3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, đã và
đang đòi hỏi phải có những con người phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ,
sức khoẻ, thẩm mỹ. Trước tình hình đó, để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục - đào tạo theo hướng
chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, Đảng ta
chỉ rõ: “Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục
đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp”
[8, tr.131]. Trong đó, chú trọng mục tiêu giáo dục đạo đức, coi giáo dục đạo
đức, giáo dục văn hóa cốt cách con người Việt Nam là khâu then chốt trong
đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, làm cơ sở để đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà.
Quá trình phát triển của thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc trong những
năm qua đang diễn ra khá mạnh mẽ, thúc đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh
tế, văn hoá và xã hội, làm cho cuộc sống của người dân được nâng cao rõ rệt.
Cùng với sự quan tâm phát triển kinh tế, Đảng bộ và nhân dân thị xã Phúc
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc rất chăm lo đến công tác giáo dục, đặc biệt là giáo dục
đạo đức cho học sinh trung học phổ thông. Song, bên cạnh những mặt tích
cực thì sự phát triển về kinh tế, xã hội cũng đã bộc lộ những mặt trái, gây ảnh
hưởng tiêu cực tới đời sống tinh thần của người dân nói chung, công tác giáo
dục đạo đức cho học sinh ở địa phương nói riêng. Thực tiễn cho thấy, trong
những năm qua, công tác giáo dục của thị xã Phúc Yên đã đạt được những
thành tựu đáng kể, số học sinh đến trường, học sinh giỏi các cấp tăng lên hàng
năm; tỷ lệ đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông đạt trên 90%. Cơ bản học sinh
của thị xã Phúc Yên chăm ngoan, lễ phép, có phẩm chất đạo đức tốt, khiêm
4
tốn, thật thà. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vấn đề đạo đức và công tác quản lý giáo
dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông của thị xã Phúc Yên vẫn còn
nhiều điều đáng bàn. Số học sinh vi phạm về nhận thức, thái độ và hành vi
đạo đức, các chuẩn mực có chiều hướng gia tăng, tính chất vi phạm kỷ luật
ngày một nghiêm trọng và có hệ thống. Đặc biệt, một bộ phận không nhỏ học
sinh: “có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực
dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất
nước” [7, tr.24]. Thêm vào đó là sự du nhập, lai tạp văn hoá của dân nhập cư,
các tệ nạn xã hội ở các khu công nghiệp lân cận ngày một gia tăng đã làm ảnh
hưởng tới công tác quản lý và giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung và
các em học sinh trung học phổ thông ở địa phương nói riêng. Tình trạng đạo
vi phạm đạo đức trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó hoạt động
quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông còn chưa được
quan tâm đúng mức.
Học sinh trung học phổ thông là giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh xuân,
lứa tuổi năng động, thích khám phá cái mới và thể hiện bản thân. Bên cạnh
những ưu điểm thì các em còn nhiều hạn chế như: hiểu biết và kinh nghiệm
sống còn ít; dễ bị dụ dỗ, lôi kéo trước những cám dỗ của cuộc sống; chưa biết
kìm chế bản thân; nhận thức vấn đề còn nóng vội và chưa sâu sắc. Để quản lý
giáo dục đạo đức cho các em, cùng với việc trang bị kiến thức về tự nhiên, xã
hội và tư duy thì công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
phải được đặt lên hàng đầu, trang bị cho các em những kiến thức cần thiết
trong hành trang làm người để các em tiếp tục học lên hoặc bước vào cuộc
sống xã hội. Thực tiễn quản lý cho thấy, công tác quản lý giáo dục đạo đức
cho học sinh trung học phổ thông của thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc hiện
nay còn nhiều bất cập và nan giải. Mặc dù có sự phát triển lớn về quy mô và
chất lượng, công tác phối hợp giữa chính quyền đoàn thể trong và ngoài nhà
5
trường, sự quan tâm của đội ngũ cán bộ quản lý các cấp, bước đầu đã đem lại
những thành công nhưng vẫn còn đang bộc lộ nhiều hạn chế và vướng mắc.
Mặt khác, yếu tố then chốt để đảm bảo hiệu quả nhiệm vụ giáo dục đạo đức
cho học sinh là tăng cường hiệu lực của công tác quản lý giáo dục đạo đức
trong các khâu, các bước, các hoạt động của quy trình quản lý hiện nay đang
bị xem nhẹ, mang tính chất đối phó. Vì vậy, nghiên cứu và tìm ra các biện
pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc
yên, tỉnh Vĩnh Phúc là vấn đề mang tình thời sự và cấp thiết.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi chọn đề tài:
‘‘Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay’’ để nghiên cứu, với mong muốn đưa ra những
kiến giải khoa học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học
sinh trung học phổ thông thị xã Phúc yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta đã có nhiều tác giả nghiên cứu về đạo đức, giáo dục đạo đức
và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh. Trong đó có những công
trình tiêu biểu như:
Đề tài: “Phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” của GS.TS Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
(2001). Nghiên cứu của giáo sư đã nêu lên các định hướng giá trị đạo đức con
người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nêu
lên giải pháp cơ bản về giáo dục đạo đức cho học sinh. “Tiếp tục đổi mới
nội dung, hình thức giáo dục đạo đức trong các trường học, củng cố ý tưởng
giáo dục ở gia đình và cộng đồng, kết hợp chặt chẽ với giáo dục nhà trường
trong việc giáo dục đạo đức cho con người, kết hợp chặt chẽ giáo dục đạo
đức với việc thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp của các cơ quan thi hành
pháp luật; tổ chức thống nhất các phong trào thi đua yêu nước và các phong
6
trào rèn luyện đạo đức, lối sống cho toàn dân, trước hết cho cán bộ Đảng
viên, cho thầy cô các trường học; xây dựng một cơ chế tổ chức và chỉ đạo
thống nhất toàn xã hội, về giáo dục đạo đức, nâng cao nhận thức cho mọi
người.” [16, tr.171 - 172].
GS.TS Hà Thế Ngữ, GS.TS Đặng Vũ Hoạt đã đề cập đến vai trò, vị trí
và ý nghĩa của giáo dục đạo đức cho học sinh với giáo trình: Giáo dục học
tập 1 và tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội (1999). Các tác giả như GS Hoàng
Đức Nhuận, GS.TS Phạm Minh Hạc đã nghiên cứu định hướng giá trị đạo
đức con người Việt Nam trong thời kì Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất
nước. PGS.TS Phạm Khắc Chương với đóng góp về lý luận đạo đức trong
nhà trường hiện nay với tác phẩm: Chỉ nam nhân cách học trò, Nxb Tự
nhiên, Hà Nội (1998). “Đạo đức học”, Nhà xb Giáo dục, Hà Nội (2000).
PGS.TS Đặng Quốc Bảo với: Một số ý kiến về nhân cách thế hệ trẻ, thanh
niên, sinh viên và phương pháp giáo dục (Học viện Quản lý giáo dục, Hà
Nội). TS Nguyễn Minh Đức (1990) về: Đổi mới quản lí giáo dục một số vấn
đề lí luận và thực tiễn.
Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ, khi nghiên cứu về công tác
quản lý trường học của người hiệu trưởng đã nhấn mạnh vai trò của hiệu
trưởng trong quản lý giáo dục toàn diện cho học sinh. Đặc biệt ông chỉ rõ đặc
trưng, mục tiêu quản lý, nguyên tắc quản lý, và những công tác hành chính
mà người hiệu trưởng phải thực hiện tốt, ông cho rằng: Trường học là cơ quan
chuyên trách đào tạo con người mới của xã hội, con người mới phát triển toàn
diện cả về đức và tài, “giáo dục phổ thông là giáo dục toàn diện về văn hóa khoa học - kỹ thuật, về tư tưởng - chính trị - đạo đức, về lao động - kỹ thuật
tổng hợp và hướng nghiệp, về thể chất - quốc phòng, về thẩm mỹ, kinh tế”
[25, tr.271]. Người hiệu trưởng đóng vai trò như người nhạc trưởng, chỉ huy,
điều hành các hoạt động quản lý, giáo dục phát triển nhân cách cho học sinh.
7
Mặc dù, tác giả không đề cập trực tiếp tới quản lý giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT nhưng đã đề cập tới vai trò, chức năng, nội dung nguyên tắc quản
lý của hiệu trưởng, người đứng đầu, chịu trách nhiệm quản lý giáo dục đạo
đức cho học sinh ở các nhà trường.
Tác giả Trần Thị Tuyết Oanh khi bàn về quản lý giáo dục trong nhà
trường đã đưa ra hệ thống các vấn đề về lý luận quản lý giáo dục trong nhà
trường, các nguồn lực, các bộ phận chức năng, các nội dung công tác quản lý
hướng tới xây dựng một môi trường sư phạm mâu mực, tạo điều kiện thuận
lợi cho công tác quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh. Theo tác giả, quản lý
con người là việc làm hết sức phức tạp, quản lý trong nhà trường phải hướng
tới: “Động viên, giáo dục tập thể sư phạm thành một tập thể đoàn kết nhất trí,
gương mẫu và hợp tác, tương trợ nhau trong mọi việc. Giáo dục học sinh
phấn đấu học tập và tu dưỡng trở thành những công dân ưu tú” [12, tr.142].
Mặc dù tác giả chưa đề cập trực tiếp tới quản lý giáo dục đạo đức cho học
sinh nhưng đã nhấn mạnh các yếu tố như: Xây dựng và phát triển các nguồn
lực, tạo môi trường sư phạm, sự gương mẫu của cán bộ quản lý… Đây là
những yếu tố, biện pháp tác động trực tiếp tới công tác giáo dục đạo đức cho
học sinh.
Tác giả Bùi Minh Hiền nhấn mạnh, trong môi trường kinh tế tri thức,
người quản lý, quản lý nhà trường phải biết sử dụng tri thức là một trụ cột
then chốt xây dựng được văn hóa quản lý nhà trường. Tuy nhiên, tri thức mới
chỉ là điều kiện cần; điều kiện đủ của quản lý giáo dục phải biết dẫn dắt, duy
trì, sự tin cậy, lòng trung thành và sự tôn trọng người khác. Điều này đòi hỏi
cá nhân người quản lý phải có nghị lực, có lòng kiên trì và sự hi sinh cá nhân
[19]. Đây không chỉ là yếu tố dẫn tới thành công trong quản lý mà còn là điều
kiện cần và đủ vô cùng quan trọng của nhà quản lý khi thực hiện quản lý giáo
dục đạo đức cho học sinh, một nhiệm vụ vô cùng nặng nề. Trong xu thế hội
8
nhập, quản lý thực hiện các nội dung giáo dục, trong đó có quản lý giáo dục
đạo đức cho học sinh ngày một nặng nề hơn, nhận thức được điều đó, tác giả
đã đưa giải pháp cơ bản để đổi mới quản lý giáo dục nói chung, quản lý giáo
dục đạo đức cho học sinh nói riêng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Tác giả Trần Kiểm khi nghiên cứu về các phương pháp quản lý, ông
nhấn mạnh phương pháp giáo dục - tâm lý, đây là phương pháp hiệu quả
trong quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh. “Đặc trưng của phương pháp
này là tính thuyết phục, làm cho con người hiểu rõ đúng - sai, phải - trái, tốt xấu, lợi - hại, thiện - ác, từ đó để nâng cao tính tự giác làm việc và sự gắn bó
với tổ chức” [22, tr.91]. Đây không chỉ là biện pháp giáo dục đạo đức mang
lại hiệu quả trực tiếp, thiết thực cho học sinh mà còn thể hiện tính nhân văn
sâu sắc. Thực tiễn công tác quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh hiện nay
vẫn còn mệnh lệnh hóa và chưa gắn với thực tiễn, chưa phù hợp với đặc điểm
học sinh. Cho nên, kết quản của quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh vẫn
chưa đạt được theo mong muốn.
Ngoài ra, khi nghiên cứu về quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông hiện nay có rất nhiều Luận văn Thạc sĩ của các tác giả
như: Võ Huỳnh Ngọc Vân, Dương Thị Trúc Bạch, Trần Thị Thu Hương,
Nguyễn Thanh Bình, Trần Huy Rần, Phạm Phương Bằng ... Các công trình đã
nghiên cứu quản lý giáo dục đạo đức của học sinh thuộc các độ tuổi phổ
thông khác nhau và với chủ thể quản lý là hiệu trưởng, ở các vùng miền khác
nhau của cả nước. Đây là điều thuận lợi cho tác giả kế thừa khi nghiên cứu.
Nhìn chung, các đề tài nghiên cứu trên đi sâu vào việc xác định các nội dung
giáo dục đạo đức, định hướng các giá trị đạo đức, thực trạng và tìm ra giải
pháp cho công tác giáo dục đạo đức và nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
cho học sinh trung học phổ thông. Mặc dù vậy vẫn chưa có đề tài nào đi sâu
nghiên cứu biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh các trường trung
9
học phổ thông ở thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Vì vậy tôi chọn đề tài này
với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc đưa ra các biện pháp quản lý giáo
dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông, nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức cho học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn
thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục đạo
đức cho học sinh phổ thông trên địa bàn thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông.
Đánh giá đúng thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường trung học phổ thông ở thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đề xuất những vấn đề có tính nguyên tắc và giải pháp quản lý giáo dục
đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn thị xã Phúc Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Hoạt động quản lý giáo dục đạo đức của các trường trung học phổ thông.
* Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu một số biện pháp quản lí giáo dục đạo đức
cho học sinh ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thị xã Phúc Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc. Số liệu sử dụng từ năm 2009 đến nay.
10
5. Giả thuyết nghiên cứu
Chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh các trường trung học phổ
thông trên địa bàn thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc còn nhều vấn đề cần phải
giải quyết và chịu sự tác động của nhiều nhân tố kinh tế - xã hội khác nhau.
Tuy nhiên, nếu các chủ thể quản lý giáo dục trong nhà trường xác định rõ kế
hoạch, trên cơ sở đó tổ chức tốt việc phối hợp các lực lượng giáo dục của nhà
trường, gia đình và xã hội, đồng thời chỉ đạo sát sao về nội dung, phương
pháp giáo dục đạo đức phù hợp với những chuẩn mực chung và đặc điểm của
nhà trường, áp dụng một cách đồng bộ các biện pháp quản lí giáo dục đạo đức
trong như tác giả đã nghiên cứu và đề xuất, thì chất lượng giáo dục đạo đức
học sinh sẽ được nâng cao nhiều hơn nữa.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp luận của giáo dục học, và khoa
học quản lý giáo dục.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: Hệ thống - Cấu trúc, Lịch sử - Logic, phân tích tổng hợp, tổng
kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
* Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng kết hợp
các phương pháp sau:
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết là phân tích các tài liệu, văn
bản để tìm hiểu các khái niệm, thuật ngữ, vấn đề lý luận liên quan đến quản lý
giáo dục đạo đức học sinh, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu lý luận
chuyên ngành, liên ngành và nghiên cứu các tài liệu kinh điển, các văn kiện,
Nghị quyết, chỉ thị, quy chế của Đảng các cấp; các văn bản pháp luật, chính
sách của Đảng, Nhà nước để xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
11
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn như:
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Nhằm tổng kết các kinh nghiệm
quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh cho học sinh trung học phổ thông ở thị
xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc những năm gần đây.
+ Phương pháp điều tra khảo sát bằng phiếu hỏi: Nhằm thu thập thông
tin từ đội ngũ cán bộ quản lý, các giáo viên và học sinh của các trường trung
học phổ thông về thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh các trường
trung học phổ thông ở thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Dự kiến khảo sát 12
cán bộ lãnh đạo, quản lý; 200 giáo viên, cán bộ Đoàn, cha mẹ học sinh; 500
học sinh tại 4 trường trung học phổ thông ở thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia được sử dụng để tham khảo ý kiến
của một số nhà khoa học, nhà sư phạm, nhà quản lý để thu thập các thông tin
cần thiết liên quan đến đề tài, xem xét thực trạng các biện pháp được đề xuất.
- Phương pháp toạ đàm, phỏng vấn, trò chuyện, hội thảo, phương pháp
sử lý số liệu bằng thống kê toán học được sử dụng để xác định tính cấp thiết
và tính khả thi của các biện pháp được đưa ra.
7. Ý nghĩa của đề tài
Tổng kết thực tiễn công tác quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông trên địa bàn thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, chỉ ra
những bài học thành công và hạn chế, cung cấp cơ sở khoa học để xây
dựng biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
phù hợp.
Kết quả nghiên cứu có thể được áp dụng trực tiếp cho các trường trung
học phổ thông ở thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và các trường
trung học phổ thông nói chung.
8. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, 3 chương (9 tiết), kết luận và kiến nghị, tài liệu
tham khảo và phụ lục.
12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm giáo dục đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm tập hợp những nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh, đánh giá thái độ và hành vi
ứng xử của con người với con người, con người với xã hội. Đạo đức phản ánh
những quan hệ xã hội hiện thực được hình thành trên cơ sở kinh tế, xã hội
nhất định. Khi cơ sở kinh tế, xã hội thay đổi thì ý thức đạo đức cũng thay đổi.
Vì vậy, mỗi hình thái kinh tế xã hội, mỗi giai đoạn lịch sử đều có những
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức tương ứng. Đạo đức của mỗi con người gắn
liền với hành vi cá nhân, được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức mang tính lịch sử, tính dân
tộc và tính giai cấp.
Như vậy, đạo đức là những tiêu chuẩn, những nguyên tắc quy định
hành vi quan hệ của con người với nhau và đối với xã hội. Đạo đức là những
phẩm chất tốt đẹp của con người theo những tiêu chuẩn, đạo đức của một
giai cấp nhất định.
Giáo dục đạo đức có ý nghĩa quan trọng đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách của mỗi cá nhân. Giáo dục đạo đức là một quá trình lâu dài,
liên tục và phải được sự ủng hộ, phối hợp không những giữa các lực lượng
giáo dục trong nhà trường mà còn giữa nhà trường với gia đình, các lực lượng
ngoài xã hội cũng như sự tự giác rèn luyện của bản thân học sinh. Nghiên cứu
về giáo dục đạo đức, trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, các tác giả đưa ra
những quan niệm khác nhau:
Theo nghĩa rộng, thì giáo dục đạo đức là lĩnh vực hoạt động xã hội nhằm
truyền đạt những kinh nghiệm xã hội lịch sử, chuẩn bị cho thế hệ trẻ trở thành
13
lực lượng nối tiếp sự phát triển xã hội, kế thừa và phát triển nền văn hóa của loài
người và của dân tộc. Theo cách tiếp cận này, tác giả Hà Nhật Thăng cho rằng:
“Giáo dục đạo đức là hình thành ở mọi công dân thái độ đúng đắn, tình cảm
niềm tin đạo đức trong sáng đối với bản thân, mọi người, với sự nghiệp cách
mạng của Đảng, dân tộc và với mọi hiện tượng xảy ra xung quanh” [34, tr.209].
Đồng quan điểm đó, tác giả Phạm Minh Hạc đã định nghĩa: “Giáo dục đạo đức
là một quá trình kết hợp nâng cao nhận thức với hình thành thái độ, cảm xúc,
tình cảm, niềm tin và hành vi, thói quen đạo đức” [16, tr.156].
Theo nghĩa hẹp, giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có
kế hoạch, có quy trình chặt chẽ nhằm hình thành thái độ, hành vi đạo đức cho
thanh, thiếu niên theo mô hình nhân cách mà xã hội mong muốn. Tác giả
Phạm Viết Vượng đã định nghĩa: “Giáo dục đạo đức là quá trình tác động tới
học sinh để hình thành cho họ ý thức, tình cảm và niềm tin đạo đức và mục
đích cuối cùng là tạo lập được những thói quen hành vi đạo đức” [37, tr.172].
Mặc dù cách tiếp cận khác nhau, nhưng các khái niệm đều cho thấy,
bản chất của giáo dục đạo đức là quá trình biến hệ thống các nguyên tắc,
chuẩn mực xã đạo đức từ bên ngoài xã hội thành những đòi hỏi bên trong cá
nhân. Đó là quá trình khách thể hóa chủ thể, được chủ thể tiếp nhận một cách
tích cực nhằm đáp ứng các yêu cầu về đạo đức mà xã hội mong muốn. Qua
đó, hình thành và phát triển ý thức, tình cảm, niềm tin và thói quen hành vi
đạo đức cho đối tượng giáo dục. Với cách hiểu như vậy, theo chúng thôi thì:
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà
giáo dục tới đối tượng giáo dục nhằm hình thành cho họ ý thức, tình cảm và
niềm tin đạo đức, tạo lập được thói quen hành vi đạo đức đáp ứng mục tiêu
giáo dục của nhà trường.
Quá trình giáo dục đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với giáo dục chính
trị tư tưởng, gắn bó chặt chẽ với giáo dục pháp luật, những quy tắc, chuẩn
mực về quyền lợi và nghĩa vụ của người công dân xã hội chủ nghĩa.
14
1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông đang bị chi phối
mạnh mẽ bởi đặc điểm lứa tuổi của các em.
Học sinh trung học phổ thông có độ tuổi thường từ 15 đến 18 tuổi, đang
trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ về thể lực, tâm lý, sinh lý. Đây là thời kỳ
các em gia nhập tích cực vào đời sống xã hội và hình thành cơ sở nhân cách
của người công dân trong tương lai, với nhiều đặc điểm cơ bản nổi bật như:
Học sinh trung học phổ thông là lứa tuổi giàu ước mơ hoài bão, có khát
vọng được cống hiến, mong muốn được xã hội ghi nhận, thể hiện lý tưởng
sống cao đẹp; các em có ý thức rèn luyện phẩm chất đạo đức, có ý chí vươn
lên trong học tập, chiếm lĩnh tri thức khoa học để “lập thân”, “lập nghiệp”. Là
giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh xuân nên đây là thời kỳ thích hợp nhất để
giáo dục đạo đức, ý thức, tinh thần tự tôn dân tộc của người công dân, hình
thành thế giới quan, nhân sinh quan khoa học cho các em.
Học sinh trung học phổ thông là lứa tuổi dồi dào về thể lực, trí tuệ, cảm
xúc, nhạy bén, thích tìm tòi cái mới, thông minh, năng động, sáng tạo. Có ý
thức học hỏi, có khát vọng tìm đến cái “chân, thiện, mỹ”; mong muốn tự
khẳng định bản thân với gia đình và xã hội, các em rất hứng thú khi tham gia
vào các hoạt động xã hội. Lứa tuổi này cũng nhận thức được các quy tắc, các
chuẩn mực đạo đức xã hội, có ý thức chính trị rõ nét, có lý tưởng và lẽ sống
đúng đắn, có ý thức tự học và tu dưỡng phẩm chất đạo đức. Mặt khác, các em
có khả năng giao lưu phong phú, tự tôn, phóng khoáng, hào hiệp, nhiệt tình,
hăng hái trước những khó khăn, thử thách của cuộc sống. Về tâm lý, các em
đang chịu sự ảnh hưởng của “khủng hoảng” tuổi thanh niên cho nên đôi khi
nhận thức và hành động không đi liền với nhau. Do kinh nghiệm sống của các
em còn hạn chế nên tính tình của các em hay nông nổi, nóng vội, hấp tấp, có
những hành vi thiếu suy nghĩ, bồng bột. Nhận thức được đặc điểm này giúp
15
cho nhà giáo dục lường trước được các thuận lợi và khó khăn khi tổ chức các
hoạt động giáo dục. Đồng thời có sự thông cảm và chia sẻ với các em trong
quá trình giáo dục, đặc biệt khi sử dụng các phương pháp giáo dục.
Học sinh trung học phổ thông là lứa tuổi phát triển tình cảm phong phú:
Ở học sinh xuất hiện những tình cảm lớn như tình cảm dân tộc, quốc gia,
nhân loại; có lòng nhân ái, biết sống có nghĩa tình, có ý thức làm việc thiện;
tình bạn phát triển mạnh mẽ, tình yêu nam nữ nảy nở. Cho nên, đây là giai
đoạn “nhạy cảm” trong việc giáo dục nâng cao nhận thức và hành vi về các
quan hệ xã hội, giao tiếp xã hội theo đúng chuẩn mực xã hội. Giáo dục đạo
đức truyền thống dân tộc, tinh thần quốc tế, tính nhân văn, nhân đạo. Tuy
nhiên, do tác động của mặt trái kinh tế thị trường, xu thế hội nhập, sự du nhập
của các luồng văn hóa, tư tưởng ngoại lai dẫn đến: Một bộ phận học sinh có
biểu hiện định hướng chính trị - xã hội còn mờ nhạt; lý tưởng, niềm tin chưa
vững chắc; ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm công dân chưa cao, mơ hồ;
có xu hướng thực dụng, đua đòi chạy theo cái mới, chạy theo thị hiếu tầm
thường, dễ sa ngã, bị cuốn vào những tiêu cực về đạo đức của xã hội, nhìn
nhận và đánh giá con người, xã hội hay siêu hình, cực đoan.
Học sinh trung học phổ thông là lứa tuổi dồi dào về thể lực, phong phú
về tinh thần, phức tạp về tính cách và hành vi. Đây cũng là thời kỳ nhận thức
và hiểu biết các phẩm chất đạo đức của nhân cách sâu sắc hơn trước. Do đó,
giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ngoài việc phải căn cứ
vào các đặc điểm tâm, sinh lý và đặc điểm đạo đức của họ để xác định
phương châm giáo dục phù hợp còn phải quan tâm, chú ý tới môi trường sống
đang thay đổi quanh các em để xây dựng và phát triển các phẩm chất đạo đức
một cách bền vững.
Từ những phân tích ở trên, theo chúng tôi: Giáo dục đạo đức cho học
sinh trung học phổ thông là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của
16
nhà giáo dục tới học sinh nhằm hình thành cho họ ý thức, tình cảm và niềm
tin đạo đức, tạo lập được thói quen hành vi đạo đức đáp ứng mục tiêu giáo
dục của nhà trường.
Giáo dục đạo đức là hình thành cho con người những nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức của xã hội. Nhờ đó, con người có khả năng lựa chọn,
đánh giá đúng các hiện tượng đạo đức xã hội cũng như có những hành vi đạo
đức phù hợp với chuẩn mực xã hội. Công tác giáo dục đạo đức góp phần vào
việc hình thành, phát triển nhân cách phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của con người. Vì vậy, bản chất của giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
phổ thông là quá trình biến những hệ thống các chuẩn mực đạo đức, từ những
yêu cầu đòi hỏi bên ngoài của xã hội (được nhà trường trung học phổ thông
lựa chọn) thành những nhu cầu, đòi hỏi từ bên trong của học sinh, được biểu
hiện trong mối quan hệ, ứng xử hằng ngày với thầy cô, với bạn bè và với cộng
đồng xã hội, từ đó biến thành niềm tin, thói quen, nhu cầu thực hiện hành vi
đạo đức cho học sinh.
Giáo dục đạo đức được thực hiện ở các môi trường giáo dục khác nhau.
Trường học được xác định là một môi trường quan trọng, hiệu quả trong việc
tổ chức giáo dục đạo đức. Vì vậy, mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông bao gồm:
Mục tiêu về nhận thức: Giáo dục cho học sinh hiểu bản chất của đạo
đức, các nguyên tắc, nội dung, chuẩn mực đạo đức của người Việt Nam thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; sự cần thiết phải rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức bản thân theo yêu cầu của các chuẩn mực đạo đức xã hội để
trở thành công dân tốt; nâng cao nhận thức chính trị, nắm vững quan điểm
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phát triển con người
toàn diện, có nhân sinh quan trong sáng, có quan điểm rõ ràng về lối sống
thích ứng với những thực tiễn phát triển của xã hội.
17
Mục tiêu về thái độ: Có thái độ đúng đắn, trong sáng trong các mối
quan hệ xã hội, với mọi người và môi trường sống; sống có tình cảm và lòng
biết ơn sâu sắc đối với các thế hệ cha anh đã hi sinh vì Tổ quốc; có thái độ rõ
ràng, đúng đắn đối với các hiện tượng đạo đức trong xã hội.
Mục tiêu về hành vi: Tích cực học tập và rèn luyện trong lao động,
trong tập thể và hoạt động xã hội; có thói quen thường xuyên rèn luyện hành
vi đạo đức trong các mối quan hệ xã hội; tự giác chấp hành và vận động
người thân và xã hội cùng chấp hành nghiêm các chuẩn mực đạo đức, có lối
sống lành mạnh, trong sáng của người học sinh; tích cực đấu tranh với những
biểu hiện của lối sống thực dụng, hưởng thụ.
Giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường phổ thông hướng tới
thực hiện các nhiệm vụ sau:
Giáo dục ý thức đạo đức: Là cung cấp cho cho học sinh những tri thức
cơ bản về phẩm chất đạo đức và các chuẩn mực đạo đức, trên cơ sở đó hình
thành niềm tin đạo đức.
Giáo dục tình cảm đạo đức: Là khơi gợi ở học sinh những rung động,
cảm xúc tích cực với hiện thực xung quanh, biết yêu, ghét rõ ràng, có thái độ
đúng đắn với các hiện tượng phức tạp trong đời sống xã hội.
Giáo dục thói quen hành vi đạo đức: Là tổ chức cho học sinh lặp đi, lặp
lại nhiều lần những hành động đạo đức trong học tập, sinh hoạt và trong cuộc
sống nhằm tạo được hành vi đạo đức đúng đắn, hình thành thói quen và nhu
cầu thực hiện hành vi đạo đức.
Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông hướng tới thực
hiện các nội dung cơ bản sau:
Những chuẩn mực thể hiện về tư tưởng, chính trị: Sống có lý tưởng, có
hoài bão ước mơ; yêu quê hương, đất nước; tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, đường lối, chính sách và pháp luật của Nhà nước; giáo dục lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
18
Những chuẩn mực về đạo đức, lối sống: Biết tự hoàn thiện và phát triển
bản thân; lòng tự trọng, tự tin, tự lập; giản dị, tiết kiệm; trung thực, siêng
năng. Những chuẩn mực đạo đức lối sống thể hiện quan hệ với mọi người
xung quanh và xã hội, có lòng biết ơn và kính trọng; sống nhân nghĩa, thuỷ
chung, chân thành; cầu thị, ham học hỏi và biết lắng nghe; có ý thức công
cộng, vì sự phát triển chung, bảo vệ môi trường sống và mối quan hệ đoàn kết
dân cư; đấu tranh cho một thế giới hoà bình, ổn định, bình đẳng, dân chủ và
phát triển.
Những chuẩn mực đạo đức trong công việc: Có tinh thần trách nhiệm
cao, tôn trọng pháp luật, lẽ phải; dũng cảm, liêm khiết, tiết kiệm; chí công, vô
tư; giáo dục các chuẩn mực đạo đức thể hiện quan hệ với con người, với công
việc; giáo dục thái độ đúng đắn đối với môi trường sống.
Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông bao
gồm 3 nhóm cơ bản. Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cá nhân. Bao
gồm các phương pháp cụ thể: Phương pháp thuyết phục; phương pháp đàm
thoại; phương pháp tranh luận; phương pháp nêu gương. Nhóm các phương
pháp tổ chức hoạt động xã hội và hình thành kinh nghiệm ứng xử. Bao gồm
các phương pháp cụ thể như: Đòi hỏi sư phạm; phương pháp luyện tập;
phương pháp rèn luyện; phương pháp giao công việc; phương pháp tạo dư
luận xã hội; phương pháp tạo tình huống giáo dục. Nhóm các phương pháp
kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử của học sinh. Bao gồm:
Phương pháp thi đua; phương pháp khen thưởng; phương pháp trách phạt.
Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông qua các hình thức
cơ bản sau:
Thông qua dạy học các môn học. Qua dạy học các môn khoa học xã hội
và các môn khoa học tự nhiên, đặc biệt là các môn Văn học, Lịch sử, Địa lý,
Giáo dục công dân... nhằm trang bị cho học sinh kiến thức của các môn học
19
có liên quan đến giá trị, thái độ và cách cư xử, hành vi đạo đức trong xã hội,
giúp họ có nhận thức, thái độ và hành vi đúng trong rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức bản thân, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Thông qua tổ chức lao động. Qua lao động, giáo dục cho học sinh nhận
thức đúng về mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi trong lao động, quý
trọng sức lao động, biết làm các công việc phục vụ bản thân và giúp đỡ mọi
người xung quanh… qua đó có thái độ đúng với lao động, yêu lao động, biết
bảo vệ, chân trọng thành quả lao động của mình và người khác.
Thông qua tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Các hoạt động
ngoại khoá tương ứng sẽ giúp học sinh hình thành niềm tin, rèn luyện kỹ năng
và thói quen hành vi ứng xử, giao tiếp có văn hoá, phù hợp với các chuẩn
mực. Hoạt động ngoại khoá giúp các em có cuộc sống lành mạnh, vui tươi,
sôi nổi, gắn bó và đoàn kết với nhau.
Thông qua hình thức tự rèn, tự tu dưỡng, tự hoàn thiện nhân cách. Đây
là hình thức giáo dục cơ bản, quan trọng nhất, học sinh vừa là khách thể
nhưng lại là chủ thể của quá trình tự giáo dục, trình độ đạo đức của học sinh
phải do chính họ quyết định. Thông qua tự học, tự rèn, tự hoàn thiện nhằm
phát huy yếu tố nội lực giúp các em tự tạo hàng rào miễn dịch, biết tự lựa
chọn cách hành vi, thái độ ứng xử đạo đức phù hợp.
Giáo dục đạo đức cho học sinh bằng sự gương mẫu của người thầy.
Giáo dục đạo đức là quá trình dùng nhân cách để giáo dục nhân cách. Sự
gương mẫu, mô phạm của người thầy là tấm gương trực tiếp và hiệu quả nhất
trong giáo dục đạo đức cho học sinh.
1.1.3. Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
Quản lý là một khái niệm rộng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó,
khái niệm quản lý luôn gắn với các loại hình quản lý cụ thể. Trong mỗi cách
tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những khái niệm khác nhau:
20
Trong nghiên cứu của mình tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị
Mỹ Lộc đã nhấn mạnh về vai trò và chức năng của quản lý, coi quản lý là quá
trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức
năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra [27].
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang [31] và Trần Khánh Đức [13] cho rằng,
quản lý là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản nhằm
định hướng, tổ chức các hoạt động của khách thể quản lý hay các nguồn nhân
lực để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
Theo chúng tôi thì: Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lý một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm đạt được mục đích.
Nói cách khác, quản lý là thực hiện những công việc của cấp trên có tác dụng
định hướng, điều tiết, phối hợp với các hoạt động của cấp dưới, của những
người dưới quyền. Biểu hiện cụ thể qua việc lập kế hoạch hoạt động, đảm bảo
tổ chức, điều phối, kiểm tra, kiểm soát. Hướng được sự chú ý của con người
vào một hoạt động nào đó, điều tiết được nguồn nhân lực, phối hợp được các
hoạt động bộ phận.
Ở bất kỳ một nhà trường phổ thông nào cũng phải làm tốt hai nhiệm vụ
“Dạy chữ” và “Dạy người”. Vì vậy, quản lý giáo dục với đặc trưng cơ bản là
quản lý con người, được đo bằng kết quả thực hiện các mục tiêu quản lý,
trong đó mục tiêu giáo dục là cơ bản. Quản lý giáo dục chứa đựng các nhân tố
đặc trưng như: Chủ thể quản lý, khách thể quản lý, hệ thống các tác động
quản lý theo một nội dung, chương trình, kế hoạch nhằm thực hiện mục đích
giáo dục trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội. Quản lý giáo dục nói
chung và quản lý nhà trường nói riêng khác với các lĩnh vực quản lý khác,
quản lý giáo dục hướng tới giúp học sinh phát triển toàn diện về các phẩm
chất nhân cách của con người Việt Nam, chuẩn bị cho họ có đủ phẩm chất cần
thiết để tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động hay tham gia bảo vệ
21
Tổ quốc. Với các ý nghĩa đó, theo chúng tôi: Quản lý giáo dục là sự tác động
của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu quản
lý trong nhà trường.
Tùy theo đối tượng quản lý mà quản lý giáo dục có nhiều cấp độ khác
nhau: Quản lý giáo dục ở cấp độ vĩ mô (quản lý hệ thống giáo dục). Ở cấp độ
này, quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác, có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật của chủ thể quản lý giáo dục
các cấp đến các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng
và hiệu quả việc tổ chức, huy động, điều phối, giám sát và điều chỉnh các
nguồn lực giáo dục để hệ thống giáo dục vận hành đạt được mục tiêu phát
triển giáo dục. Quản lý giáo dục ở cấp vi mô (quản lý một cơ sở giáo dục). Ở
cấp độ này, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác, có
ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật của chủ thể
quản lý một cơ sở giáo dục đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể
người học và các lực lượng tham gia giáo dục khác trong và ngoài cơ sở giáo
dục đó, để thực hiện có chất lượng và hiệu quả hoạt động giáo dục và dạy
học, nhằm làm cho cơ sở giáo dục vận hành luôn ổn định và phát triển để đạt
tới mục tiêu đào tạo của cơ sở giáo dục đó.
Quản lý giáo dục đạo đức là một nội dung của quản lý giáo dục toàn
diện trong nhà trường, là quá trình tác động có mục đích, có ý thức của chủ
thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu giáo dục đạo đức một
cách hiệu quả nhất.
Về bản chất quản lý giáo dục đạo đức là quá trình tác động có định
hướng, được tổ chức một cách chặt chẽ của chủ thể quản lý lên các thành tố
tham gia vào quá trình hoạt động giáo dục đạo đức, đặc biệt là học sinh nhằm
thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục đạo đức trong nhà trường trung học
phổ thông. Hay nói cách khác, quản lý giáo dục đạo đức là hoạt động điều
22
hành việc giáo dục đạo đức cho học sinh nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục
đạo đức của nhà trường và của nền giáo dục.
Chủ thể quản lý hoạt động giáo dục đạo đức bao gồm: Chi uỷ, Ban Giám
hiệu nhà trường; giáo viên chủ nhiệm lớp; Ban cán sự lớp, Ban chấp hành chi
đoàn lớp. Trong đó Chi uỷ, Ban Giám hiệu nhà trường; giáo viên chủ nhiệm
lớp; Ban cán sự lớp, Ban chấp hành chi đoàn lớp là chủ thể trực tiếp lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Trong xã hội nói chung và nhà trường nói riêng quản lý giáo dục đạo
đức là hướng tới việc phát triển toàn diện nhân cách cho con người. Mục tiêu
của quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông là làm cho quá
trình giáo dục đạo đức vận hành đồng bộ, hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức. Mục tiêu quản lý hoạt động giáo dục đạo đức bao gồm:
Về nhận thức: Giúp cho mọi người, mọi ngành, mọi cấp, mọi tổ chức
xã hội có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của hoạt động quản lý giáo
dục đạo đức, nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề phát triển con người toàn diện.
Về thái độ tình cảm: Giúp mọi người biết ủng hộ những việc làm đúng,
đấu tranh với những việc làm trái pháp luật, có thái độ đúng đắn với hành vi
của bản thân, đối với việc quản lý giáo dục đạo đức.
Về hành vi: Tích cực tham gia quản lý việc giáo dục đạo đức , tham gia
hoạt động tập thể, hoạt động xã hội. Tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân theo
chuẩn mực đạo đức chung của xã hội.
Quản lý giáo dục đạo đức có các chức năng sau:
Chức năng kế hoạch hoá: Kế hoạch hoá việc quản lý giáo dục đạo đức
là đưa mọi hoạt động giáo dục đạo đức vào công tác kế hoạch với mục tiêu
biện pháp rõ ràng, bước đi cụ thể với các điều kiện cần thiết cho việc thực
hiện mục tiêu giáo dục đạo đức. Để thực hiện điều này, nhà quản lý phải xác
23
định rõ các mục tiêu cần đạt tới, lập chương trình hoạt động, lựa chọn các
phương pháp và biện pháp thực hiện, thông qua và trình duyệt, điều chỉnh và
hoàn thiện kế hoạch.
Chức năng tổ chức thực hiện: Là giai đoạn hiện thực hoá những ý
tưởng đã được kế hoạch hoá, là sự sắp đặt những con người, bố trí công việc
một cách khoa học, hợp lý; là sự phối hợp các tác động bộ phận để tạo ra các
tác động thích hợp mà hiệu quả đạt được lớn hơn nhiều so với tổng số các
hiệu quả của các tác động thành phần. Các hành động cụ thể trong thực hiện
kế hoạch: Thông báo kế hoạch, chương trình hành động đến các thành viên
trong trường; xác định cơ cấu bộ máy, bố trí các bộ phận và cá nhân đúng
người, đúng việc; từng bộ phận tiếp nhận và phân phối các nguồn lực theo cấu
trúc bộ máy; xác lập cơ chế phối hợp giữa các bộ phận và các thành viên.
Chức năng chỉ huy, điều hành: Xác lập quyền chỉ huy và sự can thiệp
của người lãnh đạo trong toàn bộ quá trình quản lý; là sự huy động mọi lực
lượng vào thực hiện kế hoạch và điều hành nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động
diễn ra trong kỉ cương, trật tự. Nội dung của việc chỉ đạo bao gồm: Chỉ huy,
ra lệnh, động viên khuyến khích thường xuyên, kịp thời, theo dõi và giám sát,
điều chỉnh, sửa chữa, bù đắp, chỉnh lý.
Chức năng kiểm tra: Kiểm tra được diễn ra ở mọi giai đoạn của quá
trình quản lý giáo dục đạo đức nhưng thể hiện tập trung nhất ở giai đoạn cuối
cùng của quá trình quản lý. Nội dung của kiểm tra gồm: Đánh giá tiến độ, tốc
độ, nhịp độ của quá trình quản lý so với kế hoạch đã định; xác định chính xác
những mức độ đạt được so với các mục tiêu đã đề ra; phát hiện những lệch
lạc, sai sót cũng như những nguyên nhân của chúng; phát hiện những vấn đề
mới nảy sinh trong thực tiễn cần tiếp tục giải quyết; rút ra các bài học kinh
nghiệm cho việc quản lý tiếp theo.
24
Như vậy, từ chức năng cơ bản của quản lý giáo dục đạo đức cho học
sinh trung học phổ thông thì các hoạt động quản lý cơ bản của chủ thể quản
lý giáo dục đạo đức trong nhà trường bao gồm:
Xây dựng kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức: Phân tích thực trạng giáo
dục đạo đức trong năm học của ngành, trường, địa phương; xác định điều kiện
giáo dục như: Cơ sở vật chất, tài chính, quỹ thời gian, sự phối hợp với lực
lượng giáo dục trong trường và ngoài trường.
Tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức: Giải thích mục tiêu, yêu
cầu của kế hoạch đạo đức; thảo luận biện pháp thực hiện kế hoạch; sắp xếp bố
trí nhân sự, phân công trách nhiệm quản lý, huy động cơ sở vật chất, kinh tế;
định rõ tiến trình, tiến độ thực hiện, thời gian bắt đầu, thời hạn kết thúc.
Chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức: Là chỉ huy, ra lệnh cho
các bộ phận trong nhà trường thực hiện những nhiệm vụ để bảo đảm việc giáo
dục đạo đức diễn ra đúng hướng, đúng kế hoạch, tập hợp và phối hợp với các
lực lượng giáo dục sao cho đạt hiệu quả.
Kiểm tra, đánh giá giáo dục đạo đức: Kiểm tra định kỳ, thường xuyên, đột
xuất, trực tiếp, hoặc gián tiếp để giúp học sinh hiểu rõ hơn về những hoạt động
của mình, khẳng định được mình, từ đó hoạt động tích cực hơn, tự giác hơn, biết
tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu chung của xã hội.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh là
làm cho quá trình giáo dục đạo đức đạt được mục đích, đó là hình thành cho
học sinh ý thức, tình cảm và niềm tin đạo đức, tạo lập được những hành vi,
thói quen đạo đức, đáp ứng được mục tiêu giáo dục của nhà trường và nền
giáo dục. Từ những khái niệm và phân tích ở trên, theo chúng tôi thì: Quản lý
giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông là quá trình tác động có
mục đích, có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đạt mục
tiêu giáo dục đạo đức của nhà trường một cách hiệu quả nhất.
25
1.2. Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
1.2.1. Quản lý mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
phổ thông
Quản lý mục tiêu giáo dục đạo đức chính là việc thiết kế mục tiêu, quán
triệt mục tiêu đến toàn bộ các lực lượng giáo dục trong nhà trường và tổ chức
quản lý có hiệu quả hoạt động giáo dục đạo đức, làm cho kết quả cuối cùng
đạt được mục tiêu đề ra. Để quản lý tốt mục tiêu giáo dục đạo đức cho học
sinh, chủ thể quản lý giáo dục phải dựa trên cơ sở pháp lý quy định trong Luật
Giáo dục, Điều lệ trường trung học phổ thông, Quy chế giáo dục - đào tạo của
nhà trường và các văn bản pháp quy khác. Phải quản lý tốt từ khâu thiết kế
mục tiêu đến hoạt động tổ chức thực hiện mục tiêu và phải phát huy tốt vai trò
của hệ thống quản lý giáo dục nhà trường trong quản lý mục tiêu, biến mục
tiêu thành hiện thực. Quản lý mục tiêu giáo dục đạo đức bao gồm:
Quản lý mục tiêu về nhận thức: Giúp cho mọi người, mọi ngành, mọi
cấp, mọi tổ chức xã hội có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công
tác giáo dục đạo đức và quản lý giáo dục đạo đức; nắm vững quan điểm chủ
nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục đạo đức, phát
triển con người toàn diện.
Quản lý mục tiêu về thái độ: Giúp cá nhân, tập thể biết ủng hộ những
việc làm đúng, đấu tranh với những thái độ và hành vi sai trái với các chuẩn
mực xã hội; có thái độ đúng đắn với bản thân, với xã hội và người khác trong
quản lý giáo dục đạo đức.
Quản lý mục tiêu về hành vi: Tích cực tham gia quản lý và tổ chức công
tác giáo dục đạo đức, hoạt động tập thể xã hội, hoạt động xã hội, tự rèn luyện,
tự tu dưỡng theo chuẩn mực chung của xã hội.
1.2.2. Quản lý xây dựng kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức
Chỉ đạo công tác xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức, đảm bảo sao
cho kế hoạch phải vừa bao quát, vừa cụ thể phù hợp với từng đối tượng khác
26
nhau, kế hoạch phải đảm bảo tính khả thi. Nội dung của việc xây dựng kế
hoạch giáo dục đạo đức là: Xác định hình thành mục tiêu, phương hướng đối
với nhà trường về công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông; xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các nguồn
lực của nhà trường để đạt được những mục tiêu đề ra về công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh; quyết định xem những hoạt động nào là cấp thiết để đạt
được mục tiêu đã đề ra.
Như vậy, để xây dựng kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
chúng ta cấp thiết phải xác định mục đích, các biện pháp để đạt mục đích, xác
định các yếu tố ảnh hưởng từ bên trong, bên ngoài, dự báo những biến đổi,
vận hội, nguy cơ và xác định những khó khăn, thuận lợi để xây dựng kế hoạch
cho phù hợp với nhà trường, địa phương trong điều kiện thực tế để kế hoạch
có thể thực hiện thành công, đạt được mục tiêu đề ra.
1.2.3. Quản lý tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức
Tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh là quá trình
hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận
trong nhà trưởng để giúp họ thực hiện thành công các kế hoạch và đặt ra mục
tiêu tổng thể của nhà trường về giáo dục đạo đức cho học sinh. Tổ chức thực
hiện kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh cần được tiến hành theo các
bước sau:
Bước 1: Lập danh sách những công việc cần phải hoàn thành để đạt
được mục tiêu về giáo dục đạo đức của nhà trường.
Bước 2: Phân chia toàn bộ những công việc thành những những nhiệm
vụ cụ thể để các thành viên hay các bộ phận trong trường thực hiện một cách
thuận lợi và hợp logic, có thể gọi đây là bước phân công lao động.
Bước 3: Kết hợp các nhiệm vụ một cách logic và hiệu quả, nhóm gộp
nhiệm vụ cũng như các thành viên như vậy gọi là bước phân chia bộ phận.
27
Bước 4: Thiết lập một cơ chế điều phối. Sự liên kết hoạt động của các
cá nhân, các nhóm, các bộ phận một cách hợp lý sẽ tạo điều kiện để đạt được
mục tiêu một cách dễ dàng và hiệu quả.
Bước 5: Theo dõi, đánh giá và có những điều chỉnh cấp thiết.
1.2.4. Quản lý chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức
Sau khi kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh đã được thành lập, cơ
cấu bộ máy đã được hình thành, nhân sự đã được tuyển chọn thì phải có sự
lãnh đạo, chỉ đạo, dẫn dắt. Lãnh đạo bao hàm việc liên hệ với các cá nhân và
động viên họ hoàn thành nhiệm vụ. Việc lãnh đạo không phải chỉ có sau khi
lập kế hoạch và tổ chức thực hiện mà nó đã được thấm vào ảnh hưởng quyết
định tới hai nội dung trước.
Chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch theo đúng nội dung, yêu cầu và tiến
độ, thường xuyên kiểm tra, uốn nắn những lệch lạc, bổ sung và điều chỉnh
cho phù hợp với tình hình cụ thể.
1.2.5. Quản lý kiểm tra, đánh giá giáo dục đạo đức
Kiểm tra, đánh giá giáo dục đạo đức đề cập đến phương pháp và cơ
chế được sử dụng để đảm bảo rằng các hoạt động phải được tuân thủ, phù
hợp, nhất quán với những kế hoạch, mục tiêu giáo dục đạo đức đã xây dựng.
Kiểm tra giúp chúng ta có thông tin phản hồi, xác định được những lệch lạc
nếu có để tiến hành những hoạt động điều chỉnh cấp thiết.
Kiểm tra định kỳ, thường xuyên, đột xuất, trực tiếp, hoặc gián tiếp để
giúp các cá nhân, bộ phận rõ hơn về những hoạt động của mình, khẳng định
được mình, từ đó hoạt động tích cực hơn, tự giác hơn, biết tự điều chỉnh hoạt
động của mình cho phù hợp với yêu cầu chung của công tác giáo dục đạo đức
của toàn trường.
Kiểm tra, đánh giá giáo dục đạo đức học sinh cần tiến hành theo 4 bước:
Bước 1: Xác định tiêu chuẩn (chuẩn mực) và phương pháp đo lường