Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

HNGĐ nhóm : xác định cha, mẹ con trong trường hợp hôn nhân không hợp pháp ( 8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.27 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
Hiện nay, việc quan tâm, chăm sóc và bảo vệ trẻ em được coi là nhiệm vụ
hàng đầu.Trẻ em chỉ được phát triển một cách tốt nhất về cả thể chất và tinh thần
khi được sống trong một gia đình tốt, có đầy đủ cả cha và mẹ. Quyền được làm
cha, làm mẹ và quyền làm con là những quyền thiêng liêng, vì vậy việc xác định
cha, mẹ, con nói chung và trong trường hợp sinh con tự nhiên là nhằm xác định
quan hệ nhân thân và quan hệ huyết thống giữa các chủ thể trở nên vô cùng quan
trọng. Tuy nhiện, trong đời sống xã hội hiện nay, do sự hội nhập kinh tế, văn
hoá toàn cầu làm nảy sinh nhiều mặt trái xã hội như quan hệ tình dục trước hôn
nhân, sống thử,..dãn đến trường hợp nhiều trẻ em được sinh ra không biết bố mẹ
của mình là ai. Do đó để bảo vệ quyền trẻ em, pháp luật nước ta đã có những
quy định rất cụ thể trong việc xác định cha, mẹ, con và được hiện thực hoá
thông qua Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Để làm rõ vấn đề này, nhóm
chúng em xin chọn đề tài: XÁC ĐỊNH CHA MẸ CON TRONG TRƯỜNG HỢP
HÔN NHÂN KHÔNG HỢP PHÁP.

NỘI DUNG
I.
1.

KHÁI QUÁT CHUNG
Khái niệm.

Hiện nay, khái niệm xác định cha, mẹ, con có rất nhiều quan điểm và tồn tại
ở nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 (Điều 88
đến Điều 102) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định một cách cụ thể,
chi tiết, tạo hành lang pháp lý ổn định cho việc xác định cha, mẹ, con. Do đó,
xét dưới góc độ là một chế định pháp lý có thể đưa ra khái niệm xác định cha,
mẹ, con như sau: Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên là
một hành vi pháp lý do các cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp


1


luật có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thừa nhận hoặc không
thừa nhận quan hệ cha-con, mẹ-con về mặt pháp lý, nhằm làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con cái do người vợ
sinh đẻ và ngược lại.
Ngoài ra còn có một số khái niệm khác như:
Con chung của vợ chồng là con mà vợ chồng được xác định là cha mẹ của người
con đó
Con riêng là con của một bên vợ hoặc chồng trong mối quan hệ với chồng hoặc
vợ của họ.
2.

Ý nghĩa của việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự
nhiên.

a) Ý nghĩa xã hội
Trên cơ sở xã hội, việc xác định cha, mẹ, con xuất phát từ bản chất tự
nhiên của con người.
Việc xác định cha, mẹ, con là cơ sở đảm bảo cho việc nâng cao ý thức
trách nhiệm đối với gia đình giữa các thế hệ, tạo điều kiện cho việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của trẻ em. Việc xác định cha, me, con là sự kết
hợp hài hòa giữa lợi ích của gia đình và xã hội.Bởi không một tổ chức từ thiện
nào, không một làng trẻ mồ côi nào có thể thay thế được gia đình, đó chính là tổ
ấm mang lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời. Như vậy, việc xác
định cha, me, con trong
Bên cạnh đó, việc xác định cha, mẹ, con là cần thiết với mỗi xã hội. Đối
với các nước đang phát triển, việc xác định cha, me, con suy cho cùng là tìm
người chi trả cho đứa trẻ trước khi tính đến sự thỏa mãn tinh thần của các chủ

thể trong mối quan hệ đó. Đối với các nước phát triển, việc xác định cha, mẹ,
con đảm bảo cao hơn quyền của trẻ em, đảm bảo những quyền lợi tối ưu nhất
2


cho trẻ em, giúp cho trẻ em hòa nhập với gia đình gốc của mình. Việc xác định
cha, me, con trong mọi trường hợp góp phần xóa đi tư tưởng lạc hậu, trọng nam
khinh nữ, phân biệt đối xử giữa các con, đem lại cuộc sống bình thường cho mọi
đứa trẻ.
b) Ý nghĩa pháp lý.
Việc xác định cha, mẹ, con luôn được coi trọng bởi nó có mối quan hệ
pháp lý với dân sự, hôn nhân và gia đình, thể hiện sự bình đẳng của các chủ thể.
Sự bình đẳng của các chủ thể được thể hiện đó là, việc xác định cha, mẹ,
con thể hiện sự bình đẳng giũa nam và nữ, thể hiện quyền làm cha và mẹ của
người phụ nữ và người đàn ông .
Việc xác định cha, mẹ, con có liên quan tới nhiều chế định pháp lý trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Nó là cơ sở phát sinh các mối quan hệ trong gia
đình, đặc biệt là các mối quan hệ than thuộc. Việc xác định cha, mẹ, con là cơ sở
để các chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật như
quan hệ giữa cha mẹ và con, quan hệ giữa vợ và chồng, giữa anh chị em, giữa
ông bà và các cháu…Việc xác định cha, mẹ, con có ảnh hưởng trực tiếp tới chế
định kết hôn. Bởi vì, việc xác định cha, mẹ, con dẫn tới các chủ thể có hoặc
không có quan hệ về trực hệ và họ trong phạm vi ba đời. Đây là cơ sở để xem
xét các chủ thể có đủ điều kiện kết hôn hay không,…
Bên cạnh đó, việc xác định cha, mẹ, con còn liên quan mật thiết đến nhiều
chế định trong pháp luật Dân sự. Trong giao dịch dân sự, việc xác định cha, mẹ,
con có ý nghĩa trong việc xác định quyền yêu cấu tuyên bố giao dịch vô hiệu do
người chưa thành niên thực hiện. Trong chế định tài sản và quyền sở hữu, việc
xác định cha, mẹ, con có ý nghĩa trong việc xác định căn cứ xác lập quyền sở
hữu, quyền quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản.Trong chế định thừa kế, việc

xác định cha, mẹ, con có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xác định người

3


thừa kế, người quản lý di sản, người không được quyền hưởng di sản, xác định
người thừa kế không phụ thuộc và di chúc…
XÁC ĐỊNH CHA , MẸ, CON TRONG TRƯỜNG HỢP SINH CON

II.
1.

TỰ NHIÊN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014.
Căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên.

Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời
kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn
nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là
con chung của vợ chồng.
Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và
phải được Tòa án xác định.”
a) Căn cứ xác định cha, mẹ, con trong sinh con tự nhiên khi cha mẹ có hôn
nhân hợp pháp.
Từ quy định trên các nhà làm luật đã quy định nguyên tắc suy đoán pháp
lý xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ là vợ chồng được công nhận trước pháp
luật, bao gồm các trường hợp sau đây:



Con do người vợ có thai và sinh ra từ trước kết hôn nhưng được cha mẹ
thừa nhận là con chung của vợ chồng.
Trong trường hợp này nhà làm luật đã dựa trên sự tự nguyện của người vợ

chồng khi mặc dù được sinh ra trước khi kết hôn nhưng nếu được sự thừa nhận
thì vẫn là con của hai người. Hơn nữa trong thực tế, tình trạng “ăn cơm trước
kẻng” – có con trước khi kết hôn của giới trẻ ngày càng trở nên phổ biến nên
quy định này là hợp lí.
4




Con do người vợ có thai từ trước khi đăng kí kết hôn và sinh ra trong thời
kì hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Như đã nói ở trên về thực trạng “ăn cơm trước kẻng” của giới trẻ - nhà

làm luật đặt ra quy định này cũng để điểu chỉnh vấn đề trên, hơn nữa cũng dựa
vào nguyên tắc suy đoán pháp lí đầu tiên đó là con sinh ra trong thời kì hôn nhân
đó là con sinh ra trong thời kì hôn nhân là con của vợ chồng.


Con do người vợ có thai và sinh ra trong thời kì hôn nhân là con chung
của vợ chồng.
Trường hợp này dường như là điều “đương nhiên” trong thực tế khi hai

người vợ chồng kết hôn và người vợ mang thai, sinh con ngay sau đó thì là con
của vợ chồng.



Con do người vợ có thai trong thời kì hôn nhân và sinh ra trong vòng 300
ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt là con chung của vợ chồng.

Như đã nói ở trên về nguyên tắc suy đoán pháp lí người vợ có thai trong thời
kì hôn nhân là con chung của hai vợ chồng. Ở đây, nhà làm luật lấy khoảng thời
gian đó là đứa con được sinh ra trong vòng 300 ngày kể từ khi hôn nhân chấm
dứt trong khi pháp luật các nước khác lấy khoảng thời gian ngắn hơn chẳng hạn
như nước Pháp…là bởi vì trung bình một người phụ nữ sau 9 tháng 10 ngày tức
là 280 ngày sẽ hạ sinh đứa con, tuy nhiên trong một số trường hợp, người vợ sẽ
mang thai vượt qua thời gian đó, trường hợp này người trong dân gian thường
gọi là “chửa trâu” nên nhà làm luật quy định như vậy là hợp lí.
Trường hợp này, việc xác định cha cho con căn cứ vào sự thụ thai. Đứa trẻ
được người mẹ thụ thai trong thời kỳ hôn nhân thì chồng của người mẹ được xác
định là cha của nó. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định về thời
gian mang thai tối đa là 300 ngày. Vì vậy, những đứa trẻ được sinh ra trong thời
hạn 300 ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt sẽ được suy đoán là người mẹ thụ

5


thai trong thời kỳ hôn nhân và chồng của người mẹ được xác định là cha của
đứa trẻ. Qua thời hạn 300 ngày trở đi thì không phải là con chung của vợ chồng.


Con được người vợ thụ thai trước thời kì hôn nhân và sinh con ra sau khi
hôn nhân chấm dứt trong một thời hạn luật định.

Những trường hợp sinh con tự nhiên mà không thuộc các trường hợp này thì
không phải là con chung của vợ chồng.

Trong trường hợp cha mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ xác thực
và phải được Tòa án xác định.
Điều này là nguyên tắc mới tiến bộ của pháp luật Việt Nam khi quy định
người nào không thừa nhận con của mình thì người đó phải có trách nhiệm
chứng minh. Vấn đề chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con được hướng
dẫn tại Điều 11 Thông tư 15/2015/TT-BTP. Mà theo đó, chứng cứ để chứng
minh quan hệ cha, mẹ, con theo quy định tại khoản 1 Điều 25 và khoản 1 Điều
44 của Luật hộ tịch
b) Căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên khi cha, mẹ
không phải là vợ chồng trước pháp luật.
Theo quy định của Luât hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng như các văn
bản hướng dấn thi hành không có quy định về việc xác định cha, mẹ, con khi
cha mẹ không phải vợ chồng trước pháp luật, không có quy định chứng cứ về
việc xác định cha, mẹ, con cũng không có quy định về con trong giá thú hay con
ngoài giá thú….
Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định cha, mẹ, con trong khi cha mẹ không
có hôn nhân hợp pháp xảy ra trong một số trường hợp cụ thể sau:
Thứ nhất, trong thời gian có thể thụ thai đứa con, người mẹ đã công nhiên
chung sống với người đàn ông (được xác định là cha của đứa con) như vợ
chồng.
6


Thứ hai, người mẹ và người đàn ông (được xác định là cha của đứa con)
đã thương yêu nhau, hứa hẹn kết hôn với nhau và trong thời gian có thể thụ thai
đã ăn nằm với nhau như vợ chồng rồi sau khi có con bỏ không cưới nữa.
Thứ ba, người mẹ bị người đàn ông (được xác định là cha của đứa con)
hiếp dâm, cưỡng dâm trong thời gian có thể thụ thai đứa con. Trong trường hợp
này, việc xác định cha cho con rất khó khăn.
Thứ tư, có thư từ của người đàn ông (được xác định là cha của đứa con)

viết xác nhận đứa con do người mẹ sinh ra là con của họ.
Thứ năm, sau khi sinh con thì người đàn ông (được xác định là cha của đứa
con) đã chăm nom, săn sóc đứa con như là con của mình.
2.

Quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con.

Theo quy định tại điều 102 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 , người có
quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con gồm:
1. Cha, mẹ con đã thành niên không bị mất năng lực hành vi dân sự có quyền
yêu cầu cơ quan đăng kí hộ tịch xác định con, cha, mẹ cho mình trong trường
hợp cơ quan đăng kí hộ tịch xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật
về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
2. Cha, mẹ, con, theo quy định của pháp luật có quyền yêu cầu Tòa án xác
định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp Tòa án giải quyết việc xác định
cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định
là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp có yêu cầu về việc xác định cha, mẹ, con
mà người có yêu cầu chết thì người thân thích của người này có quyền yêu cầu
Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật có quyền
yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc
7


mất năng lực hành vi dân sự trong các trường hợp Tòa án giải quyết việc xác
định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác
định là cha, mẹ, con đã chết:
a) Cha, mẹ, con, người giám hộ.
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình.

c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em.
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
3.

Thẩm quyền và thủ tục giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong sinh
con tự nhiên.

Việc xác định thẩm quyền giải quyết việc xác định cha,mẹ con có ý nghĩa
quan trọng không chỉ phân định thẩm quyền giải quyết của cơ quan có thẩm
quyền mà còn giúp đương sự giải quyết nhanh chóng thực hiện quyền khởi kiện,
yêu cấu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tránh được việc gửi đơn
lên cơ quan không có thẩm quyền gây mất thời gian và lãng phí. Điều 101 Luật
hông nhân và gia đình năm 2014 quy định thẩm quyền giải quyết việc xác định
cha, mẹ, con bao gồm hai thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp.
a) Thủ tục hành chính.
Khoản 1 Điều 101 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Cơ quan đăng
ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ con, theo quy định của pháp luật về
hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp”. Như vậy, trong trường hợp tự
nguyện và không có tranh chấp về xác định cha, mẹ, con do Cơ quan đăng ký hộ
tịch có thẩm quyền thực hiện.


Thủ tục khai sinh cho con trong trường hợp cha mẹ là vợ chồng được
công nhận trước pháp luật.

8


Cơ quan có thẩm quyền đăng ký khai sịnh là UBND cấp xã nơi cư trú của
cha hoặc mẹ thực hiện đăng ký khai sinh (Điều 13 Luật hộ tịch ) hoặc UBND

cấp huyện nơi cha hoặc mẹ thực hiện khai sinh cho trẻ em trong các trường hợp
được quy định theo Điều 35 Luật hộ tịch.
Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm
đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha mẹ không thể đăng ký khai sinh cho
con thì ông bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đàn nuôi dưỡng
trẻ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em.
Người yêu cầu đăng ký hộ tịch xuất trình bản chính trong các giấy tờ hộ
chiếu, chứng minh thư nhân dân, thẻ căn cước công dân hoặc các giấy tờ khác
có dán ảnh và thông tin cá nhân do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, có giá
trị sử dụng để chứng minh nhân thân.
Tuỳ từng trường hợp mà pháp luật có sự quy định cụ thể các loại giấy tờ cho
các chủ thể tại khoản 1 Điều 16, Điều 36 Luật hộ tịch năm 2014, khoản 2 Điều 9
Nghị định 123/2015/NĐ-CP,..


Đăng ký nhận cha, mẹ, con.

+Thẩm quyền đăng ký nhận cha, mẹ, con: Đối với việc nhận cha, mẹ, con
trong nước do UBND cấp xã nơi cư trú của người nhận hoặc người nhận Là
cha,mẹ con thực hiện đăng ký nhận mj cha, mẹ, con( Điều 24 Luật hộ tịch). Đối
với việc nhận cha, mẹ con có yếu tố nước ngoài do UBND cấp huyện nơi cư trú
của người nhận là cha, mẹ, con thực hiện đăng ký nhận cha, mẹ, con (Điều 43
Luật hộ tịch).
+Điều kiện đăng ký nhận cha, mẹ, con: Theo Luật hôn nhân và gia đình năm
2014 thì phải có sự tự nguyện và không có tranh chấp. Bên được nhận cha, mẹ,
con phải còn sống vào thời điểm đăng ký nhận cha, mẹ, con( trừ trường hợp một
bên đã chết ) và phải trực tiếp làm thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con mà không

9



được uỷ quyền cho người khác. Đồng thời còn các điều kiện được quy định tại
Điều 90.91 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
+Thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con .
Được quy định tại Điều 25 Luật hộ tịch năm 2014.
1.Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy định và
chứng cứ chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan dăng ký hộ
tịch. Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt.
2. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại
khoản 1 Điều này, nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và không có tranh
chấp, công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người đăng ký nhận
cha, mẹ, con ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp
trích lục cho người yêu cầu.
Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá
05 ngày làm việc.
Theo thông tư 15 có sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 123/2015
và Luật hộ tịch thì chứng cứ để chứng minh quan hệ cha, mẹ con là:
1. Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác có thẩm
quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha con, quan hệ mẹ con.
2. Trường hợp không có văn bản quy định tại khoản 1 Điều này thì phải có thư
từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng khác chứng minh mối quan hệ cha
con, quan hệ mẹ con và văn bản cam đoan của cha, mẹ về việc trẻ em là con
chung của hai người, có ít nhất hai người thân thích của cha, mẹ làm chứng.
Cơ quan đăng ký hộ tịch có trách nhiệm giải thích rõ trách nhiệm, hệ quả
pháp lý của việc cam đoan, làm chứng không đúng sự thật.
b) Thủ tục tư pháp.
10


Khoản 2, Điều 101 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định.

Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường
hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và
trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ
quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên
trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Như vậy theo quy định thì việc giải quyết xác định cha, mẹ, con trong
trường hợp không có tranh chấp hoặc người xác định cha, mẹ, con đã chết và
trường hợp người thân thích của người có yêu cầu xác định cha, mẹ, con mà
người có yêu cầu chết thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân.
ĐÁNH GIÁ VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG

III.

TRƯỜNG HỢP SINH CON TỰ NHIÊN THEO LUẬT HÔN NHÂN
1.

VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
Đánh giá.

a) Tích cực.
Thứ nhất, quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của những người có
lợi ích liên quan đến việc nhận con.
Sự việc xảy ra năm 2000, ở thị trấn Tam Đảo – Vĩnh Phúc. Năm 1999,
Anh Đinh Văn V và chị Nguyễn Thị H có quan hệ yêu đương với nhau, chị H
đồng ý kết hôn với anh V khi anh V đồng ý ở rể. Anh V đồng ý và được hai bên
gia đình chấp thuận. Trong quá trình yếu đương, anh chị nhiều lần quan hệ tình
dục dẫn đến việc chị H có thai. Đến lúc này, anh V chỉ đồng ý kết hôn với chị H
khi không phải ở rể. Chị H không đồng ý, ngay sau đó 1 tháng, anh V kết hôn

với chị Đỗ Thúy T. Đến cuối năm 2000 chị H sinh con trai là cháu C, cũng trong
thời gian này, vợ chồng anh V và chị T nhận được kết quả khám chị T bị vô sinh
11


từ phía bệnh viện tỉnh. Chị H yêu cầu anh V hỗ trợ tiền bồi dưỡng sinh đẻ và
phải nhận cháu C là con, đồng thời có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu. Anh V
đồng ý. Hai người trình bày nguyện vọng được đăng kí khai sinh cho cháu, đề
nghị chính quyền xác nhận và ghi tên anh V vào phần khia về người cha trong
giấy khai sinh của cháu C. Tuy nhiên, chị T đến UBND khiếu nại với yêu cầu
nếu ghi tên anh V vào phần khai của người cha thì phải ghi tên chị vào phần
khai của người mẹ vì chị và anh V là vợ chồng. Nếu UBND không chấp nhận
giải quyết thì không được ghi tên anh V vào phần khai của người cha. UBND
thấy có phát sinh tranh chấp trong việc nhận con nên đã dừng việc giải quyết
đăng kí nhận con và hướng dẫn các bên liên quan tới Tòa án huyện để giải quyết
theo thẩm quyền.
Do pháp luật không quy định rõ ràng về những người có quyền và lợi ích
liên quan trong việc đăng kí cha, mẹ, con nên có hai quan điểm trái chiều:


Quan điểm 1: UBND giải quyết như vậy là sai. Các chủ thể trong vụ việc
này là anh V, chị H và cháu C, trong đó chị H là mẹ của cháu bé – người
đại diện cho con xác định cha cho con. Chỉ ý kiến của chị H và anh V mới
có giá trị để cơ quan có thẩm quyền xác định cha cho cháu C. Chị H và
anh V đề tự nguyện, thống nhất công nhận anh V là cha cháu C. Chị T
không phải chủ thể có tư cách pháp lý tham gia vào quan hệ nhận cha cho



con này nên khiếu nại của chị T không là căn cứ phát sinh tranh chấp.

Quan điểm 2: UBND giải quyết như vậy là đúng. Ở đây, chị T là vợ anh
V, là người có quyền và lợi ích liên quan đến việc anh V nhận con. Khi
anh V nhận con thì đương nhiên với tư cách là vợ chị T sẽ phải chia sẻ về
mặt tình cảm, trách nhiệm và cả kinh tế - tài sản chung của vợ chồng để
nuôi con riêng của chồng. Chị T bị san sẻ lợi ích khi chồng nhận con nuôi.

Tuy nhiên, đến Luật HN&GĐ năm 2014 đã có quy định rõ ràng về việc quy
định quyền và nghĩa vụ của những người có liên quan. Tại khoản 2 Điều 91 luật
HN&GD năm 2014 về quyền nhận con “Trong trường hợp, người đang có vợ,
12


chồng mà nhận con thì việc nhận con không cần phải có sự đồng ý của người
kia”.
Thứ hai, bổ sung căn cứ xác định con chung khi vợ chồng có hôn nhân
hợp pháp.
Điều 88 luật HN&GĐ năm 2014 đã có sự bổ sung căn cứ xác định con
chung so với Điều 63 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Đó là trường hợp:
Con do người vợ thụ thai trong thời kỳ hôn nhân và sinh ra sau khi hôn nhân
chấm dứt trong thời hạn 300 ngày. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy
định thời gian mang thai tối đa là 300 ngày. Đây là điểm mới của Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014, quy định này có tính kế thừa từ Nghị định 70/2001/NĐCP ngày 3/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật hôn nhâ và gia
đình năm 2000., điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn đời sống và phù hợp
vè mặt khoa học. Vì xét trên mặt khoa học thì thời gian mang thai tối đa của
người phụ nữ là 300 ngày, hơn nữa pháp luật của một số quốc gia (Nhật Bản,
Thái Lan) cũng quy định tương tự. Điều này phù hợp với thực tế có nhiều
trường hợp hai bên nam nữ kết hôn với nhau thì người vợ có thai, sau một thời
gian quan hệ hôn nhân chấm dứt do ly hôn hoặc chồng chết thì người mẹ này
mới sinh con. Vì vậy nếu xét theo quy định này nếu người vợ sinh con sau 300
ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt thì đứa bé do người vợ đó vẫn được xác định

là con chung, điều này góp phần bảo vệ quyền lợi cho trẻ em và phụ nữ.
Thứ ba, bổ sung căn cứ chứng minh cho quan hệ cha, mẹ, con.
Năm 2005, trong khi ông Kệ mất tích vì đi đào vàng thì bà Ngọc là vợ ông
Kệ có quan hệ tình dục với em trai chồng là ông Kê dẫn tới việc bà Ngọc có thai
và sinh con cuối năm 2006. Tuy nhiên, ông Kê lại phủ nhận đó không phải là
con ông kê, bà Ngọc đâm đơn kiện lên Tòa án nhân dân, yêu cầu ông Kê phải có
trách nhiệm với đứa trẻ. Tòa án yêu cầu giám định AND xác minh quan hệ
nhưng ông Kê không đồng ý. Tòa dựa vào lời khai của bà Ngọc và bà con xung
quanh nhà bà Ngọc rằng trong thời gian ông Kệ mất tích, bà Ngọc chỉ qua lại
13


với một người đàn ông là ông Kê, đồng thời bà Ngọc có bức thư tay của ông Kê
mong muốn được chăm sóc và có con với bà Ngọc. Từ những căn cứ trên, tòa
kết luận ông Kê là cha của đứa trẻ và phải có trách nhiệm với nó.
Nhiều ý kiến cho rằng, việc giám định AND là bằng chứng trực tiếp
chứng minh quan hệ cha con thì không được xác minh, kết luận như vậy là thiếu
căn cứ.
Nếu như trong Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch
không bắt buộc phải xuất trình các giấy tờ, giấy tờ các chứng cứ chứng minh
quan hệ cha, mẹ, con thì hiện nay theo quy định của pháp luật hiện hành phải có
chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con.
Vấn đề chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con được hướng dẫn tại
Điều 11 Thông tư 15/2015/TT-BTP. Mà theo đó, chứng cứ để chứng minh quan
hệ cha, mẹ, con theo quy định tại khoản 1 Điều 25 và khoản 1 Điều 44 của Luật
hộ tịch gồm một trong các giấy tờ, tài liệu sau đây:
“1. Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác có thẩm
quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha con, quan hệ mẹ con.
2. Trường hợp không có văn bản quy định tại khoản 1 Điều này thì phải có thư
từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng khác chứng minh mối quan hệ cha

con, quan hệ mẹ con và văn bản cam đoan của cha, mẹ về việc trẻ em là con
chung của hai người, có ít nhất hai người thân thích của cha, mẹ làm chứng.
Cơ quan đăng ký hộ tịch có trách nhiệm giải thích rõ trách nhiệm, hệ quả pháp
lý của việc cam đoan, làm chứng không đúng sự thật.
Cơ quan đăng ký hộ tịch từ chối giải quyết theo quy định tại Điều 5 của Thông
tư này hoặc hủy bỏ kết quả đăng ký hộ tịch, nếu có cơ sở xác định nội dung cam
đoan, làm chứng không đúng sự thật.”

14


Đồng thời, sự ra đời của Nghị định 123/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành
Luật hộ tịch 2014 đã có nhiều thay đổi để giải quyết các vướng mắc tồn tại trong
Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký, quản lý hộ tịch. Nếu như trước đây
Nghị định 158/2005 quy định chỉ cần có sự thỏa thuận với nhau là có mối quan
hệ cha mẹ, con cái, ông bà mang tính huyết thống được xác lập. Điều này là trái
với tự nhiên vì mối quan hệ cha mẹ và con (đẻ) là mối quan hệ tự nhiên, do tự
nhiên tạo ra không phụ thuộc vào ý chí của con người. Con người chỉ có tạo ra
mối quan hệ nuôi dưỡng (nhận nuôi con nuôi), không thể tạo ra mối quan hệ
huyết thống chỉ bằng sự thoả thuận không có tranh chấp. Để có thể xác định
được mối quan hệ tự nhiên, yếu tố cần và đủ là phải có căn cứ về tính huyết
thống. Còn sự thừa nhận của các bên chỉ mang yếu tố tham khảo chứ không có
tình quyết định trong việc xác nhận cha, mẹ, con nhất là trong trường hợp xác
định lại cha, mẹ, con. Hiện nay Nghị định 123/2015 đã giải quyết được các thiếu
xót của Nghị định 158/2005, các chứng cứ cụ thể được quy định trong thông tư
15/2015.Theo đó, để giải quyết vấn đề trên thì khi yêu cầu nhận cha, mẹ, con
không có tranh chấp tại UBND thì các chủ thể phải xuất trình các giấy tài liệu,
chứng cứ chứng minh mối quan hệ đó
b) Hạn chế.



Về căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên.

-Xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ có hôn nhân hợp pháp.
Thứ nhất: Nguyên tắc suy đoán pháp lý theo Điều 88 Luật hôn nhân và
gia đình rất khó chính xác trong trường hợp người phụ nữ sau khi chấm dứt hôn
nhân đã kết hôn với người khác ngay và sinh con. Vì người phụ nữ đã thụ thai
trong thời kỳ hôn nhâ trước nhưng lại sinh con trong thời kỳ hôn nhân sau, việc
xác định người chồng nào là cha của đứa bé vẫn bị pháp luật bỏ ngõ, chưa có lời
đáp.

15


Thứ hai: Pháp luật quy định nguyên tắc suy đoán pháp lý trong một số các
trường hợp không chính xác. Đặc biệt là trong trường hợp một người bị tuyên bố
mất tích trở về hoặc bị tuyên bố chết trở về mà khôi phục quan hệ hôn nhân.
Điều 67 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Khi Toà án ra
quyết định huỷ bỏ tuyên bố một người đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó
chưa kết hôn người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục từ thời điểm kết
hôn…Quy định này của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 là chưa phù hợp
với thực tiễn. Về nguyên tắc, chỉ khi quyết định của Toà án huỷ bỏ quyết định
tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì năng lực chủ thể của họ
mới được khôi phục. Nhưng trên thực tế, khi người đã được Toà án tuyên bố là
chết trở về, khi chưa được Toà án huỷ bỏ quyết định tuyên bố chết, có thể, người
đó đã chung sống trong quan hệ vợ chồng với người vợ, người chồng trước đây.
Hoặc người vợ ở nhà chưa kết hôn với người khác nhưng đã chung sống như vợ
chồng với người khác. Khi người chồng bị tuyên bố chết trở về và được Toà án
huỷ bỏ quyết định tuyên bố chết, về nguyên tắc sẽ vẫn được khôi phục quan hệ
hôn nhân. Sau đó, người vợ sinh con trong bất kể một thời gian nào thì vẫn xác

định là con chung người vợ và người chồng là đã chết trở về, vì vẫn đảm bảo
con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân. Thậm chí, nếu người vợ vẫn chung sống với
người khác và muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân với người đã bị Toà án tuyên
bố là đã chết trở về lại phải tiến hành một thủ tục pháp lý khác là yêu cầu ly hôn.
Nếu họ được Toà án giải quyết cho ly hôn, thì sau đó trong vòng 300 ngày nếu
người vợ sinh con thì vẫn được xác định là con của người chồng bị tuyên bố là
đã chết trở về. Điều này là hoàn toàn không hợp lý trên thực tế.
Đặt trường hợp ngược lại, nếu người bị tuyên bố chết trở về là người vợ
thì cũng xảy ra những vấn đề tương tự trong việc xác định con chung của vợ
chồng. Vì có thể người vợ bị tuyên bố chết đã sống ở một nơi nào đó, đã chung
sống như vợ chồng với người khác, khi người vợ đó trở về lại đang có thai,
người chồng ở nhà chưa kết hôn vói người khác thì quan hệ hôn nhân vẫn được
16


khôi phục và đứa con do người vợ mang thai đó khi sinh ra vẫn được xác định là
con chung của vợ chồng.
- Xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp.
Vấn đề xác định cha ,mẹ, con trong trường hợp cha mẹ không phải là vợ
chồng trước pháp luật gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì giữa cha, mẹ của
người con không phải là vợ chồng được pháp luật công nhận. Các trường hợp
này thường xảy ra khi người phụ nữ có thai và bị người đàn ông rủ bỏ trách
nhiệm không nhận là cha của đứa trẻ. Bởi từ quan hệ tình cảm dẫn đến quan hệ
tình dục giữa hai người sinh ra đứa bé thì không có một căn cứ để đảm bảo và
rất khó chững minh.
Do đó, trong trường hợp này nên không thể suy đoán theo nguyên tắc
được quy định tại Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Để có thể xác
định được cha, mẹ, con trong trường hợp này thường dựa vào vào thời điểm thụ
thai, thời điểm mang thai và thời điểm sinh con, căn cứ vào khoảng thời gian hai
bên nam nữ quan hệ tình dục và căn cứ vào mối quan hệ cha, mẹ, con trên thực

tế để xác định người đàn ông đó là cha của đứa trẻ. Đặc biệt, với sự tiến bộ của
khoa học-kỹ thuật thì chứng cứ có sức thuyết phục và được sử dụng nhiều nhất
để xác định quan hệ huyết thống cha, mẹ, con là kết luận giám định AND.
Có nhiều trường hợp yêu cầu Toà án xác định một người không phải là
cha, mẹ, con đẻ của mình hoặc yêu cầu xác định một người là cha, mẹ, con đẻ
của mình nhưng người bị yêu càu đó không hợp tác. Họ không đồng ý giám định
để xác định có quan hệ huyết thống hay không? Trong trường hợp xác định cha
cho con ngoài giá thú, có nhiều lý do mà người đàn ông không khai là cha của
đứa con ngoài giá thú, không mong muốn nhận đứa trẻ đó là con của mình nên
tìm mọi cách để không nhận. Lúc này, cần thiết phải dựa vào giám định gen để
xác định quan hệ huyết thống. Tuy nhiên một vấn đề ở đây đó là người được cho
là cha của đứa bé nếu không hợp tác, không dồng ý để Toà án lấy mẫu giám
định gen thì chưa có cơ sở hợp lý để xác định mối quan hệ cha, con. Việc yêu
17


cầu xác định cha, mẹ, con là việc dân sự, nếu người đàn ông không muốn thì
chưa có cơ chế nào buộc họ phải thực hiện. Lúc này, mọi thứ lại không được
giải quyết vì pháp luật không có quy định.


Về quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự
nhiên.

Hiện nay có những khó khăn trong quy định của pháp luật về quyền yêu cầu
xác định cha, mẹ, con. Đó là pháp luật chưa dự liệu được hết các chủ thể có
quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con.
Ví dụ như trong trường hợp cha, mẹ đã chết mà người đã chết không có yêu
cầu xác định cha, mẹ con nhưng những người thân thích của người đã chết đó lại
muốn xác định đứa trẻ là cháu của mình, là người thân của họ thì pháp luật chưa

có căn cứ để họ yêu cầu Toà án giải quyết.
Việc xác định tư cách khởi kiện được quy định tại Điều 102 Luật hôn nhân
và gia đình 2014 bao gồm: Cha, mẹ có con đã thành niên không bị mất năng lực
hành vi dân sự có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký hộ tịch xác định cha, mẹ, con
trong trường hợp không có tranh chấp. Cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật
tố tụng có quyền yêu cầu Toà án xác định cha, me, con trong trường hợp không
có tranh chấp…Quy định này đặt ra băn khoăn trong vụ việc xin xác nhận cha
cho con mà người cha, người mẹ đã chết. Theo quy định của pháp luật, người
khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho
những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Khó có cơ sở ngay từ ban
đầu đề nghị chủ thể khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh là ông (hoặc bà
nội) cháu bé khi chưa có phán quyết của Toà án trong việc xác định cháu bé là
con của người con trai đã chết của họ. Người tự nhận là ông bà nội của cháu bé
không thể tự khởi kiện yêu cầu xác định cháu bé là con đẻ của con trai đã chết
của mình(như con trai đã chết của họ không yêu cầu xác định) do không thuộc
các trường hợp pháp luật quy định. Nên chăng, pháp luật nên quy định mở rộng
những người có quyền yêu cầu xác định quan hệ trên, ví dụ quy định thêm người
18


thân thích trong phạm vi 3 đời của người đã chết có quyền yêu cầu xác định đứa
trẻ là con đẻ của người thân mình nếu có căn cứ cho rằng đứa trẻ đó là người
thân thích của họ.
Pháp luật hiện tại chưa ghi nhận quyền của cha mẹ chưa thành niên muốn xác
định con hoặc truy tìm con sẽ thực hiện như thế nào. Do đó, trong thực tiễn giải
quyết các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không tránh khỏi sự lúng túng và
không thống nhất.


Về thẩm quyền và thủ tục xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh

con tự nhiên.

- Thủ tục xác định cha, mẹ, con
Hiện nay vẫn còn tồn tại những vướng mắc trong tố tụng để thụ lý vụ việc
trong trường hợp cha, mẹ, con đã chết.
Có những vụ án đương sự khởi kiện ra Toà án yêu cầu xác định cha, mẹ
cho con mà người cha hoặc người mẹ được yêu cầu xác định là cha hoặc mẹ của
đứa trẻ đã chết hoặc trong trường hợp cả cha, mẹ của đứa trẻ đều chết. Theo quy
định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 “ Con có quyền xin nhận cha, mẹ
của mình trong trường hợp cha, mẹ đã chết”. Như vậy, pháp luật bảo đảm trong
mọi trường hợp người con đều có quyền xin nhận cha, mẹ của mình ngay cả khi
cha, mẹ đã chết.Tuy nhiên vấn đề xác định trong trương hợp này gặp một số khó
khăn, vướng mắc. Ví dụ: A có yêu cầu xin xác nhận B là cha của con mình.
Thời điểm A khởi kiện ra Tòa B đã chết. Một loạt các vấn đề được đặt ra:
Một là:Tòa án phải xác địnhcó yếu tố tranh chấp trong vụ kiện này hay không.
Tranh chấp giữa những người thân trong gia đình của B về việc không nhận
cháu bé là con B hay là không có tranh chấp trong trường hợp những người thân
của B chấp nhận cháu bé là con B.

19


Hai là: Giả sử đây là vụ án xác định có yếu tố tranh chấp thì việc B sẽ tham
gia tố tụng với tư cách gì? Tòa án có phải tiến hành thông báo thụ lý giải quyết
vụ án tới những người thân của B hay không?
Về việc xác định tư cách tố tụng: Theo quy định tại khoản 3 Điều 68
BLTTDS 2015, về nguyên tắc người bị người khác khởi kiện khi cho rằng
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm sẽ được xác
định là bị đơn trong vụ kiện, tuy nhiên trong trường hợp này có thể xác định B là
bị đơn hay không khi B đã chết. Khá nhiều các bản án hiện hành khi rơi vào

trường hợp này đều không khỏi lúng túng khi xác định tư cách của B trong vụ
kiện.
Nếu xác định B là người bị kiện tuy nhiên đối tượng của quyền yêu cầu là
quyền nhân thân. Theo quy định tại Điều 25 BLDS 2015: “Quyền nhân thân là
quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác,
trừ trường hợp pháp luật liên quan có quy định”. Vì vậy, nếu xác định B là bị
đơn thì khi bị đơn đã chết, vụ kiện sẽ bị tạm đình chỉ giải quyết nếu chưa có
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng .
Ba là: Nguyên tắc chung của người đưa ra yêu cầu là phải có nghĩa vụ chứng
minh.Vậy câu hỏi được đặt ra việc áp dụng các chứng cứ quy định tại Thông tư
15 có thể áp dụng trong trường hợp này hay không? Vì B đã chết vậy có thể sử
dụng các chứng cứ chứng minh thông qua các chứng cứ gián tiếp hay không
như:
Các giấy tờ hoặc thư từ do người đã chết đã từng xác nhận đứa trẻ là con
của họ. Trong thời gian có thể thụ thai đứa trẻ, người đàn ông đã chết và đứa trẻ
chung sống với nhau như vợ chồng, khi đứa trẻ sinh ra người đàn ông đã chết đó
yêu thương đứa trẻ như con mình….
Tuy nhiên dù có xuất trình được những chứng cứ này thì tính thuyết phục
cũng không cao trừ trường hợp người bị kiện thừa nhận.Vấn đề ở chỗ người bị
20


kiện không còn sống. Nếu xác định bằng các thủ tục thông thường không đạt
hiệu quả thì Toà án yêu cầu giám định gen. Nếu trong trường hợp người cha,
mẹ, con là đối tượng của quyền yêu cầu được xác định là đã chết thì khoa học
hiện đại vẫn có thể xác định quan hệ huyết thống qua giám định gen của ông bà,
cô dì, chú bác ruột..Vấn đề ở đây là nếu người thân thích của người đã chết đó
không đồng ý cung cấp mẫu để giám định huyết thống thì trong trường hợp này
nên xử lý thế nào?
- Thẩm quyền xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên của các

cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Có thể thấy hiện nay pháp luật quy định về thẩm quyền của các cơ quan
nhà nước trong việc xác định cha, mẹ, con là dựa vào mối quan hệ huyết thống
giữa cha, mẹ, con. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đặt ra nguyên tắc suy
đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con ( Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình 2014).
Căn cứ vào quy định pháp luật hiện hành việc xác định thẩm quyền giải quyết
đối với yêu cầu xác định cha, mẹ, con dựa vào tính chất của vụ việc có tranh
chấp hay không? Tuy nhiên hiểu như thế nào là “tranh chấp” cũng là một khái
niệm có nhiều tranh cãi cũng như hình thức biểu hiện của “tranh chấp”.
Như đã phân tích ở trên mặc dù Nghị định 123/2015/NĐ-CP đã giải quyết
vấn đề các chứng cứ để xác định cha,mẹ, con trên bằng biện pháp đó là khi yêu
cầu nhận cha, mẹ, con không có tranh chấp tại UBND thì phải xuất trình các
giấy tài liệu, chứng cứ chứng minh mối quan hệ đó. Quy định này tuy đã giải
quyết được việc nhận cha, mẹ, con một cách tuỳ tiện nhưng cũng gây ra những
khó khăn, phiền hà cho người dân khi tiến hành phải đầy đủ chứng cứ cụ thể
như khi giải quyết tại Toà án, trong khi đó năng lực của Cán bộ xã vẫn chưa
được bảo đảm và tính chất pháp lý cũng không cao như khi giải quyết tại Toà
án.
2.

Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật trong xác định cha,
mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên.
21


a) Phương hướng hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ, con ở Việt Nam
hiện nay.
Pháp luật về xác định cha, mẹ, con phải là sự hiện thực hóa các nguyên tắc
luật định, đảm bảo tính khả thi trong việc nội luật hóa các văn bản pháp luật
quốc tế về quyền con người.

Pháp luật về xác định cha, mẹ, con phải kết hợp hài hòa lợi ích các chủ thể,
nâng cao ý thức và trách nhiệm của mỗi chủ thể.
Pháp luật về xác định cha, mẹ, con phải đăt trong tương quan với các chế định
pháp lý hôn nhân và gia đình, và các chế định pháp lý có liên quan khác.
b) Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác định cha, ẹ con trong sinh con tự
nhiên.
- Một là, Quy định về thẩm quyền giải quyết đối với yêu cầu xác định cha,
mẹ, con.
Cần có sự phân định thẩm quyền rõ ràng giữa Toà án và UBND.
+Khi mới đăng ký khai sinh tại UBND thì trao thẩm quyền cho UBND.
Trường hợp trẻ sinh ra trước hoặc sau thời kỳ hôn nhân trong thời hạn 300 ngày
thì ghi tên hai vợ chồng trong giấy khai sinh. Trường hợp mà hai người tự nhận
là bố mẹ không có đăng ký kết hôn với không ai trong số hai người có đăng ký
kết hôn với người khác thì ghi tên hai người là bố mẹ đẻ của đứa trẻ trong giấy
khai sinh. Trường hợp bên nữ có dăng ký kết hôn với người khác thì phải có sự
đồng ý, thống nhất không chỉ của hai bên nam nữ mà phải có sự thống nhất của
người chồng hợp pháp của bên nữ.Nếu người chồng hợp pháp không đồng ý thì
UBND khai sinh dựa vào quan hệ hôn nhân hợp pháp của bên nữ.Trường hợp
nam có đăng ký kết hôn với người khác thì chỉ cần sự tự nguyện của hai bên
nam nữ.

22


+Khi đứa trẻ được khai sinh, trong giấy khai sinh có ghi tên đầy đủ của cả cha
và mẹ thì yêu cầu xác định cha mẹ sẽ thuộc thẩm quyền của Toà án.
- Hai là, Cần có các văn bản hướng dẫn, áp dụng quy định cụ thể về việc
xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp.
- Ba là, Pháp luật cần quy định thời gian mang thai tối thiểu.
Hiện nay, pháp luật chỉ quy định thời gian mang thai tối đa mà không quy định

thời gian mang thai tối thiểu. Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình quy định “Con
sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là
con của người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân”. Như vậy, pháp luật hiện hành
chỉ mới quy định về thời gian mang thai tối đa là 300 ngày.Tuy nhiên cần quy
định thời gian mang thai tối thiểu. Bởi vì trong trường hợp xác định cha, mẹ,
con khi cha, mẹ không phải là vợ chồng trước pháp luật thì việc xác định thời
gian mang thai tối đa và tối thiểu có ý nghĩa quyết định để tính khoảng thời gian
có thể thụ thai đứa trẻ, từ đó xác định được chính xác quan hệ cha, mẹ, con.
Trong trường hợp người bj tuyên bố chết thì thời điểm xác định một người
chết về mặt pháp lý không thể trùng với thời điểm chết về mặt thực tế. Vì vậy,
việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp này cần xác định là 300 ngày kể từ
khi người chồng chết trên thực tế. Đối với người bị tuyên bố chết trở về cần thiết
nên có quy định về thời gian mang thai tối thiểu và cần phải căn cứ vào ngay
thực tế người bị tuyên bố chết trở về (chứ không căn cứ vào ngày quyết định
hủy tuyên bố chết).
Nên chăng quy định về thời gian “cư sương” của người vợ( tức sau 300 ngày
kể từ ngày chấm dứt hôn nhân mới được kết hôn lại) hoặc nếu không cần phải
có giấy chứng nhận của cơ sở y tế về tình trạng sức khoẻ đang có thai hoặc
không có thai để tránh tình trạng người phụ nữ vừa ly hôn lại kết hôn ngay với
người khác sinh con thì khó có thể xác định đứa con này là con của chồng trước
hay chồng sau.
23


- Bốn là, Đối với trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng
trước ngày 3/1/1987 mà không đăng ký kết hôn nhưng vẫn được pháp luật công
nhận là vợ chồng (hôn nhân thực tế) thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và
các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy định về nguyên tắc suy đoán pháp
lý trong trường hợp này.
- Năm là, Đối với trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng

trước ngày 3/1/1987 mà không đăng ký kết hôn nhưng vẫn được pháp luật công
nhận là vợ chồng (hôn nhân thực tế) thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và
các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy định về nguyên tắc suy đoán pháp
lý như thế nào.
- Sáu là, Cần xây dựng chế tài nghiêm khắc đối với các chủ thể có hành vi
trốn tránh trách nhiệm trong quan hệ xác định cha, mẹ, con. Bởi trên thực tế,
tình trạng ngoại tình, tình trạng sinh con ngoài giá thú, tình trạng “sống thử” ở
giới trẻ hiện nay là đáng báo động.Vì vậy để nâng cao trách nhiệm của mỗi chủ
thể cần có quy định ràng buộc trách nhiệm pháp lý và hậu quả bất lợi mà họ phải
gánh chịu mà mình gây ra.
- Bảy là, Tăng cường công tác phổ biến và tuyên truyền Pháp luật về Hôn
nhân gia đình. Đây là giải pháp quan trọng, quyết định đến việc giải quyết có
hiệu quả các trường hợp xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật.
Những người có trách nhiệm nên đẩy mạnh công tác phổ biến và tuyên truyền
kiến thức luật hôn nhân gia đình đến các vùng núi và dân tộc, đến những nơi
vùng xâu vùng xa mà con người chưa có điều kiện tiếp xúc với pháp luật. Bên
cạnh đó người dân cũng cần tăng cường học hỏi và tham khảo để hiểu sâu và
chính xác các quy định của pháp luật.
Xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án, cán bộ làm công tác tư pháp- hộ tịch
đáp ứng yêu cầu của công việc trong thời kì hội nhập. Quản lý chặt chẽ công tác
xác định cha, mẹ, con trong việc nhận nuôi con nuôi, bảo đảm quyền và lợi ích
của người được nhận làm con nuôi, của cha, mẹ nuôi,…
24


KẾT LUẬN
Trong mọi thời đại, việc xác định cha, mẹ, con có ý nghĩa vô cùng quan trọng
đối với quyền trẻ em trên phương diện pháp lý và xã hội. Hệ thống pháp luật về
xác định cha, mẹ, con quan từng thời kỳ dần được hoàn thiện. Tuy nhiên, đứng
trước sự thay đổi của xã hội, sự phát triển và hội nhập quốc tế ngày càng sâu

rộng đòi hỏi các chế định pháp luật về xác định cha,mẹ, con phải được hoàn
thiện hơn nữa. Pháp luật phải luôn đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho trẻ em vì “trẻ
em hôm nay, thế giới ngày mai”.
.

Trên đây là toàn bộ ý kiến của nhóm em về đề tài số 01. Bài làm còn nhiều

thiếu sót mong thầy cô góp ý để nhóm hoàn thiện hơn. Nhóm em xin cảm ơn

25


×