MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quận Hà Đông có vị trí địa lý rất quan trọng của thành phố Hà Nội,
nằm giữa giao điểm của Quốc lộ 6 từ Hà Nội đi Hòa Bình và quốc lộ 70A. Hà
Đông cũng là nơi khởi đầu của quốc lộ 21B, nối trung tâm Hà Nội với các
huyện phía nam của Thủ đô và tỉnh Hà Nam, tỉnh Ninh Bình. Quận Hà Đông
có diện tích tự nhiên 4.833,7 ha và 17 đơn vị hành chính phường. Ranh giới
tiếp giáp: Phía Bắc giáp huyện Từ Liêm và huyện Hoài Đức; Phía Nam giáp
huyện Thanh Oai và huyện Chương Mỹ; Phía Đông giáp huyện Thanh Trì và
quận Thanh Xuân; Phía Tây giáp huyện Hoài Đức và huyện Quốc Oai. Hà
Đông là một trong những Quận được ưu tiên phát triển trong những năm gần
đây của Thành phố Hà Nội.
Để xứng đáng với vị thế và tầm vóc phát triển của mình trong hiện tại
và tương lai, trong thời gian qua Quận Hà Đông đã có nhiều chủ trương giải
pháp để phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có phát triển dịch vụ môi trường.
Dịch vụ môi trường trên địa bàn Hà Đông ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Quận nói riêng và của Thành phố
Hà Nội nói chung. Sự phát triển dịch vụ môi trường của Quận đã góp phần
tích cực ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tạo môi trường xanh,
sạch đẹp cho xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trên địa
bàn. Nhận thức được vai trò to lớn của dịch vụ môi trường, trong những năm
gần đây Quận Hà Đông đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp khuyến
khích phát triển dịch vụ môi trường, đầu tư ngày càng lớn hơn cho công tác
bảo vệ môi trường, nhiều loại hình dịch vụ môi trường đã đi vào hoạt động có
hiệu quả thiết thực như: dịch vụ xử lý rác thải, khí thải, nước thải, cảnh quan
môi trường, vệ sinh môi trường, tư vấn môi trường..., các thành phần kinh tế
tham gia ngày càng nhiều hơn vào lĩnh vực bảo vệ môi trường. Dịch vụ môi
trường trên địa bàn Quận Hà Đông từng bước trở thành lĩnh vực kinh doanh;
thị trường dịch vụ môi trường đang hình thành và phát triển, khung khổ pháp
lý cho phát triển lĩnh vực này ngày càng hoàn thiện.
3
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên dịch vụ môi trường của
Hà Đông còn những hạn chế nhất định như: chưa theo kịp với yêu cầu bảo
vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội; năng lực cung cấp dịch vụ và
chất lượng dịch vụ còn hạn chế, khu vực tư nhân tham gia chưa nhiều vào
lĩnh vực này, thị trường dịch vụ môi trường còn nhỏ bé, ngân sách của
Quận vẫn còn phải bao cấp lớn cho hoạt động dịch vụ môi trường..., nhận
thức của người dân về phát triển lĩnh vực dịch vụ môi trường còn hạn chế,
hành lang pháp lý, cơ chế chính sách cho hoạt động dịch vụ môi trường
còn nhiều bất cập, chưa huy động tối đa sự tham gia của xã hội vào phát
triển dịch vụ môi trường trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và mở rộng hội nhập quốc tế.
Để đẩy mạnh phát triển dịch vụ môi trường, huy động tối đa sự tham
gia của xã hội vào công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn Quận, khuyến
khích cá nhân, tổ chức và mọi thành phần kinh tế tham gia các dịch vụ thu
gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác về bảo vệ môi
trường, đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư cho
phát triển dịch vụ mội trường và bảo vệ môi trường trên địa bàn quận Hà
Đông là rất cần thiết. Do đó, đề tài: “Phát triển dịch vụ môi trường trên địa
bàn Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội” thực sự có tính cấp thiết cả về lý
luận và thực tiễn, được tác giả chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phát triển dịch vụ môi trường là vấn đề rất quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước nói chung và Quận Hà Đông,
Thành phố Hà Nội nói riêng. Trong thời gian qua vấn đề này được nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu, trong đó nổi lên một số công trình khoa học tiêu
biểu đó là:
Dự án:“Điều tra đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ môi trường ở
Việt Nam. Đề xuất chính sách phát triển dịch vụ môi trường phù hợp với các
4
cam kết quốc tế trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” của Viện nghiên
cứu Thương mại, Bộ Công thương [44]. Dự án đã hệ thống các quan niệm và
cách phân loại khác nhau về dịch vụ môi trường trên thế giới; nghiên cứu
kinh nghiệm phát triển dịch vụ môi trường và thực hiện các cam kết mở cửa
thị trường dịch vụ môi trường của một số nước trên thế giới (Liên minh châu
Âu, Trung Quốc, Thái Lan) và rút ra bài học đối với Việt Nam; khảo sát, đánh
giá thực trạng phát triển dịch vụ môi trường của Việt Nam và mức độ đáp ứng
yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế và đề xuất các giải pháp phát triển dịch
vụ môi trường.
Vũ Bảo Dương (1999), Dự án chiến lược phát triển khoa học công
nghệ và bảo vệ môi trường tỉnh Hải Dương đến năm 2010, tầm nhìn đến năm
2020, Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường tỉnh Hải Dương. Trong dự án
đề cập nội dung chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và bảo vệ môi
trường tỉnh Hải Dương đến năm 2010; tầm nhìn phát triển khoa học, công
nghệ và bảo vệ môi trường tỉnh Hải Dương đến năm 2020 [8].
UBND Thành phố Hà Nội (2006), Đề án phát triển Khu công nghiệp
và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường Thành phố Hà Nội giai đoạn 20062015, Hà Nội [32]. Đề án đề cập những vấn đề liên quan đến môi trường:
thực hiện tốt việc lựa chọn, chấp thuận các dự án đầu tư có đủ các điều kiện
cần thiết về sản xuất, môi trường. Thường xuyên tiến hành việc đánh giá hiện
trạng môi trường đối với các khu, cụm công nghiệp, các cơ sở sản xuất hiện
có. Phát triển nông nghiệp nông thôn, làng nghề phải gắn với công tác bảo vệ
môi trường, cải thiện chất lượng môi trường, ngăn ngừa và giảm thiếu ô
nhiễm ở các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Có các chế tài đối với các
doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường và cần di dời nếu nằm trong khu dân
cư. Trong các KCN, cần xây dựng các xí nghiệp xử lý môi trường tập trung,
sau năm 2010 chỉ chấp thuận đầu tư cho các dự án sản xuất công nghiệp bảo
đảm môi trường vào các khu công nghiệp. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp
5
gắn liền với việc bảo vệ an ninh quốc phòng và thực hiện sẵn sàng động viên
công nghiệp [32].
Nguyễn Mạnh Hùng (2008), Đề án phát triển mô hình Hợp tác xã dịch
vụ môi trường, chương trình phối hợp hoạt động giữa Liên minh HTX Việt
Nam với Bộ Tài nguyên và Môi trường. Theo tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng thì
mỗi đơn vị hành chính cấp huyện khuyến khích thành lập mới 1 HTX môi
trường; số các HTX hiện có tổ chức một tổ đội môi trường, các đoàn thể như
Hội phụ nữ, Nông dân, Thanh niên, Cựu chiến binh..., cấp xã thành lập 1 tổ
môi trường, sau 6 tháng hoặc 1 năm sơ kết, đánh giá rút kinh nghiệm, nhân
rộng trong toàn huyện [20].
Nguyễn Hoàng Minh (2010), Báo cáo chuyên đề một chiến lược đến
năm 2020 và tầm nhìn 2030 đề ra mục tiêu phát triển dịch vụ môi trường
nhằm cung ứng dịch vụ bảo vệ môi trường; tạo thêm việc làm và hướng tới
mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Viện Chiến lược Chính sách Tài
nguyên và Môi trường. Báo cáo được trình bày tại Hội thảo tham vấn về dự
thảo chiến lược phát triển dịch vụ môi trường đến năm 2020 và định hướng
đến năm 2030 diễn ra ở TP HCM. Ths Nguyễn Hoàng Minh, đại diện nhóm
nghiên cứu đã trình bày tham luận về thực trạng phát triển dịch vụ môi
trường, cơ hội và thách thức; quan điểm, mục tiêu và các ưu tiên phát triển
dịch vụ môi trường đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; các nhiệm
vụ và giải pháp tổ chức thực hiện chiến lược[22].
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2010), “Báo cáo cơ sở lý luận về phát
triển dịch vụ môi trường (2010)” [3], Dự án xây dựng chiến lược phát triển dịch
vụ môi trường đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 [4], Hà Nội. Báo cáo
đã khẳng định phát triển bền vững đi đôi với bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu,
vừa là nguyên tắc trong quá trình phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Đối với nước ta vấn đề này đã được Đảng và Nhà nước rất quan tâm, đặc
biệt đến Đại hội IX Đảng ta đã nêu thành một quan điểm phát triển hàng đầu là
6
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Kể từ khi luật bảo vệ môi
trường có hiệu lực thi hành, hệ thống pháp luật nước ta về môi trường ngày càng
được hoàn thiện. Bộ Chính trị đã có chỉ thị số 36 ngày 25/6/1998 về tăng cường
công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước trên cơ sở đó,
Chính phủ đã giao cho các Bộ, ngành liên quan chủ trì xây dựng và tổ chức thực
hiện nhiều đề án để thực hiện chỉ thị số 36 của Bộ Chính trị.
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2010), Dự án xây dựng chiến lược phát
triển dịch vụ môi trường đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 [4] về
Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, dự án nêu
rõ các quan điểm chỉ đạo đối với công tác bảo vệ môi trường; trong đó nhấn
mạnh nhiệm vụ công tác xã hội hóa bảo vệ môi trường. Dự án cho rằng, để
giải quyết các vấn đề đang tồn tại về môi trường và hạn chế mức gia tăng ô
nhiễm trong thời gian tới, đòi hỏi phải có nguồn lực đầu tư rất lớn cho môi
trường; đồng thời định hướng công tác bảo vệ môi trường ở nước ta giai đoạn
đến năm 2020 nhấn mạnh quan điểm: “Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của
toàn xã hội, của các cấp, các ngành, các tổ chức, cộng đồng và mọi người
dân; bảo vệ môi trường mang tính quốc gia, khu vực và toàn cầu, cho nên
phải kết hợp giữa phát huy nội lực với tăng cường hợp tác quốc tế”[4]. Dự án
chiến lược cũng đưa ra các mục tiêu cụ thể về tỉ lệ các cơ sở sản xuất xử lý
chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường, tỉ lệ hộ gia đình và doanh nghiệp có dụng
cụ phân loại rác tại nguồn, tỉ lệ các khu công cộng có thùng gom rác, tỉ lệ các
khu công nghiệp tập trung có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu
chuẩn, tỉ lệ thu gom chất thải các loại... trong lộ trình từ nay đến năm 2020.
Văn Thông (2011), Hợp tác xã dịch vụ vệ sinh môi trường Minh Tân:
Tạo việc làm cho nhiều lao động nữ, Tạp chí Văn hóa, thể thao và du lịch Hải
Dương. Theo tác giả, nhờ năng động tìm kiếm những công việc phù hợp, đến
nay, HTX dịch vụ vệ sinh môi trường Minh Tân đã tạo việc làm thường xuyên
7
cho 130 lao động, trong đó hơn 80% là lao động nữ, với mức thu nhập từ 2 - 4
triệu đồng/người/tháng và được đóng bảo hiểm đầy đủ. Người lao động trong
HTX hầu hết là lao động tự do hoặc làm nông nghiệp tại địa phương. Nhiều
người có hoàn cảnh khó khăn, Ban quản lý HTX đều giúp đỡ như: cho ứng trước
tiền lương, hỗ trợ gạo ăn..., có gia đình được HTX tạo việc làm cho cả 3 lao
động; những trường hợp người lao động ốm đau, tai nạn, tứ thân phụ mẫu qua
đời, Ban quản lý HTX đều tổ chức thăm hỏi, chia sẻ động viên kịp thời [28].
Lê Minh Hạnh (2011), Hợp tác xã dịch vụ môi trường Nam Sách hoạt
động có hiệu quả, Tạp chí Văn hóa, thể thao và du lịch Hải Dương. Theo tác
giả: sau hơn 4 năm đi vào hoạt động, HTX dịch vụ môi trường thị trấn Nam
Sách đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho cộng đồng dân cư. Ngay từ khi
thành lập, HTX dịch vụ môi trường thị trấn đã phối hợp với các ban, ngành,
đoàn thể trên địa bàn thị trấn tuyên truyền, vận động được trên 700 gia đình
đăng ký đổ rác tập trung. Đến nay, 70% số gia đình và hầu hết các cơ quan
đóng trên địa bàn thị trấn đổ rác tập trung. Trung bình mỗi ngày, HTX thực
hiện thu gom 5 tấn rác thải các loại. Vào mỗi dịp lễ, tết, lượng rác được thu
gom một ngày có thể lên tới 9 - 10 tấn. Các xã viên của HTX đều tích cực làm
việc trung bình hơn 8 giờ trong ngày. Một bộ phận chị em được phân công đi
theo xe ô tô dọc tuyến phố chính để thu gom rác; một bộ phận dùng xe đùn
tay đi vào từng ngõ xóm thu gom rác. Từ khi có HTX dịch vụ môi trường đến
nay, trên địa bàn thị trấn Nam Sách không còn những tụ điểm về rác lớn, gây
bức xúc trong nhân dân như những năm trước. Các tụ điểm rác ở đầu cầu Mạc
Thị Bưởi hay khu vực chợ đã được giải tỏa. Các gia đình trên địa bàn thị trấn
đều phấn khởi và tích cực tham gia vào việc giữ gìn vệ sinh môi trường, hạn
chế vứt rác bừa bãi, góp phần làm cho cảnh quan đường phố, các ngõ, xóm
của thị trấn ngày một Xanh - Sạch - Đẹp [19].
Sơn Tùng (2013), Hợp tác xã dịch vụ vệ sinh môi trường, mô hình cần
nhân rộng, Báo Hà Nội mới ngày 29.4.2013, tr.1. Bài báo đã phản ánh trong
8
thời gian qua, nhiều hợp tác xã dịch vụ môi trường đã được thành lập, không
ít mô hình thí điểm về quản lý và xử lý môi trường đã thành công. Các hợp
tác xã góp phần đáng kể vào việc đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi
trường, huy động sức mạnh và ý thức của người dân trong bảo vệ môi trường
sống. Hiện cả nước có 19.500 hợp tác xã trong đó có 274 hợp tác xã dịch vụ
môi trường bao gồm 154 hợp tác xã chuyên về môi trường (cung cấp nước
sạch, thu gom và xử lý rác thải) và 120 hợp tác xã tham gia hoạt động bảo vệ
môi trường. Nhiều mô hình hợp tác xã hoạt động rất hiệu quả như hợp tác xã
Môi trường Thành Công (Hà Nội), hợp tác xã Nước sạch Bình Tây (Tiền
Giang), hợp tác xã Môi trường Hiệp Hòa, hợp tác xã Môi trường Đồng Lợi
(Bắc Giang), HTX Chí Linh (Hải Dương)... Những hợp tác xã này đã góp
phần quan trọng vào giảm thiểu ô nhiễm môi trường và phát triển kinh tế - xã
hội bền vững trên địa bàn [29].
Đặng Văn Sánh (2013), “Vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam
trong hoạt động dịch vụ môi trường” Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện chính
trị. Tác giả đã luận giải cơ sở lý luận thực tiễn về vai trò của Quân đội nhân
dân trong hoạt động dịch vụ môi trường, trên cơ sở đó đã đề xuất các quan
điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy lực lượng có nhiều ưu thế
này tham gia phát triển dịch vụ môi trường, góp phần bảo đảm cho phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước một cách bền vững [26].
Vũ Văn Tự (2013), “Dịch vụ môi trường trên địa bàn tỉnh Hải
Dương” Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện chính trị. Tác giả đã luận
giải làm rõ các quan niệm Quan niệm, phân ngành và vai trò dịch vụ môi
trường trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Đánh giá thực trạng về thực trạng dịch vụ
môi trường trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian qua. Trên cơ sở đó đã
đề xuất các quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển dịch vụ
môi trường trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian tới [30].
9
Nguyễn Khả Minh (2014), “Vai trò vốn với dịch vụ môi môi trường
của quỹ bảo vệ môi trường Hà Nội” Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học
viện chính trị. Tác giả đã luận giải làm rõ các quan niệm về vốn, vốn của Quỹ
Bảo vệ môi trường Hà Nội và các nhân tố ảnh hưởng đến vai trò vốn với dịch vụ
môi trường của Quỹ Bảo vệ môi trường Hà Nội. Đánh giá thực trạng về vai trò
của vốn với dịch vụ môi trường của Quỹ Bảo vệ môi trường Hà Nội trong thời
gian qua. Trên cơ sở đó đã đề xuất các quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy vai trò của vốn với dịch vụ môi trường của Quỹ Bảo vệ môi
trường Hà Nội trong thời gian tới [23].
Phương Hà (2015), Hiệu quả từ mô hình hợp tác xã dịch vụ môi
trường, Báo điện tử Tỉnh Phú Thọ ngày 6.7.2015, tr.1. Bài báo đã phản ánh
cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển nông nghiệp, chăn nuôi, làng
nghề, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đã tạo ra sản lượng nông nghiệp tăng
dần theo thời gian. Tuy nhiên, cùng với việc đời sống nhân dân từng bước
được cải thiện, bộ mặt nông thôn thay đổi theo hướng tích cực thì các vấn đề
về ô nhiễm môi trường từ chất thải sinh hoạt, phân bón, thuốc trừ sâu và các
nguồn chất thải từ trồng trọt và chăn nuôi cũng là mặt trái của sự phát triển
này. Tình trạng người dân đổ các loại rác thải và vứt xác gia súc, gia cầm chết
trực tiếp ra môi trường đang diễn ra phổ biến tại nhiều vùng nông thôn, trong
khi đó, việc thu gom, xử lý còn là vấn đề khá nan giải,… Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này, song phổ biến nhất là do ở nhiều địa phương
thiếu bãi rác, thiếu các dịch vụ vệ sinh môi trường nên người dân tự “quy
hoạch” bãi rác ngay bên lề đường, bụi rậm, kênh mương,.. một số nơi địa bàn
dân cư rộng, phân bố không tập trung cũng gây trở ngại cho việc triển khai
thu gom; bên cạnh đó, ý thức tự giác của người dân về bảo vệ môi trường
chưa cao, mọi người vứt rác bất cứ đâu có thể. Trong lúc nhiều địa phương
đang lúng túng xử lý rác thải thì giải quyết vấn đề này, nhiều địa phương đã
lựa chọn, phát triển mô hình hợp tác xã làm dịch vụ vệ sinh môi trường. Đây
là mô hình dựa vào cộng đồng, phục vụ cộng đồng, phát huy sức mạnh của
10
cộng đồng xã hội, sử dụng lao động tại chỗ, được đông đảo nhân dân ủng hộ,
hiệu quả đem lại rất to lớn đáng ghi nhận [17].
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
văn, song cho đến nay vấn đề phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn Quận
Hà Đông, Thành phố Hà Nội chưa có công trình nghiên cứu nào được công
bố. Do đó, đề tài không trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển dịch vụ môi trường
trên địa bàn Quận Hà Đông, thành phố Hà Nội và đề xuất quan điểm, giải
pháp phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn Quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển dịch vụ môi
trường trên địa bàn Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội.
Đánh giá đúng thành tựu và hạn chế phát triển dịch vụ môi trường trên
địa bàn Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội xác định nguyên nhân thành tựu,
hạn chế và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển dịch vụ môi trường trên địa
bàn Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển dịch vụ môi trường
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến phát triển dịch vụ
môi trường, trong đó tập trung nghiên cứu về phát triển, quy mô, trình độ và
cơ cấu dịch vụ môi trường.
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu khảo sát từ năm 2010 đến
năm 2015.
11
Về không gian: Nghiên cứu phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn
Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội,
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của
nhà Nước ta về phát triển dịch vụ môi trường trong quá trình phát triển bền
vững của đất nước.
* Cơ sở thực tiễn: Đề tài dựa trên cơ sở thực tiễn phát triển dịch vụ
môi trường của quận Hà Đông, các tư liệu, số liệu của các cơ quan chức năng
của quận Hà Đông để đưa các nhận định đánh giá, xác định nguyên nhân, đề
xuất các quan điểm, giải pháp phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn quận
Hà Đông trong thời gian tới.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế
chính trị Mác - Lênin: trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc và lịch sử, phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài được thực hiện thành công góp phần cung cấp cơ sở khoa học
cho việc phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn Quận Hà Đông và các
Quận, Huyện thuộc Thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo
nghiên cứu khoa học, giảng dạy môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin ở các nhà
trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài kết cấu thành 3 chương, (6 tiết).
12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG TRÊN ĐỊA
BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề chung về dịch vụ môi trường
1.1.1. Quan niệm, đặc điểm về dịch vụ môi trường
* Quan niệm về dịch vụ môi trường
Ngành DVMT đã xuất hiện từ lâu ở nhiều quốc gia cũng như ở Việt
Nam, song đến nay quan niệm về DVMT chưa có sự thống nhất. Tổ chức
Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) quan niệm về DVMT như sau: “Dịch
vụ môi trường là những dịch vụ được cung cấp nhằm quản lý, phòng ngừa,
hạn chế, giảm thiểu hoặc khắc phục những thiệt hại về môi trường nước,
không khí, đất, cũng như giải quyết những vấn đề liên quan đến chất thải,
tiếng ồn và hệ sinh thái” [4, tr.20].
Cộng đồng châu Âu (EU) quan niệm DVMT bao gồm toàn bộ vòng đời
sử dụng nước và bảo vệ nguồn nước, bảo tồn cảnh quan, hệ sinh thái và đa
dạng sinh học.
Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD)
quan niệm DVMT bao hàm 4 nhóm ngành chính: Dịch vụ hạ tầng môi trường
(cốt lõi), gồm quản lý nước và quản lý chất thải; các dịch vụ thiết kế, xây
dựng, lắp đặt, vận hành; các dịch vụ phục hồi, gồm làm sạch địa điểm, phản
ứng khẩn cấp đối với các sự cố, phục hồi, đánh giá tác động; các dịch vụ hỗ
trợ môi trường, gồm phân tích, luật pháp, tham vấn, kiểm toán, nghiên cứu và
phát triển [4, tr.21].
Một số quốc gia thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đưa
ra quan niệm riêng về DVMT. Hoa Kỳ quan niệm DVMT là các hoạt động
dịch vụ tạo ra doanh thu, liên quan đến việc tuân thủ các quy định về môi
trường, đánh giá môi trường, phân tích môi trường, bảo vệ môi trường, kiểm
soát ô nhiễm, quản lý chất thải, phục hồi môi trường, cung cấp và các tài
13
nguyên môi trường như nước, vật liệu có thể tái sinh, và năng lượng; và các
hoạt động cải thiện hiệu quả năng lượng và tài nguyên, tăng năng suất, hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế bền vững.
Ở Việt Nam cùng với quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, đồng thời phải đối mặt với các vấn đề môi trường nảy sinh đã
đặt ra yêu cầu cấp thiết phải phát triển DVMT. Trong Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011), cũng đã sử dụng thuật ngữ “phát
triển các dịch vụ môi trường” [11, tr.137].
Như vậy, dịch vụ môi trường là một bộ phận của kinh tế dịch vụ, là các
hoạt động dịch vụ có quan hệ chặt chẽ với môi trường, nhằm mục đích bảo
vệ, giữ gìn, cung cấp điều kiện môi trường tự nhiên thuận lợi cho phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ sức khỏe cộng đồng dân cư. Do đó, có thể quan
niệm dịch vụ môi trường đó là: “Dịch vụ môi trường là một phân ngành của
khu vực kinh tế dịch vụ bao gồm các hoạt động dịch vụ nhằm bảo vệ và tạo
điều kiện thuận lợi về môi trường tự nhiên cho phát triển kinh tế - xã hội và
đời sống dân cư”
* Phân ngành dịch vụ môi trường
Trên cơ sở quan niệm trên và căn cứ vào các văn bản pháp quy:
Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT ngày 26 tháng 12 năm 2006 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường về “hướng dẫn điều kiện hành nghề về thủ tục lập
hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại”[2].
Căn cứ vào hoạt động thực tiễn của ngành dịch vụ môi trường ở nước ta trong
thời gian qua có thể xác định dịch vụ môi trường bao gồm các hoạt động dịch
vụ chủ yếu sau:
Dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải: Đây là các dịch vụ xử lý nước
thải, nước bị ô nhiễm nhằm đưa nước ra môi trường ở một mức độ chấp nhận.
Dịch vụ này không bao gồm việc thu gom, làm sạch và phân phối nước,
không bao gồm việc xây dựng, sửa chữa và điều chỉnh các loại cống thoát.
14
Dịch vụ thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải, tái chế phế liệu: là các
dịch vụ về rác thải, như vận chuyển, xử lý, tái chế… dịch vụ này không bao
gồm việc buôn bán các loại chất thải và phế liệu hoặc các hoạt động nghiên
cứu có liên quan.
Dịch vụ quan trắc và đánh giá tác động môi trường đối với các dự án
phát triển kinh tế - xã hội: dịch vụ này cung cấp kết quả quan trắc tài nguyên
môi trường (đất, nước, không khí, chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nguy hại)
nhằm cung cấp có hệ thống, đầy đủ các thông tin về hiện trạng các thành phần
môi trường trên địa bàn tỉnh, thành và các quận, huyện để giúp các cơ quan
quản lý kịp thời đưa ra các hành động, chính sách nhằm ngăn ngừa suy thoái
môi trường và tác động đến các dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
và của quốc gia.
* Đặc điểm về dịch vụ môi trường
Thứ nhất, dịch vụ môi trường có đầy đủ các đặc điểm của các ngành
dịch vụ nói chung: sản phẩm là hàng hóa phi vật chất, không có chất lượng
đồng nhất, không lập kho để lưu trữ như những hàng hóa vật chất thông
thường khác; sản xuất và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời, không tách rời.
Dịch vụ môi trường đòi hỏi sử dụng nhiều lao động. Đặc biệt là những ngành
thu gom, xử lý chất thải cần rất nhiều lao động để có thể hoạt động rộng rãi
trên các địa bàn dân cư, cũng như các cơ sở sản xuất kinh doanh và các công
sở. Nhờ có đặc điểm này mà dịch vụ môi trường cũng là một trong những
ngành góp phần giải quyết vấn đề công ăn việc làm, thu nhập cho xã hội.
15
Thứ hai, dịch vụ môi trường mang tính chất của một dịch vụ công. Bảo
đảm điều kiện về môi trường sống có tính chất là nhu cầu chung của toàn xã
hội, do đó dịch vụ môi trường mang tính chất của một dịch vụ công. Đặc điểm
này cho thấy vai trò rất quan trọng của khu vực kinh tế nhà nước đối với dịch
vụ môi trường; đối với những dịch vụ môi trường, ở những nơi mà các thành
phần kinh tế khác không muốn, hoặc không có điều kiện tham gia sản xuất
kinh doanh thì phải do khu vực kinh tế nhà nước đảm nhiệm, hoặc phải do nhà
nước đầu tư, nên vai trò của nhà nước là rất quan trọng đối với dịch vụ môi
trường, nhất là đối với những dịch vụ môi trường đòi hỏi đầu tư lớn.
Thứ ba, dịch vụ môi trường thường diễn ra trong điều kiện môi trường có
độ độc hại, nguy hiểm cao. Hầu hết các dịch vụ môi trường, như thu gom, xử lý
chất thải, khắc phục sự cố môi trường,... diễn ra trong điều kiện môi trường có
độ độc hại, nguy hiểm cao. Đặc điểm này đòi hỏi rất cao đối với công tác bảo hộ
môi trường trong hoạt động dịch vụ môi trường và vấn đề thực hiện chế độ,
chính sách ưu đãi đối với người lao động trong các ngành dịch vụ môi trường.
Thứ tư, hiệu quả sản xuất kinh doanh dịch vụ môi trường biểu hiện trên
nhiều mặt, cả trước mắt và lâu dài. Do phạm vi tác động, ảnh hưởng cũng như
lợi ích mà các hoạt động dịch vụ môi trường mang lại rất rộng rãi và lâu dài trên
nhiều lĩnh vực. Do vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh dịch vụ môi trường là rất
rộng lớn, không chỉ là doanh thu, lợi nhuận mà còn biểu hiện trên nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội.
1.1.2. Vai trò dịch vụ môi trường đối với phát triển kinh tế - xã hội
Dịch vụ môi trường ngày càng trở nên quan trọng đối với phát triển
kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước và đối với các địa phương được biểu
hiện ở các vai trò cụ thể sau:
Một là, phát triển dịch vụ môi trường góp phần to lớn trong việc thực
hiện mục tiêu bảo vệ môi trường của quốc gia và của từng địa phương.
Phát triển dịch vụ môi trường sẽ giúp cho chúng ta ngăn ngừa và giảm
thiểu ô nhiễm môi trường do tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
16
hóa đất nước thông qua các hoạt động như xử lý khí thải, nước thải, các dịch
vụ tư vấn môi trường…, những lợi ích mà các dịch vụ môi trường thực hiện
giúp ngăn ngừa, cắt giảm hay khắc phục sự suy thoái môi trường, thay đổi khí
hậu ngày càng được coi trọng trong việc đảm bảo giải quyết các vấn đề môi
trường. Đây là một cách giải quyết đúng đắn góp phần ngăn ngừa và hạn chế
những hiểm hoạ trong tương lai của đất nước và của từng địa phương.
Đối với môi trường đất, đặc biệt là đất khu vực các khu công nghiệp
trong thời gian dài, dưới ảnh hưởng của dầu mỡ tích tụ, bãi rác thải, xỉ thải,
nước thải, bụi đất, các hóa chất… sẽ làm cho đất bị thoái hóa, suy giảm chất
lượng, chứa chất ô nhiễm, hậu quả lâu dài là cuộc sống, sức khỏe của con
người và sinh vật bị đe dọa. Như vậy, sẽ gây ra chi phí trong tương lai cho xã
hội trong việc cải tạo đất nông nghiệp, chi phí khám chữa bệnh và chi phí xã
hội khác cho những người bị bệnh mất khả năng lao động. Sự phát triển của
dịch vụ môi trường sẽ giúp cho ngăn ngừa và giảm thiểu ô nhiễm đất bằng
những biện pháp quản lý chặt chẽ, thu gom tập trung và xử lý theo giây
chuyền bằng công nghệ hiện đại.
Đối với môi trường không khí, dưới tác động của bụi đất, bụi cát trong
quá trình vận chuyển, thi công, xây dựng các công trình trên các địa bàn thuộc
phạm vi cả nước; dưới tác động do khí thải đốt nhiên liệu (xăng, dầu) của các
phương tiện vận tải, máy móc, khí thải của các nhà máy và các cơ sở sản xuất
kinh doanh; dưới tác động của ô nhiễm do tiếng ồn, độ rung từ các máy móc thi
công xây dựng…. Như vậy, phát triển dịch vụ môi trường là yêu cầu bức thiết, là
những đòi hỏi chính đáng mà thực tiễn đặt ra để giải quyết ô nhiễm môi trường
không khí trên địa bàn cả nước và từng địa phương hiện nay. Từ thực tế, đặt ra
cho các nhà quản lý của quốc gia và từng địa phương cùng các cơ quan ban
ngành, doanh nghiệp môi trường cần phải có những biện pháp tích cực, các
chính sách ưu đãi để đầu tư cho dịch vụ môi trường phát triển.
Đối với môi trường nước, các loại bụi, khí thải cũng có thể được hấp
thụ vào môi trường nước mặt, khiến cho nồng độ các chất lơ lửng và chất hóa
17
học trong nước tăng. Các chất thải rắn, chất thải nguy hại từ các nhà máy
trong khu công nghiệp nếu không được chôn lấp, xử lý đúng cách thì sẽ khiến
các chất ô nhiễm trong các chất thải rắn này được hấp thụ vào môi trường đất
và nước ngầm làm ô nhiễm môi trường nước của khu vực trong ngắn hạn và
trong lâu dài, bên cạnh đó còn tồn tại tập quán sinh hoạt của người dân vứt bỏ
rác, xả thẳng tạp chất từ các chuồng trại, nhà vệ sinh ra môi trường…
Như vậy, phát triển dịch vụ môi trường được xuất phát từ đòi hỏi thực
tiễn của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa của đất nước và
của từng địa phương đặt ra. Nó có vai trò to lớn đến công cuộc gìn giữ và bảo
vệ môi trường của quốc gia nói chung và của từng địa phương nói riêng.
Hai là, phát triển dịch vụ môi trường góp phần thúc đẩy các ngành,
các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác phát triển.
Phát triển dịch vụ môi trường thường được phát triển song song với các
sản phẩm hàng hóa của các ngành kinh tế khác và góp phần hỗ trợ một cách tích
cực cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn về
môi trường từ đó nâng cao uy tín thương hiệu của sản phẩm. Bên cạnh đó, tất cả
các sản phẩm hàng hóa của các ngành kinh tế khi xuất khẩu vấn đề quan trọng
nhất là phải tuân thủ các tiêu chuẩn về môi trường của các nước nhập khẩu, như
là thực phẩm và thuỷ sản của ngành nông nghiệp; hàng dệt may, giày dép của
ngành công nghiệp; lâm sản và một vài sản phẩm công nghiệp và thủ công.
Do đó, Các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp luôn luôn đề cao sản
phẩm từ dịch vụ môi trường cung cấp và lợi ích kinh tế mà chúng mang lại
tác động đến các ngành, các lĩnh vực khác trong đời sống văn hóa - xã hội.
Các sản phẩm công nghệ thân thiện với môi trường cũng ngày càng trở nên đa
dạng không chỉ công nghệ trực tiếp có lợi cho môi trường mà còn có sự tham
gia của công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ phần mềm
quản lý và tổ chức, và hầu hết tất cả các thành tựu khoa học các ngành và lĩnh
vực công nghiệp, những cố gắng đó đã xuất hiện một thị trường sản phẩm
công nghệ môi trường với quy mô rộng mở và khả năng đáp ứng ngày càng
18
gia tăng. Điều này sẽ tác động mạnh mẽ đến việc thu hút một nguồn lực lao
động mới tham gia bên cạnh lực lượng lao động sẵn có hiện nay.
Ba là, dịch vụ môi trường góp phần hiện thực hóa chủ trương “xã hội
hóa công tác bảo vệ môi trường”của Đảng và Nhà nước.
Phát triển dịch vụ môi trường của quốc gia và của từng địa phương sẽ
huy động sự tham gia của toàn xã hội trên các địa bàn, trên các vùng miền
vào công tác bảo vệ môi trường, hiện thực hóa chủ trương “xã hội hóa” công
tác bảo vệ môi trường của Đảng và Nhà nước; đồng thời góp phần giảm gánh
nặng cho ngân sách Nhà nước, tạo nguồn thu tài chính đáng kể trong xã hội
cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Các ngành, các địa phương thực hiện
xã hội hóa dịch vụ môi trường như là một “giải pháp” cho cải cách việc cung
ứng các dịch vụ công ích gắn liền với bảo vệ môi trường. Như vậy, vai trò
cung ứng dịch vụ của các đối tượng sẽ có sự thay đổi: chuyển từ sự độc quyền
của Nhà nước sang hướng mở rộng cung ứng các dịch vụ này ra ngoài khu
vực Nhà nước nhằm tập hợp nguồn lực của xã hội để cùng thực hiện mục tiêu
cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ công. Phá bỏ sự độc quyền, bao cấp của
Nhà nước một mặt sẽ giảm tải được gánh nặng cho các cơ quan công quyền, mặt
khác huy động được các nguồn lực trong xã hội. Chính vì thế, khu vực kinh tế tư
nhân, loại hình hợp tác xã dịch vụ môi trường có nhiều cơ hội tiếp cận, đầu tư và
phát triển; hơn nữa, xã hội hóa dịch vụ môi trường còn được hiểu là quá trình để
mọi người được tham gia bình đẳng vào môi trường lành mạnh, được thụ hưởng
những lợi ích công bằng do dịch vụ môi trường đem lại.
Bốn là, dịch vụ môi trường tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và đảm
bảo công bằng trong phát triển bền vững trên phạm vi cả nước và của từng
địa phương.
Sự phát triển các hoạt động dịch vụ môi trường sẽ kéo theo một nguồn lực
lao động lớn trên phạm vi cả nước và của từng địa phương, bên cạnh tạo công ăn
việc làm, tăng thu nhập cho người dân trên địa bàn, các doanh nghiệp dịch vụ
19
môi trường còn tổ chức đào tạo nghề cho công nhân kỹ thuật, nhờ đó mặt bằng
chung trình độ của người lao động trên địa bàn được nâng cao.
Chất lượng cuộc sống của người dân được cải thiện và nâng cao do
dịch vụ môi trường phát triển, từ đó tạo ra hiệu ứng tích cực đối với các
ngành kinh tế khác của đất nước và từng địa phương như: nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ phát triển. Các ngành, các cấp, các địa phương trong thời gian
gần đây đã quan tâm đầu tư cho phát triển ngành dịch vụ môi trường và công
nghiệp môi trường ngày càng gia tăng chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng đầu
tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như của từng địa phương. Vì
vậy, đất nước cũng như từng địa phương phải cần đến một lực lượng lớn lao
động để đáp ứng cho ngành dịch vụ môi trường phát triển và đáp ứng chi trả
lương cho người lao động phù hợp với môi trường thường có độc hại cao.
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố tác động
đến phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn Quận
Hà Đông
1.2.1. Quan niệm, nội dung phát triển dịch vụ môi trường trên địa
bàn Quận Hà Đông
* Quan niệm về phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông
Tiếp cận theo quan niệm chung nhất thì phát triển là quá trình vận động
biến đổi, tiến lên từ thấp đến cao, từ giản đơn giản đến phức tạp, từ ít thành
nhiều, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của sự vật, hiện tượng.
Tiếp cận dưới góc độ kinh tế: Thì phát triển kinh tế là sự gia tăng về
quy mô, chất lượng và thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý. Tuy nhiên,
tùy theo phạm vi phát triển kinh tế của các ngành kinh tế ở từng địa phương
hoặc trên phạm vi quốc gia, có những nội hàm cụ thể về chủ thể lãnh đạo,
quản lý, lực lượng tham gia, cũng như về nội dung phát triển kinh tế trên từng
địa phương cũng có sự khác nhau.
20
Từ những quan niệm chung như trên, chúng ta có thể hiểu phát triển dịch
vụ môi trường là làm cho quy mô và chất lượng dịch vụ môi trường ngày càng
tăng lên với một cơ cấu dịch vụ môi trường hợp lý. Vì vậy, có thể quan niệm
phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn Quận Hà Đông như sau: Phát triển
dịch vụ môi trường trên địa bàn Quận Hà Đông là hoạt động có mục đích của
Đảng, Chính quyền, của các thành phần kinh tế, các lực lượng trên địa bàn
Quận nhằm làm tăng quy mô, chất lượng và xây dựng hợp lý về cơ cấu các loại
hình dịch vụ môi trường đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội bền vững
của Quận Hà Đông.
Như vậy, mục đích của phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn Quận
Hà Đông hiện nay là: Nhằm làm tăng quy mô, chất lượng và xây dựng hợp lý
về cơ cấu các loại hình dịch vụ môi trường đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội bền vững của Quận Hà Đông
Chủ thể và lực lượng tham gia phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn
Quận Hà Đông hiện nay gồm: Chủ thể trực tiếp lãnh đạo, quản lý phát triển dịch
vụ môi trường trên địa bàn Quận Hà Đông là cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền
các cấp của Quận Hà Đông. Trong đó cấp ủy, tổ chức đảng các cấp có vai trò đề
ra chủ trương, định hướng, giải pháp phát triển dịch vụ môi trường; chính quyền
các cấp xác định mục tiêu, kế hoạch phát triển dịch vụ môi trường và tổ chức thực
hiện. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo, quản
lý của cấp ủy đảng và chính quyền các cấp của quận Hà Đông đối với phát triển
dịch vụ môi trường phải trên cơ sở nhận thức các quy luật kinh tế khách quan; chủ
trương, chính sách phát triển dịch vụ môi trường phải phù hợp điều kiện thực tế và
tiềm năng, thế mạnh của Quận.
Lực lượng tham gia phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn Quận Hà
Đông hiện nay bao gồm: Lực lượng thuộc các thành phần kinh tế trên địa bàn
Quận và các lực lượng thuộc các thành phần kinh tế ngoài Quận. Tuy nhiên
21
đại đa số là ở trên địa bàn Quận. Hiện nay, lực lượng thuộc các thành phần
kinh tế trên địa bàn bao gồm hệ thống các doanh nghiệp, các cơ sở, lực lượng
lao động tại chỗ đóng vai trò nòng cốt, chủ yếu.
Phương thức phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn Quận Hà Đông
hiện nay: Thông qua phương thức đầu tư là chủ yếu. Tuy nhiên, trong đầu tư
phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn Quận Hà Đông hiện có thể kết hợp
các phương thức khác nhau; vừa tăng cường đầu tư vốn theo hướng phát triển
thêm những cơ sở dịch vụ mới, vừa đầu tư theo hướng nâng cấp, mở rộng qui
mô các cơ sở dịch vụ kinh doanh đã có.
* Nội dung phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông hiện nay
Căn cứ vào quan niệm về phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn
Quận Hà Đông, từ đó xác định nội dung phát triển dịch vụ môi trường trên địa
bàn Quận Hà Đông hiện nay bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Một là, mở rộng quy mô dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông.
Mở rộng quy mô dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông thực chất
là phát triển dịch vụ môi trường về chiều rộng, biểu hiện ở việc gia tăng các
hoạt động dịch vụ môi trường đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn quận.
Việc mở rộng quy mô, tăng cường các dịch vụ môi trường trên địa bàn
quận Hà Đông bao gồm nội dung đầu tư, nâng cấp, mở rộng năng lực cung
cấp dịch vụ của các cơ sở, doanh nghiệp môi trường hiện có trên địa bàn quận
và đầu tư phát triển thêm các cơ sở, doanh nghiệp môi trường mới.
Hai là, nâng cao chất lượng dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà
Đông.
Nâng cao chất lượng dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông được
hiểu đó là những hoạt động đầu tư nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ môi trường
lên mức cao hơn trước nhằm thỏa mãn các nhu cầu của đối tượng phục vụ và đem
22
lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp và của địa phương. Thực chất của nâng cao
chất lượng dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông hiện nay là phát triển
dịch vụ môi trường của quận theo chiều sâu và ngày càng hiệu quả hơn.
Nâng cao chất lượng dịch vụ môi trường là nội dung rất quan trọng trong
quá trình phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông hiện nay. Bởi
vì: Thứ nhất, chất lượng phục vụ, dịch vụ luôn là nhân tố quan trọng bậc nhất
tạo nên uy tín, thương hiệu, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường; Thứ hai, nâng cao chất lượng
phục vụ, dịch vụ là biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả hoạt động của
các doanh nghiệp dịch vụ môi trường, kết hợp lợi ích của cơ sở, doanh nghiệp
với các đối tượng phục vụ và xã hội.
Phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông theo chiều
sâu được biểu hiện trên các nội dung chủ yếu sau:
- Nâng cao khả năng ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên
tiến vào quá trình cung cấp dịch vụ môi trường nhằm giảm chi phí đầu vào và
nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng nhu cầu của các đối tượng phục vụ.
- Hợp lý hóa các hoạt động nhằm tiết kiệm chi phí về lao động, vốn đầu
tư trong hoạt động dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông; đồng thời
xây dựng sự liên kết giữa các cơ sở, doanh nghiệp trong ngành và giữa ngành
dịch vụ môi trường với các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhằm
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các đối tượng phục vụ.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh về dịch vụ môi trường của các doanh
nghiệp trên địa bàn quận Hà Đông bao gồm nâng cao năng lực cạnh trạnh về
sản phẩm dịch vụ, năng lực cạnh trạnh của các doanh nghiệp, cơ sở dịch vụ
môi trường và năng lực cạnh tranh về môi trường đầu tư về dịch vụ môi
trường trên địa bàn quận Hà Đông.
- Nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của hoạt động dịch vụ môi trường
trên địa bàn quận Hà Đông.
23
Ba là, xây dựng cơ cấu dịch vụ môi trường trên địa bàn Hà Đông hợp lý.
Xây dựng cơ cấu dịch vụ môi trường trên địa bàn Hà Đông hợp lý là nội
dung quan trọng trong phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn Hà Đông hiện
nay. Cơ cấu dịch vụ môi trường hợp lý là sự cân đối về cơ cấu ngành và cơ
cấu thành phần phù hợp với tiềm năng, thế mạnh và phát huy tối đa các nguồn
lực, tạo ra sự tác động thúc đẩy lẫn nhau giữa các ngành và thành phần kinh tế
trong quá trình phát triển dịch vụ môi trường của quận Hà Đông.
Xây dựng cơ cấu dịch vụ môi trường hợp lý trên địa bàn quận Hà Đông
biểu hiện trên các nội dung chủ yếu sau:
- Xây dựng dịch vụ môi trường hợp lý về cơ cấu ngành: Xét trên phạm
vi quận Hà Đông, hoạt động dịch vụ môi trường bao gồm một số phân ngành chủ
yếu như: Dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải; Dịch vụ thu gom, xử lý và
tiêu hủy rác thải, tái chế phế liệu; Dịch vụ quan trắc và đánh giá tác động môi
trường đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận.
Các phân ngành dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông có quan hệ
rất chặt chẽ với các ngành khác, như: xây dựng, công nghiệp, giao thông vận tải, y
tế, quy hoạch đô thị, tài nguyên môi trường, khoa học và công nghệ v.v..Vì vậy,
đòi hỏi các ngành trên địa bàn Quận phải được phát triển đồng bộ, cân đối
nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng ngành và của toàn Quận trong
phát triển kinh tế - xã hội và đem lại hiệu quả cao. Nếu các ngành trên địa bàn
Quận không được phát triển một cách đồng bộ và cân đối thì việc hoạt động
của từng ngành sẽ không hiệu quả và gặp khó khăn. Như: khi triển khai phát
triển các dự án xây dựng đường giao thông, các khu, cụm công nghiệp, đô thị
mới, làng nghề, bệnh viện...phải đồng thời triển khai thực hiện có hiệu quả đề
án bảo vệ môi trường, đánh giá tác động môi trường; quản lý và xử lý tốt môi
trường không khí, nước sinh hoạt, nước thải, chất thải tại các công trình, các
khu công nghiệp, các khu đô thị, làng nghề...gây ra bảo đảm an toàn cho đời
24
sống dân cư trên địa bàn và bảo đảm cho quận Hà Đông phát triển kinh tế - xã
hội một cách bền vững.
Đối với phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông về cơ
cấu ngành cần tập trung vào phát triển một số phân ngành chủ yếu sau:
Quan trắc và đánh giá tác động môi trường: Tập trung phát triển các
dịch vụ theo dõi xây dựng dữ liệu về hiện trạng môi trường, dịch vụ dự báo
diễn biến các vấn đề môi trường phát sinh, cập nhật so sánh dữ liệu, tư vấn
các hướng giải quyết cải thiện môi trường trên địa bàn quận.
Dịch vụ cấp nước sạch và xử lý nước thải: Đối với dịch vụ cấp nước
sạch chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác nguồn nước sạch có hiệu
quả, kiểm soát và điều phối cung cấp nước một cách kịp thời và hợp lý phục
tốt cho sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn. Đối với xử lý nước thải sinh hoạt
tập trung xây dựng các khu xử lý nước thải tập trung cho từng địa bàn riêng rẽ
và khu xử lý nước thải của vùng đối với những địa điểm giao nhau phức tạp.
Dịch vụ thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải, tái chế phế liệu: khuyến
khích phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm từ nguồn
phế thải trong đó có cả chế biến phân bón từ rác hữu cơ. Đa dạng hóa cung
ứng dịch vụ tiến hành các biện pháp thu gom rác hiệu quả hơn như phân loại
rác thải tại nguồn. Đối với chất thải rắn nguy hại chủ yếu phát sinh từ sản xuất
công nghiệp và hoạt động y tế phải được quản lý kiểm soát chặt chẽ và giao
cho các doanh nghiệp đủ năng lực xử lý theo quy định của Nhà Nước.
Đối với dịch vụ cấp nước sạch đẩy mạnh xã hội hoá khâu đầu tư cơ sở
hạ tầng theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân hoạt động có hiệu
quả hơn các doanh nghiệp nhà nước trong khai thác nguồn nước cũng như
trong quản lý chống thất thoát nước. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò duy
trì những điểm khai thác nước quan trọng, cần thiết, kiểm soát chất lượng
nước cấp, điều phối mạng lưới cấp nước và là người cung cấp nước cuối cùng
cho mọi đối tượng tiêu thụ nước trên địa bàn. Đối với xử lý nước thải sinh
25
hoạt, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các hoạt động thông
qua các dự án quy mô lớn. Nhà nước cần xây dựng các khu xử lý nước thải
tập trung cho từng địa bàn riêng rẽ hoặc khu xử lý nước thải vùng đối với
những địa điểm giao nhau phức tạp, cải tạo các con sông dẫn nước trong
tỉnh/thành phố và các con sông liên tỉnh. Đối với dịch vụ xử lý nước thải quy
mô nhỏ như tại các gia đình, vẫn nên duy trì hình thức tham gia của tư nhân
cũng như các viện trường trung tâm nghiên cứu, tuy nhiên cần có biện pháp
đảm bảo doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đó không gây ra ô nhiễm môi trường
sau khi thực hiện dịch vụ.
Xây dựng dịch vụ môi trường hợp lý về cơ cấu thành phần:
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay, hoạt động dịch vụ môi trường ở thành phố Hà Nội nói chung và ở
quận Hà Đông nói riêng sẽ có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Xây dựng
dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông hiện nay hợp lý về thành phần
kinh tế, thực chất là xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp trong ngành
kinh tế dịch vụ môi trường.
- Xây dựng kinh tế dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông hợp lý
về cơ cấu thành phần còn biểu hiện ở việc huy động các thành phần kinh tế tham
gia vào lĩnh vực này một cách có hiệu quả, bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tham gia. Đồng thời,
phải phát huy vai trò của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể; xây dựng mối liên hệ,
liên kết chặt chẽ giữa các các tổ chức, doanh nghiệp trong phát triển kinh tế dịch
vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông.
1.2.2. Các nhân tố tác động đến phát triển dịch vụ môi trường trên
địa bàn quận Hà Đông
Sự phát triển dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông hiện nay
chịu sự tác động của nhiều yếu tố cả khách quan và chủ quan, trong đó nổi lên là
các nhân tố sau:
26
Một là, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên trên địa bàn quận Hà Đông.
Quận Hà Đông có toạ độ địa lý 20 059” vĩ độ Bắc, 105045” kinh độ
Đông, nằm giữa giao điểm của Quốc lộ 6 từ Hà Nội đi Hòa Bình và quốc lộ
70A. Hà Đông cũng là nơi khởi đầu của quốc lộ 21B, nối trung tâm Hà Nội
với các huyện phía nam của Thủ đô và tỉnh Hà Nam, tỉnh Ninh Bình. Trên địa
bàn Quận có sông Nhuệ, sông Đáy, kênh La Khê chảy qua, có diện tích tự
nhiên 4.833,7 ha và 17 đơn vị hành chính phường. Hà Đông là vùng đồng
bằng nên có địa hình đặc trưng của vùng bằng phẳng, độ chênh địa hình
không lớn, biên độ cao trình nằm trong khoảng 3,5 m - 6,8 m. Địa hình được
chia ra làm 3 khu vực chính: Khu vực Bắc và Đông sông Nhuệ; Khu vực Bắc
kênh La Khê; Khu vực Nam kênh La Khê. Với đặc điểm vị trí địa lý bằng
phẳng, cửa ngõ của Thủ đô, quận Hà Đông có điều kiện thuận lợi thực hiện
trong phát triển kinh tế - xã hội vùng. Đồng thời có tốc độ đô thị hóa mạnh
trong những năm gần đây đã tác mạnh mẽ đến bảo vệ môi trường nói chung
và hoạt động dịch vụ môi trường nói riêng.
Quận Hà Đông nằm trong nền chung của khí hậu miền Bắc Việt Nam
và nằm trong vùng tiểu khí hậu đồng bằng Bắc Bộ, chịu ảnh hưởng của gió
biển, khí hậu nóng ẩm và có mùa lạnh do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc,
với nhiệt độ trung bình năm là 23,80C, lượng mưa trung bình 1700 mm - 1800
mm. Đặc điểm khí hậu nhiệt đới, gió mùa nóng ẩm vào mùa hạ và lạnh khô
vào mùa đông đã tác động ảnh hưởng đến bảo vệ môi trường và hoạt động
dịch vụ môi trường trên địa bàn quận Hà Đông.
Sông Đáy là một con sông lớn ở miền Bắc Việt Nam, nó là con sông
chính của lưu vực sông Nhuệ - Đáy ở phía tây nam vùng châu thổ sông Hồng.
Sông Đáy có chiều dài khoảng 240 km chảy gọn trong các thành phố Hà Nội
và các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định với dòng sông chảy gần song
song bên hữu ngạn hạ lưu sông Hồng, đoạn chảy qua địa phận quận Hà Đông
có chiều dài khoảng 6 km. Sông Nhuệ tức Nhuệ Giang là một con sông nhỏ,
27