Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục HƯỚNG NGHIỆP CHO học SINH các TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG QUẬN hà ĐÔNG, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (669.17 KB, 126 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC HƯỚNG
NGHIỆP CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.2. Nội dung quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
trường trung học phổ thông
1.3. Những yếu tố tác động đến giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh trường trung học phổ thông
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ GIÁO DỤC HƯỚNG
NGHIỆP CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG Ở QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát đặc điểm về giáo dục ở quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội
2.2. Thực trạng giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các trường
trung học phổ thông ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
2.3. Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các
trường trung học phổ thông ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Chương 3. YÊU CẦU, BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở QUẬN HÀ ĐÔNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Yêu cầu quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các
trường trung học phổ thông ở quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội
3.2. Biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các
trường trung học phổ thông ở quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội
3.3. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
3

16
16
25
31

35
35
39
54

71

71

73
96
104
107
110


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Giáo dục hướng nghiệp là một bộ phận của giáo dục phổ thông. Hoạt
động giáo dục hướng nghiệp được chính thức đưa vào chương trình và kế
hoạch giáo dục phổ thông nhằm giúp học sinh biết cách chọn nghề phù hợp
với hứng thú, năng lực của bản thân, đồng thời phù hợp với nhu cầu nhân lực
và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhờ đó học sinh dễ tìm
được công việc phù hợp với ngành nghề được đào tạo, phát huy tối đa năng
lực, sở trường của mình trong công việc và thành đạt trong lao động nghề
nghiệp. Giáo dục hướng nghiệp còn là biện pháp hữu hiệu, góp phần tích cực
và có hiệu quả vào việc phân luồng học sinh, chuẩn bị cho học sinh đi vào
cuộc sống lao động nếu như các em không có điều kiện tiếp tục học lên cao
sau khi tốt nghiệp phổ thông. Vì lẽ đó, từ nhiều năm nay, yêu cầu đẩy mạnh
và nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường
phổ thông là nhu cầu cấp thiết. Điều này cũng được khẳng định trong nhiều
văn bản quy phạm pháp luật và các Nghị quyết về Giáo dục và Đào tạo.
Thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngành Giáo dục đã
có nhiều cố gắng để đẩy mạnh công tác giáo dục hướng nghiệp và đã đạt được
những kết quả bước đầu. Nhiều địa phương, nhiều trường đã triển khai thực
hiện chương trình giáo dục hướng nghiệp theo hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ,
mặc dù các điều kiện để thực hiện chương trình hầu như chưa có. Nhìn chung,
hiệu quả của hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong thời gian qua còn thấp,
chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội, nhiều học sinh rất lúng túng trong việc lựa
chọn hướng đi cho mình sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông và thiếu tâm
thế, năng lực để bước vào cuộc sống lao động.
Quản lý giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông là một
trong những nội dung của quản lý các hoạt động sư phạm. Quản lý hoạt động
giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông bao gồm quản lý tốt
3


việc thực hiện chương trình giáo dục hướng nghiệp, phát huy hiệu quả các

trang thiết bị phục vụ giảng dạy, đầu tư đúng mức cho cơ sở hạ tầng, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên theo đúng yêu cầu của giáo dục hướng nghiệp, phối
hợp tốt các lực lượng tham gia công tác giáo dục hướng nghiệp ở trường
trung học phổ thông. Quản lý tốt hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh là góp phần vào việc giáo dục và đào tạo con người hoàn thiện về phẩm
chất đạo đức, có năng lực, đủ trình độ kiến thức cống hiến cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thực tế các trường trung học phổ thông ở quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội đa số học sinh có tâm lý học xong trung học phổ thông phải vào được đại
học hoặc cao đẳng, rất ít học sinh có nguyện vọng học nghề. Nhiều trường
dạy nghề có chất lượng cao, thị trường lao động rất cần và trả lương cao
nhưng vẫn thiếu học sinh học nghề. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng mất
cân đối trong cơ cấu trình độ nguồn nhân lực đã đào tạo và cơ cấu ngành nghề
đào tạo trên địa bàn thành phố Hà Nội. Những ngành nghề có nhu cầu phát
triển thì chỉ có ít sinh viên theo học. Trong khi đó, rất đông học sinh theo học
các ngành có nhu cầu về nhân lực qua đào tạo thấp, nên sau khi tốt nghiệp đại
học, nhiều em không xin được việc làm hoặc làm những công việc trái với
ngành nghề được đào tạo, gây lãng phí lớn cho gia đình và xã hội. Như vậy,
mục tiêu hướng nghiệp của giáo dục phổ thông hầu như chưa đạt được.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do công
tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của chủ thể quản lý hoạt động
này chưa được thực hiện tốt. Mặt khác, cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề quản lý giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh các trường trung học phổ thông ở quận Hà Đông.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu, làm rõ vấn đề: “Quản lý
giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các trường trung học phổ thông ở quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
4



2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới, giáo dục lao động - hướng nghiệp cho học sinh có từ
hàng trăm năm nay và ngày càng phát triển. Những vấn đề hướng dẫn chọn
nghề được đặt ra một cách rộng rãi ở nhiều nước với tính cấp thiết của nó vào
những năm đầu thế kỷ XX. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về hướng
nghiệp và giáo dục hướng nghiệp ở các nước như Nga, Pháp, Đức, Anh, Mỹ,
Nhật Bản, Trung Quốc.
Những nghiên cứu về giáo dục hướng nghiệp được khởi đầu từ các
nước công nghiệp Châu Âu. Năm 1848, cuốn sách “Hướng nghiệp chọn
nghề” xuất hiện ở Pháp đã đề cập tới xu thế phát triển đa dạng của nghề
nghiệp do sự phát triển của công nghiệp tạo nên và việc nhất thiết phải giúp
đỡ thanh niên trong sự lựa chọn nghề nghiệp. Cuốn sách cũng đã khẳng định
tính cấp thiết phải giúp đỡ thanh thiếu niên đi vào thế giới nghề nghiệp nhằm
sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động trẻ. Các tác giả Rolf Oberliesen,
Helmut Keim, Michael Schumann, Gehart Duismamn …(Cộng hoà liên bang
Đức) đã có những công trình nghiên cứu về phương thức tổ chức cho học sinh
Phổ thông thực tập ở các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh doanh, dịch vụ
[22]. Đức đã có những kinh nghiệm về hệ thống tổ chức trường Phổ thông
quán triệt nguyên tắc hướng nghiệp, chuẩn bị cho học sinh đi vào trường đào
tạo nghề tuỳ theo trình độ và năng lực học tập của mỗi học sinh. Quan điểm
của họ là phải tiến hành phân loại học sinh dựa vào khả năng học tập của từng
em để định hướng cho học sinh đi học để trở thành công nhân lành nghề song
song với việc học hết lớp 12 và tiếp tục phân loại cho học sinh khá giỏi học
lên lớp 13 thi tú tài toàn phần và thi vào Đại học…Vì thế, học sinh có thể học
nghề ngay khi đang học Phổ thông. Bên cạnh đó, các nhà khoa học sư phạm ở
Cộng hoà Dân chủ Đức (Heinz Frankiewiez, Bernd Rothe, B. Germer … đã
nghiên cứu những vấn đề cơ sở khoa học sư phạm của tổ chức hoạt động dạy
5



học lao động nghề nghiệp cho học sinh, trong đó quan tâm đến công tác phối
hợp, cộng tác chặt chẽ giữa trung tâm giáo dục kinh tế thực hành và các
trường phổ thông trong việc lập kế hoạch thực tập cho học sinh phổ thông.
Các tác giả đã chỉ ra sự cần thiết phải tổ chức cho học sinh thực tập thực tế tại
các trung tâm hoặc các đơn vị sản xuất; Tổ chức hoạt động lao động nghề
nghiệp cho học sinh Phổ thông bằng việc áp dụng phương thức phối hợp cộng
tác chặt chẽ giữa trung tâm giáo dục kinh tế thực hành và các trường phổ
thông trong việc lập kế hoạch thực tập cho học sinh Phổ thông.
Các nhà khoa học như: N.K.Krupxkaia, A.V.Lunasatsky, M.I.Kalinin,
N.O.Blonxkii, M.Z.Akmaliv, P.R.Atutov đã có nhiều đóng góp quan trọng
trong lĩnh vực giáo dục lao động trong những năm 70 của thế kỷ XX.
Các nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu ý tưởng “học tập kết hợp với lao
động sản xuất” để hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh, những ý tưởng
đó có giá trị lớn cả mặt chính trị lẫn kinh tế - xã hội. Các nhà giáo dục Xô Viết
đã làm nổi bật vai trò to lớn của giáo dục trong nhà trường nước Nga, coi đó là
một trong những bộ phận quan trọng nhất của giáo dục Cộng sản chủ nghĩa, có
tác dụng giúp học sinh tiếp nhận về mặt lý thuyết và thực tiễn về những nguyên
lý cơ bản của nền sản xuất hiện đại hình thành kỹ năng, kỹ xảo lao động và
hướng nghiệp cho học sinh, tạo khả năng lựa chọn có ý thức con đường lao
động, xây dựng cơ sở cho việc đào tạo nghề về sau. Đặc biệt, N.K.Krupxkaia
đã phát triển nguyên lý giáo dục của V.I.Lênin, nhấn mạnh yêu cầu phải quán
triệt nguyên lý này vào các môn học của nhà trường, giữa các môn học với
nhau phải có sự quan hệ mật thiết, liên hệ với hoạt động thực tiễn và nhất là đối
với học môn kỹ thuật. N.K.Krupxkaia trong cuốn sách “Hoàn thiện quá trình
dạy học” đã chỉ ra rằng: “Mối liên hệ giữa học tập và lao động cần phải thực
hiện sao cho học tập lý thuyết soi sáng con đường thực hành vào lao động
sản xuất, còn lao động làm giàu kiến thức giúp nắm kiến thức một cách có ý
thức”; “Giáo viên dạy lao động cần trang bị cho học sinh những kiến thức kỹ
6



năng, kinh tế thực hành đại cương cần thiết cho người lao động các nghề
khác nhau để lao động sản xuất” [37]. Chính vì vậy, qua các lần cải cách
giáo dục (1956 - 1966 và 1984 - 1986), giáo dục Xô Viết luôn chú trọng tăng
cường giáo dục lao động với hướng nghiệp cho học sinh Phổ thông trên cơ
sở gắn với lao động sản xuất.
* Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
Từ năm 1975 - 1980 Viện Khoa học Giáo dục đã thực nghiệm để đưa
công tác hướng nghiệp vào trường phổ thông. Vào đầu những năm 80 của thế
kỷ XX phải kể đến sự đóng góp của các tác giả như: Phạm Hoàng Gia, Lê
Sơn, Phạm Tất Dong, Đặng Danh Ánh đã nêu ra một số cơ sở tâm lý, nội
dung của công tác hướng nghiệp. Những sản phẩm nghiên cứu của họ là cơ sở
để ngày 19/3/1981, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 126/CP về “Công
tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý học sinh các
cấp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học tốt nghiệp ra trường”. Quyết định
này đã tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển của công tác hướng nghiệp,
nhất là hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Để triển khai quyết định trên,
ngày 17/11/1981 Bộ Giáo dục và Đào tạo ra thông tư số 31/TT hướng dẫn
việc thực hiện quyết định 126/CP cho các cơ quan quản lý giáo dục, trường
phổ thông các cấp và các cơ quan liên ngành. Để thực hiện chủ trương của
Đảng về công tác hướng nghiệp, ngay từ năm 2002, Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã cho xây dựng lại chương trình giáo dục hướng nghiệp và viết sách về giáo
dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu như Đặng Danh
Ánh, Phạm Tất Dong, Trần Mai Thu ... đã đề cập đến nhiều khía cạnh trong
công tác quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông.
Kết quả nghiên cứu của các tác giả được sử dụng trong các trường phổ thông
nhằm định hướng nghề cho học sinh, giúp học sinh lựa chọn nghề phù hợp
với khả năng, sở trường của bản thân.

7


Đề tài cấp nhà nước KX.05-09 (Nguyễn Văn Lê làm chủ nhiệm):
“Giáo dục phổ thông và hướng nghiệp - nền tảng để phát triển nhân lực đi
vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” đã nghiên cứu thực trạng và đưa
ra một bức tranh tổng thể về hướng nghiệp cho học sinh phổ thông để phát
triển nguồn nhân lực. Đề tài đã tổng hợp khái quát những vấn đề lý luận về
giáo dục và hướng nghiệp, mối quan hệ giữa hai hoạt động này trong nhà
trường phổ thông, hướng tới việc chuẩn bị lực lượng tham gia vào quá trình
đào tạo nhân lực phục vụ yêu cầu phát triển đất nước trong điều kiện kinh tế
thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế [29].
Đề tài cấp Bộ: “Tìm hiểu thực trạng công tác quản lý hoạt động hướng
nghiệp cho học sinh trung học phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh và đề
xuất một số biện pháp” đã đánh giá thực trạng công tác hướng nghiệp tại thành
phố Hồ Chí Minh. Trong việc chọn nghề của các em còn nhiều lúng túng và lựa
chọn chưa phù hợp với năng lực bản thân. Chỉ có một số học sinh cân nhắc, tính
toán, nhận xét, tìm hiểu thông tin trước khi chọn nghề. Qua đó cho thấy công tác
hướng nghiệp trong nhà trường cần xem xét lại đầy đủ hơn. Tác giả cũng đề xuất
một số biện pháp cụ thể để giúp công tác hướng nghiệp tốt hơn.
Đề tài cấp Bộ: “Những giải pháp triển khai thực hiện tổ chức giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông khu vực miền núi Đông Bắc
Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá” của tác giả Nguyễn
Thị Thanh Huyền làm chủ nhiệm [18]; đề tài nghiên cứu cấp Bộ năm 2009:
“Tham vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông - Thực trạng ở
Việt Nam và kinh nghiệm Quốc tế” do tác giả Lê Thị Thanh Hương làm chủ
nhiệm [19].
Hội thảo khoa học năm 2002, tại Hà Nội với chủ đề: “Giáo dục phổ
thông và hướng nghiệp - Nền tảng để phát triển nguồn nhân lực đi vào công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” có 20 báo cáo, tham luận khoa học tại hội

thảo. Các bài tham luận thực sự là những nghiên cứu, tìm tòi, đúc rút, tổng kết
8


có giá trị về lý luận và thực tiễn của giáo dục phổ thông và hướng nghiệp.
Đồng thời cũng chỉ ra các giải pháp nhằm làm cho giáo dục hướng nghiệp và
giáo dục phổ thông phục vụ tốt cho việc chuẩn bị nguồn nhân lực trong thời
kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá và hội nhập quốc tế [21].
Hội thảo khoa học quốc tế về giáo dục hướng nghiệp với chủ đề: “Đối
thoại Pháp - Á về các vấn đề và hướng đi cho giáo dục hướng nghiệp tại Việt
Nam”. Trong hội thảo, nhiều tham luận của các nhà khoa học trong và ngoài
nước đã trình bày sâu các nội dung, hướng đi cần thiết để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp của nước nhà [22].
Luận văn thạc sĩ “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh trường trung học phổ thông dân lập Mikhain Vaxilevích
Lômônôxop, huyện Từ Liêm, Hà Nội” của tác giả Võ Thị Mai Hiền. Đã chỉ ra
cơ sở lý luận và thực tiển quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh trường trung học phổ thông dân lập Mikhain Vaxilevích Lômônôxop,
huyện Từ Liêm, Hà Nội, đánh giá thực trạng giáo dục hướng nghiệp và thực
trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trường trung học phổ thông,
đề xuất hệ thông các biện pháp quản lý, song cũng chưa đi sâu nghiên cứu giáo
dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế [14].
Luận văn thạc sĩ “Quản lý công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ
thông bậc trung học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp” của tác giả Huỳnh Thị Tam
Thanh đã nghiên cứu cơ sở lý luận, khảo sát đánh giá thực trạng công tác
hướng nghiệp cho học sinh tại các trung tâm giáo dục thường xuyên trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp khắc phục [39].
Luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Thảo My với đề tài:“Nghiên cứu đề

xuất giải pháp hướng nghiệp cho học sinh phổ thông tại huyện Bảo Lâm, tỉnh
Lâm Đồng”. Tác giả đã làm rõ một số cơ sở lý luận về hướng nghiệp cho học
9


sinh phổ thông tại huyện Bảo lâm, tỉnh Lâm đồng, đánh giá thực trạng những
ưu điểm và hạn chế tồn tại của công tác hướng nghiệp cho học sinh trung học
phổ thông của huyện, trên cơ sở đó đề xuất 6 giải pháp hướng nghiệp cho học
sinh trung học phổ thông, đó là những tư liệu bổ ích cần được kế thừa và phát
triển [35].
Tác giả Nguyễn Văn Hộ với các công trình nghiên cứu như: “Thiết lập
và phát triển hệ thống hướng nghiệp cho học sinh Việt Nam”; “Cơ sở sư
phạm của công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông”… đã khái quát các
luận chứng lý luận và thực tiễn cho hệ thống hướng nghiệp phổ thông trong
thời kỳ hội nhập của đất nước và đề xuất một số hình thức phối hợp giữa nhà
trường phổ thông với các cơ sở đào tạo nghề.
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu về công tác giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông như: Tác giả Bùi Việt Phú
(2003): “Tổ chức giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông theo tinh
thần xã hội hoá”- Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục, Đại học Quốc gia Hà
Nội; tác giả Phạm Văn Liêm (2004): “Một số biện pháp quản lý công tác giáo
dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông trung học tại Trung tâm Kỹ thuật
tổng hợp - Hướng nghiệp số 3 Hà Nội” - Luận văn thạc sỹ Khoa học giáo dục,
Đại học Sư phạm Hà Nội; tác giả Nguyễn Thế Tuân (2008): “Biện pháp quản
lý công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông tại Trung
tâm Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp Bắc Ninh” - Luận văn thạc sỹ Khoa học
giáo dục, Đại học sư phạm Hà Nội; tác giả Cao Văn Nguyên (2008): “Biện
pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của Hiệu trưởng các trường
trung học phổ thông huyện Thiệu Hoá - Tỉnh Thanh Hoá” - Luận văn thạc sỹ
Khoa học giáo dục, Đại học sư phạm Hà Nội; tác giả Nguyễn Hữu Văn (2008):

“Biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp của Hiệu trưởng các trường trung
học phổ thông tỉnh Hậu Giang” - Luận văn thạc sỹ Khoa học giáo dục, Đại học
sư phạm Hà Nội….
10


Qua đó có thể nhận thấy vấn đề giáo dục hướng nghiệp không những
đã được các cấp quản lý, các nhà khoa học mà đã được cả xã hội quan tâm.
Ngày nay với đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục thì giáo dục hướng
nghiệp càng phải được chú trọng góp đào tạo nguồn nhân lực thực sự có chất
lượng đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Các công trình
nghiên cứu chủ yếu tập trung quan tâm tới việc đổi mới nội dung, phương
pháp giáo dục hướng nghiệp, các biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp
v.v..nhằm nâng cao chất lượng cho giáo dục hướng nghiệp. Tuy nhiên chưa
có công trình nào trực tiếp đề cập đến quản lý giáo dục hướng nghiệp ở các
trường trung học phổ thông quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn quản lý dục hướng nghiệp ở các trường
trung học phổ thông, đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý giáo dục hướng nghiệp các trường trung học phổ thông ở quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quản lý giáo dục hướng nghiệp ở
trường trung học phổ thông.
- Khảo sát thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp các trường trung
học phổ thông ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp các trường trung
học phổ thông ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

* Khách thể nghiên cứu
Giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội.
11


* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các trường trung học phổ
thông ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và biện pháp quản lý
giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các trường trung học phổ thông ở quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội.
- Về không gian: Nghiên cứu, khảo sát ở 4 trường trung học phổ thông
công lập: Trường trung học phổ thông Chuyên Nguyễn Huệ; Lê Quý Đôn;
Quang Trung và Trần Hưng Đạo.
- Về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2016.
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng, hiệu quả công tác hướng nghiệp cho học sinh trung học
phổ thông quận Hà Đông, thành phố Hà Nội phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó phụ thuộc rất lớn vào chất lượng công tác quản lý. Nếu trong quản lý
các chủ thể quản lý thực hiện đồng bộ các biện pháp như: Tổ chức các hoạt
động giáo dục nâng cao nhận thức cho các lực lượng giáo dục về giáo dục
hướng nghiệp; chỉ đạo nâng cao chất lượng xây dựng kế hoạch; phối hợp chặt
chẽ giữa các lực lượng; bồi dưỡng nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản
lý, giáo viên về công tác giáo dục hướng nghiệp; tổ chức khoa học hoạt động
ngoại khoá về giáo dục hướng nghiệp và tư vấn hướng nghiệp; thường xuyên
kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục hướng nghiệp thì sẽ nâng cao được hiệu
quả giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các trường trung học phổ thông ở
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
- Quan điểm hệ thống - cấu trúc
Vấn đề được nghiên cứu một cách toàn diện, khách quan: Quản lý hoạt
động giáo dục hướng nghiệp được xem xét trong mối quan hệ với các hoạt
12


động khác trong nhà trường; thực hiện đồng bộ bốn con đường giáo dục
hướng nghiệp, giảng dạy hoạt động giáo dục hướng nghiệp và bồi dưỡng đội
ngũ tham gia hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ
thông gắn với mục tiêu giáo dục của nhà trường.
- Quan điểm thực tiễn
Qua điều tra, nghiên cứu thực tế, phân tích để phát hiện những tồn tại
trong quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp các trường trung học phổ
thông ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, trên cơ sở đó, đề ra những biện
pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các
trường trung học phổ thông.
- Quan điểm lịch sử, lôgic
Tìm hiểu sự hình thành và phát triển của hoạt động giáo dục hướng
nghiệp trên thế giới và ở Việt Nam. Đồng thời, xem xét xu thế phát triển kinh
tế - xã hội và nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và trên địa bàn quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội trong những năm vừa qua cùng với những thành tựu
cần phát huy và những tồn tại cần khắc phục.
* Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp phân tích - tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá những vấn
đề lý luận trong các văn bản, tài liệu, sách báo, thông tin trên mạng Internet
có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, từ đó xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Phương pháp quan sát:
Tiến hành quan sát có chủ định cách tổ chức, tiến hành quản lý hoạt
động giáo dục hướng nghiệp, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương
tiện dạy học phục vụ cho công tác giáo dục hướng nghiệp các trường trung
học phổ thông ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội nhằm thu thập thông tin về
thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp.
13


Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Xây dựng hai loại phiếu hỏi: 1) Dành cho cán bộ quản lý, giáo viên, các
lực lượng tham gia hoạt động giáo dục hướng nghiệp; 2) Dành cho học sinh
trung học phổ thông nhằm khảo sát thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp
ở các trường trung học phổ thông quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Số lượng khách thể khảo sát: 115 giáo viên và cán bộ quản lý; 210 học
sinh lớp 12 của 4 trường trung học phổ thông công lập trên địa bàn quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội.
Nội dung khảo sát: tập trung làm rõ nhận thức của cán bộ, giáo viên về
vai trò của hoạt động giáo dục hướng nghiệp; thực trạng giáo dục hướng
nghiệp; thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp và sự cần thiết, tính khả thi
của các biện pháp đề xuất.
Kết quả khảo sát được tính tần suất %; gán điểm lượng hoá để phân
tích, minh hoạ cho thực trạng và rút ra kết luận cần thiết.
Phương pháp phỏng vấn:
Tiến hành phỏng vấn, trao đổi với cán bộ quản lý, giáo viên về công tác
quản lý giáo dục hướng nghiệp các trường trung học phổ thông ở quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội.
Phương pháp chuyên gia:
Trao đổi, xin ý kiến chuyên gia về quản lý giáo dục hướng nghiệp ở các
trường trung học phổ thông nói chung, ở quận Hà Đông nói riêng.

Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động:
Nghiên cứu các kế hoạch giáo dục hướng nghiệp, kế hoạch bài dạy giáo
dục hướng nghiệp của Hiệu trưởng, giáo viên các trường trung học phổ thông
ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội nhằm thu thập thông tin về quản lý hoạt
động giáo dục hướng nghiệp.
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu thu được.
14


7. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận công tác quản lý giáo dục
hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông.
Làm rõ thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp, đề xuất được hệ
thống biện pháp có thính khả thi cao trong quản lý giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh các trường trung học phổ thông ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho các chủ thể quản lý tiến
hành giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông.
8. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, 3 chương (9 tiết), kết luận, kiến nghị, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

15


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Hướng nghiệp
Tuỳ thuộc vào đặc trưng cho mỗi lĩnh vực khoa học mà khi xem xét

hoạt động hướng nghiệp có những quan điểm khác nhau về khái niệm này.
Các nhà Tâm lý học cho rằng, hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp
sư phạm, y học giúp cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu của xã hội
và năng lực của bản thân.
Theo các nhà Khoa học lao động, hướng nghiệp là hình thức giám định
lao động có tính chất chuẩn đoàn, đó là quá trình xác lập sự phù hợp của từng
con người cụ thể trên cơ sở xác định sự tương thích giữa những đặc điểm tâm
- sinh lý của người học với những yêu cầu của một nghề nào đó đối với người
lao động.
Theo các nhà Giáo dục học, hướng nghiệp như một hệ thống tác động
giúp thế hệ trẻ có cơ sở khoa học trong việc chọn nghề phù hợp với những yêu
cầu của sự phân công lao động xã hội, có tính đến hứng thú và năng lực của từng
cá nhân.
Về phương diện Kinh tế học, hướng nghiệp được hiểu là những mối quan hệ
kinh tế giúp cho mỗi thành viên xã hội phát triển năng lực lao động và đưa họ vào
một lĩnh vực hoạt động cụ thể phù hợp với sự phân bổ lực lượng lao động xã hội.
Tháng 10/1980, Hội nghị lần thứ 9 những người đứng đầu cơ quan giáo
dục nghề nghiệp các nước Xã hội chủ nghĩa họp tại La-ha-ba-na thủ đô Cu Ba
đã thống nhất khái niệm hướng nghiệp như sau: “Hướng nghiệp là những biện
pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, sinh lý học, y học và nhiều khoa học khác để
giúp đỡ học sinh chọn nghề phù hợp với nhu cầu xã hội, đồng thời thoả mãn
tối đa nguyện vọng, thích hợp với những năng lực, sở trường và tâm sinh lý
16


cá nhân, nhằm mục đích phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao
động dự trữ có sẵn của đất nước”.
Xét trên bình diện xã hội, hướng nghiệp là hệ thống tác động của xã hội
về giáo dục học, y học, xã hội học, kinh tế học, ... nhằm giúp cho thế hệ trẻ
chọn được nghề vừa phù hợp với hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường

của cá nhân, vừa đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực của các lĩnh vực sản
xuất trong nền kinh tế quốc dân.
Xét trên bình diện trường phổ thông, hướng nghiệp là một hình thức
hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Với tư cách là hoạt động
dạy của thầy, hướng nghiệp được coi như là công việc của tập thể giáo viên,
tập thể sư phạm có mục đích giáo dục học sinh trong việc chọn nghề, giúp các
em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng
lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong
xã hội. Như vậy, hướng nghiệp trong trường phổ thông được thể hiện như một
hệ thống tác động sư phạm nhằm giúp cho học sinh chọn nghề phù hợp với
nhu cầu xã hội, đồng thời thoả mãn tối đa nguyện vọng, thích hợp với năng
lực, sở trường và điều kiện tâm sinh lý cá nhân cũng như điều kiện gia đình
để người học có thể phát triển đến đỉnh cao của nghề nghiệp, cống hiến cho
xã hội, tạo lập cuộc sống tốt đẹp cho bản thân.
Trong trường phổ thông, hướng nghiệp vừa là hoạt động dạy của giáo
viên, vừa là hoạt động học của học sinh. Nói như vậy có nghĩa là trong công
tác hướng nghiệp, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn còn học sinh là
người chủ động tham gia vào hoạt động để tiếp cận với hệ thống nghề nghiệp.
Kết quả cuối cùng của quá trình hướng nghiệp là sự tự quyết định của học
sinh trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai.
Theo tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo
khoa lớp 10 trung học phổ thông - Hoạt động giáo dục hướng nghiệp chỉ rõ:
“Hướng nghiệp là một hình thức hoạt động dạy của thầy và hoạt động học
17


của trò. Với tư cách là hoạt động dạy của thầy, hướng nghiệp được coi như là
công việc của tập thể giáo viên, tập thể sư phạm có mục đích giáo dục học
sinh trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai
trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu

nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội.” [38, tr.43 ].
Từ các khái niệm trên có thể hiểu: Hướng nghiệp là các hoạt động
nhằm hỗ trợ cá nhân chọn lựa và phát triển chuyên môn nghề nghiệp phù hợp
nhất với khả năng của bản thân, đồng thời thỏa mãn nhu cầu nhân lực của thị
trường lao động ở cấp độ địa phương và quốc gia.
Hướng nghiệp là quá trình hướng dẫn chọn nghề, quá trình chuẩn bị
cho thế hệ trẻ đi vào lao động sản xuất. Hướng nghiệp là một hệ thống biện
pháp tác động của gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường đóng
vai trò chủ đạo nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao
động ở các ngành nghề tại những nơi xã hội đang cần phát triển, đồng thời lại
phù hợp với hứng thú, năng lực cá nhân.
Hướng nghiệp là hoạt động đòi hỏi toàn xã hội phải có trách nhiệm
tham gia. Thế hệ trẻ cần được hướng nghiệp bằng nhiều con đường, nhiều
cách thức khác nhau giúp các em lựa chọn nghề nghiệp theo đúng năng lực,
sở trường và đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của xã hội.
Hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông là bước khởi đầu quan
trọng trong quá trình phát triển nguồn nhân lực. Trên bình diện cá nhân,
hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, sinh lý
học, giáo dục học, xã hội học và nhiều khoa học khác để giúp học sinh chọn
nghề phù hợp với nhu cầu của xã hội, đồng thời thoả mãn tối đa nguyện vọng,
thích hợp với năng lực, sở trường và điều kiện tâm lý cá nhân để học có thể
phát triển tới đỉnh cao trong nghề nghiệp, cống hiến được nhiều cho xã hội
cũng như tạo lập được cuộc sống tốt đẹp cho bản thân. Trên bình diện vĩ mô
xã hội, hướng nghiệp nhằm góp phần phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả
18


nhất nguồn nhân lực, vốn quý của đất nước để phục vụ cho sự phát triển kinh
tế - xã hội, mang lại phồn vinh cho đất nước.
1.2.2. Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông

Trường trung học phổ thông là cơ sở giáo dục cấp trung học phổ thông,
cấp học cuối cùng của bậc phổ thông, là cấp học bắt buộc đối với mọi trẻ em
từ 15 đến 24 tuổi. Trong Điều lệ trường phổ thông, điều 2 đã quy định vị trí
của trường trung học trong hệ thống giáo dục quốc dân: “Trường trung học là
cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc dân. Trường có tư cách
pháp nhân và con dấu riêng”.
Trường trung học phổ thông nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, do
đó, nội dung giáo dục phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, nền tảng, toàn
diện và hệ thống, làm cơ sở cho việc phát triển hài hoà, toàn diện nhân cách
của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục phổ thông.
Tác giả Đặng Danh Ánh quan niệm: “Giáo dục hướng nghiệp là một
hoạt động của tập thể sư phạm, của cán bộ các cơ quan nhà máy khác nhau,
được tiến hành với mục đích giúp học sinh chọn nghề đúng đắn với năng lực,
thể lực và tâm lý của cá nhân với nhu cầu kinh tế xã hội. Giáo dục hướng
nghiệp là một bộ phận cấu thành quá trình giáo dục - học tập trong nhà
trường”. [1, tr.27].
Theo tác giả Phạm Tất Dong: “Giáo dục hướng nghiệp là một hệ thống
các biện pháp giáo dục nhằm chuẩn bị cho học sinh sớm có ý thức chọn
ngành, nghề vừa phù hợp với nguyện vọng cá nhân vừa phù hợp với phân
công lao động xã hội ngay từ khi còn học ở trường phổ thông”.[8, tr.29].
Như vậy, giáo dục hướng nghiệp là một hệ thống các biện pháp giáo
dục của nhà trường, gia đình và xã hội, nhằm dẫn dắt thế hệ trẻ đi vào thế
giới nghề nghiệp, giúp cho các em có định hướng đúng trong việc lựa chọn
nghề phù hợp với nguyện vọng, sở trường của bản thân, đáp ứng được nhu
cầu nhân lực của xã hội đang đặt ra.
19


Quản lý giáo dục hướng nghiệp ở trường Trung học phổ thông trong
giai đoạn hiện nay là quản lý các thành tố và mối quan hệ giữa các thành tố

cấu trúc của quá trình giáo dục hướng nghiệp nhằm đạt mục tiêu giáo dục
hướng nghiệp. Trường Trung học phổ thông nằm trong hệ thống giáo dục
quốc dân, do đó, nội dung giáo dục phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, nền
tảng, toàn diện và hệ thống, làm cơ sở cho việc phát triển hài hoà, toàn diện
nhân cách của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục phổ thông.
Từ sự phân tích trên chúng tôi cho rằng: “Giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh trung học phổ thông là hệ thống các tác động của các chủ thể giáo
dục đến học sinh nhằm nâng cao nhận thức nghề nghiệp, định hướng lựa
chọn nghề phù hợp với nguyện vọng, sở trường, năng lực của bản thân đồng
thời đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của xã hội”.
Giáo dục hướng nghiệp góp phần phát huy năng lực, sở trường của
từng học sinh, đồng thời cũng góp phần điều chỉnh nguyện vọng của cá
nhân sao cho phù hợp với nhu cầu phân công lao động trong xã hội. Có
thể nói ngắn gọn rằng, giáo dục hướng nghiệp là hướng dẫn cho học sinh
ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường sớm có ý thức về một nghề lao
động mà sau này họ sẽ chọn.
Mục đích giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông là
hình thành năng lực tự chủ trong việc lựa chọn nghề của học sinh trên cơ sở
của sự phù hợp giữa năng lực, hứng thú, sở thích cá nhân với nhu cầu sử dụng
lao động trong các hoạt động đa dạng của đời sống xã hội. Thực hiện được
mục đích nêu trên, giáo dục hướng nghiệp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả lao
động xã hội, điều chỉnh từ gốc sự phân luồng lao động dự trữ trên bình diện
cả nước.
Giáo dục hướng nghiệp trước hết phải đảm bảo chức năng giáo dục
toàn diện, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với những ngành
nghề khác nhau trong xã hội, hiểu được nhu cầu sử dụng nhân lực của đất
20


nước, thấy được những đòi hỏi của nghề. Trên cơ sở đó kích thích thế hệ trẻ

tự giác tìm hiểu và phấn đấu để vươn tới nghề có dự kiến lựa chọn. Như vậy,
giáo dục hướng nghiệp có chức năng chuẩn bị cho học sinh sẵn sàng đi vào
cuộc sống lao động sản xuất, đó là sẵn sàng về mặt tri thức, tư tưởng tình
cảm, kỹ năng hành động và đạo đức, lương tâm nghề nghiệp.
Nội dung giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông bao
gồm: Định hướng nghề nghiệp; tư vấn nghề; tuyển chọn nghề.
Con đường giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông:
Hướng nghiệp qua dạy - học các môn văn hoá; hướng nghiệp qua dạy - học
môn Công nghệ, dạy nghề phổ thông và hoạt động lao động sản xuất; hướng
nghiệp qua hoạt động giáo dục hướng nghiệp; hướng nghiệp qua hoạt động
tham quan, ngoại khoá.
Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông có ý nghĩa to
lớn về mặt giáo dục, kinh tế, chính trị và xã hội.
1.1.3. Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông.
Quản lý là một hiện tượng xuất hiện rất sớm, là một phạm trù tồn tại
khách quan được ra đời từ bản thân nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi quốc
gia, mọi thời đại. Thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến nhưng chưa có một
định nghĩa thống nhất. Các nhà khoa học đã đưa ra nhiều định nghĩa quản lý
từ các góc độ khác nhau.
Từ những cách tiếp cận về quản lý, chúng ta thấy khái niệm quản lý
bao giờ cũng tồn tại với tư cách là một hệ thống bao gồm có hai yếu tố: chủ
thể quản lý và khách thể quản lý. Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các hoạt
động, còn khách thể quản lý là người chịu sự quản lý của chủ thể quản lý.
Giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý phải có chung một mục tiêu và quy
trình, dựa vào đó làm căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động. Hai thành phần
này có mối quan hệ, tác động qua lại tương hỗ lẫn nhau.

21



Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên
khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng các cơ hội của
hệ thống để đạt được mục tiêu định ra trong điều kiện biến động của môi trường.
Quản lý là sự tác động liên tục có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có
hệ thống thông tin của chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) đến
khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế...
bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương
pháp và các biện pháp cụ thể nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng,
các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động
của môi trường, làm cho tổ chức hoạt động có hiệu quả.
Như vậy, quản lý giáo dục chính là quá trình tác động có định hướng
của nhà quản lý trong việc vận dụng nguyên lý, phương pháp chung nhất của
kế hoạch nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Những tác động này có tính
khoa học đến nhà trường làm cho nhà trường tổ chức một cách khoa học, có
kế hoạch trong việc dạy và học theo mục tiêu đào tạo chung.
Các nhà nghiên cứu cho rằng quản lý có 4 chức năng cơ bản liên quan
mật thiết với nhau, bao gồm: Chức năng kế hoạch; chức năng tổ chức thực
hiện; chức năng chỉ đạo; chức năng kiểm tra.
Mục tiêu của cấp trung học phổ thông (theo Luật giáo dục 2005, chỉnh
sửa bổ sung 2009, Điều 27) là: “Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học
sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn
thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và
hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát
triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống
lao động” [32]. Trường trung học phổ thông thuộc cấp học cuối cùng của giáo
dục trung học phổ thông, thời gian học 3 năm từ lớp 10 đến hết lớp 12, là bậc
học hoàn thiện kiến thức phổ thông cho học sinh, là cấp học vừa trực tiếp tạo
nguồn cho bậc cao đẳng, đại học nói riêng vừa góp phần quan trọng vào việc
22



đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói
chung.
Trường trung học phổ thông chú trọng tới phân hoá trong giáo dục, do
đặc điểm phát triển tâm, sinh lý của học sinh với khả năng, nguyện vọng đa
dạng. Tuy nhiên phân hoá theo hướng nào và ở mức độ nào vẫn phải đảm bảo
tính phổ thông với nội dung giáo dục mang tính chất nền tảng, làm cơ sở cho
sự phát triển hài hoà, toàn diện nhân cách người học. Trường trung học phổ
thông còn mang tính hướng nghiệp, giáo dục hướng nghiệp ở nhà trường sẽ
góp phần giúp học sinh sau khi học xong có khả năng tìm và thích ứng nhanh
với những nghề thích hợp. Phương pháp giáo dục học sinh học sinh phổ thông
phẩi phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Như vậy trường trung học phổ thông có mục tiêu, nội dung, phương
pháp giáo dục mang tính phổ thông cơ bản, toàn diện, với đặc thù riêng nhằm
thực hiện mục tiêu giáo dục “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Do đó giáo dục trung học phổ thông vừa chuẩn bị
cho học sinh vào đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, vừa hình thành
cho học sinh một số năng lực chủ yếu thích ứng với mọi thay đổi thực tiễn để
chủ động, tự chủ hoà nhập vào môi trường lao động, nghề nghiệp.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, Đảng chỉ rõ mục tiêu của giáo dục
là: Phát triển con người toàn diện, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông là bước khởi đầu
quan trọng trong quá trình phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy, quản lý giáo dục
hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay là quản
lý các thành tố và mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc của quá trình giáo
dục hướng nghiệp nhằm đạt mục tiêu giáo dục hướng nghiệp.

23



Trên cơ sở tiếp cận khái niệm giáo dục hướng nghiệp, quản lý giáo dục
hướng nghiệp chúng tôi quan niệm: “Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh trung học phổ thông là quá trình tác động có mục đích của các chủ thể
quản lý đến toàn bộ hoạt động giáo dục hướng nghiệp nhằm điều chỉnh, định
hướng học sinh trung học phổ thông trong lựa chọn nghề phù hợp với nguyện
vọng, sở trường, năng lực của bản thân, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực
của xã hội”.
Quản lý giáo dục hướng nghiệp là nhiệm vụ của các nhà quản lý giáo
dục trong các trường phổ thông. Quản lý giáo dục hướng nghiệp là quản lý
một hệ thống toàn vẹn, bao gồm các thành tố cơ bản: Nhận thức; kế hoạch; tổ
chức thực hiện; chỉ đạo thực hiện; bồi dưỡng đội ngũ; xây dựng các điều kiện
phục vụ; kiểm tra, đánh giá.
Chủ thể quản lý là đội ngũ cán bộ quản lý trong nhà trường, tập thể
giáo viên, các lực lượng xã hội, trực tiếp là Hiệu trưởng. Chủ thể quản lý phải
xác định chính xác mục tiêu, nội dung, hình thức giáo dục hướng nghiệp; xây
dựng kế hoạch, tổ chức bộ máy; chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá hoạt
động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường. Trên cơ sở đó tổng kết, rút
kinh nghiệm để hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường ngày càng
tốt hơn. Ngoài ra, chủ thể quản lý cần cập nhật tình hình xã hội, nắm được
nhu cầu nguồn nhân lực của khu vực, địa phương nơi cư trú; chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương để có thể định hướng nghề
nghiệp có hiệu quả cho học sinh. Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
cần dựa trên nghiên cứu về nhu cầu thị trường lạo động, đặc điểm và nhu cầu,
năng lực của học sinh, góp phần đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đối tượng quản lý là học sinh trung học phổ thông và các tập thể học
sinh chịu sự tác động, điều khiển, quản lý của chủ thể quản lý trong suốt
quá trình giáo dục. Bản thân đối tượng quản lý vừa là khách thể (đối tượng

24


chịu sự quản lý), vừa là chủ thể trong hoạt động tự quản lý. Thông qua con
đường học tập, rèn luyện và tự học tập, rèn luyện học sinh tự định hướng
nghề cho mình.
Mục đích quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh là nhằm đảm
bảo hoạt động giáo dục hướng nghiệp diễn ra hợp qui luật, có chất lượng, hiệu
quả cao. Đó là sự vận dụng tổng hợp kiến thức về khoa học quản lý vào thực
tiễn tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp, dẫn dắt học sinh trung học phổ
thông có định hướng đúng trong lựa chọn nghề phù hợp với nguyện vọng, sở
trường, năng lực của bản thân, đáp ứng được nhu cầu nhân lực của xã hội.
Nội dung quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh gồm: Xác định
mục tiêu, xây dựng kế hoạch giáo dục hướng nghiệp; tổ chức thực hiện giáo
dục hướng nghiệp; chỉ đạo thực hiện giáo dục hướng nghiệp; quản lý bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên làm công tác giáo dục hướng nghiệp;
quản lý các điều kiện, phương tiện giáo dục hướng nghiệp cho học sinh; kiểm
tra, đánh giá kết quả công tác giáo dục hướng nghiệp.
Phương thức quản lý: Hiệu trưởng và các chủ thể quản lý xây dựng và
tổ chức thực hiện kế hoạch, thực hiện nội dung, phương pháp, hình thức giáo
dục hướng nghiệp cho học sinh để đạt mục tiêu đề ra; phát hiện những nguyên
nhân yếu kém, đề xuất biện pháp thực hiện và tổ chức thực hiện.
1.2. Nội dung quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trường
trung học phổ thông
1.2.1. Xây dựng mục tiêu, kế hoạch giáo dục hướng nghiệp
Việc xây dựng mục tiêu, kế hoạch giáo dục hướng nghiệp phải dựa trên
nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông đã được cụ thể hoá
phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội của địa phương, đặc điểm tâm sinh lý của
học sinh và điều kiện của mỗi nhà trường. Mục tiêu, kế hoạch giáo dục hướng
nghiệp phải làm rõ nội dung giáo dục hướng nghiệp, các phương pháp giáo

dục hướng nghiệp, kế hoạch nhân sự cho hoạt động giáo dục hướng nghiệp,
các điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo…
25


Những căn cứ để xây dựng kế hoạch
Mục tiêu chung của giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ
thông là nhằm phát hiện và bồi dưỡng phẩm chất nhân cách nghề nghiệp cho
học sinh, giúp học sinh hiểu mình, hiểu yêu cầu của nghề; định hướng cho
học sinh đi vào những lĩnh vực mà xã hội đang có yêu cầu.
Tình hình giảng dạy và nội dung chương trình các môn học trong nhà
trường, các chủ trương công tác trọng tâm và nhiệm vụ chính trị của địa
phương. Điều tra cơ bản khả năng của giáo viên và các lực lượng ngoài nhà
trường hỗ trợ cho công tác giáo dục hướng nghiệp.
Điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương và cơ sở vật chất của nhà
trường để xây dựng kế hoạch giáo dục hướng nghiệp mang tính khả thi.
Văn bản hướng dẫn của Bộ Giáo dục và đào tạo về giáo dục hướng
nghiệp, trên cơ sở đó đề ra kế hoạch cho sát hợp.
Đặc điểm sinh lý, tính cách, lứa tuổi, dân tộc.
Xây dựng kế hoạch
Xây dựng kế hoạch cần xác định rõ: Mục đích yêu cầu, thời gian thực
hiện, hình thức tổ chức, lực lượng tham gia, điều kiện thực hiện, địa điểm,
người phụ trách cho từng hoạt động, từng học kỳ và cả năm học. Kế hoạch
phải cân đối, hợp lý với kế hoạch toàn diện của nhà trường trong năm học.
Triển khai thực hiện các hoạt động trong kế hoạch giáo dục hướng
nghiệp (giao việc, hướng dẫn, giám sát, thúc đẩy thực hiện các hoạt động cụ
thể theo từng tháng, từng học kỳ và năm học).
Kiểm tra đôn đốc việc thực hiện kế hoạch của Ban hướng nghiệp trên
một số mặt quan trọng như nội dung, thời gian, phương tiện, nhân lực và hiệu
quả kinh tế, giáo dục của giáo dục hướng nghiệp.

1.2.2. Tổ chức thực hiện giáo dục hướng nghiệp
Thành lập Ban hướng nghiệp và phối hợp các lực lượng trong và ngoài
nhà trường trong công tác giáo dục hướng nghiệp.
26


×