Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ xây DỰNG NÔNG THÔN mới về KINH tế ở HUYỆN CHƯƠNG mỹ, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 132 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VỀ KINH TẾ Ở
HUYỆN CHƯƠNG MỸ THÀNH PHỐ HÀ NỘI CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM
1.1. Tổng quan về nông thôn, nông thôn mới và xây dựng
nông thôn mới về kinh tế
1.2. Sự cần thiết, mục tiêu, nội dung tiêu chí và các nhân tố
ảnh hưởng đến xây dựng nông thôn mới về kinh tế tại
huyện Chương Mỹ
1.3. Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở một
số huyện trong nước và bài học rút ra cho huyện Chương
Mỹ thành phố Hà Nội
Chương 2 THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VỀ
KINH TẾ Ở HUYỆN CHƯƠNG MỸ THÀNH
PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN QUA
2.1. Thành tựu, hạn chế trong xây dựng nông thôn mới về kinh tế
ở huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội
2.2. Nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra từ thực trạng xây dựng
nông thôn mới về kinh tế ở huyện Chương Mỹ thành phố Hà
Nội cần phải giải quyết trong thời gian tới
Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
VỀ KINH TẾ Ở HUYỆN CHƯƠNG MỸ THÀNH
PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm cơ bản xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở
huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội trong thời gian tới
3.2. Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xây dựng nông thôn
mới về kinh tế ở huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội
thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHỤ LỤC

Trang
3

11
11

27

45

54
54

69

81
81

91
109
111
114


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong hơn 30 năm qua, Việt Nam

đã có sự phát triển trên nhiều lĩnh vực, đời sống của đại đa số các tầng lớp
nhân dân đã được nâng lên một bước. Tuy nhiên, hiện nay đời sống của nông
dân Việt Nam còn `gặp nhiều khó khăn. Không ít những nông dân ở vùng quê
đã và đang bỏ những vùng quê lên các đô thị để kiếm sống. Điều đó ảnh
hưởng tới mong muốn của Đảng ta “ly nông nhưng không ly hương”. Tiềm
năng đất đai, rừng biển ở nhiều vùng quê chưa được khai thác có hiệu quả.
Nguyên nhân của tình trạng đó là do ruộng đất còn manh mún, kết cấu hạ tầng
trong nông nghiệp và nông thôn còn nhiều hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế đó, Đảng ta đã chủ chương xây dựng
Nông thôn mới với mong muốn tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nông
nghiệp, nông thôn, không ngừng cải thiện đời sống nông dân. Tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X đã xác định để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản
xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn: “Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn
đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt quan
trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa
dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng
cạnh tranh cao; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện từng
bước hình thành nền nông nghiệp sạch; phấn đấu giá trị tăng thêm trong
ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3 - 3,2%/năm. Tốc độ phát triển công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn tốc độ bình quân cả nước. Gắn
phát triển kinh tế với xây dựng Nông thôn mới, giải quyết tốt hơn mối quan
hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp phần giữ vững ổn
định chính trị xã hội”. Đó là vấn đề chiến lược trong quá trình phát triển kinh
2


tế - xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy

(khóa X) ra Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 đã nêu một
cách toàn diện quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nông thôn mới. Nghị
quyết khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò to lớn, có vị trí
quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Từ khi
thực hiện tới nay chương trình đã đạt được những thành tựu nhất định, cuộc
sống của người dân trên cả nước ngày một ổn định hơn, bộ mặt nông dân nông thôn có sự chuyển biến tích cực.
Chương Mỹ là một trong những huyện ngoại thành thuộc thành phố Hà
Nội, có số dân đông hoạt động chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và với một số
ngành nghề thủ công. Chương Mỹ có điều kiện tự nhiên đa đạng, lịch sử
truyền thống cách mạng. Một số năm gần đây huyện Chương Mỹ đã có những
bước tiến mới về phát triển kinh tế và thực thi chính sách, pháp luật. Khi
chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng Nông thôn mới được triển khai
Chương Mỹ vinh dự có xã Thụy Hương được chọn là xã điểm của Trung
ương tham gia xây dựng mô hình Nông thôn mới. Năm 2010 kế hoạch xây
dựng Nông thôn mới được triển khai trên toàn huyện. Trong quá trình đó
Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đã quyết tâm xây dựng quê hương Chương
Mỹ ngày một văn minh hơn, giàu đẹp hơn, bộ mặt nông thôn Chương Mỹ
ngày một đổi mới và đời sống bà con nông dân trong huyện ngày một nâng
cao, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu xây dựng Nông thôn mới. Điều
đó tạo điều kiện cho nhân dân trong toàn huyện có điều kiện phát triển kinh
tế, thuận lợi trong làm ăn. Việc xây dựng Nông thôn mới ở Chương Mỹ góp
phần thu hút thêm sự đầu tư từ các doanh nghiệp vào huyện tham gia sản xuất
kinh doanh. Việc thực hiện xây dựng Nông thôn mới ở Chương Mỹ những
năm qua đã đạt được một số kết quả, song vẫn còn một số hạn chế, một số
3


vấn đề đang đặt ra, nhất là làm thế nào để đẩy mạnh quá trình xây dựng nông
thôn mới về kinh tế trên địa bàn huyện. Với lý do đó, tác giả chọn: Xây dựng
nông thôn mới về kinh tế ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận

văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu có liên quan đến đề tài
dưới nhiều góc độ khác nhau, được công bố dưới dạng chuyên đề, luận văn
thạc sĩ, luận án tiến sĩ, các kỷ yếu hội thảo; đề tài cấp bộ, các bài viết đăng
trên các báo, Tạp chí. Tiêu biểu có các công trình sau:
- GS Phạm Xuân Nam (chủ biên) (1997), “Phát triển nông thôn”, NXB
Khoa học Xã hội. Trong Công trình, tác giả đã phân tích sâu sắc về một số nội
dung phát triển kinh tế – xã hội ở nông thôn ở nước ta; phân tích những mặt
đạt được và chỉ ra các tồn tại, yếu kém trong việc phát triển nông thôn ở nước
ta, từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp về hệ thống chính sách và cách chỉ đạo
thực hiện của Nhà nước để phát triển nông thôn Việt Nam.
- Công trình nghiên cứu “Nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn
công nghiệp hóa hiện đại hóa” do PTS Đặng Thọ Xương (chủ biên), Nxb
CTQG Hà Nội, 1997.
- PGS,TSKH Lê Đình Thắng và cộng sự (1998) trong công trình nghiên
cứu khoa học: “Chính sách nông nghiệp, nông thôn sau Nghị quyết X của Bộ
Chính trị”, NXB Chính trị Quốc gia. Tác giả đã phân tích các nội dung quan
trọng liên quan và tác động đến quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn ở
nước ta như hệ thống chính sách về đất đai, hệ thống chính sách về phân phối.
- “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn - một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Hồng Vinh, Nxb.CTQG Hà Nội 1998.
Công trình này đã nêu lên sự cần thiết của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông thôn Việt Nam hiện nay, những kết quả đạt và hạn chế, những vấn đề
đang đặt ra.
4


- “Chính sách nông nghiệp, nông thôn sau Nghị quyết X của Bộ chính
trị” do PGS.TSKH Lê Đình Thắng (chủ biên), NXb Chính trị Quốc Gia,

2000. Tác giả đã nêu lên chính sách nông nghiệp, nông thôn được Đảng và
Nhà nước ta đưa ra sau nghị quyết X của Bộ chính trị.
- PGS, TS. Nguyễn Sinh Cúc (2003) với công trình nghiên cứu:“Nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới”, NXB Thống kê. Công trình đã
nghiên cứu rất công phu, phân tích thuyết phục về nông nghiệp Việt Nam sau
gần 20 năm đổi mới; cung cấp hệ thống tư liệu về phát triển nông nghiệp, nông
thôn nước ta như là một niên giám thống kê nông nghiệp thu nhỏ; luận giải rõ
những thành tựu và những vấn đề đặt ra của quá trình đổi mới, hoàn thiện
chính sách nông nghiệp, nông thôn nước ta trong những năm đổi mới; gợi mở
về những vấn đề cần giải quyết của phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta
như vấn đề đầu tư, vấn đề phân hóa giàu nghèo, vấn đề nâng cao khả năng cạnh
tranh, xuất khẩu nông sản đã được tác giả lý giải với nhiều luận cứ có tính
thuyết phục.
- PGS. TS. Vũ Trọng Khải (chủ trì) (2004) công trình nghiên cứu:
“Tổng kết và xây dựng mô hình phát triển kinh tế- xã hội NTM, kết hợp
truyền thống làng xã với văn minh thời đại”, NXB Nông nghiệp. Đây là một
công trình nghiên cứu công phu về mô hình phát triển của nông thôn Việt
Nam. Công trình nghiên cứu này được xuất bản trên cơ sở đề tài cấp Nhà
nước.
- Đề tài “Nghiên cứu hệ thống giải pháp phát triển mô hình NTM” của
tác giả TS. Hoàng Trung Lập Viện QK-TK Nông nghiệp, thời gian thực hiện
2006-2007. Tác giả nghiên cứu các chỉ tiêu cơ bản của các xã NTM và các xã
lân cận để so sánh sự khác nhau: Xác định những đặc điểm cơ bản mà các mô
hình NTM vùng đồng bằng, vùng trung du, vùng miền núi làm cơ sở xác định
chỉ tiêu xây dựng mô hình NTM: về cơ sở hạ tầng, SX nông nghiệp và những
tồn tại. Khảo sát các xã NTM vùng Duyên hải Nam trung bộ: Khảo sát 4 xã
5


NTM và 4 xã kế cận để so sánh tại Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa,

Ninh Thuận; vùng ĐNB: Khảo sát 4 xã NTM và 4 xã kế cận để so sánh tại
Bình Dương, Tây Ninh, Bà Rịa Vũng Tàu, Đồng Nai.
- Phạm Khắc Sáu (2012), “Thực trạng, giải pháp xây dựng NTM tại xã
Đồng Hóa-huyện Kim Bảng giai đoạn 2010 –2015”, Luận văn, Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân. Tác giả đã trình bày các cơ sở khoa học về xây dựng
NTM, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng và những thuận lợi và khó
khăn trong quá trình xây dựng NTM tại xã Đồng Hóa-huyện Kim Bảng, trên
cơ sở lý thuyết và thực tiễn, tác giả đã đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm
xây dựng và phát triển NTM tại xã Đồng Hóa-huyện Kim Bảng.
- Phạm Khắc Dũng (2012), “Giải pháp xây dựng và phát triển NTM của
huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Cạn”, Luận văn, Trường Đại học Thái Nguyên,
công bố năm 2012. Tác giả phân tích các cơ sở khoa học về xây dựng NTM;
đánh giá thực trạng về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, những thuận lợi và
khó khăn trong quá trình xây dựng NTM tại huyện và đã đưa ra những giải
pháp chủ yếu xây dựng và phát triển NTM tại huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Cạn.
Bên cạnh đó còn có một số công trình luận văn, luận án nghiên cứu về
vấn đề này như:
- Hà Thị Giang (2011), “Một số giải pháp xây dựng NTM huyện Gia
Lâm-thành phố Hà Nội theo hướng đô thị hóa”, Luận văn, Trường Đại học
Kinh Tế Quốc dân. Đề tài được tác giả nghiên cứu, làm rõ các vấn đề liên
quan đến NTM, đô thị hóa nông thôn và bộ tiêu chí NTM. Tác giả đánh giá
thực trạng, đưa ra những giải pháp xây dựng NTM tại huyện Gia Lâm.
- Phan Đình Hà (2011),“Giải pháp đẩy mạng xây dựng NTM trên địa bàn
huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An”, Luận văn, Trường Đại học Nông nghiệp
Hà nội. Tác giả nghiên cứu, làm rõ các vấn đề liên quan đến NTM, thực trạng
xây dựng NTM ở huyện Thanh Chương, từ đó tác giả đưa ra những phương

6



hướng, giải pháp nhằm đẩy mạnh xây dựng NTM trên địa bàn huyện Thanh
Chương tỉnh Nghệ An.
- Diệp Kiều Trang (2011), “Vai trò của nông dân Bạc Liêu trong xây
dựng Nông thôn mới hiện nay”, Luận văn, Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn. Tác giả đã phân tích, làm rõ những đặc điểm của nông dân, nông thôn
Bạc Liêu và những yêu cầu xây dựng nông thôn mới ở Bạc Liêu hiện nay.
Đánh giá thực trạng việc xây dựng nông thôn mới vừa qua ở Bạc Liêu, từ đó
tìm ra những giải pháp có tính khả thi để tiếp tục nâng cao vai trò của nông
dân trong xây dựng nông thôn mới hiện nay ở Bạc Liêu.
- Nguyễn Văn Ngoạn (2014), “Xây dựng nông thôn mới về kinh tế tại
tỉnh Bến Tre”, Luận văn, Học viện Chính trị Bộ quốc phòng. Luận văn đã
phân tích kỹ lưỡng về thực trạng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội của nông thôn
Việt Nam nói chung, những riêng của nông thôn tỉnh Bến Tre; đánh giá
những hạn chế trong quá trình tổ chức xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
tỉnh Bến Tre, trong đó có những hạn chế cơ chế, chính sách chung của Trung
ương; trên cơ sở đó, luận văn đã đề ra các nhóm giải pháp tăng cường hiệu
quả về xây dựng nông thôn mới tại tỉnh Bến Tre, trong đó có những vấn đề
phù hợp với tình hình tại huyện Chương Mỹ- thành phố Hà Nội và có thể
tham khảo trong quá trình nghiên cứu.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đi sâu phân tích những đặc điểm,
vai trò, tính chất, thực trạng của quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn,
đề xuất những giải pháp xây dựng nông thôn mới ở nước ta. Nhưng chưa có
công trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về vấn đề kinh tế trong xây dựng
nông thôn mới tại địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, đặc biệt là
thực trạng triển khai trong giai đoạn 2010- 2015.
Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã được
công bố, tác giả mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn các vấn đề lý luận và
7



thực tiễn về vấn đề kinh tế trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
về xây dựng nông thôn mới về kinh tế tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà
Nội hiện nay; trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng nông
thôn mới về kinh tế tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện
Chương Mỹ thành phố Hà Nội; khảo sát kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới về
kinh tế ở một số huyện và rút ra bài học cho huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng nông thôn mới về kinh tế tại
các xã của huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất quan điểm và các giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình xây
dựng nông thôn mới về kinh tế trên địa bàn huyện Chương Mỹ thành phố Hà
Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu của luận văn là xây
dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội dưới
góc độ kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: tập trung nghiên cứu việc xây dựng nông thôn
mới về kinh tế nhằm hoàn thành các tiêu chí: thu nhập, hộ nghèo, tỷ lệ lao
động việc làm thường xuyên, hình thức tổ chức sản xuất.
- Phạm vi về không gian: luận văn nghiên cứu xây dựng nông thôn mới
ở 30 xã của huyện Chương Mỹ.

8



- Phạm vi về thời gian: các số liệu được thu thập từ năm 2010 đến năm
2015, quan điểm và giải pháp đến năm 2020. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và
phương pháp nghiên cứu.

9


5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được hoàn thiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về nông thôn, NTM, xây dựng NTM và xây dựng NTM về kinh tế.
* Cơ sở thực tiễn: Luận văn dựa vào các báo cáo của UBND huyện
Chương Mỹ Thành phố Hà nội về xây dựng nông thôn mới quan các năm
2010-2015 và từ khảo sát thực tiễn của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề
tài sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khao học và một số phương pháp
khác như: Phương pháp phân tích, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên
gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài cung cấp cơ sở khoa học giúp các nhà quản lý tham khảo đưa
ra các giải pháp thực hiện hiệu quả hơn việc xây dựng nông thôn mới về kinh
tế ở huyện Chương Mỹ trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các huyện có tính chất tương đồng với huyện Chương Mỹ; đồng thời có thể
làm tài liệu tham khảo trong học tập kinh tế chính trị ở các trường đại học.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham hảo, phụ lục, luận
văn được kết cấu thành 3 chương (7 tiết).


10


Chương 1
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VỀ KINH TẾ Ở HUYỆN CHƯƠNG MỸ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM

1.1. Tổng quan về nông thôn, nông thôn mới và xây dựng nông
thôn mới về kinh tế
1.1.1 Tổng quan về nông thôn
* Khải niệm nông thôn
Nông thôn theo nghĩa truyền thống, là một khái niệm chỉ một bộ phận
của đất nước dùng để phân biệt với khái niệm thành thị. Đó là một địa bàn
không gian rộng lớn mà đại bộ phận dân cư là những người nông dân, sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu; quan hệ xã hội chủ yếu trong lũy tre làng với
cây đa, giếng nước, sân đình, trên cơ sở huyết thống, dòng họ… Tuy nhiên
ngày nay cùng với quá trình phát triển của xã hội những yếu tố truyền thống
có sự biến động. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất về nông thôn cũng có sự thay đổi.
Theo định nghĩa trong từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học và
Bách khoa Việt Nam: “nông thôn là phần lãnh thổ của một nước hay một đơn
vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị, có môi trường tự nhiên, hoàn cảnh
kinh tế - xã hội, điều kiện sống khác biệt với đô thị và dân cư chủ yếu làm
nghề nông”.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: Nông thôn là một địa bàn mà ở đó sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu, thu nhập của dân cư từ sản xuất nông nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn. Tên gọi của địa bàn nông thôn thường là xã, thôn, làng,
ấp, bản... Nông thôn có thể được xem xét trên nhiều góc độ: Kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội… Về mặt kinh tế - xã hội, dân cư nông thôn có mức sống,
trình độ dân trí, điều kiện tiếp cận với tiến bộ khoa học - công nghệ trên thế

giới thấp hơn dân cư đô thị; tỷ lệ hộ nghèo cao hơn đô thị. Trên phương diện
11


ngành, lĩnh vực và vùng, để phân biệt với kinh tế thành thị, KTNT được quan
niệm là tổng thể các hoạt động KT-XH diễn ra trên địa bàn nông thôn, bao
gồm các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ trên địa bàn đó.
Khái niệm về nông thôn trong văn bản chính thức của Bộ Nông
nghiệp và PTNT tại thông tư Số: 54/TT-BNNPTNT, ngày 21-8- 2009 đã quy
định rõ: Vùng, khu vực nông thôn Việt Nam xã hội chủ nghĩa là phần lãnh
thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản
lý bởi cấp hành chính cơ sở là uy ban nhân dân xã.
Dưới góc độ kinh tế chính trị, theo tác giả, nông thôn là một cộng đồng
xã hội nhỏ trong đó nông dân chiếm đa số, là các địa bàn có
sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn được quản lý bởi cấp
hành chính cơ sở là UBND xã.
* Đặc trưng của nông thôn:
Nông thôn có ba đặc trưng cơ bản sau đây:
-Một là về giai cấp xã hội: người sinh sống ở nông thôn chủ yếu ở đây là
nông dân, thiểu số còn lại là các tầng lớp xã hội khác như tiểu thương, thợ thủ
công, địa chủ, phú nông.v.v...;
- Hai là về lĩnh vực SX kinh doanh: hoạt động sản xuất, kinh doanh ở
vùng nông thôn bao gồm hoạt động SX nông nghiệp và hoạt động SX phi
nông nghiệp như: buôn bán nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nhỏ, trong
đó hoạt động SX nông nghiệp là chủ yếu nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
toàn bộ hoạt động SX, kinh doanh;
- Ba là về lối sống văn hóa: lối sống văn hóa ở nông thôn thường là lối
sống văn hóa của cộng đồng làng xã. Chính lối sống văn hóa đã tạo ra bản sắc
riêng, diện mạo riêng cho hệ thống xã hội nông thôn.

* Vai trò của nông thôn:
Nông thôn có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế, cụ thể là:
12


- Nông thôn là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội, do
đó nông thôn là cơ sở góp phần ổn định kinh tế - xã hội;
- Nông thôn là nơi cung cấp sức lao động cho thành thị và các ngành sản
xuất, kinh doanh khác;
- Nông thôn là nơi cung cấp nguyên vật liệu cho ngành công nghiệp,
dịch vụ;
- Nông thôn là nơi cung cấp hàng hóa, nguyên vật liệu cho xuất khẩu, tạo
điều kiện tích lũy một phần vốn cho đất nước;
- Nông thôn là nơi tiếp nhận và là thị trường rộng lớn tiêu thụ các sản
phẩm của ngành công nghiệp và dịch vụ
1.1.2. Tổng quan về nông thôn mới
*Khái niệm nông thôn mới
Hiện nay, chưa có một định nghĩa chính thức về Nông thôn mới. Tuy
nhiên, theo tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW của Trung ương, Nông thôn
mới là khu vực nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện
đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn
với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc
văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ
vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng
cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Theo tác giả, nông thôn mới là nông thôn mà trong đời sống vật chất, văn
hoá, tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao, giảm dần sự cách
biệt giữa nông thôn và thành thị. Nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ
kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đóng vai trò làm chủ nông

thôn mới.
Nông thôn mới có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng được

13


xây dựng đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa nông
nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn
hoá dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ. Sức mạnh của hệ thống chính trị
được nâng cao, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.
* Đặc trưng của nông thôn mới : Nông thôn mới có 5 đặc trưng:
- Thứ nhất: Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân
nông thôn được nâng cao;
- Thứ hai: Nông thôn phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng kinh
tế, xã hội hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ;
- Thứ ba: Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và
phát huy;
- Thứ tư: An ninh tốt, quản lý dân chủ;
- Thứ năm: Chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao.
* Đơn vị NTM
Theo quy định hiện hành ở nước ta, đơn vị NTM có 3 cấp là xã NTM,
huyện NTM và tỉnh NTM, và được quy định cụ thể như sau:
- Xã NTM: là xã đạt 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia NTM;
- Huyện NTM: là huyện có 75% số xã NTM;
- Tỉnh NTM: là tỉnh có 80% số huyện NTM.
* Chức năng của nông thôn mới
Nhìn chung, NTM có ba chức năng sau đây:
- Chức năng SX nông nghiệp hiện đại: chức năng cơ bản của nông thôn là
SX dồi dào các sản phẩm nông nghiệm chất lượng cao. Khác với nông thôn
truyền thống, SX nông nghiệp của NTM bao gồm cơ cấu các ngành nghề mới,

các điều kiện SX nông nghiệp hiện đại hóa, ứng dụng phổ biến khoa học kỹ
thuật tiên tiến và xây dựng các tổ chức nông nghiệp hiện đại. Cần phân tách rõ
nông thôn với thành thị; các đặc điểm riêng của thành thị và làng xã; phân công
hợp lý thành thị với nông thôn, tức là nhấn mạnh nông thôn phục vụ thành thị,
14


ngược lại thành thị hỗ trợ nông thôn. Đó chính là cơ sở quan trọng để thực hiện
thành thị và nông thôn phát triển hài hòa. Trong quá trình hình thành nên đô thị
đã xuất hiện 2 loại hiệu ứng là hiệu ứng kinh tế khu vực và hiệu ứng tập hợp, 2
hiệu ứng này quyết định thành thị thích hợp để phát triển công nghiệp, do vậy
mà chức năng của thành thị cũng được thực hiện xuất phát trên cơ sở 2 loại
hiệu ứng này. Còn với nông thôn thì có thể nói nông nghiệp là chức năng tự
nhiên của nông thôn. Xây dựng NTM không có nghĩa là biến nông thôn trở
thành thành thị. Hướng tư duy áp dụng mô hình phát triển của thành thị vào
xây dựng nông thôn phần nào đã phủ nhận những giá trị tự có của nông thôn và
khả năng phát triển trên cơ sở giữ vững bản sắc riêng nông thôn.
- Chức năng giữ gìn văn hóa truyền thống: kho tàng văn hóa truyền thống
được cấu thành từ bởi rất nhiều thành phần quan trọng khác nhau. Các thành
phần này không chỉ đóng vai trò không thể thay thế trong sự nghiệp hiện đại
hóa và phát triển xã hội hài hoà của riêng một quốc gia, mà còn là một bộ phận
cấu thành quan trọng trong kho tàng văn hóa của toàn nhân loại. Nền văn hóa
truyền thống mang đậm màu sắc thôn quê này đã được sản sinh trong một hoàn
cảnh đặc biệt.
Các phương thức SX, sinh sống cũng như cơ cấu tổ chức mang tính đặc
thù của xã hội nông thôn chính là nhân tố quyết định nền văn hóa mang đậm
màu sắc của một quốc gia. Quy tắc hành vi của xã hội gồm những người quen
này là những phong tục tập quán đã được hình thành từ lâu đời, ở đó con người
đối xử tin cậy lẫn nhau trên quy phạm phong tục tập quán đó. Ở đó quan hệ
huyết thống là mối quan hệ quan trọng nhất. Chính các tập thể nông dân cùng

huyết thống đã giúp họ khắc phục được những nhược điểm của kinh tế tiểu nông,
giúp bà con nông dân chống trọi với thiên tai.
Cũng chính văn hóa quê hương đã sản sinh ra những sản phẩm văn hóa
tinh thần quý báu như lòng kính lão yêu trẻ, giúp nhau canh gác bảo vệ, giản dị

15


tiết kiệm, thật thà đáng tin, yêu quý quê hương.vv.., tất cả được sản sinh trong
hoàn cảnh xã hội nông thôn đặc thù. Các truyền thống văn hóa quý báu này đòi
hỏi phải được giữ gìn và phát triển trong một hoàn cảnh đặc thù. Môi trường
thành thị là nơi có tính mở cao, con người cũng có tính năng động cao, vì thế
văn hóa quê hương ở đây sẽ không còn tính kế tục.
Do vậy, chỉ có nông thôn với đặc điểm SX nông nghiệp và tụ cư theo dân
tộc mới là môi trường thích hợp nhất để giữ gìn và kế tục văn hóa quê hương.
Ngoài ra, các cảnh quan nông thôn với những đặc trưng riêng đã hình thành
nên màu sắc văn hóa làng xã đặc thù, thể hiện các tư tưởng triết học như trời
đất giao hòa, thuận theo tự nhiên với sự tôn trọng tự nhiên, mưu cầu phát triển
hài hòa cũng như chú trọng sự kế tục phát triển của các dân tộc. Việc xây dựng
NTM nếu như phá vỡ đi các cảnh quan làng xã mang tính khu vực đã được
hình thành trong lịch sử thì cũng chính là phá vỡ đi sự hài hòa vốn có của nông
thôn, làm mất đi bản sắc làng quê nông thôn. Điều này không những hạn chế
tác dụng của chức năng nông thôn mà còn có tác dụng tiêu cực đến giữ gìn sinh
thái cảnh quan nông thôn và cảnh quan văn hóa truyền thống.
- Chức năng sinh thái: chức năng này chính là một trong những tiêu chí
quan trọng phân biệt giữa thành thị với nông thôn.
Nền văn minh nông nghiệp được hình thành từ những tích lũy trong suốt
một quá trình lâu dài, từ khi con người thích ứng với thiên nhiên, lợi dụng, cải
tạo thiên nhiên, cho đến khi phá vỡ tự nhiên dẫn đến phải hứng chịu các ảnh
hưởng xấu và cuối cùng là tôn trọng tự nhiên.

Trong nông thôn truyền thống, con người và tự nhiên sinh sống hài hòa
với nhau, chức năng người tôn trọng tự nhiện, bảo vệ tự nhiên và hình thành
nên thói quen làm việc theo quy luật tự nhiên. Thành thị là hệ thống sinh thái
nhân tạo phản tự nhiên ở mức độ cao nhất. Quá trình mưu cầu cuộc sống đầy
đủ về vật chất đã khiến người thành thị càng ngày càng xa rời tự nhiên. Nền
16


văn minh công nghiệp đã phá vỡ mối quan hệ hài hòa vốn có giữa con người
với thiên nhiên, dẫn đến phá vỡ môi trường một cách nghiêm trọng.
Ở thành thị, con người không tránh khỏi phải đối mặt với những căn bệnh
do ô nhiễm không khí, nước uống, thức phẩm mang lại. Các căn bệnh của xã
hội văn minh hiện đại như ung thư, bệnh tâm não huyết quản.v.v...ngày càng
gia tăng. Số lượng các ca tử vong do mắc các căn bệnh từ hệ thống hô hấp,
bệnh nghề nghiệp và bệnh do ô nhiễm môi trường gây nên chiếm đến hơn 90%
tổng số ca tử vong.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa khiến con người ngày càng xa
rời tự nhiên, dẫn đến những ô nhiễm trong môi trường nước và không khí. Nếu
so sánh với hệ thống sinh thái đô thị, thì hệ thống sinh thái nông nghiệp một
mặt có thể đáp ứng nhu cầu cung cấp các sản phẩm lương thực hoa quả cho con
người, mặt khác cũng đáp ứng được các yêu cầu về môi trường tự nhiên. Thuộc
tính SX nông nghiệp đã quyết định hệ thống sinh thái nông nghiệp mang chức
năng phục vụ hệ thống sinh thái. Đất đai canh tác nông nghiệp, hệ thống thủy
lợi, các khu rừng, thảo nguyên.vv… phát huy các tác dụng sinh thái như điều
hòa khí hậu, giảm ô nhiễm tiếng ồn, cải thiện nguồn nước, phòng chống xâm
thực đất đai, làm sạch đất.v.v... Thông qua sự tuần hoàn của tự nhiên và năng
lượng, cuối cùng, thành thị cũng là nơi thu được lợi ích từ chức năng sinh thái
của nông thôn.
* Tiêu chí xây dựng nông thôn mới
Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng

4 năm 2009 về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới và Quyết
định số 342/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02 năm 2013 sửa đổi một số tiêu chí của
bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới. Theo đó, bộ tiêu chí có 3 cấp độ: xã
nông thôn mới, huyện nông thôn mới và tỉnh nông thôn mới. Trong đó xã
nông thôn mới có 19 tiêu chí cụ thể, còn đối với huyện nông thôn mới căn cứ

17


vào tỷ lệ số xã thuộc huyện đạt nông thôn mới (75% số xã đạt 19 tiêu chí
nông thôn mới) và tỉnh nông thôn mới căn cứ vào tỷ lệ số huyện thuộc tỉnh
đạt nông thôn mới (80% số huyện đạt tiêu chí nông thôn mới).
* Mục tiêu xây dựng NTM
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định mục
tiêu tổng quát xây dựng NTM là:
- Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn,
hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó
khăn; nông dân được đào tạo có trình độ SX ngang bằng với các nước tiên tiến
trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ NTM.
- Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền
vững, SX hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
- Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức SX hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển
nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định,
giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái
được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được
tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông
dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định mục
tiêu xây dựng NTM đến năm 2020 là:
- Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thủy sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dụng đất
nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững
chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp
18


kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải
quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5
lần so với hiện nay.
- Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động
nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn NTM khoảng 50%.
- Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết
là hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa 2
vụ, mở rộng diện tích tưới cho rau màu, cây công nghiệp, cấp thoát nước chủ
động cho diện tích nuôi trồng thủy sản, làm muối; đảm bảo giao thông thông
suốt 4 mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản; xây
dựng cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền và hạ tầng nghề cá; cấp điện sinh hoạt
cho hầu hết dân cư, các cơ sở công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; đảm bảo
cơ bản điều kiện học tập chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao ở hầu
hết các vùng nông thôn tiến gần tới mức các đô thị trung bình.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có
hiệu quả, bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ giác
ngộ và vị thế chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham
gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình CNH-HĐH đất nước.
- Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, hoàn chỉnh hệ
thống đê sông, đê biển và rừng phòng hộ ven biển, hệ thống cơ sở hạ tầng
giao thông, thủy lợi, cụm dân cư đáp ứng yêu cầu phòng chống bão, lũ, ngăn

mặn và chống nước biển dâng; tạo điều kiện sống an toàn cho nhân dân đồng
bằng sông Cửu Long, miền Trung và các vùng thường xuyên bị bão, lũ, thiên
tai; chủ động triển khai một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến
đổi khí hậu toàn cầu. Ngăn chặn, xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, từng
bước nâng cao chất lượng môi trường nông thôn.
* Vị trí, vai trò của xây dựng NTM

19


Sau hơn 3 thập kỷ thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn về “tam nông”, tuy nhiên, nhiều
thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế, vẫn còn những
hạn chế, bất cấp như: (i) nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, thiếu quy
hoạch, sức cạnh tranh thấp; (ii) kết cấu hạ tầng như giao thông, thủy lợi,
trường học, trạm y tế, cấp nước… còn yếu kém; (iii) chuyển giao khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế; (iv) môi trường ngày càng
ô nhiễm; (vi) Đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân còn thấp, tỷ lệ
hộ nghèo cao, chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị còn lớn,
phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
Vì vậy, xây dựng NTM là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Theo tinh thần Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X, việc xây dựng NTM nhằm:
- Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông
thôn, bảo đảm hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các
vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ SX ngang bằng
với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm
chủ NTM.
- Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại,
bền vững, SX hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng

cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và
lâu dài.
- Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức SX hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển
nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định,
giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái

20


được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được
tăng cường.
- Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện Nghị quyết trên, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương khóa X
đã ban hành các Kết luận về một số nội dung trong Nghị quyết, bao gồm:
- Đề án An ninh lương thực quốc gia;
- Đề án Chương trình Xây dựng thí điểm mô hình NTM cấp xã;
- Đề án về Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt Nam
trong phát triển nông nghiệp, xây dựng NTM và xây dựng giai cấp nông dân.
- Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP, ngày 28 tháng
10 năm 2008, xác định "Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM".
- Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 4/6/2010
phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 20102020 gồm 11 nội dung, với 19 tiêu chí.Ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 491/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về
NTM và ngày 20/02/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
342/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 về việc sửa đổi một số tiêu chí của bộ tiêu chí
quốc gia về NTM.
Đại hội Đảng lần thứ XI tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng NTM là:
“Quy hoạch phát triển nông thôn gắn với đô thị và bố trí các điểm dân cư.

Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi
trường. Triển khai chương trình xây dựng NTM phù hợp với đặc điểm từng
vùng theo các bước đi cụ thể vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát
huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của nông thôn Việt Nam. Đẩy mạnh xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi

21


khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các DN
nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động…”
* Nguyên tắc xây dựng NTM
Việc xây dựng NTM mới phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
- Xây dựng NTM với phương châm chính là phát huy vai trò chủ thể của
cộng đồng dân cư địa phương, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban hành
các tiêu chí, quy chuẩn, đặt ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ, hướng dẫn. Các
hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để
quyết định và tổ chức thực hiện.
- Xây dựng NTM được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của mỗi địa phương; có quy
hoạch và cơ chế đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch.
- Xây dựng NTM được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các
chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương
trình, dự án khác đang triển khai ở nông thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với
các lĩnh vực cần thiết; có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư
của các thành phần kinh tế, huy động đóng góp của các tầng lớp dân cư.
- Xây dựng NTM là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội;
cấp ủy Đảng, chính quyền đóng vai trò chỉ đạo quá trình xây dựng quy hoạch,
kế hoạch, tổ chức thực hiện. Hình thành cuộc vận động ”Toàn dân xây dựng
NTM” do Mặt trận Tổ quốc chủ trì cùng các tổ chức chính trị xã hội vận động

mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong việc xây dựng NTM.
1.1.3. Xây dựng nông thôn mới về kinh tế
Theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia), kinh tế
là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã hội
liên quan trực tiếp đến việc SX, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con
người trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn.Nguồn lực ở đây có thể
22


là tiền, thời gian, chất xám v.v... và những thứ này không phải là vô hạn. Do
đó ta cần biết sử dụng chúng một cách hợp lý, sao cho có lợi nhất.
Ở góc độ một quốc gia, “nguồn lực” là tài nguyên thiên nhiên, trình độ
dân trí, máy móc, quan hệ với các nước khác… Nền kinh tế của một quốc gia
chỉ đơn giản là tập hợp các nguồn lực đó, cùng với các quyết định sử dụng
chúng ra sao để phát triển đất nước, tạo ra các giá trị vật chất - tinh thần mới.
Trong thực tế, sử dụng nguồn lực thế nào cho hợp lý là một câu hỏi khó, đặc
biệt nếu đứng từ góc độ quốc gia.
Khái niệm kinh tế đề cập đến các hoạt động của con người có liên quan
đến SX, phân phối, trao đổi, và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ. Nói đơn giản kinh
tế có nghĩa là: Dựa vào nguồn tài nguyên sẵn có và hạn hẹp, con người và xã
hội loài người tìm cách trả lời 3 câu hỏi: “SX cái gì? SX như thế nào? và SX
cho ai?”.
Theo nghĩa hẹp, kinh tế chỉ “hoạt động SX và làm ăn của cá nhân hay hộ
gia đình”. Theo nghĩa rộng, kinh tế chỉ “toàn bộ các hoạt động SX, trao đổi,
phân phối, lưu thông” của cả một cộng đồng dân cư, một quốc gia trong một
khoảng thời gian, thường là một năm.
Để đánh giá về kinh tế của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ, thông
thường các tiêu chí sau đây được sử dụng: (1) Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên
địa bàn; (2) Cơ cấu ngành trong GDP; (3) Tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển

trên địa bàn; (4) Tốc độ tăng giá trị xuất khẩu hàng hóa; (5) Thu và cơ cấu thu
ngân sách Nhà nước trên địa bàn;(6) Chi ngân sách Nhà nước địa phương.
Để thực hiện Chương trình xây dựng NTM trên phạm vi cả nước, không
thí điểm một cách thống nhất, 19 tiêu chí được định trước của Bộ tiêu chí
gồm 4 nội dung như sau:
- Nội dung I: Quy hoạch, có 01 tiêu chí là Tiêu chí 1: Quy hoạch và thực
hiện quy hoạch.
23


- Nội dung II: Hạ tầng giao thông, có 08 tiêu chí là: Tiêu chí 2: Giao
thông; Tiêu chí 3: Thủy lợi; Tiêu chí 4: Điện; Tiêu chí 5: Trường học; Tiêu
chí 6: Cơ sở vật chất văn hóa; Tiêu chí 7: Chợ nông thôn; Tiêu chí 8: Bưu
điện; Tiêu chí 9: Nhà ở dân cư.
- Nội dung III: Kinh tế và tổ chức SX, có 04 tiêu chí là: Tiêu chí 10: Thu
nhập; Tiêu chí 11: Hộ nghèo; Tiêu chí 12: Cơ cấu lao động; Tiêu chí 13: Hình
thức tô chức SX.
- Nội dung IV: Văn hóa - Xã hội - Môi trường, có 05 tiêu chí là: Tiêu chí
14: Giáo dục; Tiêu chí 15: Y tế; Tiêu chí 16: Văn hóa; Tiêu chí 17: Môi trường.
- Nội dung V: Hệ thống chính trị, có 02 tiêu chí là: Tiêu chí 18: Xây
dựng Hệ thống chính trị vững mạnh; Tiêu chí 19: An ninh trật tự xã hội.
Chương trình xây dựng NTM là một trong những chủ trương, chính sách
quan trọng của Đảng và Nhà nước ta với mục tiêu cốt lõi là nâng cao thu
nhập, nâng cao đời sống của người dân nông thôn thực sự bền vững, do đó,
thực hiện các chỉ tiêu kinh tế được xem là nhiệm vụ then chốt, là trung tâm.
Tuy nhiên, cần quán triệt quan điểm là 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc
gia về NTM có mối quan hệ chặt chẽ, khắng khít, gắn kết và hỗ tương cho
nhau, vì vậy việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế phải được đặt trong mối quan
hệ biện chứng với những tiêu chí còn lại để tổ chức thực hiện một cách đồng
bộ, không nên quá xem nặng hoặc quá coi nhẹ bất cứ tiêu chí nào.

Tóm lại, xây dựng NTM về kinh tế là một trong những nội dung cơ bản
nhất của chủ trương và chính sách xây NTM của Đảng và nhà nước. Như trên
đã trình bày, mục tiêu tổng quát nhấtcủa xây dựng NTM là: không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, xã hội nông thôn
ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh
thái được bảo vệ.v.v... Vì vậy, mặc dù chỉ chiếm 4/19 tiêu chí trong Bộ tiêu

24


chí Quốc gia về NTM, nhưng các tiêu chí này có vị trí và vai trò quan trọng
có tác động ảnh hưởng đến các tiêu chí còn lại.
Trên quan điểm kinh tế chính trị, có thể thấy giữa các tiêu chí về kinh tế
với các tiêu chí còn lại trong Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Mối quan hệ biện chứng này thể hiện ở chỗ: Xây dựng
thành công 4 tiêu chí xây dựng NTM về kinh tế là cơ sở là cơ sở kinh tế để
thực hiện thành công các tiêu chí còn lại, đến lượt nó, các tiêu chí còn lại có
tác động tương hỗ mạnh mẽ đến kết quả thực hiện các tiêu chí về kinh tế.
Chương trình xây dựng NTM chỉ có hiệu quả thực sự và đạt đúng mục tiêu đã
đề ra khi và chỉ khi tất cả các tiêu chí của đề án được thực hiện đúng yêu cầu.
Xây dựng NTM về kinh tế chính là xây dựng NTM đạt các chỉ tiêu đánh
giá về kinh tế và đồng thời phù hợp với các tiêu chí kinh tế trong Bộ tiêu chí
Quốc gia về NTM.
Từ quan niệm xây dựng nông thôn mới về kinh tế như trên, tác giả
cho rằng: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Chương Mỹ thành phố
Hà Nội là tổng thể nội dung, biện pháp mà Đảng bộ, chính quyền các cấp, các
tổ chức chính trị xã hội và toàn thể người dân nông thôn trên địa bàn huyện tiến
hành nhằm thực hiện được 04 tiêu chí trong nhóm tiêu chí về kinh tế tạo ra sự
phát triển mới về kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tình thần của dân cư.
Quan niệm này chỉ ra:

Chủ thể tiến hành xây dựng NTM về kinh tế trên địa bàn huyện Chương
Mỹ, thành phố Hà Nội là: Đảng bộ, chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị xã
hội và toàn thể người dân nông thôn trên địa bàn huyện. Mỗi bộ phận, lực lượng
có vị trí, vai trò, nhiệm vụ khác nhau, phụ thuộc vào chức năng nhiệm vụ của
từng bộ phận. Trong đó các cấp bộ đảng giữ vai trò lãnh đạo, đề ra đường lối,
chủ trương, chính sách xây dựng nông thôn mới về kinh tế; chính quyền các cấp
tổ chức thực hiện đường lối lãnh đạo của các cấp bộ đảng; các tổ chức chính trị
xã hội đoàn thể thực hiện theo chức trách nhiệm vụ được giao. Nhân dân là chủ
25


×