Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý xã hội hóa GIÁO dục mầm NON NGOÀI CÔNG lập TRÊN địa bàn QUẬN hà ĐÔNG, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.01 KB, 106 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI HOÁ
GIÁO DỤC MẦM NON NGOÀI CÔNG LẬP
12
1.1.
Những khái niệm cơ bản của đề tài
12
1.2.
Đặc điểm và nguyên tắc chỉ đạo thực hiện quản lý xã hội
hóa giáo dục mầm non và giáo dục mầm non ngoài công lập 33
1.3.
Nội dung quản lý xã hội hoá giáo dục mầm non
36
1.4.
Những yếu tố tác động đến quản lý xã hội hóa giáo dục
mầm non ngoài công lập
38
Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ XÃ HỘI HOÁ
GIÁO DỤC MẦM NON NGOÀI CÔNG LẬP TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI 43
2.1.
Tình hình giáo dục mầm non ngoài công lập trên địa bàn
quận Hà Đông thành phố Hà Nội
43
2.2.
Thực trạng quản lý xã hội hoá giáo dục mầm non ngoài
công lập trên địa bàn quận Hà Đông thành phố Hà Nội
51


Chương 3 BIỆN PHÁP QUẢN LÝ XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC
MẦM NON NGOÀI CÔNG LẬP TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
76
3.1.
Định hướng quản lý xã hội hoá giáo dục mầm non ngoài
công lập trên địa bàn quận Hà Đông thành phố Hà Nội
76
3.2.
Các biện pháp quản lý xã hội hoá giáo dục mầm non ngoài
công lập trên địa bàn quận Hà Đông thành phố Hà Nội
77
3.3.
Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp
95
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
101
PHỤ LỤC
95


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tình thương yêu và trách nhiệm
đối với thế hệ mầm non đất nước, người đã trừu mến căn dặn các cán bộ, giáo

viên mầm non: “Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ, dạy trẻ cũng như trồng
cây non, trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt, dạy trẻ tốt thì sau này
các cháu thành người tốt. Anh,chị em giáo viên mẫu giáo cần luôn luôn
gương mẫu về đạo đức để các cháu noi theo”.
Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam tại Đại hội lần thứ VIII đã khẳng định: “Các vấn đề chính sách xã hội
đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng
thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cá
nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”.
Mục đích cuối cùng của quá trình xã hội hóa sự nghiệp giáo dục là
nâng cao thêm mức hưởng thụ về giáo dục của nhân dân, nâng cao chất lượng
cuộc sống tinh thần và vật chất của từng người dân.Trẻ em hôm nay sẽ là chủ
nhân đất nước ngày mai, vì thế cần phải bắt đầu từ việc chăm sóc, giáo dục trẻ
em tuổi mầm non. Trách nhiệm này không chỉ thuộc về các nhà giáo dục mầm
non mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: “Chăm lo
phát triển mầm non”, thực hiện “Chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Xã hội
hóa sự nghiệp giáo dục mầm non là một quy luật và khâu then chốt để thực
hiện “chuẩn hóa”, “hiện đại hóa”, thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước
ta xác định đến năm 2020 là: “Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học
mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ
cho các gia đình”.


4
Thực tế xã hội hóa giáo dục mầm non trên địa bàn quận Hà Đông trong
thời gian qua có nhiều chuyển biến đáng kể, đã đóng góp không nhỏ cho sự
nghiệp giáo dục trên địa bàn quận. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trên
thực tế công tác xã hội hóa giáo dục mầm non chưa được nhận thức đúng đầy
đủ, chưa phát huy được thế mạnh của nó, bởi vì trong xã hội còn tồn tại nhiều

nhận thức chưa thật tinh tế, toàn diện. Có quan điểm cho rằng xã hội hoá giáo
dục chỉ đơn thuần là sự đa dạng hoá các hình thức tham gia của nhân dân và
xã hội mà ít chú trọng tới nâng mức hưởng thụ từ giáo dục của người dân; có
quan điểm cho rằng: xã hội hoá giáo dục chỉ đơn thuần về mặt huy động tài
chính, huy động cơ sở vật chất, ít quan tâm đến sức dân, thụ động trông chờ
vào sự bao cấp chủ yếu của Nhà nước. Có những nơi người dân vẫn còn thờ ơ
với giáo dục, cho rằng giáo dục là sự nghiệp riêng của các nhà trường.
Nguyên nhân của những tồn tại trên chính là việc tuyên truyền để nâng cao
nhận thức của toàn xã hội về giáo dục còn nhiều hạn chế, chất lượng giáo dục
chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Công tác chỉ đạo xã hội hóa giáo dục
chưa thực sự có chiều sâu và đạt hiệu quả cao.
Vấn đề đặt ra là phải có những biện pháp quản lý xã hội hóa giáo dục
mầm non ở từng trường mầm non, ở từng cơ sở mầm non ngoài công lập trên
địa bàn quận Hà Đông để nâng cao chất lượng giáo dục mầm non ngoài công
lập trên địa bàn quận .
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn đề tài “Quản lý xã hội
hóa giáo dục mầm non ngoài công lập trên địa bàn quận Hà Đông thành
phố Hà Nội” để nghiên cứu nhằm thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục mầm non
ngoài công lập trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phát triển giáo dục nói chung, giáo dục mầm non nói riêng luôn được
các quốc gia quan tâm; đồng thời là vấn đề thu hút được sự quan tâm nghiên
cứu của các nhà khoa học, nhà giáo trong và ngoài nước.
* Những công trình ở trong nước nghiên cứu quản lý xã hội hóa
giáo dục mầm non.


5
Ở Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước luôn
quan tâm phát triển Giáo dục - Đào tạo, trong đó có giáo dục mầm non. Việc

huy động các nguồn lực để phát triển các trường mầm non luôn được coi
trọng, là mối quan tâm của các cấp, các ngành và toàn xã hội, các nhà khoa
học và là đề tài nghiên cứu của nhiều tác giả. Thực hiện chủ trương xã hội hoá
giáo dục nói chung và phổ cập giáo dục mầm non nói riêng, vấn đề này đang
được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn.
Nghiên cứu xã hội hóa giáo dục mầm non đã được nghiên cứu trên hai
phương diện lí luận và thực tiễn.
Năm 1998, trong khuôn khổ của “Đề án xã hội hóa giáo dục và đào
tạo”, Vụ g iaos dục mầm non, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đánh giá những
thành tựu và hạn chế, thiếu sót của hơn mười năm qua và xác định mục tiêu,
nhiệm vụ xã hội hóa đối với giáo dục mầm non.
Đứng trước những yêu cầu và thách thức của việc thực hiện chiến lược
phát triển giáo dục mầm non, nhằm phát triển giáo dục mầm non theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX. Ngày 25/6/2002 Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức Hội nghị
bàn về công tác giáo dục mầm non. Hội nghị đã đề ra những giải pháp cơ bản,
trong đó nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh biện pháp xã hội hóa giáo dục mầm
non, đa dạng hóa các loại hình giáo dục mầm non”.
Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa giáo dục
trên bình diện chung, ngành giáo dục mầm non đã có những văn bản, chỉ thị
nêu rõ tầm quan trọng của hoạt động này trong công tác chung của ngành.
Văn bản 05/2003/TTLT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ
Tài chính ban hành ngày 24/2/2003 nêu lên trách nhiệm chung của xã hội đối
với sự nghiệp giáo dục mầm non từ cấp cơ sở đến cấp Trung ương.
Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với tổ chức UNESCO đã tổ chức nghiên
cứu “Dự án phát triển trẻ thơ dựa vào cộng đồng cho trẻ em nghèo vùng nông


6
thôn”. Dự án này đã thu được nhiều kết quả và được Hội nghị tổng kết tại Hà

Nội ngày 07/4/2006 đánh giá có ý nghĩa về khoa học và giá trị thực tiễn.
Trong những năm gần đây, ở những góc độ khác nhau, một số tác giả
đã có các công trình nghiên cứu về giáo dục mầm non và xã hội hoá giáo dục
mầm non, như: luận án tiến sĩ của Dương Thanh Huyền “ Xã hội hóa giáo dục
ngành giáo dục mầm non trên địa bàn Hà Nội”( 2004); luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Văn Kiên đề cập “Xã hội hóa giáo dục mầm non vùng nông thôn”.
Các công trình này đã đề cập đến các biện pháp nâng cao chất lượng
giáo dục mầm non, đều coi “xã hội hóa giáo dục” như một phương thức chủ
đạo để ngành học vượt qua các khó khăn khi nguồn lực tài chính còn hạn chế.
Công trình luận văn thạc sĩ của Hồ Nguyệt Ánh (1999) đề cập vấn đề
“nâng cao chất lượng bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục mầm non” đã nêu
phải huy động các lực lượng xã hội tham gia vào hoạt động này.
Công trình luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hoài An đề cập vấn đề
“Xây dựng trường mầm non tư thục ở Hà Nội” đã nhấn mạnh đến tiềm năng
xã hội to lớn cho mục tiêu này.
Công trình luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Tâm đề cập đến vấn
đề “Những biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý ngành học mầm
non tỉnh Nghệ An”, công trình cũng nêu đặc thù xã hội hóa giáo dục vào hoạt
động bồi dưỡng cán bộ quản lý nhìn từ đặc thù một tỉnh miền trung.
Công trình luận văn thạc sĩ của Tạ Thu Vân nghiên cứu "Xã hội hóa giáo
dục mầm non quận Hai Bà Trưng trong giai đoạn hiện nay", (năm 2006) đề cập
đến vấn đề xã hội hóa giáo dục mầm non trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
Công trình luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Bích Hạnh nghiên cứu
"Biện pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục mầm non tỉnh Nam Định
trong giai đoạn hiện nay", (năm 2006).Công trình đã luận giải cơ sở lý luận và
thực tiễn về quản lý công tác xã hội hóa giáo dục mầm non ở tỉnh Nam Định.


7
Công trình luận văn thạc sĩ của Phùng Thị Huyền Trân nghiên cứu

"Biện pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục mầm non ở quận Thanh
Xuân thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay", (năm 2007). Công trình đã
đề xuất các biện pháp quản lý công tác xã hội hóa GDMN ở quận Thanh
Xuân, Hà Nội.
Công trình luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của Nguyễn Thị Bẩy
(2008), Các biện pháp thực hiện xã hội hóa công tác giáo dục ở các trường
mầm non Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay. Công trình đã đề xuất các biện
pháp thực hiện xã hội hóa công tác giáo dục ở các trường mầm non Hải
Phòng trong giai đoạn hiện nay.
Công trình luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của Đỗ Thị Thúy Nga
(2009), Quản lý công tác xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non ở huyện
Thạch Thất, Thành phố Hà Nội trong bối cảnh phát triển hiện nay. Công trình
đã đề xuất các biện pháp quản lý công tác xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm
non ở huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
Công trình luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của tác giả Thái Thị Loan
( 2013), “Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên
mầm non huyện Tân phú, thành phố Hồ Chí Minh”. Công trình đã đề xuất các
biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non
huyện Tân phú, thành phố Hồ Chí Minh có giá trị thực tiễn cao.
Các đề tài của các tác giả nêu trên đều mang tính riêng của mỗi địa
phương nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục cấp mầm non ở địa
phương. Tuy nhiên, những nghiên cứu dành cho cấp học này còn khá khiêm
tốn, các nghiên cứu đã tập trung nghiên cứu những khía cạnh như việc đánh
giá thực trạng và đề xuất các giải pháp để xây dựng quy hoạch phát triển
GDMN quản lý bồi dưỡng GV, bồi dưỡng chuẩn hóa GV, phát triển đội ngũ
GV ở vùng đặc thù.


8
Các luận văn tuy không trực diện bàn vào vấn đề xã hội hóa giáo dục

mầm non nhưng trong các biện pháp đề cập vấn đề nâng cao chất lượng giáo
dục mầm non, đều coi “xã hội hóa giáo dục” như một phương thức chủ đạo
để ngành học vượt qua các khó khăn khi nguồn lực tài chính còn hạn chế.
Các công trình khoa học trên đây đã cung cấp nhiều kiến giải cho hoạt
động xã hội hóa giáo dục mầm non. luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về
quản lý, phát triển giáo dục mầm non ở các khía cạnh khác nhau theo từng
phạm vi nghiên cứu.
Một số công trình đã khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn về xã hội hóa
giáo dục mầm non; các biện pháp quản lý chương trình bồi dưỡng giáo viên
mầm non; biện pháp quản lý công tác xã hội hóa GDMN trên các địa bàn
khác nhau.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI luôn nhấn mạnh
về xã hội hóa giáo dục nói chung và xã hội hóa giáo dục mầm non nói riêng.
Tuy nhiên,đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống về biện pháp quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ngoài công lập trên
địa bàn quận Hà Đông; nghiên cứu khảo sát, đánh giá đúng thực trạng và đưa
ra những biện pháp quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ngoài công lập trên
địa bàn quận Hà Đông vẫn còn nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ, chưa được tiếp
cận trực tiếp trên phương diện lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, tác giả luận
văn mong muốn góp một phần công sức luận giải vấn đề còn mới mẻ này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý xã hội hoá giáo dục
mầm non ngoài công lập, đề xuất các biện pháp quản lý xã hội hóa giáo dục
mầm non ngoài công lập trên địa bàn quận Hà Đông thành phố Hà Nội nhằm


9
nâng cao chất lượng quản lý các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập quận

Hà Đông thành phố Hà Nội .
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ngoài
công lập.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non
ngoài công lập trên địa bàn quận Hà Đông thành phố Hà Nội và xác định rõ
nguyên nhân của những ưu, khuyết điểm đó.
- Đề xuất biện pháp quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ngoài công
lập trên địa bàn quận Hà Đông thành phố Hà Nội; khảo nghiệm tính cần thiết
và tính khả thi của các biện pháp.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Xã hội hóa giáo dục mầm non trên địa bàn quận Hà Đông thành phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ngoài công lập trên địa bàn quận
Hà Đông thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu xã hội hóa giáo dục mầm
non ngoài công lập theo góc độ quản lý, huy động các nguồn lực của xã hội
tham gia vào giáo dục mầm non ngoài công lập trên địa bàn quận Hà Đông
thành phố Hà Nội.
- Về khách thể: chỉ nghiên cứu các trường và các cơ sở giáo dục mầm
non ngoài công lập trên địa bàn quận Hà Đông thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: các số liệu, tư liệu sử dụng trong đề tài được tổng hợp từ
năm 2010 đến nay.


10
5. Giả thuyết khoa học
Xã hội hoá giáo dục là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta nhằm

huy động các nguồn lực đầu tư cho sự phát triển giáo dục nói chung và giáo
dục mầm non ngoài công lập nói riêng.
Đối với giáo dục mầm non ngoài công lập trên địa bàn quận Hà Đông,
nếu thực hiện tốt công tác tuyên truyền vận động về xã hội hoá giáo dục mầm
non ngoài công lập; kết hợp xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục mầm non
ngoài công lập phù hợp với yêu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục, kinh tế - xã
hội trên địa bàn quận Hà Đông,tổ chức bồi dưỡng cán bộ, giáo viên, nhân
viên, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non ngoài công lập; huy động các
lực lượng xã hội tham gia bằng việc đa dạng hóa các loại hình giáo dục mầm
non ngoài công lập và xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh thì chất
lượng giáo dục mầm non ngoài công lập trên địa bàn quận Hà Đông thành
phố Hà Nội sẽ phát triển tốt hơn.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
đồng thời, quán triệt và cụ thể các quan điểm, chủ trương, sự chỉ đạo của
Đảng về quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non để nâng cao chất lượng giáo
dục - đào tạo.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp tiếp cận hệ
thống - cấu trúc, lịch sử - lôgíc và quan điểm thực tiễn để luận giải các nhiệm
vụ nghiên cứu của luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng kết hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu của
khoa học chuyên ngành: bao gồm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết,
nghiên cứu thực tiễn và toán học.


11


+ Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến luận văn qua
việc phân tích, tổng hợp, khái quát hóa làm cơ sở cho nghiên cứu thực tiễn
quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ngoài công lập trên địa bàn quận Hà
Đông thành phố Hà Nội.
+ Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Vận dụng phương pháp xã hội học để nghiên cứu:
Phương pháp quan sát các hoạt động xã hội hóa giáo dục ở các trường
mầm non trong quận để thu thập số liệu, phát hiện những vấn đề mới.
Phương pháp điều tra, khảo sát thâm nhập thực tiễn các đối tượng cán
bộ quản lý, giáo viên, cha mẹ trẻ mầm non để đánh giá thực trạng.
+ Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học. Sử dụng các công
thức thống kê để xử lý các kết quả khảo sát
+ Phương pháp chuyên gia: trao đổi và xin ý kiến của các chuyên gia
quản lý giáo dục một số vấn đề có liên quan đến nội dung của luận văn.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Giúp cho các cấp quản lý, các nhà quản lý giáo dục cấp học mầm non
làm tài liệu tham khảo trong thực hiện quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non
ngoài công lập trên địa bàn quận Hà Đông thành phố Hà Nội.
- Có thể là tài liệu tham khảo trong các trường sư phạm về môn học
quản lý giáo dục và quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non.
8. Kết cấu luận văn
Luận văn có cấu trúc bao gồm phần mở đầu, 3 chương 9 tiết; kết luận
và kiến nghị; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC
MẦM NON NGOÀI CÔNG LẬP

1.1. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Xã hội hoá giáo dục mầm non
1.1.1.1.Giáo dục mầm non và giáo dục mầm non ngoài công lập.
* Giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non (GDMN) là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục
quốc dân, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình
thành và phát triển của nhân cách con người. Chính vì thế, hầu hết các quốc
gia và các tổ chức quốc tế đều xác định GDMN là một mục tiêu quan trọng
của giáo dục cho mọi người. Thụy Điển coi giai đoạn mầm non là “thời kỳ
vàng của cuộc đời'' và thực hiện chính sách: trường mầm non là trường tự
nguyện do chính quyền địa phương quản lý, trẻ 5 tuổi có thể theo học không
mất tiền. Luật Hệ thống giáo dục quốc gia Indonesia đã công nhận GDMN là
giai đoạn tiền đề cho hệ thống giáo dục cơ bản. Luật Giáo dục của Thái Lan
nhấn mạnh gia đình và Chính phủ phải cùng chia sẻ trách nhiệm đối với
GDMN nhằm thực hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước cũng luôn coi trọng GDMN. Trong buổi
lễ giới thiệu và giao nhiệm vụ cho tân Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nguyễn Thiện Nhân, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có lưu ý: “So với các bậc
học khác, đến nay chúng ta chưa lo được nhiều cho GDMN. Đây là một mảng
còn yếu của giáo dục Việt Nam mà Bộ trưởng và toàn ngành cần cố gắng khắc
phục trong thời gian ngắn nhất”.
Chương II, hệ thống giáo dục quốc dân Điều 21, 22 Luật giáo dục năm
2005( sửa đổi bổ sung năm 2009) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ghi rõ “Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng; chăm sóc,
giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi”. Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ


13
(25/6/2002) bàn về phát triển giáo dục mầm non theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 2 (khoá VIII và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã

một lần nữa khẳng định: giáo dục mầm non là bộ phận quan trọng cấu thành
hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non là ngành học thể
hiện tính xã hội hoá cao hơn hết. Giáo dục mầm non thể hiện sinh động
nguyên tắc nhà nước, xã hội và nhân dân cùng làm. Để đẩy mạnh hơn nữa sự
nghiệp phát triển giáo dục mầm non, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức hội
nghị bàn về công tác giáo dục mầm non. Hội nghị đã đề ra các giải pháp cơ
bản, trong đó nhấn mạnh: tiếp tục đẩy mạnh biện pháp xã hội hoá sự nghiệp
giáo dục mầm non; đa dạng hoá các loại hình giáo dục mầm non, kiến nghị
cần có chính sách để đầu tư cho giáo dục mầm non; ban hành quyết định số
164/2002/QĐ-TTg về một số chính sách phát triển giáo dục mầm non.
* Giáo dục mầm non ngoài công lập
Theo điều 3- Điều lệ trường mầm non (Ban hành kèm theo quyết định
số 14/2008/QĐ-BGDĐT ngày 07 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo) quy định các loại hình của trường mầm non, trường mẫu
giáo, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập:
“ 2.Nhà trường,nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo dân lập do cộng đồng
dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí
hoạt động và được chính quyền địa phương hỗ trợ.
3. Nhà trường,nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo tư thục do tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập,
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng nguồn
vốn ngoài ngân sách nhà nước”.
Theo điều 5- Điều lệ trường mầm non (Ban hành kèm theo quyết định
số 14/2008/QĐ-BGDĐT ngày 07 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo


14
dục và Đào tạo) quy định tổ chức và hoạt động của nhà trường, nhà trẻ, lớp

mẫu giáo dân lập; nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo tư thục; giáo
dục hòa nhập trẻ khuyết tật: “Tổ chức và hoạt động của nhà trường, nhà trẻ,
nhóm trẻ, lớp mẫu giáo dân lập; nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo
tư thục; giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật thực hiện theo các quy định của
điều lệ này và Quy chế tổ chức, hoạt động của trường mầm non dân lập; Quy
chế tổ chức, hoạt động của trường mầm non tư thục; Quy định về giáo dục
hòa nhập dành cho người tàn tật, khuyết tật do Bộ trưởng Bộ giáo dục và
Đào tạo ban hành”
1.1.1.2. Quan niệm về xã hội hoá giáo dục mầm non
* Xã hội hoá
Xã hội hóa(XHH) – thuật ngữ này được các nhà kinh tế học, xã hội
học, giáo dục học từ những năm cuối thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ
XX sử dụng, nhằm biểu đạt một số những vấn đề thuộc các lĩnh vực nghiên
cứu của mình.
Theo Côlin Fasen: “XHH là một quá trình động viên mọi tầng lớp
nhân dân tham gia một cách tích cực và chủ động vào một lĩnh vực xã hội
nào đó, huy động hợp lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của nhà nước
và của nhân dân nhằm đạt được các mục tiêu phát triển xã hội”.
Theo từ điển xã hội học: “Xã hội hoá là quá trình tương tác giữa cá
nhân và xã hội, trong đó cá nhân học hỏi và thực hành những tri thức, kỹ
năng và phương pháp cần thiết để hội nhập với xã hội”.
Khái niệm “xã hội hóa” có những mối liên hệ nhất định với quá trình tổ
chức chính trị xã hội. “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” luận điểm
này được chứng minh trong quá trình đấu tranh cách mạng. Xuất phát từ lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của quần chúng trong đấu tranh
cách mạng và truyền thống “lấy dân làm gốc” trong quá trình dựng nước và
giữ nước, Đảng cộng sản Việt Nam đã kế thừa một cách sáng tạo truyền thống


15

vẻ vang ấy tùy theo hoàn cảnh của mỗi giai đoạn cách mạng. Từ khi nắm
quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến nay, trong mọi chủ trương của
mình, Đảng ta luôn luôn lấy dân làm gốc, coi trọng việc thường xuyên bồi
dưỡng sức dân, đồng thời với việc giác ngộ, huy động và tổ chức lực lượng to
lớn của toàn dân vào việc thực hiện mọi nhiệm vụ cách mạng nhằm đem lại
no ấm, hạnh phúc cho nhân dân làm đường lối chính trị quan trọng nhất của
mình. Đường lối dựa vào dân được đúc kết trong câu nói của Hồ Chí Minh:
“Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Trong thực tiễn cách mạng, sự vận động và phát triển của đường lối
này ngày càng đạt tới trình độ cao hơn cả về lý luận và thực tiễn. Tới đại hội
VIII thuật ngữ “Xã hội hóa” đã xuất hiện. Thuật ngữ “ Xã hội hóa” trong bối
cảnh phát triển của nước ta ở thời kỳ đổi mới được dùng để chỉ cách thực hiện
chủ trương của Đảng bằng con đường giác ngộ, vận động và tổ chức sự tham
gia tích cực, tự nguyện của mọi lực lượng xã hội, của toàn dân vào sự nghiệp
chung đồng thời cũng tăng cường trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với
mọi mặt của nhân dân.
Từ các quan điểm trên đã nêu lên nội dung cơ bản của khái niệm xã hội
hóa. Các định nghĩa đó được đề cập ở những mức độ khác nhau nhưng cốt lõi
của vấn đề cho rằng:
Xã hội hóa là quá trình cá nhân nhờ hoạt động, giao lưu, giao tiếp,
tiếp thu giáo dục mà học hỏi được cách sống trong cộng đồng, trong đời sống
xã hội và phát triển được khả năng đảm nhiệm các vai trò xã hội với tư cách
vừa là cá thể vừa là thành viên của xã hội.
Xã hội hóa là quá trình tương tác giữa con người với con người, con
người với xã hội, qua đó con người với tư cách là cá thể học hỏi, lĩnh hội, tiếp
nhận quy tắc văn hóa của xã hội như những hành vi, giá trị chuẩn mực văn hóa
xã hội, kiến thức, kỹ năng, phương pháp để trở thành cá nhân, để đóng góp và
phù hợp với vai trò, vị thế xã hội nhất định của mình, từ đó con người dần dần
hòa nhập vào xã hội.



16
* Xã hội hoá giáo dục
Thuật ngữ “ Xã hội hóa giáo dục” được dùng phổ biến ở Việt Nam vào
thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Khái niệm này nội dung vừa được tiếp cận từ giáo
dục học và được tiếp cận từ chính trị học.
Thứ nhất: XHH giáo dục là khái niệm chỉ sự quản lý chú ý, hưởng ứng,
quan tâm của xã hội đóng góp vật chất và tinh thần cho sự nghiệp giáo dục.
Thứ hai: là khái niệm chỉ rõ sứ mệnh của ngành giáo dục, của nhà
trường là làm cho người học được thích ứng nhanh với đời sống xã hội (xã
hội hoá cá nhân).
Theo nghĩa rộng “Xã hội hoá giáo dục” có nghĩa là nhà nước phải tạo
ra không gian xã hội, luật pháp và chính trị cho việc hình thành một khu vực
giáo dục mà ở đấy ai cũng có quyền đóng góp vì sự nghiệp giáo dục, thực
hiện sự cạnh tranh về chất lượng giáo dục, tức là giáo dục phải thuộc về xã
hội. Do đó, “ Xã hội hoá giáo dục” cần phải chỉ ra vai trò của xã hội trong sự
nghiệp xã hội hoá giáo dục. Nói cách khác, xã hội phải tham gia vào việc hình
thành chương trình giáo dục thông qua "xã hội hoá".
Người ta thường biểu đạt xã hội hóa giáo dục bằng công thức có mối
liên hệ tương tác hai chiều, thông qua tiếng Anh là EFA=AFE
Education for all – Giáo dục cho mọi người (EFA)
ALL for Education – Tất cả cho giáo dục (AFE).
GS.TS Phạm Minh Hạc ( nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
khi nhấn mạnh đến bản chất của giáo dục là bản chất xã hội và giáo dục là sự
nghiệp của toàn xã hội đã nêu:
“ Mọi thành viên trong xã hội đều phải tham gia xây dựng giáo dục và
được hưởng thụ giáo dục”. Cách biểu đạt của GS. TS Phạm Minh Hạc là Việt
Nam hóa công thức EFA=AFE
(Phạm Minh Hạc – Mười năm đổi mới giáo dục – trang 85)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4 - 2006) đã chỉ rõ:

“Thực hiện xã hội hoá sự nghiệp giáo dục. Huy động nguồn lực vật chất và


17
trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt chẽ
giữa ngành giáo dục với các ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội
- nghề nghiệp... để mở mang giáo dục, tạo điều kiện học tập cho mọi thành
viên trong xã hội” [18, tr.97].
Chủ trương xã hội hoá sự nghiệp giáo dục của Đảng được thể chế hoá
vào Hiến pháp 1992( sửa đổi bổ sung năm 2001), tại điều 35: “...Phát triển
các hình thức trường quốc lập, dân lập các hình thức giáo dục khác”. Điều
12 của Luật Giáo dục 2005 khẳng định “Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục để
thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường và các hình thức giáo dục;
khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự
nghiệp giáo dục” [ 32, tr.35].
Ngày 18/4/2005 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về
đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao.
Tiếp đó, ngày 24/6/2005 Bộ GD & ĐT đã ban hành Quyết định số
20/2005/QĐ-BGD và ĐT phê duyệt đề án “Quy hoạch phát triển xã hội hoá
sự nghiệp giáo dục giai đoạn 2005 - 2010”.
Chủ trương XHH giáo dục của Đảng và Nhà nước đã và đang thu hút
sự quan tâm nghiên cứu của các Vụ, Viện, các Ban, Ngành thuộc BGD&ĐT
cũng như các ban, ngành có liên quan. Nhiều chuyên gia giáo dục có tâm
huyết đã có những bài viết nghiên cứu xung quanh vấn đề XHH sự nghiệp
giáo dục; Viện sĩ, giáo sư Phạm Minh Hạc trong cuốn “Giáo dục Việt Nam
ngưỡng cửa thế kỷ XXI” đã khẳng định “Sự nghiệp giáo dục không chỉ của
nhà nước mà là của toàn xã hội, mọi người cùng làm giáo dục, nhà nước và
xã hội, trung ương và địa phương cùng làm giáo dục”[21, tr.331].
Có thể nói, xã hội hoá giáo dục là: huy động toàn xã hội làm giáo dục,
động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân

dưới sự quản lý của nhà nước để xây dựng một xã hội học tập.


18
*Xã hội hoá giáo dục mầm non
Khái niệm xã hội hóa giáo dục mầm non được xây dựng từ khái niệm
xã hội hóa giáo dục và vận dụng vào đặc thù của ngành học mầm non.
Xã hội hoá giáo dục mầm non là huy động các nguồn lực xã hội góp
sức xây dựng hệ thống GDMN thực hiện phổ cập và nâng cao chất lượng giáo
dục trẻ em ở độ tuổi mầm non.
Xã hội hoá GDMN là quá trình huy động lực lượng xã hội cùng làm
GDMN dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Bản chất của xã hội hóa sự
nghiệp GDMN là động viên, lôi cuốn mọi lực lượng xã hội phát triển GDMN
để thực hiện giáo dục cho trẻ em trong độ tuổi. Huy động các tổ chức chính trị
- xã hội, các đoàn thể quần chúng, các xí nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh,
cùng tham gia sự nghiệp giáo dục mầm non dưới sự quản lý thống nhất của
Nhà nước. Xã hội hóa công tác GDMN cần được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, Giáo dục là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà
nước tổ chức quản lý, mọi người, mọi nhà, mọi tổ chức xã hội đều phải chăm
sóc, giáo dục trẻ em. Có thế thì trẻ em hôm nay mới trở thành người lao động
xây dựng và bảo vệ tổ quốc mai sau. Vì vậy phải huy động mọi nguồn lực của
xã hội để làm công tác GDMN (nhân lực, vật lực, trí lực và tài lực).
Thứ hai, trẻ em không chỉ được quyền nhận sự chăm sóc, giáo dục của
toàn xã hội mà còn phải biến sự chăm sóc giáo dục của toàn xã hội thành chất
lượng giáo dục của chính mình, phải có nghĩa vụ đối với xã hội mà trước hết
là đối với mình để trở thành con ngoan, trò giỏi; có như thế sau này mới trở
thành người công dân tốt của đất nước.
Đây là hai mặt của một vấn đề, vừa có tính nhân văn sâu sắc vừa có ý
nghĩa giáo dục to lớn khi quan niệm về xã hội hóa công tác GDMN.
Thực tế cho thấy, xã hội hóa sự nghiệp giáo dục được đặt ra cho mọi độ

tuổi, mọi bậc học (cả trẻ em và người lớn) nhưng đối với trẻ em tuổi mầm non
(dưới 6 tuổi) thì việc xã hội hóa như đã hiểu trên đây phải được coi là triệt để
nhất (cao hơn học sinh phổ thông và người lớn) của nhà nước.


19
Bản chất của xã hội hóa giáo dục mầm non là tăng cường sự tham gia
của các cá nhân, các gia đình, các nhóm, các tổ chức và các cộng đồng xã hội
vào thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục mầm non.Trong những năm gần
đây, xã hội hóa giáo dục mầm non đang diễn ra rất mạnh mẽ trên phạm vi cả
nước. Xã hội hóa giáo dục mầm non thể hiện ở việc xây dựng và phát triển hệ
thống các trường, các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập.
Trước năm 1945, dưới thời Pháp thuộc ở Việt Nam không có nền GD
trước tuổi đi học. Trong cả nước chỉ có vài trạm y tế bần nuôi trẻ mồ côi. Sau
cách mạng Tháng 8, cùng với việc hình thành chế độ mới, lần đầu tiên ở Việt
Nam có bậc giáo dục trước tuổi đi học chính thức ra đời.
Từ chỗ hầu như chưa có gì, trải qua những năm tháng khó khăn, gian
khổ của hai cuộc kháng chiến, vượt qua thời kỳ chao đảo trong sự chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, nhờ thực hiện chủ trương
XHH, nền GDMN đã khắc phục được tình trạng suy giảm, giữ được sự ổn
định trên diện rộng, phát triển ở những khu vực có điều kiện tạo nên sự
chuyển biến rõ rệt.
Từ thực tế các hình thức giáo dục mầm non có thể khẳng định rằng:
đây là bậc học được xã hội hóa cao hơn bất kỳ bậc học nào. Giáo dục mầm
non là sự thể hiện sinh động nguyên tắc nhà nước, xã hội và nhân dân cùng
làm. Song việc nghiên cứu xã hội hóa giáo dục mầm non còn có những hạn
chế nhất định.
Nhiều công trình nghiên cứu giáo dục trẻ em tuổi mầm non đã chứng
minh rằng, sự hình thành cơ sở đầu tiên cho sự phát triển trí tuệ của con người
đã được đặt ra ở độ tuổi này và nó có vị trí đặc biệt quan trọng: 50% của sự

phát triển trí tuệ sau này của mỗi người đạt được ở độ tuổi từ lọt lòng đến 4
tuổi; đạt tiếp 30% từ 4 đến 8 tuổi và tiếp tục hoàn thiện đến tuổi trưởng thành
nhưng tốc độ sẽ chậm dần sau tuổi 18.
Vì thế chúng ta không được bỏ lỡ thời cơ phát triển của trẻ trong độ
tuổi mầm non. Từ đó đòi hỏi gia đình, nhà trường và toàn xã hội phải chăm lo


20
giúp trẻ phát triển nhân cách toàn diện một cách đúng đắn ở các giai đoạn lứa
tuổi tiếp theo.
Có thể nói rằng xã hội hóa giáo dục là một tư tưởng giáo dục lớn của
thời đại. Điều này đã bắt nguồn sâu xa từ truyền thống giáo dục Việt Nam và
nhân loại.
Trong hệ thống tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì xã hội
hóa công tác giáo dục là một trong những tư tưởng giáo dục cốt lõi của
Người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì giáo dục trẻ em là sự nghiệp của toàn
dân do Đảng lãnh đạo và Nhà nước tổ chức và quản lý. Trẻ nhận sự chăm sóc
giáo dục của toàn xã hội song phải biến thành chất lượng giáo dục ở trẻ để lúc
nhỏ thì thành con ngoan, trò giỏi rồi lớn lên thành công dân tốt của quốc gia.
Đây chính là nội hàm của tư tưởng xã hội hóa sự nghiệp giáo dục.Thật vậy,
điểm qua lịch sử hình thành tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh ta thấy:
Thứ nhất, từ những tác phẩm lý luận đầu tay của Người, điển hình là
tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản ở Paris năm 1925, Người đã
vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân trong việc bóc lột trẻ em, tước bỏ mọi
quyền của trẻ em mà thay vào đó là dùng chính sách ngu dân để bóc lột và cai
trị người bản xứ. Người viết “...lúc ấy cứ 1000 làng thì có đến 1500 đại lý
bán rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số 1000 làng đó lại chỉ có vẻn
vẹn 10 trường học”.
Thứ hai, theo cương lĩnh Đảng và chính sách của Mặt trận Việt Minh
do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo thì giáo dục trẻ em là trách nhiệm của

toàn xã hội. “...Trẻ em bố mẹ khỏi lo / Dạy nuôi, chính phủ giúp cho đủ đầy”.
Thứ ba, khi nước ta giành được độc lập, trong thư gửi học sinh nhân
ngày khai giảng năm học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
(tháng 9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt hy vọng to lớn vào trẻ em:
“... Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt
Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu
được hay không, chính là nhờ một phần lớn công lao học tập của các em”.


21
Người khẳng định rằng, giáo dục thế hệ trẻ là trách nhiệm của toàn dân:
“...Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà, vì vậy chăm
sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân”.
Thứ tư, Bác Hồ luôn căn dặn thiếu niên, nhi đồng rằng trẻ em phải làm
mọi việc vừa sức mình đề có ích cho bản thân và xã hội. Trong Thư trung
thu (1952) gửi thiếu niên, nhi đồng toàn quốc, Người viết: “...Mong các cháu
cố gắng / Thi đua học và hành / Tuổi nhỏ làm việc nhỏ / Tuỳ theo sức của
mình / Để tham gia kháng chiến / Để gìn giữ hoà bình / Các cháu hãy xứng
đáng / Cháu Bác Hồ Chí Minh”.
Thứ năm, trong Di chúc để lại trước lúc đi xa, Người căn dặn: “...Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”.
Tư tưởng xã hội hóa công tác GDMN của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở
thành đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, ngày càng cần
hiểu đúng hơn nội hàm của khái niệm và đưa nó vào cuộc sống.
Đứng trước những yêu cầu và thách thức của việc thực hiện chiến lược
phát triển GDMN, nhằm phát triển GDMN theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương II( khoá 8) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX ngày
25/6/2002, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức hội nghị bàn về công tác GDMN.
Hội nghị đã đề ra giải pháp cơ bản trong đó nhấn mạnh: tiếp tục đẩy mạnh
biện pháp XHH sự nghiệp GDMN, đa dạng hoá các loại hình GDMN. Ngày

15/11/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 161/2002/QĐ-TTg về
một số chính sách phát triển GDMN đã khẳng định rõ ở điều 1 nhiệm vụ phát
triển GDMN đến năm 2010“ Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư phát triển GDMN
đồng thời đẩy mạnh XHH sự nghiệp GDMN, mở rộng hệ thống nhà trẻ và
trường, lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư…”
Quyết định số 161/2002/QĐ-TTg có hiệu quả, BGD&ĐT, Bộ Nội vụ, Bộ Tài
chính ngày 24/2/2003 đã ra Thông tư liên tịch số 05/2005/ TTLT/BGD&ĐT-BNVBTC hướng dẫn một số chính sách phát triển GDMN trong đó đã chỉ ra các bước


22
của việc thực hiện quy hoạch mạng lưới trường lớp mầm non công lập, ngoài
công lập, thực hiện XHH sự nghiệp giáo dục đối với GDMN.
Nhờ đó GDMN có sự chuyển biến quan trọng, qui mô trường lớp khắc phục
được chiều hướng giảm sút, mở rộng khả năng đóng góp của mọi người. Đặc biệt
trẻ 5 tuổi được huy động ở mức cao 100%, góp phần đáng kể vào hoàn thành mục
tiêu phổ cập tiểu học. Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ được nâng lên đáng kể.
Một số thành tựu kể trên chính là thành quả của nền giáo dục cách
mạng, là kết quả đường lối GD đúng đắn, sự chỉ đạo của Đảng, quản lý nhà
nước, nhờ sự phấn đấu đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân
viên mầm non. Tuy nhiên những vấn đề nghiên cứu này phần lớn mới chỉ
dừng lại ở những giải pháp mang tầng vĩ mô hoặc ghi nhận từ thực tiễn một
vài mô hình đã thành công trong việc huy động cộng đồng, chưa đưa ra được
cơ sở lý luận của xã hội hóa sự nghiệp GDMN giúp cho việc tổ chức thực
hiện có hiệu quả của quận Hà Đông nói riêng và của toàn quốc nói chung.
1.1.2. Vai trò xã hội hoá giáo dục mầm non
* Vị trí, vai trò của giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục Quốc
dân. Tầm quan trọng của GDMN là ở chỗ nó đặt nền móng ban đầu cho việc
giáo dục lâu dài nhằm hình thành và phát triển nhân cách trẻ em. Niềm tin và
hy vọng của từng gia đình và cả xã hội về tương lai của trẻ và của đất nước

trông chờ ở sự phát triển hàng ngày ở lứa tuổi măng non này. Chính vì vậy,
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 2 khoá VIII đặt ra mục tiêu đến
năm 2020 phải“Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học mầm non cho hầu
hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các gia đình”.
Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục mầm non
Điều 21, 22, Luật Giáo dục 2005 ( sửa đổi bổ sung năm 2009) đã xác
định nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục mầm non “Giáo dục mầm non thực hiện
việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến sáu tuổi”, "Mục


23
tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho
trẻ vào học lớp một”.
* Vị trí, vai trò của xã hội hoá giáo dục mầm non, giáo dục mầm non
ngoài công lập trong giai đoạn hiện nay
Xã hội hóa sự nghiệp GDMN là một bài học thành công trong quá trình
xây dựng và phát triển hệ thống GDMN của nước ta. Đây cũng là một tư
tưởng giáo dục lớn của Đảng và chủ trương của Nhà nước nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài để giáo dục tạo ra lớp người lao
động mới phát triển toàn diện, năng động, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của nền
công nghiệp hóa nước ta vào năm 2020 vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII và IX đã nêu ra.
Những năm qua, xã hội hóa công tác GDMN đã trở thành quan niệm
phổ biến và rộng rãi trong toàn xã hội, nhất là những ai làm công tác quản lý
trực tiếp giáo dục trẻ thơ. Song trong thực tế, vẫn còn nhiều điều phải bàn để
làm sáng tỏ phạm trù khái niệm và cách tiếp cận thực tiễn cho đúng nhằm
biến chủ trương này của Đảng và Nhà nước thành hiện thực.
Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục được đặt ra cho mọi độ tuổi, mọi bậc

học (cả trẻ em và người lớn) nhưng đối với trẻ em tuổi mầm non (dưới 6 tuổi)
thì việc xã hội hóa như đã hiểu trên đây phải được coi là triệt để nhất (cao hơn
học sinh phổ thông và người lớn). Lý do là:
Thứ nhất, trẻ thơ như cây non, khó tự bảo vệ được mình nếu không có
sự chăm sóc và bảo vệ của người lớn và toàn xã hội.
Thứ hai, sự phát triển của trẻ em trong độ tuổi này rất đặc biệt, gia tốc
tăng trưởng vô cùng lớn và đặt tiền đề cho sự phát triển toàn diện nhân cách
sau này của mỗi người. Mọi sự khởi đầu lệch lạc về nhân cách trong độ tuổi
này sẽ phải sửa lại vô cùng khó khăn ở lứa tuổi tiếp theo. Vì thế đòi hỏi mọi


24
người, nhất là các bậc cha mẹ, các cô giáo, các cơ sở giáo dục và nói chung là
toàn xã hội không được “thả nổi trẻ em” mà phải nhận trách nhiệm giáo dục trẻ
thơ từ những bước đi ban đầu trong việc giáo dục từ sức khỏe đến trí tuệ và gây
dựng nhân cách thật đúng đắn. Bằng cuộc thực nghiệm công phu suốt 20 năm
nhằm giáo dục lại nhân cách cho trẻ em vị thành niên mà A.X.Macarencô, nhà
giáo dục Xô viết vĩ đại đã đi đến kết luận là: Những gì không có được ở trẻ em
trước 5 tuổi thì sau này khó mà có được. Nếu mầm mống nhân cách lệch lạc ở
ở độ tuổi này hình thành thì sau này sửa lại nhân cách vô cùng khó khăn.
Trong khi chơi trẻ bộc lộ một trái tim băng giá thì sau này trẻ sẽ trở thành một
con người ti tiện và trong khi chơi trẻ thể hiện tính cách thế nào thì hầu như
sau này sẽ thành tính cách như thế khi trở thành người lớn.
Trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta, chính quy hoá các hình thức và
tổ chức GDMN bằng con đường bao cấp là không thể thực hiện được vì quá
khả năng kinh tế. Mặt khác, nền kinh tế thị trường lại tăng thêm áp lực cho
các gia đình nghèo, hạn chế cơ hội đến trường của trẻ em. Vì vậy vai trò xã
hội hoá giáo dục mầm non nhằm:
Một là, góp phần nâng cao chất lượng GDMN tạo tiền đề vững chắc
cho sự phát triển nhân cách và chuẩn bị tốt các điều kiện cho trẻ vào lớp một..

Hai là, huy động được các nguồn lực, tiềm năng của xã hội, khắc phục
những khó khăn của quá trình phát triển cơ sở giáo dục mầm non.
Ba là,tạo ra sự công bằng, dân chủ trong hưởng thụ và trách nhiệm xây
dựng giáo dục mầm non.
Bốn là, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy truyền
thống giáo dục của dân tộc.
Thực hiện xã hội hoá GDMN sẽ góp phần khắc phục được những khó khăn
giải quyết những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát triển giáo dục mầm non.
Qua đó càng thấy rõ vai trò, tầm quan trọng của việc thực hiện xã hội hoá sự
nghiệp GDMN trong giai đoạn hiện nay.


25
Thực tiễn GDMN và những công trình nghiên cứu khoa học trong
những năm gần đây đã làm sáng tỏ những vấn đề cốt lõi nhất về xã hội hóa
GDMN. Để xã hội hóa GDMN tiến triển tốt cần phải:
- Nhận thức đầy đủ và đúng đắn về khái niệm xã hội hóa GDMN. Xã
hội hóa GDMN không chỉ là một tư tưởng GD, một xu thế GD của thời đại
mà còn là phương thức để phát triển GD ở mọi nền kinh tế - xã hội khác nhau.
- Xã hội hóa giáo dục mầm non phải được đặt ra triệt để nhất so với
các bậc học khác.
Thực tiễn thành công của các điển hình tiên tiến giáo dục mầm non về
xã hội hóa GDMN đã chứng tỏ rằng, để xã hội hóa GDMN phải quán triệt
đầy đủ hai mặt của một vấn đề, thiên lệch về một mặt nào đều là xa lạ với
khái niệm này. Nhiều trường mầm non và nhiều cô giáo đã biết lấy chất lượng
và hiệu quả chăm sóc - giáo dục trẻ thơ của nhà trường để làm căn cứ thực
tiễn mà thuyết phục và huy động lãnh đạo địa phương, các ban ngành và phụ
huynh làm công tác phát triển sự nghiệp GDMN ở địa phương.
1.1.3. Quản lý xã hội hoá giáo dục mầm non
* Quản lý giáo dục

Quản lý là hoạt động có định hướng, có chủ đích của người quản lý
(chủ thể quản lý) đến người bị quản lý (khách thể quản lý) trong một tổ chức,
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức.
Giáo dục là một hoạt động xã hội rộng lớn và hết sức quan trọng, có
liên quan trực tiếp đến lợi ích, quyền lợi và nghĩa vụ của mọi thành viên trong
xã hội, mọi tổ chức kinh tế - xã hội của mỗi Quốc gia. Đồng thời, GD là một
nhân tố có tác động mạnh mẽ đến tiến trình hưng thịnh hay suy vong của một
thể chế chính trị và của cả một thời đại. Vì thế ngay từ thời kỳ cổ đại các nhà
triết học, giáo dục học, sử gia đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của nó.
Khổng Tử (551- 479tr.CN), nhà giáo dục lớn thời cổ đại của Trung
Quốc, ông coi giáo dục là nằm trong hệ thống “ Thứ - Phú – Giáo” đòi hỏi
những nhà chính trị, những người cầm quyền không được sao nhãng.


26
Như vậy, qua các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu về xã
hội học, về giáo dục từ thời kỳ cổ đại cho đến nay cho thấy: giáo dục là một
hiện tượng xã hội có lịch sử lâu đời và tồn tại song hành cùng với sự phát
triển của xã hội loài người. Giáo dục là sản phẩm của xã hội, đồng thời là một
trong những nhân tố đánh dấu nấc thang trình độ văn minh của các thời đại
trong lịch sử.
Trong sách “ Giáo dục học” của A.Ilinna, nhà giáo dục học Xô viết cho
rằng: “ …Giáo dục là một quá trình truyền thụ kinh nghiệm lịch sử xã hội –
cho các thế hệ mới, nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống xã hội và
bước
vào lao động sản xuất”.
Giáo dục được hiểu là hoạt động có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch,
có hệ thống của giáo dục, nhằm tạo ra sức mạnh có tính chất đa dạng về thể
chất, tinh thần của con người, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội. Giáo dục còn là quá trình hình thành cho con người tri thức khoa học về

thế giới khách quan, về lý tưởng, đạo đức, thái độ thẩm mỹ. Trên cơ sở đó
hình thành nhân sinh quan, phát triển đạo đức, trí, thể, mỹ của từng con người
cụ thể. Giáo dục có sứ mệnh cao cả rèn luyện nhân cách cho từng cá nhân ở
từng đối tượng cụ thể, làm cho mỗi con người trở thành những chủ thể của
bản thân. Như vậy, theo nghĩa chung nhất:“Giáo dục là quá trình truyền đạt
và lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và những kinh nghiệm nhằm
chuẩn bị cho con người bước vào cuộc sống lao động và sinh hoạt xã hội; là
một nhu cầu tất yếu của xã hội loài người, đảm bảo cho sự tồn tại của con
người và xã hội”.
Trong thời đại ngày nay, các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam
ghi nhận và thừa nhận vị trí và vai trò to lớn của giáo dục đối với sự phát triển
của xã hội loài người, đối với việc hình thành và phát triển nhân cách và phẩm
giá của con người. Đảng ta, với quan điểm đổi mới từ đại hội lần thứ VI đến đại


×