Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục HƯỚNG NGHIỆP CHO học SINH các TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG HUYỆN ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.72 KB, 100 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
1. HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH Ở CÁC
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.2. Nội dung quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở
các trường trung học phổ thông
1.3. Những nhân tố tác động đến quản lý giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông
huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH Ở CÁC
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN
ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Đặc điểm quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở
các trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng,
thành phố Hà Nội
2.2. Thực trạng giáo dục hướng nghiệp và quản lý giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ
thông huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội
Chương 3. YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH Ở CÁC
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN ĐAN
PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Yêu cầu đề xuất biện pháp quản lý giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông
huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội
3.2. Biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở
các trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng, thành
phố Hà Nội hiện nay


3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
3
11
11
21
30

34
34

36

59

59
61
79
84
88
91

2



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay
đang đặt ra yêu cầu cao về chất lượng nguồn nhân lực. Học sinh trung học
phổ thông sau khi tốt nghiệp sẽ trực tiếp được đào tạo nghề theo các hướng
khác nhau phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Khi học sinh chọn được
những nghề phù hợp với sở trường, năng lực của bản thân thì họ sẽ phấn khởi,
hăng say, sáng tạo trong lao động, từ đó năng suất và hiệu quả lao động sẽ
cao. Lựa chọn nghề phù hợp sẽ giúp mỗi học sinh phát triển tối đa khả năng
của bản thân và thúc đẩy xã hội phát triển. Đối với người lao động hiện nay,
vấn đề không chỉ là có nghề, mà là có nghề nghiệp phù hợp. Hơn nữa áp lực
phân luồng học sinh trung học phổ thông hiện nay rất lớn, đòi hỏi các cấp, các
ngành cần có biện pháp để xác định cơ cấu ngành, nghề phù hợp với phân
công lao động xã hội, tránh lãng phí nguồn nhân lực. Bản thân học sinh không
dễ dàng làm tốt công việc lựa chọn nghề nghiệp, họ cần có sự giúp đỡ của
những người làm công tác hướng nghiệp
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, trong những năm qua
các cơ quan, ban ngành mà trực tiếp là Bộ Giáo dục và đào tạo đã có rất nhiều
chủ trương, biện pháp để giáo dục hướng nghiệp cho học sinh. Tuy nhiên,
công tác này vẫn chưa thực sự đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả như mong muốn.
Một trong những nguyên nhân hạn chế cơ bản của vấn đề này là công tác
quản lý giáo dục hướng nghiệp chưa được chú trọng đúng mức. Nhận thức và
các biện pháp cụ thể của các cấp, ngành về quản lý giáo dục hướng nghiệp
chưa có bước đột phá cần thiết, chưa huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị để thực hiện nội dung này.
Huyện Đan Phượng có vị trí rất quan trọng trong sự phát triển của thành
phố Hà Nội. Nguồn nhân lực do các trường trung học phổ thông trên địa bàn
huyện cung cấp không chỉ đáp ứng nhu cầu tại chỗ mà còn cho sự phát triển

3



chung của cả nước. Tuy nhiên, việc định hướng nghề cho học sinh ở các
trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng hiện nay cũng còn nhiều bất
cập, tạo ra nhiều áp lực cho mỗi kỳ thi hiện nay. Khắc phục những hạn chế
này đòi hỏi nỗ lực cao của gia đình, nhà trường và các cơ quan chức năng có
liên quan, trong đó việc quản lý giáo dục hướng nghiệp có vị trí đặc biệt quan
trọng, là khâu then chốt của vấn đề nhằm tạo ra chuyển biến ở tầm vĩ mô. Do
đó, tác giả lựa chọn đề tài “Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở
các trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội” làm
luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Những nghiên cứu về giáo dục hướng nghiệp được khởi đầu từ các nước
công nghiệp Châu Âu và Mỹ. Năm 1848, cuốn sách “Hướng nghiệp chọn
nghề” xuất hiện ở Pháp đã đề cập tới xu thế phát triển đa dạng của nghề nghiệp
do sự phát triển của công nghiệp tạo nên và việc nhất thiết phải giúp đỡ thanh
niên trong sự lựa chọn nghề nghiệp. Cuốn sách cũng đã khẳng định tính cấp
thiết phải giúp đỡ thanh thiếu niên đi vào thế giới nghề nghiệp nhằm sử dụng
có hiệu quả lực lượng lao động trẻ [29]. Tuy nhiên, giáo dục hướng nghiệp
được các nước trên thế giới quan tâm như là một khoa học phải bắt đầu từ
những năm đầu của thế kỷ 20 và được coi là một trong những hoạt động quan
trọng của xã hội. Ở Mỹ năm 1915 đã có phòng hướng nghiệp đầu tiên được
thành lập, cùng với nó là các nước phát triển khác như Anh, Pháp, Ý. Tại
những nước này, các nhà hoạch định chính sách và các nhà khoa học đã rất chú
ý đến việc trợ giúp cá nhân lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với mình.
Tuy nhiên những nghiên cứu về hướng nghiệp ở các nước tư bản chỉ
nhằm vào mục đích tăng cường lợi nhuận thông qua việc bóc lột tối đa sức
lực của người lao động. Sau Cách mạng tháng Mười Nga, vấn đề lựa chọn
nghề nghiệp đã được hiểu theo một quan niệm mới gắn liền với vai trò chủ
động tích cực của con người, nó không chỉ gắn liền với lợi ích kinh tế xã hội


4


mà còn tạo ra các điều kiện để phát triển nhân cách cho mỗi cá nhân. Năm
1927 ở Lêningrat đã tổ chức hướng nghiệp với mục đích giúp cho thế hệ trẻ
và cha mẹ các em quen biết với nghề nghiệp. Dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin các nhà khoa học Liên xô đã nghiên cứu vấn đề hướng
nghiệp đối với sự hình thành nhân cách và ảnh hưởng của nó tới các hoạt
động sản xuất xã hội. Kết quả các công trình đó cho thấy thực hiện giáo dục
hướng nghiệp cho thế hệ trẻ là cơ sở giúp cho họ chọn nghề đúng đắn, có sự
phù hợp giữa năng lực, sở thích cá nhân và nhu cầu xã hội [24].
Những năm 60 của thế kỷ XX nghiên cứu về hướng nghiệp đã được các
nhà khoa học đề cập, nhưng vấn đề này chỉ thực sự được quan tâm nghiên cứu
ở những năm 80 của thế kỷ XX khi Quyết định 126/CP ngày 19/3/1981 “Về
công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý học
sinh các cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông tốt nghiệp ra trường” đã
tạo hành lang pháp lí cho sự phát triển của công tác hướng nghiệp, nhất là
hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Thực hiện quyết định 126/CP, năm
1991 Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành chương trình hướng nghiệp và quy
chế về tổ chức và hoạt động cho các nhà trường phổ thông. Trong đó quy định
học sinh sau khi hoàn thành chương trình hướng nghiệp phổ thông phải dự thi
để lấy chứng chỉ nghề và có khuyến khích cộng điểm vào kết quả kì thi tốt
nghiệp trung học phổ thông và kì thi tuyển sinh vào trung học phổ thông đối
với học sinh cấp trung học cơ sở. Trong những năm 1983 - 1996, giáo dục
hướng nghiệp ở nước ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng, được coi là
thời kì thịnh vượng nhất. Nhưng từ năm 1997 trở lại đây công tác giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh phổ thông đã bị coi nhẹ, ảnh hưởng không nhỏ
đến sự phát triển nguồn nhân lực của đất nước [31].
Trước tình hình đó, trong những năm đầu thế kỷ XXI công tác hướng

nghiệp được quan tâm nhiều hơn ở Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó phải kể đến nỗ lực đào tạo các

5


nhà tư vấn hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên. Năm 2006, trường Đại học
Sư phạm Hà Nội đã hợp tác với Đại học St.John’s Hoa kỳ, năm 2008 trường
Đại học Sư phạm Hà Nội phối hợp với UNICEF và Đại học St.John’s tổ chức
khóa đào tạo giảng viên và giám sát viên ngành Tâm lý học trường học đầu
tiên. Cùng với hoạt động đó, việc triển khai mở mã ngành đào tạo cử nhân
tâm lý trường học tại trường đại học sư phạm từ năm 2003 và năm 2008- 2009
chính thức mở khóa đào tạo đầu tiên trình độ cử nhân [39, tr.316]. Trường Đại
học giáo dục (thuộc đại học Quốc Gia), từ năm 2008 thực hiện chương trình đào
tạo thạc sĩ tâm lý học và thực hành hướng nghiệp. Học viên sau khi tốt nghiệp sẽ
trở thành chuyên gia tư vấn hướng nghiệp có khả năng hoạt động trong các lĩnh
vực giáo dục, quản lý nhân lực, tư vấn tuyển dụng. Bên cạnh đó việc hợp tác đào
tạo, một số trường chủ động xây dựng chương trình đào tạo cán bộ tư vấn học
đường. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, năm 2008, tâm lý học
hướng nghiệp bắt đầu được giảng dạy [39, tr.461].
Nghiên cứu về quản lý giáo dục hướng nghiệp trung học phổ thông dựa
trên những nguyên lý chung về quản lý giáo dục và quản lý giáo dục trung
học phổ thông. Những vấn đề chung về quản lý giáo dục và quản lý giáo dục
trung học phổ thông được đề cập trong công trình nghiên cứu của các tác giả
như: Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc “Những xu thế quản lý hiện đại
và việc vận dụng vào quản lý giáo dục” [7], Đặng Quốc Bảo “Một số tiếp cận
mới về khoa học quản lí và việc vận dụng vào quản lí giáo dục” [3]. Trong các
công trình này các tác giả đã có nhiều đóng góp khoa học về quản lý giáo dục.
Các tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng khoa học về quản lý
giáo dục, coi đây là biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm đưa giáo dục phát

triển đúng định hướng, đạt hiệu quả cao.
Tác giả Phạm Tất Dong, Đặng Danh Ánh, Trần Mai Thu với bộ công
trình giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các lớp 10, 11, 12 [10]. Bộ công
trình này được sử dụng trong các nhà trường trung học phổ thông nhằm định

6


hướng nghề cho học sinh. Những đóng góp này rất có giá trị, giúp học sinh có
những hiểu biết cơ bản về nghề nghiệp tương lai. Qua đó giúp học sinh lựa
chọn nghề phù hợp với khả năng, sở trường của bản thân và nhu cầu xã hội.
Nhằm giúp cá nhân dễ dàng hiểu mình và lựa chọn được nghề phù hợp,
nhóm tác giả Hoàng Kiện, Nguyễn Thế Trường, Phạm Tất Dong [5, tr.50],
cho rằng tư vấn hướng nghiệp là phải giúp học sinh tìm được “Miền chọn
nghề tối ưu”. Khi chọn nghề, học sinh phải trả lời được ba câu hỏi: Tôi thích
làm nghề gì? (hứng thú), Tôi có thể làm nghề gì? (năng lực), Tôi cần phải làm
nghề gì? (yêu cầu xã hội, thị trường lao động đối với nghề). Vùng giao thoa
của ba câu hỏi đó là “Miền chọn nghề tối ưu”.
Tác giả Nguyễn Văn Hộ với các công trình nghiên cứu như: “ Thiết lập
và phát triển hệ thống hướng nghiệp cho học sinh Việt Nam (1988) [21], “Cơ
sở sư phạm của công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông” [22] đã khái
quát các luận chứng lý luận và thực tiễn cho hệ thống hướng nghiệp phổ
thông trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thời kỳ hội nhập
và đề xuất một số hình thức phối hợp giữa nhà trường phổ thông với các cơ sở
đào tạo nghề, cơ sở sản xuất trong việc hướng nghiệp, dạy nghề cho học sinh
phổ thông. Những khía cạnh khác của giáo dục hướng nghiệp cũng được đề
cập trong một số công trình nghiên cứu: “Một số vấn đề về hướng nghiệp cho
học sinh phổ thông” của Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền [29] “Định hướng
giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông trung học” của Phạm Tất
Dong [9]. Nguyễn Viết Sự “Mối quan hệ giữa hệ thống giáo dục nghề nghiệp

với thị trường lao động” [36]; “Về giáo dục kỹ thuật và hướng nghiệp trong
giáo dục Phổ thông ở nước ta trong thời gian tới” [35]. Những thành tựu này
tác giả tiếp thu, làm tiền đề cho nghiên cứu của mình.
Như vậy, đến nay đã có những công trình bàn về hướng nghiệp, giáo dục
hướng nghiệp, quản lý giáo dục hướng nghiệp, nhưng chưa có công trình nào
bàn về quản lý giáo dục hướng nghiệp ở một đối tượng cụ thể là học sinh ở

7


các trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng. Do đó, đề tài tác giả chọn
không trùng lặp và có tính cấp thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của quản lý giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng,
thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả quá trình này,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở
các trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
Đánh giá thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các
trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
Đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở
các trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học
phổ thông huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu

Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học
phổ thông huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Là toàn bộ những vấn đề cơ bản và liên quan đến quản lý giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông huyện Đan
Phượng, thành phố Hà Nội. Thời gian điều tra, khảo sát từ 2010 đến nay.
Đề tài nghiên cứu toàn bộ 4 trường trung học phổ thông của huyện Đan
Phượng: Trung học phổ thông Đan Phượng, Trung học phổ thông Hồng Thái,
Trung học phổ thông Tân Lập, Trung tâm giáo dục thường xuyên Đan

8


Phượng. Mỗi trường khảo sát 50 ý kiến của Ban giám hiệu, Bí thư Đoàn
trường, các giáo viên chủ nhiệm; 150 học sinh ở mỗi trường chia đều cho ba
khối 10, 11, 12 (mỗi khối 50 em).
5. Giả thuyết khoa học
Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông huyện Đan
Phượng, thành phố Hà Nội được cấu thành bởi nhiều yếu tố, trong đó quản
lý là nhân tố giữ vai trò trọng yếu. Nếu nâng cao nhận thức và phát huy vai
trò, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng; xây dựng và thực hiện tốt
kế hoạch giáo dục hướng nghiệp; đa dạng hóa các hình thức, phương pháp
quản lý; phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh trong tự quản lý giáo
dục hướng nghiệp và thực hiện tốt công tác kiểm tra, đánh giá kết quả thì
hiệu quả quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung
học phổ thông huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội sẽ tốt hơn, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của huyện Đan Phượng.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt

Nam về giáo dục - đào tạo và quản lí giáo dục. Các văn bản, hướng dẫn của
các cơ quan chức năng có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Đề tài tiếp cận
vấn đề nghiên cứu theo quan điểm hệ thống cấu trúc; quan điểm lịch sử - lô
gic; quan điểm thực tiễn.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên
ngành và chuyên ngành, trong đó chú trọng một số phương pháp:
- Nhóm nghiên cứu lý thuyết: sử dụng các phương pháp phân tích - tổng
hợp các nguồn tài liệu về giáo dục hướng nghiệp nhằm tìm ra quy luật của
quá trình quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học
phổ thông huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.

9


- Phương pháp chuyên gia: hỏi ý kiến chuyên gia bằng trao đổi hoặc xin ý
kiến đóng góp, bao gồm: Các chuyên gia về quản lý giáo dục và giáo dục hướng
nghiệp; chuyên gia tâm lý học, các nhà quản lý giáo dục, quản lý về lĩnh vực dạy
nghề, tuyển dụng lao động; các cán bộ lãnh đạo chính quyền địa phương.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: sử dụng các phương pháp
nghiên cứu tổng kết thực tiễn hoạt động giáo dục và quản lý giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng.
Phương pháp quan sát kết quả giáo dục hướng nghiệp cho học sinh. Phương
pháp điều tra bằng phiếu hỏi, phương pháp phỏng vấn, mạn đàm nhằm điều tra,
thống kê số liệu định lượng về công tác quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh ở các trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng, khảo sát thực trạng
vấn đề nghiên cứu, khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
được đề xuất. Kết quả điều tra, khảo sát, khảo nghiệm được phân tích, so sánh,
khái quát để tìm ra những thông tin cần thiết phục vụ đề tài nghiên cứu.
- Nhóm các phương pháp xử lý thông tin: Sử dụng thống kê toán học,

Microsoft Excel, phần mềm SPPS để thống kê các số liệu điều tra, thu thập,
lập bảng phân phối tần số, tính điểm trung bình cộng và định tính.
7. Ý nghĩa của đề tài
Bổ sung, làm phong phú lý luận về quản lý giáo dục hướng nghiệp; làm
rõ thực trạng, đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh ở các trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học
của việc nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học
phổ thông huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu; 3 chương (8 tiết); kết luận; kiến nghị;
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Giáo dục hướng nghiệp
Bước vào bậc cuối của nhà trường phổ thông, học sinh luôn có những
hoài bão lớn lao gắn liền với cuộc sống tương lai của họ. Các em đặt ra câu
hỏi như: “nghề nào hay nhất”, “mình sẽ chọn nghề gì”. Có học sinh trả lời
những câu hỏi trên không khó lắm, nhưng có nhiều em không biết trả lời rõ
ràng nên còn đắn đo. Mặc dù vậy câu trả lời của các em vẫn mang tính chủ
quan, cảm tính, chưa có cơ sở khoa học. Đây là một vấn đề đặt ra cho ngành
giáo dục và toàn xã hội cần quan tâm.
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó nhờ có đào tạo,
con người có được những tri thức, những kĩ năng để làm ra các sản phẩm vật

chất và tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của bản thân và xã hội.
Nghề là cơ sở giúp cho con người có “nghiệp” (việc làm). Còn nếu như một
người nào đó chỉ có nghề mà không có nghiệp, người đó được coi là người thất
nghiệp (ví dụ: sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa tìm được việc làm).
Theo Từ điển Giáo dục học: “Hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp
giúp đỡ học sinh làm quen tìm hiểu nghề, lựa chọn, cân nhắc nghề nghiệp
với nguyện vọng, năng lực, sở trường của mỗi người. Với nhu cầu và điều
kiện thực tế khách quan của xã hội” [38, tr.209].
Các nhà nghiên cứu cho rằng để giúp các em chọn nghề phù hợp cần
làm tốt công tác hướng nghiệp cho các em, dưới nhiều hình thức khác nhau.
Việc hướng nghiệp có thể hiểu theo hai cách:
Hướng nghiệp trên bình diện xã hội: Mỗi loại hình lao động đều cần
những con người có năng lực và phẩm chất phù hợp. Để chọn được người
theo đúng những tiêu chuẩn đã định, xã hội cần làm cho thế hệ trẻ hiểu được

11


nội dung, tính chất, đặc điểm, điều kiện lao động ở mỗi loại hình nghề
nghiệp cụ thể. Thực hiện mục đích này gia đình, nhà trường và xã hội cần
hướng nghiệp cho thế hệ trẻ. Theo K.K.Platônốp hướng nghiệp là một hệ
thống các biện pháp tâm lý - giáo dục, y học, nhằm giúp cho con người đi
vào cuộc sống thông qua việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp vừa đáp
ứng nhu cầu xã hội, vừa phù hợp với hứng thú, năng lực của bản thân.
Những biện pháp này sẽ tạo nên sự thống nhất giữa quyền lợi của xã hội với
quyền lợi cá nhân. Hoặc như viện sĩ C.Ia.Batusép quan niệm hướng nghiệp
là một hoạt động hợp lý gắn với sự hình thành ở thế hệ trẻ hứng thú và sở
thích nghề nghiệp, vừa phù hợp với những năng lực cá nhân, vừa đáp ứng
đòi hỏi của xã hội đối với nghề này hay nghề khác. Như vậy, hướng nghiệp
có thể hiểu như là một hệ thống tác động của xã hội về giáo dục học, y học,

xã hội học, kinh tế học... nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù
hợp hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng
được nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân.
Thế hệ trẻ phải được chọn nghề theo hứng thú, sở thích và năng lực.
Công tác hướng nghiệp phải giúp họ ngày càng nhận thức sâu sắc nghĩa vụ
lao động, nhu cầu nhân lực mà xã hội đặt ra. Do đó, hướng nghiệp phải là
công việc được xã hội quan tâm đặc biệt. Không nên để thế hệ trẻ chọn nghề
một cách tự phát, cũng không nên để cho số phận nghề nghiệp của mỗi học
sinh phụ thuộc vào những gì hết sức ngẫu nhiên. Hướng nghiệp đề cập ở đây
đã vượt ra khỏi phạm vi nhà trường phổ thông, liên quan đến cả tuyển chọn
nghề, thích ứng nghề và hơn nữa là tư vấn và dịch vụ việc làm (cho cả đối
tượng ngoài xã hội).
Hướng nghiệp trên bình diện phổ thông: Trong trường phổ thông,
hướng nghiệp là một hình thức hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của
trò. Với tư cách là hoạt động dạy của thầy, hướng nghiệp được coi như là
công việc của tập thể giáo viên, tập thể sư phạm, có mục đích giáo dục học

12


sinh trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai
trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu
nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội. Như vậy, hướng nghiệp trong
trường phổ thông được thể hiện như một hệ thống tác động sư phạm, nhằm
làm cho các em học sinh chọn được nghề tương lai một cách hợp lý.
Với cách hiểu đó, hướng nghiệp là nhiệm vụ của tất cả thành viên trong
tập thể sư phạm: Hiệu trưởng, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, tổ
chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh...Vấn đề là ở chỗ phải có sự
phân công rõ ràng. Về phía học sinh, hướng nghiệp là hình thức học tập của
mình, thông qua hoạt động này, mỗi học sinh phải lĩnh hội được những

thông tin về nghề nghiệp trong xã hội, đặc biệt là nghề ở địa phương, phải
nắm được hệ thống các yêu cầu của từng nghề mà mình chọn, phải có kĩ
năng tối thiểu, phẩm chất tâm lý phù hợp với yêu cầu tối thiểu của nghề.
Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông là một bộ phận của
công tác hướng nghiệp ngoài xã hội, nhà trường phổ thông sẽ giúp các em đi
vào các nghề trong xã hội. Vì vậy, công tác hướng nghiệp trong trường phổ
thông phải thống nhất với công tác hướng nghiệp ở ngoài xã hội, hai bộ phận
này có quan hệ hết sức mật thiết với nhau, bổ sung lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau.
Hướng nghiệp là một hệ thống các biện pháp tác động của gia đình,
nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò chủ đạo nhằm hướng
dẫn và chuẩn bị cho học sinh cả về tâm thế và kĩ năng để các em có thể lựa
chọn ngành nghề mà xã hội cần phát triển, đảm bảo phân bố hợp lý và sử
dụng có hiệu quả lực lượng lao động dự trữ có sẵn của đất nước đồng thời
phù hợp với hứng thú, năng lực cá nhân cũng như hoàn cảnh gia đình.
Như vậy, hướng nghiệp trong trường phổ thông được thể hiện như
một hệ thống tác động sư phạm, nhằm làm cho các em học sinh chọn được
nghề tương lai một cách hợp lý, bao gồm các nhiệm vụ cụ thể sau: Một là,
hình thành ở học sinh những biểu tượng đúng đắn về những nghề cần phát
triển, giúp cho các em làm quen với những nghề cơ bản trong xã hội, những

13


nghề có vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, những nghề cần thiết phải
phát triển ở địa phương. Trước hết, cần phải cho các em thấy được yêu cầu
phải tạo cho mình nghề nghiệp trong tương lai. Người lao động đã qua đào
tạo sẽ được cung cấp trình độ tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo hành nghề,
có thể làm ra sản phẩm và tạo ra thu nhập của chính họ. Đây là con đường để
thực hiện lý tưởng nghề nghiệp của mỗi người. Để làm được điều này, yêu
cầu người vào học nghề phải có trình độ học vấn, sức khỏe và yêu cầu tâm lý

phù hợp với nghề và phải đạt được những tiêu chuẩn quốc gia về kiến thức, kĩ
năng, kĩ xảo tay nghề theo mục tiêu xã hội đòi hỏi, có được những bằng cấp
hay chứng chỉ về nghề. Từ nhận thức đó, học sinh sẽ tự giác trong việc tìm
hiểu về nghề. Hai là, phát hiện, hướng dẫn và phát triển hứng thú nghề nghiệp
của các em. Trong quá trình giúp các em tìm hiểu nghề, người làm hướng
nghiệp sẽ phát hiện và hướng dẫn sự phát triển hứng thú của các em trên cơ
sở phân tích những đặc điểm, những điều kiện, hoàn cảnh riêng của từng em.
Ba là, tạo điều kiện để học sinh hình thành năng lực tương ứng với hứng thú
nghề nghiệp đã có thông qua hoạt động lao động sản xuất kết hợp với dạy
nghề. Việc tổ chức các hoạt động dạy nghề phải được triển khai một cách
khoa học, phù hợp với các đối tượng học sinh, các đặc điểm vùng miền mà
các em đang sinh sống. Học sinh được thử sức trong các hoạt động nói trên sẽ
làm nảy nở và phát triển năng lực nghề nghiệp.
Giáo dục về bản chất là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến
sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy
dần dần có được những phẩm chất năng lực như yêu cầu đề ra” [38, tr.139].
Từ những cơ sở nói trên, tác giả cho rằng: Giáo dục hướng nghiệp
(trong nhà trường phổ thông) là quá trình tác động của các lực lượng giáo
dục trong và ngoài nhà trường tới học sinh giúp họ định hướng được nghề
nghiệp tương lai sao cho phù hợp với năng lực và điều kiện của bản thân
đồng thời đáp ứng với yêu cầu khách quan của xã hội.
Mục đích của giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông được thể
hiện bao gồm: Về kiến thức: Giúp cho học sinh hiểu được một số kiến thức cơ

14


bản về công cụ, kĩ thuật, quy trình công nghệ và về an toàn lao động, vệ sinh môi
trường đối với một nghề phổ thông đã học. Biết những đặc điểm và yêu cầu của
nghề đó. Về kĩ năng: Có một số kĩ năng sử dụng công cụ, thực hành kĩ thuật theo

quy trình công nghệ để làm ra sản phẩm đơn giản theo yêu cầu của mỗi nghề.
Hình thành và phát triển kĩ năng vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn.
Về thái độ: Phát triển hứng thú kĩ thuật và khả năng vận dụng vào hoàn cảnh
mới, thói quen làm việc có kế hoạch, bước đầu có tác phong công nghiệp, làm
việc theo quy trình và an toàn lao động, vệ sinh môi trường. Có ý thức trong việc
tìm hiểu nghề và lựa chọn nghề nghiệp.
Chủ thể giáo dục hướng nghiệp bao gồm nhà trường, gia đình và xã hội.
Trong đó chủ yếu và trực tiếp là ngành giáo dục, hiệu trưởng, ban giám hiệu các
trường trung học phổ thông, đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm. Các chủ thể
khác góp phần quan trọng, hỗ trợ là các cơ quan, ban ngành ở địa phương, hội
cha mẹ học sinh, các cựu học sinh, những người thành đạt, các hội nghề nghiệp,
các nghệ nhân, các trường đại học, cao đẳng, trường đào tạo nghề.
Đối tượng giáo dục hướng nghiệp là học sinh trung học phổ thông. Các em
là những người tiếp thu kiến thức, kỹ năng chọn nghề từ các chủ thể giáo dục.
Đồng thời cũng là chủ thể quyết định nghề nghiệp tương lai của bản thân.
Giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường trung học phổ thông gồm 3
nội dung chủ yếu:
Định hướng nghề nghiệp: là nhằm cung cấp cho học sinh những thông
tin về tình hình phát triển kinh tế của đất nước của địa phương, về nhu cầu sử
dụng lao động, về thế giới nghề nghiệp, về hoạt động của những ngành nghề
cơ bản, nghề chủ yếu và những yêu cầu của nghề đối với người lao động. Qua
đó giúp học sinh đánh giá bản thân và lựa chọn nghề có chủ định.
Tư vấn hướng nghiệp là hệ thống những biện pháp tâm lý - giáo dục để
đánh giá những phẩm chất, năng lực thể chất và tinh thần của học sinh, đối
chiếu những yêu cầu do nghề đặt ra đối với người lao động, có cân nhắc đến

15


nhu cầu lao động của các thành phần kinh tế, nhằm xác định nhóm nghề phù

hợp. Trên cơ sở đó cho học sinh những lời khuyên chọn nghề có căn cứ khoa
học, loại bỏ những trường hợp may rủi, thiếu chín chắn trong khi chọn nghề.
Tư vấn nghề có thể phân ra thành hai loại: Tư vấn sơ bộ: giáo viên chủ nhiệm
hoặc giáo viên bộ môn đóng vai trò nhà tư vấn, từ những hiểu biết về yêu cầu
của một ngành, nghề ở một số trường hoặc địa phương, về nhu cầu nhân lực và
năng lực thực tế của học sinh cho học sinh những lới khuyên cần thiết về sự lựa
chọn nghề, chọn trường sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông. Tư vấn chuyên
sâu: Tiến hành trên cơ sở khoa học, đảm bảo độ chính xác cao nhờ vào các
máy móc hiện đại. Điều kiện để có tư vấn chuyên sâu đòi hỏi phải có chuyên
gia tư vấn đựoc đào tạo căn bản, có tay nghề cao như nhà tâm lý học, các nhà
giáo dục học, các bác sỹ…
Tuyển chọn nghề là xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu của nghề để tuyển
người phù hợp vào học hay vào làm việc.
Ba nội dung trên có mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau, trong
trường trung học phổ thông thường tiến hành định hướng nghề nghiệp và tư
vấn nghề nghiệp, đồng thời góp phần cho việc tuyển chọn nghề. Trong đó tư
vấn nghề nghiệp là cầu nối giữa hai nội dung kia.
1.1.2.

Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học

sinh ở các trường trung học phổ thông
Vấn đề quản lý nói chung và quản lý giáo dục nói riêng luôn là đối tượng
được các nhà quản lý, nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu. Quản lý theo cách
tiếp cận hệ thống là sự tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý
(hay đối tượng quản lý) nhằm tổ chức phối hợp hoạt động của con người
trong các quá trình sản xuất xã hội để đạt được mục đích đã định.
Hoạt động của con người luôn là hoạt động tập thể. Vì vậy, cần có sự duy
trì tính tổ chức, sự phân công lao động nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Do
tính chất lao động xã hội của con người, nên quản lí tồn tại trong mọi hoạt động


16


xã hội, ở bất cứ giai đoạn phát triển nào. Quản lí đảm bảo giữ gìn cơ cấu ổn định
của hệ thống, nhằm duy trì hoạt động tối ưu của hệ thống.
Viện sĩ Liên Xô (cũ) Afanaxép trong cuốn sách nổi tiếng “Con người
trong quản lý xã hội” đã phân chia xã hội thành 3 lĩnh vực: “ Chính trị - xã hội;
văn hoá - tư tưởng và kinh tế” và từ đó có 3 loại quản lý: “ Quản lý chính trị xã hội, quản lý văn hoá - tư tưởng và quản lý kinh tế. Quản lý giáo dục nằm
trong lĩnh vực quản lý văn hoá - tư tưởng” [1, tr. 97 - 99].
P.V.Khuđôminky cho rằng: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống,
có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ Giáo dục đến nhà trường) nhằm
mục đích bảo đảm việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, bảo đảm
sự phát triển toàn diện” [26, tr.50].
Tác giả Phạm Minh Hạc quan niệm: “Quản lý giáo dục là quản lý
trường học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách
nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục,
để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với
thế hệ trẻ và từng học sinh” [21, tr.26].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường (Việt Nam) là thực
hiện quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng (trong phạm vi trách nhiệm)
trong việc thực hiện các hoạt động khai thác, sử dụng, tổ chức thực hiện các
nguồn lực và những tác động của chủ thể quản lý đến các thành tố của quá
trình giáo dục diễn ra trong nhà trường, đưa nhà trường vận hành theo nguyên
lý giáo dục để đạt tới mục tiêu giáo dục- mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ”. [18,
tr.55].
Dù quan niệm khác nhau, song các nhà nghiên cứu thống nhất rằng
quản lý giáo dục bao gồm hai cấp độ chủ yếu, đó là vĩ mô và vi mô. Ở cấp
độ vi mô, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động có mục

đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau vào quá trình

17


giáo dục - đào tạo của cơ sở đào tạo nhằm hình thành, phát triển các phẩm
chất nhân cách của người học theo mục tiêu giáo dục. Như vậy, quản lý giáo
dục phải có chủ thể và đối tượng quản lý, đồng thời phải có hệ thống tác
động quản lý theo một nội dung, kế hoạch thống nhất từ trên xuống nhằm
thực hiện mục tiêu giáo dục trong mỗi giai đoạn cụ thể của xã hội cùng với
hệ thống cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật tương ứng.
Hoạt động giáo dục hướng nghiệp được thực hiện trong các trường phổ
thông, nằm trong chương trình giáo dục phổ thông, nên việc quản lý hoạt
động giáo dục hướng nghiệp cũng tuân theo 4 chức năng quản lý cơ bản, đó
là: Xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục hướng nghiệp, Tổ chức hoạt động
giáo dục hướng nghiệp, Chỉ đạo hoạt động giáo dục hướng nghiệp và kiểm tra
đánh giá hoạt động giáo dục hướng nghiệp.
Trên cơ sở luận giải các khái niệm “quản lý”, “giáo dục hướng nghiệp”,
tác giả quan niệm:
Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ
thông huyện Đan Phượng thành phố Hà Nội là sự tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến toàn bộ quá trình giáo dục hướng nghiệp nhằm
làm chuyển biến nhận thức, thái độ, hành vi của học sinh trong lựa chọn nghề,
bảo đảm cho việc phân bổ nghề phù hợp với nhu cầu xã hội và khả năng, điều
kiện của học sinh ở các trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng.
Quản lí giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ
thông huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội có sự tham gia của các nhân tố:
Một là, chủ thể quản lý: Chủ thể quản lí là những tập thể, cá nhân
được giao nhiệm vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc gián tiếp về công tác giáo
dục - đào tạo của huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Theo đó, chủ thể

quản lí bao gồm: Các cấp ủy đảng; tổ chức lãnh đạo, chỉ huy; các cơ quan
chức năng ; cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên của các trường trung học
phổ thông huyện Đan Phượng.

18


Chủ thể quản lý phải xác định chính xác mục tiêu, nội dung, hình thức
giáo dục hướng nghiệp, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch, tổ chức bộ máy, chỉ
đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong
nhà trường. Tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm để hoạt động giáo dục hướng
nghiệp trong nhà trường ngày càng tốt hơn. Chủ thể quản lý cũng phải cập
nhật tình hình xã hội của huyện Đan Phượng, cả nước, nắm được nhu cầu
nghề nghiệp của xã hội, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của
địa phương, nhu cầu thị trường lao động, đặc điểm và nhu cầu năng lực của
học sinh, chính sách, cơ sở vật chất cho giáo dục và nhiều yếu tố khác nữa để
có thể định hướng nghề nghiệp cho học sinh hiệu quả nhất.
Chủ thể quản lý xác định những cách thức, biện pháp tác động, điều khiển
đến đối tượng quản lý bằng hệ thống công cụ, phương tiện nhằm đạt được mục
tiêu quản lý đã xác định. Hệ thống công cụ quản lý giáo dục hướng nghiệp bao
gồm: Các chỉ thị, nghị quyết của các tổ chức đảng; pháp luật của Nhà nước; quy
định của Bộ Giáo dục - đào tạo, Sở Giáo dục Hà Nội, Phòng Giáo dục huyện
Đan Phượng; chương trình, kế hoạch, quy chế, quy định giáo dục hướng
nghiệp của các trường trung học phổ thông. Sử dụng đồng bộ nhiều phương
pháp quản lý, song cần tập trung vào các phương pháp chủ yếu là: Phương
pháp hành chính; phương pháp giáo dục, thuyết phục, nêu gương; phương
pháp kích thích bằng vật chất, tinh thần. Biện pháp quản lý giáo dục hướng
nghiệp là tổng thể những cách thức của các chủ thể quản lý ở các trường trung
học phổ thông tác động tới hoạt động giáo dục hướng nghiệp nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp theo mục tiêu đã xác định.

Việc xác định các biện pháp quản lý phải đảm bảo tính khoa học, tính hệ
thống, tính khả thi, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, tăng cường hiệu quả
quản lý nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi trạng thái quản lý như
mong muốn của chủ thể trong những điều kiện cụ thể nhất định. Tập chung
vào các biện pháp chính là: Thống nhất nhận thức, đề cao trách nhiệm cho các đối

19


tượng tham gia quản lý giáo dục hướng nghiệp; nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện
các văn bản, quy chế, quy định làm cơ sở chỉ đạo giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh; thực hiện tốt kế hoạch giáo dục hướng nghiệp phù hợp với chương trình giáo
dục - đào tạo, phù hợp với chức trách, nhiệm vụ của giáo viên và thực tiễn của mỗi
trường trung học phổ thông; tăng cường kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục hướng
nghiệp; đầu tư xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả các phương tiện
phục vụ cho giáo dục hướng nghiệp.
Hai là, đối tượng quản lý: Là học sinh ở các trường trung học phổ thông
huyện Đan Phượng, tập thể chịu sự tác động, điều khiển, quản lí của chủ thể
lãnh đạo, quản lí trong suốt quá trình đào tạo. Vì vậy, đối tượng quản lí chính
là học sinh và tập thể học sinh trung học phổ thông huyện Đan Phượng. Bản
thân họ vừa là khách thể (đối tượng chịu sự quản lí của chủ thể) vừa là chủ
thể trong hoạt động tự quản lí. Thông qua con đường học tập, rèn luyện và tự
học tập, rèn luyện học sinh tự định hướng nghề cho mình.
Ba là, mục đích quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh: nhằm
đảm bảo hoạt động giáo dục hướng nghiệp diễn ra hợp quy luật có chất lượng
hiệu quả cao. Đó là vận dụng tổng hợp kiến thức về khoa học quản lý vào
thực tiễn, điều khiển và tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp phù hợp
theo chức trách, nhiệm vụ của các chủ thể ở các trường trung học phổ thông
huyện Đan Phượng. Qua đó, giúp học sinh có sự định hướng và quyết định
lựa chọn ngành, nghề hợp lý sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông.

Bốn là, nội dung quản lý giáo dục hướng nghiệp gồm: Quản lý mục
tiêu, kế hoạch giáo dục hướng nghiệp cho học sinh; Quản lý chủ thể hướng
nghiệp cho học sinh; Quản lý đối tượng giáo dục hướng nghiệp; Quản lý nội
dung giáo dục hướng nghiệp cho học sinh; Quản lý hình thức, phương pháp
hướng nghiệp cho học sinh; Quản lý điều kiện, phương tiện giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh; Quản lý kết quả giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.

20


1.2. Nội dung quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường
trung học phổ thông
1.2.1. Quản lý mục tiêu, kế hoạch giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh.
Việc xây dựng mục tiêu, kế hoạch giáo dục hướng nghiệp phải dựa
trên nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông đã được cụ
thể hoá phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội của địa phương, đặc điểm tâm
sinh lý của học sinh và điều kiện của mỗi nhà trường. Mục tiêu, kế hoạch hoạt
động giáo dục hướng nghiệp phải làm rõ nội dung giáo dục hướng nghiệp, các
phương pháp giáo dục hướng nghiệp, kế hoạch nhân sự cho hoạt động giáo
dục hướng nghiệp và xác định các điều kiện cơ sở vật chất và tài chính cần có
cho công tác giáo dục hướng nghiệp. Quản lý nội dung này thực chất là các
chủ thể quản lý việc xây dựng và thực hiện mục tiêu, kế hoạch giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh.
1.2.2. Quản lý chủ thể giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
Ban giám hiệu: là lực lượng cơ bản quản lý hoạt động giáo dục hướng
nghiệp thông qua việc ra quyết định lập kế hoạch, chỉ đạo, tổ chức, kiểm tra,
đánh giá công tác giáo dục hướng nghiệp tại nhà trường trung học phổ thông.
Vai trò chính thuộc về người Hiệu trưởng.
Giáo viên chủ nhiệm, giáo viên nghề, giáo viên bộ môn, giáo viên làm công

tác giáo dục hướng nghiệp: là những người, dưới sự quản lý của Hiệu trưởng,
Ban giám hiệu trực tiếp tổ chức thực hiện giáo dục hướng nghiệp, đánh giá kết
quả giáo dục hướng nghiệp. Trong đó giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa nhà
trường với gia đình học sinh trong công tác giáo dục hướng nghiệp.
Ban tư vấn hướng nghiệp, đoàn thanh niên: là lực lượng hết sức quan
trọng trong việc tìm hiểu, khai thác thông tin, những người có chuyên môn và
khả năng thuyết phục cao, gần gũi với học sinh. Các lực lượng này có hình
thức tổ chức đa dạng, sáng tạo trong giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.

21


Giáo viên chủ nhiệm và Ban tư vấn hướng nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong
quá trình giáo dục hướng nghiệp.
Hội cha mẹ học sinh, hội khuyến học: là lực lượng định hướng, giúp đỡ,
ủng hộ về mặt tinh thần, tài chính cho việc chọn ngành, chọn nghề của con em.
Đội ngũ trực tiếp tổ chức các nội dung giáo dục hướng nghiệp là giáo
viên chủ nhiệm, kết hợp với Ban tư vấn hướng nghiệp và một số phụ huynh
học sinh làm việc ở các ngành nghề khác nhau trong xã hội. Hiệu trưởng cần
bồi dưỡng các thành viên trong Ban tư vấn hướng nghiệp về năng lực tổ chức,
quản lý các hoạt động giáo dục hướng nghiệp có nền nếp, chất lượng, thường
xuyên, liên tục. Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, phương pháp hướng nghiệp
cho đội ngũ giáo viên các môn học để lồng ghép trong quá trình dạy học.
Học sinh cũ, sinh viên: là lực lượng cung cấp thông tin về các ngành
nghề đào tạo và kinh nghiệm chọn ngành, nghề của mình, từ đó lôi cuốn các
em theo những ngành nghề mà họ đã chọn.
Người thành đạt, các chuyên gia, nhà quản lý kinh tế, quản lý doanh
nghiệp: đây là lực lượng rất cần được các nhà trường chú trọng bởi họ đã thành
đạt trên cơ sở công việc ngành nghề đã chọn. Họ có thể đã qua trường lớp cơ bản
hoặc những người có khả năng kinh doanh, dịch vụ...mà không qua trường đại

học, cao đẳng.Họ là những tấm gương cho học sinh học tập và làm theo họ.
Lực lượng của các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp:
lực lượng này thường giúp cho các em và nhà trường những thông tin quan trọng
về việc chọn ngành, chọn nghề, chọn trường. Họ còn có thể hỗ hợ cơ sở vật chất
đáng kể cho nhà trường trong công tác tổ chức giáo dục hướng nghiệp.
1.2.3.Quản lý đối tượng giáo dục hướng nghiệp
Đối tượng giáo dục hướng nghiệp là các em học sinh trung học phổ
thông. Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho các em nằm trong tổng thể nội
dung quản lý của nhà trường. Ở góc độ quản lý giáo dục hướng nghiệp cần
nắm rõ tâm tư, nguyện vọng, sở trường, điều kiện hoàn cảnh của các em. Từ

22


đó có các biện pháp tư vấn tối ưu giúp các em lựa chọn được ngành, nghề phù
hợp nhất.
1.2.4. Quản lý nội dung giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
Nội dung giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông được
thực hiện từ lớp 10, thống nhất theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục - đào tạo. Cấu
trúc chương trình hiện nay kế thừa ở lớp 9, lớp 10, 11 chủ yếu giúp các em tìm
hiểu về các nhóm nghề cụ thể, còn lớp 12 tập trung vào việc tìm hiểu thông tin
đào tạo và hướng phát triển kinh tế nhằm giúp cho việc chọn nghề, chọn ngành,
chọn trường có hiệu quả. Do đó, các chủ thể cần quản lý chặt chẽ việc thực hiện
nội dung giáo dục hướng nghiệp đã được phê duyệt. Cùng với đó cung cấp cho
các em thông tin về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, giúp các em nắm bắt
được thị trường lao động và nhu cầu đào tạo của các nhà trường đại học, cao
đẳng, trường nghề. Các thông tin về các nhóm ngành, nhóm nghề và nghề cụ
thể.
1.2.5. Quản lý hình thức, phương pháp giáo dục hướng nghiệp học sinh
Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở bậc trung học phổ thông

được thực hiện dưới các hình thức cơ bản gồm:
Giáo dục hướng nghiệp qua việc dạy và học các môn văn hoá
Giáo dục hướng nghiệp qua các môn văn hóa nhằm khai thác mối liên hệ
giữa kiến thức khoa học với các ngành nghề, gắn nội dung của các bài học với
cuộc sống sản xuất. Quá trình đó có tác dụng mở rộng nhãn quan nghề nghiệp của
học sinh, lôi cuốn thế hệ trẻ bước vào thế giới nghề nghiệp nhằm tìm hiểu và dự
kiến cho bản thân nghề nghiệp trong tương lai. Các môn học góp phần vào việc
gắn nội dung giảng dạy với công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, giáo dục nhân
sinh quan cách mạng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức của người lao động mới.
Mặc dù mỗi môn học có những đặc thù riêng nhưng nếu giáo viên biết
vận dụng một cách sáng tạo, có thể tìm thấy nhiều nội dung lồng ghép những kiến
thức về giáo dục hướng nghiệp cho học sinh thông qua mỗi giờ dạy. Chẳng hạn:

23


bài dạy Sinh vật có thể cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, cơ sở khoa
học của việc chăm sóc cây trồng, vật nuôi, liên hệ với thực tế phát triển nông - lâm
nghiệp của địa phương. Các định luật Vật lý, giáo viên có thể vận dụng vào những
nguyên lý làm việc của một số máy móc, thiết bị cơ học, điện, điện tử và ứng
dụng trong các lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể. Các bài học Địa lý sẽ cung cấp những
kiến thức tiềm năng về tự nhiên, tình hình và triển vọng phát triển kinh tế của từng
vùng, viễn cảnh của sự mở rộng nghề nghiệp… Mỗi môn học đều tiềm ẩn một
khả năng rất lớn về giáo dục hướng nghiệp trong nó.
Quá trình dạy và học bộ môn cũng chính là quá trình phát hiện, bồi
dưỡng năng khiếu và dẫn dắt học sinh phát triển năng khiếu của bản thân.
Trên cơ sở đó, giáo viên định hướng cho học sinh có năng khiếu, khuyên bảo các
em những lời khuyên về chọn nghề cho phù hợp với sự phát triển của bản thân.
Giáo dục hướng nghiệp qua dạy và học môn công nghệ, dạy nghề phổ
thông, hoạt động lao động sản xuất

Với tư cách là môn khoa học ứng dụng, môn công nghệ cung cấp cho
học sinh những nguyên lý kỹ thuật chung của các quá trình sản xuất chủ yếu,
củng cố những nguyên lý khoa học và làm cho học sinh hiểu được những ứng
dụng của chúng trong sản xuất, trong các hoạt động nghề nghiệp khác nhau.
Môn công nghệ thực sự là chiếc cầu nối giữa kiến thức khoa học tới sản xuất, là
điều kiện để phát triển cá nhân, phát triển năng lực cần thiết để học sinh học tập
tốt một nghề, có ý nghĩa dẫn dắt học sinh tìm hiểu thế giới nghề nghiệp, làm cho
các em biết định hướng trong hệ thống sản xuất xã hội, tự giác tìm hiểu nghề
nghiệp và biết lựa chọn hướng học tập và nghề nghiệp mai sau một cách có ý
thức. Hiện nay, học sinh trung học phổ thông được học môn công nghệ với thời
lượng lớp 10: 1,5 tiết/ tuần, lớp 11: 1,5 tiết/ tuần, lớp 12: 1 tiết/ tuần.
Lao động, học nghề của học sinh có tác dụng bồi dưỡng đạo đức, tác
phong của người lao động mới, làm cho học sinh hiểu rõ vai trò hoạt động có
ý thức của con người trong sự phát triển xã hội. Tổ chức lao động và giáo dục

24


nghề phổ thông làm cho học sinh thấy được sự phát triển của khoa học - kỹ
thuật, sự cần thiết phải hợp tác lao động, phải có trách nhiệm trước công việc,
phải có phẩm chất và năng lực phù hợp với các đòi hỏi của nghề; trên cơ sở đó
giáo dục học sinh có ý thức đúng đắn đối với nghề nghiệp, bồi dưỡng đạo đức,
hình thành lý tưởng nghề nghiệp. Trong quá trình học nghề, học sinh có
những hiểu biết về các hoạt động của nghề, về vị trí, nhiệm vụ, điều kiện làm
việc và những đòi hỏi về phẩm chất đạo đức năng lực chuyên môn, sức khỏe,
có tác dụng định hướng học sinh vào những nghề đang học cũng như tạo điều
kiện cho học sinh thử sức trong các dạng lao động khác nhau. Đặc biệt là qua
hoạt động giáo dục nghề phổ thông, học sinh có điều kiện để hiểu một cách có
hệ thống về vai trò, nhiệm vụ, tính chất, đặc điểm hoạt động của nghề, những
đòi hỏi của nghề; trên cơ sở đó bồi dưỡng cho học sinh phẩm chất đạo đức

nghề nghiệp, phát triển hứng thú nghề nghiệp.
Giáo dục nghề phổ thông là sự cụ thể hoá mục tiêu của giáo dục phổ
thông được quy định trong Luật Giáo dục năm 2005, đó là: “Chuẩn bị cho học
sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào đời sống lao động; ở cấp trung học phổ thông cần
củng cố và phát triển những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp”.
Cụ thể là: chuẩn bị cho học sinh một số kỹ năng lao động về những lĩnh vực nghề
phổ biến, cần thiết và phù hợp với lứa tuổi để khi ra trường, nếu không tiếp tục
học lên có thể tham gia lao động sản xuất tại gia đình, cộng đồng hoặc doanh
nghiệp được thuận lợi, đồng thời, góp phần định hướng nghề. Trong trường phổ
thông, hoạt động giáo dục nghề phổ thông được thực hiện 3 tiết/tuần ở lớp 11 với
tổng thời lượng là 105 tiết với hơn 60 nghề để học sinh lựa chọn.
Trong quá trình giáo dục hướng nghiệp, học sinh cần được tìm hiểu các
lĩnh vực nghề phổ biến trong xã hội, giúp cho việc định hướng nghề nghiệp và thấy
được sự phù hợp của năng lực bản thân với yêu cầu ở những nghề cụ thể. Hoạt
động giáo dục nghề phổ thông tạo cơ hội cho học sinh được học tập, thử thách
trong điều kiện của một nghề, làm cho quá trình tìm hiểu nghề có hiệu quả tích cực.

25


Thông qua hoạt động giáo dục nghề phổ thông, học sinh có điều kiện
củng cố nội dung lý thuyết, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học ở môn công
nghệ vào thực tiễn đời sống và sản xuất trong các lĩnh vực công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, thủ công và tin học. Nhờ hoạt động này, học sinh được áp
dụng những kiến thức, kĩ năng đã học ở các môn văn hóa, nhất là môn toán và
các môn khoa học tự nhiên vào những lĩnh vực kĩ thuật, công nghệ cụ thể.
Bên cạnh việc góp phần quan trọng vào việc nâng cao khả năng vận
dụng các nội dung giáo dục phổ thông, hoạt động giáo dục nghề phổ thông
còn góp phần hình thành ở học sinh những phẩm chất của người lao động có
kế hoạch, có kỉ luật, có kĩ thuật và ý thức an toàn, vệ sinh môi trường. Hoạt

động dạy nghề giúp rèn luyện cho học sinh những kỹ năng sử dụng công cụ,
đặc biệt là công cụ làm những nghề phổ biến ở địa phương, giúp học sinh có
khả năng tính toán, định ra kế hoạch, biết phối hợp giữa cá nhân và tập thể,
hình thành thói quen lao động có văn hóa.
Giáo dục hướng nghiệp qua việc tổ chức hoạt động hướng nghiệp
Với tư cách là hoạt động dạy và học, các hoạt động hướng nghiệp nhằm
mục đích giới thiệu cho học sinh những ngành chủ yếu, nghề cơ bản của đất
nước, những ngành nghề mà Nhà nước đang cần phát triển một cách hệ thống.
Các hoạt động hướng nghiệp sẽ giúp học sinh nắm được bản mô tả nghề, hay
còn gọi là bản họa đồ nghề. Về thực chất, đó là bản mô tả nội dung, tính chất,
phương pháp, đặc điểm tâm sinh lý cần phải có, những điều cần tránh khi lao
động trong nghề. Nội dung bản mô tả nghề thường bao gồm các phần chính:
Ý nghĩa và tầm quan trọng của nghề. Các đặc điểm và yêu cầu của nghề: Tên
nghề và những chuyên môn thường gặp trong nghề, lịch sử phát triển của
nghề. Nội dung và tính chất lao động của nghề. Ở mục này bản mô tả nghề
thường miêu tả việc tổ chức lao động, những sản phẩm làm ra, những phương
pháp lao động, những phương tiện kỹ thuật dùng trong sản xuất, những phần
việc lao động chân tay và lao động trí óc nơi sản xuất…Những điều kiện cần

26


×