẩm chất rất đáng quý của người cán bộ quân đội, người
21


cán bộ cách mạng của đảng đó là: tinh thần cầu tiến bộ, có ý chí phấn đấu
vươn lên, ham học hỏi, chấp hành nghiêm pháp luật nhà nước, kỷ luật,
nguyên tắc, quy định trong hoạt động kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp.
Trong mọi tình huống, luôn có ý thức, tinh thần trách nhiệm cao trong học
tập, công tác, không bao giờ cho việc học là đủ, không chủ quan, thoả mãn
dừng lại, không tự bằng lòng với những kiến thức, kinh nghiệm mình đã có,
luôn xác định việc học tập, rèn luyện là một công việc phải làm suốt đời.
Trong sản xuất kinh doanh, luôn đề cao tính nghiêm minh của pháp luật,
không vì lợi ích cá nhân, cục bộ, bè phái mà kinh doanh bất chấp tất cả. Chủ
động, tích cực trong xây dựng và thực hiện nghiêm túc các chương trình, kế
hoạch kinh doanh đã xác định.
Bốn là, có tình thương yêu con người, yêu thương, giúp đỡ đồng
nghiệp.
Tình thương yêu con người, yêu thương, giúp đỡ đồng nghiệp, yêu quý,
kính trọng nhân viên là phẩm chất đáng quý của người CBCT ở các
CNVTT,TP, nó được bắt nguồn từ tư tưởng “nhân ái” của đạo đức truyền
thống dân tộc, được xây dựng trên cơ sở tình thương yêu giai cấp, dựa trên
mối quan hệ bình đẳng về chính trị cùng phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý
tưởng chung. Biểu hiện của tình thương yêu con người, yêu thương giúp đỡ
đồng nghiệp, yêu quý, kính trọng nhân viên của ĐNCBCT ở các CNVTT,TP

trước hết ở sự tận tình, hết lòng, hết sức chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
cho cán bộ, nhân viên, quan tâm sâu sát đến từng bữa ăn, giấc ngủ, đến điều
kiện sinh hoạt, đến nhu cầu tinh thần, tình cảm của họ. Tình thương yêu đó
không phải cái gì xa lạ mà được thể hiện ở hành vi ứng xử trong quan hệ hàng
ngày như: thực sự công bằng, thân thiết, gần gũi như người anh, người chị,
người bạn, luôn tôn trọng nhân cách, lắng nghe ý kiến, giúp đỡ cán bộ, nhân
viên, tiến bộ về mọi mặt. Không chỉ quan hệ, đối xử tốt với cán bộ, nhân viên
mà CBCT còn lãnh đạo, giáo dục cán bộ, nhân viên công ty chấp hành
nghiêm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, chủ động giúp đỡ, bảo vệ họ trong
22


sản xuất và trong cuộc sống, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của cán bộ, nhân viên. Đồng thời, tham gia giúp đỡ những gia đình có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn...
Vai trò đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ chủ trì ở các chi nhánh
tỉnh, thành phố thuộc Tập đoàn Viễn thông Quân đội.
Đạo đức cách mạng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển nhân
cách cũng như hoạt động thực tiễn gắn với chức trách, nhiệm vụ của người
CBCT ở các CNVTT,TP. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [37, tr.292].
Vai trò ĐĐCM của ĐNCBCT ở các CNVTT,TP được biểu hiện như sau:
Thứ nhất, ĐCM là cơ sở, nền tảng để phát triển tài tăng, tạo nên giá trị
nhân cách của cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố.
Đức và tài là hai mặt cấu thành nhân cách và thống nhất biện chứng
trong nhân cách người CBCT ở các CNVTT,TP. Trong đó, ĐĐCM được coi
là bộ mặt của nhân cách, là yếu tố cơ bản nhất, giữ vai trò nền tảng, là tiêu
chuẩn hàng đầu của CBCT ở các CNVTT,TP. Đạo đức cách mạng tác động

mạnh mẽ và góp phần tích cực vào sự phát triển của trí tuệ, tài năng, thể chất,
thẩm mỹ của ĐNCBCT. Một khi có ĐĐCM, có lý tưởng cao cả, có hoài bão
lớn, có ý chí quyết tâm, có động cơ trong sáng vì dân, vì nước, vì nhiệm vụ
chung thì tài năng ở người CBCT sẽ được phát triển bền vững và đúng hướng.
Ngược lại, nếu không có ĐĐCM làm nền tảng thì tài năng rất khó phát triển
hoặc phát triển lệch hướng, nhiều khi tài năng ấy trở thành tai hoạ, gây ra hậu
quả xấu cho công ty. Mặt khác, ĐĐCM còn thôi thúc người CBCT miệt mài,
say sưa với công việc, ra sức tìm tòi, tích luỹ kiến thức, trau dồi phương pháp
nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra. Không có sự miệt
mài, say sưa đó thì không thể có sự nỗ lực tìm tòi chân lý, không có sự sáng
tạo và do đó không thể có sự phát triển của trí tuệ và tài năng.
23


Mặc dù có đức và phải lấy đức “làm gốc”, nhưng người CBCT cũng
phải có tài năng nhất định. Tài năng là điều kiện quan trọng để hiện thực hoá
mục tiêu, lý tưởng, là cơ sở để biến những điều thiện trong nhận thức thành
những giá trị đạo đức trong hiện thực. Sự phát triển của tài năng dựa trên nền
tảng của ĐĐCM, nhưng khi tài năng đã được phát triển, nghĩa là các năng lực
của người cán bộ chủ trì đã được phát huy, lại tạo ra điều kiện mới, khả năng
mới để phát triển, hoàn thiện các phẩm chất đạo đức của họ.
Thứ hai, là động lực thúc đẩy cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel
tỉnh, thành phố không ngừng phấn đấu vươn lên, hoàn thành tốt chức trách,
nhiệm vụ được giao.
Sản xuất, kinh doanh dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, lĩnh vực nào cũng
vô cùng khó khăn, phức tạp bởi tính chất cạnh tranh khốc liệt, nặng nề và phải
đối mặt với nhiều rủi ro. Nếu không có những phẩm chất, năng lực thực sự thì
rất khó có thể vượt qua và đạt được thành công. Chính vì thế, ĐĐCM với giá
trị tích cực của mình sẽ giúp người CBCT ở các CNVTT,TP có thêm ý chí
quyết tâm cũng như nghị lực, sức mạnh để vượt qua mọi gian nan, thử thách,

bảo đảm cho người CBCT khi thuận lợi cũng như khi gặp khó khăn vẫn kiên
định, vững vàng, không sợ sệt, rụt rè, không nản chí và lùi bước, sẵn sàng hi
sinh lợi ích cá nhân vì mục tiêu đã xác định. Mặt khác, ĐĐCM góp phần thổi
bùng lên ngọn lửa nhiệt tình cách mạng, thắp sáng lý tưởng, niềm tin, hoài
bão, ước mơ ở người CBCT; thôi thúc họ tự giác, chủ động trong công tác, có
trách nhiệm cao trong lãnh đạo, quản lý cơ quan, đơn vị; giúp họ tích cực hơn
trong học tập, nghiên cứu, từ đó không ngừng nâng cao hiểu biết toàn diện,
năng lực công tác, trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của Tập đoàn, của các chi nhánh.
Hiện nay, quá trình đổi mới đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo
ra sự biến đổi sâu sắc về thang bậc giá trị xã hội. Do đó, ĐĐCM còn là cuốn
cẩm nang thần kỳ giúp người CBCT ở các CNVTT,TP lựa chọn và vươn tới
những giá trị đạo đức đích thực, giữ gìn và phát huy những điều tốt, việc làm
24


hay, đấu tranh đẩy lùi những quan điểm, tư tưởng sai trái, phản động, tạo ra
sức đề kháng chống lại sự xâm nhập của các hiện tượng tiêu cực xã hội,
những cám dỗ của chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, làm vô hiệu hoá âm
mưu, thủ đoạn của kẻ thù; đồng thơi, giúp người CBCT nhận ra giá trị nhân
văn, nhân đạo của cuộc sống, ý thức được vinh dự và trách nhiệm, nghĩa vụ
và quyền lợi của bản thân, hiểu rõ ý nghĩa của mỗi việc mình làm, của từng
nhiệm vụ được giao, từ đó hướng toàn bộ trí tuệ, tài năng, sức lực của mình
để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, đạo đức cách mạnh của cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel
tỉnh, thành phố có tác dụng to lớn trong giáo dục xây dựng phẩm chất nhân
cách cho cán bộ, nhân viên cấp dưới ở các chi nhánh Viettel tỉnh, thành phố.
Đội ngũ CBCT ở các CNVTT,TP là những người hàng ngày, hàng giờ
trực tiếp tiếp xúc, liên hệ với cán bộ, nhân viên thuộc quyền, cùng ăn, cùng ở,
cùng sinh hoạt trong một tập thể với họ; trực tiếp tuyên truyền, vận động, giáo

dục cán bộ, nhân viên về chủ trương đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước, đường hướng kinh doanh của tập đoàn; là người trực tiếp
lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng và trực tiếp giải quyết các vấn đề theo
thẩm quyền, khả năng để đáp ứng nguyện vọng chính đáng của cán bộ, nhân
viên. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ĐNCBCT ở các CNVTT,TP là
người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cán bộ, nhân
viên thực hiện đường hướng kinh doanh đã xác định; lực lượng trực tiếp rèn
luyện, xây dựng ý chí quyết tâm, ý thức chấp hành kỷ luật và trực tiếp xử lý
các tình huống xảy ra…Do đó, mỗi cử chỉ, lời nói, việc làm của người CBCT
sẽ tác động trực tiếp đến tâm tư, tình cảm, ý chí và hành động của cán bộ,
công nhân viên. Tấm gương ĐĐCM trong sáng của ĐNCBCT là “mệnh lệnh
không lời” có tác dụng to lớn cổ vũ tinh thần, củng cố niềm tin, thôi thúc cán
bộ, nhân viên vượt lên những khó khăn thử thách, hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Cán bộ, nhân viên ở các CNVTT,TP nhìn vào ĐNCBCT như một hình
mẫu về nhân cách, từ đó quyết tâm phấn đấu, rèn luyện noi theo. Chủ tịch Hồ
25


Chí Minh đã chỉ rõ: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài
diễn văn tuyên truyền” [36, tr.284].
Thứ tư, đạo đức cách mạnh của cán bộ chủ trì ở các chi nhánh Viettel
tỉnh, thành phố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả xây dựng Viettel vững mạnh,
niềm tin của công nhân viên gắn bó với tập đoàn, góp phần củng cố mối quan
hệ cấp trên, cấp dưới, tạo sự tin tưởng của Đảng, quân đội với tập đoàn.
Đạo đức cách mạng của người CBCT ở các CNVTT,TP là là kết tinh
của những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của “Bộ đội Cụ Hồ”, giữ
vai trò định hướng chính trị – tư tưởng, giúp cho các CNVTT,TP đi đúng
“con đường chính trị” của Đảng, của tập đoàn góp phần xây dựng các chi
nhánh vững mạnh về chính trị – tư tưởng, làm cơ sở để nâng cao sức mạnh
tổng hợp, xây dựng các CNVTT,TP vững mạnh toàn diện.

Mặt khác, để hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách được giao thì hoạt
động lãnh đạo, quản lý của ĐNCBCT không chỉ dựa vào uy quyền và mệnh
lệnh mà còn dựa vào uy tín để tác động, cảm hoá, lôi cuốn cán bộ, công nhân
viên noi theo. Uy tín của người CBCT được tạo lập bằng phẩm chất, năng
lực cá nhân, được thể hiện sinh động và cụ thể thông qua hoạt động lãnh đạo,
quản lý đơn vị, thông qua hành vi ứng xử hàng ngày và thông qua kết quả giải
quyết các mối quan hệ, các nhiệm vụ kinh doanh trong thực tiễn. Bên cạnh
đó, ĐNCBCTở các CNVTT,TP là những người trực tiếp tuyên truyền, vận
động cán bộ, công nhân viên nắm vững và thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, trực tiếp giải quyết
mối quan hệ giữa cấp trên, cấp dưới, mối quan hệ giữa đồng chí, đồng nghiệp.
Chính vì thế, ĐĐCM trong sáng với tình cảm yêu quí, tôn trọng, gắn bó máu
thịt với cán bộ, nhân viên làm cho ĐNCBCT luôn tận tâm, tận lực, hết lòng
hết sức vì lợi ích của công ty, vì cuộc sống của cán bộ, công nhân viên, sẵn
sàng hy sinh lợi ích cá nhân. Phẩm chất ĐĐCM tốt đẹp của ĐNCBCT là cơ
sở để xây dựng niềm tin của cán bộ, công nhân viên vào sự lãnh đạo của tập
đoàn, đồng thời là điều kiện để củng cố và tăng cường mối quan hệ máu cấp
trên, cấp dưới, tạo sự tin tưởng của Đảng, quân đội với tập đoàn.
26


×