Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ GIẢM NGHÈO bền VỮNG ở TỈNH lào CAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.55 KB, 95 trang )

|
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢM NGHÈO BỀN

3

VỮNG Ở TỈNH LÀO CAI
1.1. Một số vấn đề chung về nghèo, giảm nghèo và

12

giảm nghèo bền vững
1.2. Quan niệm, nội dung và các yếu tố tác động đến

12

giảm nghèo bền vững ở tỉnh Lào Cai
Chương 2. THỰC TRẠNG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở

28

TỈNH LÀO CAI THỜI GIAN QUA
2.1. Thành tựu hạn chế về hoạt động giảm nghèo bền

41

vững ở tỉnh Lào Cai giai đoạn (2010 - 2015)
2.2. Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và vấn đề đặt ra


41

từ thực trạng về giảm nghèo bền vững ở tỉnh
Lào Cai thời gian qua
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢM

61

NGHÈO BỀN VỮNG Ở TỈNH LÀO CAI
THỜI GIAN TỚI
3.1. Phương hướng giảm nghèo bền vững ở tỉnh Lào Cai

70

trong thời gian tới
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện giảm nghèo

70

bền vững ở tỉnh Lào Cai thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

76
90
92


|
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đời sống kinh tế - xã hội của
đất nước đã có những thay đổi mạnh mẽ, toàn diện. Một trong những sự thay
đổi đó là tình trạng đói, nghèo ngày càng giảm, một bộ phận dân cư đã thoát
nghèo và trong đó có những hộ đã trở nên khá giả. Nguyên nhân của những đổi
thay đó là trong những năm qua, vấn đề xóa đói giảm nghèo luôn được Đảng và
Nhà nước ta quan tâm. Sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước thông qua những chủ
trương, chính sách nhằm xóa đói giảm nghèo như tập trung các nguồn lực cho
phát triển kinh tế - xã hội, tiến hành CNH, HĐH và xây dựng nông thôn mới;
thực hiện ưu tiên phát triển kinh tế cho từng vùng, miền; đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng nông thôn; ưu đãi tín dụng cho người nghèo và huy động các nguồn vốn
cho hoạt động xóa đói giảm nghèo...
Tuy nhiên, tỷ lệ đói nghèo của cả nước nói chung, của khu vực nông thôn,
và các tỉnh miền núi vẫn còn khá cao. Đời sống một bộ phận dân cư nông
nghiệp và nông thôn còn thấp. Sự phân hóa giàu nghèo đang có xu hướng diễn
ra và tăng nhanh trong cộng đồng xã hội. Điều dễ thấy là tình trạng tái nghèo
của một bộ phận dân cư cứ lặp đi, lặp lại đã gây ra nhiều hệ lụy về mặt kinh tế
và xã hội cho các địa phương. Do vậy, hiện nay chương trình xóa đói giảm
nghèo bền vững đang được đặt ra cấp thiết với các cấp, các ngành và toàn xã hội.
Thực tế, đây là vấn đề khó khăn phức tạp đòi hỏi phải có chương trình, kế hoạch,
nguồn lực và tổ chức chỉ đạo thực hiện một cách thiết thực, hiệu quả.
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới nằm ở phía Bắc Việt Nam, có
203,5 km đường biên giới giáp với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), có 8 huyện,
1 thành phố, trong đó có 4 huyện biên giới. Toàn tỉnh có 164 xã, phường,
trong đó có 81 xã đặc biệt khó khăn, dân số là 557.000 người, trong đó người
dân tộc ít người chiếm 64,09%. Theo kết quả điều tra (chuẩn nghèo đói giai
đoạn 2011 - 2015), đến tháng 8 năm 2015 tỉnh Lào Cai có 50.105 hộ nghèo,
3



|
chiếm 43,01% tổng số hộ trong toàn tỉnh. Những hộ nghèo này chủ yếu là các
hộ đồng bào dân tộc, tập trung ở các huyện vùng cao, biên giới. Đặc biệt, 4
huyện biên giới của tỉnh tỷ lệ hộ nghèo chung trên địa bàn là 49,87%, cao hơn
tỷ lệ nghèo chung toàn tỉnh. Trong tổng số các huyện biên giới, huyện có tỷ lệ
hộ nghèo cao nhất là huyện Si Ma Cai: 73,9%; sau đó đến huyện Mường
Khương:63,37%; Bát Xát:50,43% và Bảo Thắng là 39,05%. Những hộ nghèo
tại các huyện này tập trung chủ yếu ở nông thôn, trên 95% hộ nghèo là dân
tộc ít người. Thực tế, trong giai đoạn 2010 – 2015, việc thực hiện xóa đói, giảm
nghèo trên địa bàn tỉnh mặc dù có những tiến bộ, nhiều người nghèo, hộ
nghèo được tiếp cận tốt hơn các dịch vụ xã hội; cơ sở hạ tầng của các huyện,
xã nghèo được tăng cường; đời sống người nghèo được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ
hộ nghèo cả tỉnh đã giảm. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền
vững, thiếu tính đồng bộ, thống nhất cả về nhận thức và hành động, chưa tìm
ra những giải pháp thiết thực phù hợp với đặc điểm tình hình của tỉnh Lào
Cai, số hộ đã thoát nghèo nhưng mức thu nhập nằm sát chuẩn nghèo còn lớn,
tỷ lệ hộ tái nghèo hàng năm còn cao; đời sống người nghèo nhìn chung vẫn
còn nhiều khó khăn, nhất là ở khu vực miền núi, vùng cao, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số.
Điều đó cho thấy thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đang là vấn
đề vừa mang tính cơ bản lâu dài, vừa mang tính thời sự cấp thiết, đặt ra cho
tỉnh Lào Cai phải thực sự quan tâm giải quyết trong phát triển kinh tế xã hội.
Hy vọng từ nghiên cứu vấn đề giảm nghèo bền vững luận văn đưa ra các giải
pháp phù hợp với thực tiễn của tỉnh Lào Cai hiện nay. Vì vậy, học viên lựa
chọn vấn đề "Giảm nghèo bền vững ở tỉnh Lào Cai " làm luận văn thạc sĩ,
thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
XĐGN là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà quản lý và hoạch định chính sách vĩ mô.


4


|
Đến nay, đã có nhiều công trình, đề tài, luận án, luận văn nghiên cứu về vấn đề
XĐGN ở các góc độ khác nhau. Liên quan trực tiếp đến đề tài của luận văn, có
thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
* Những công trình nghiên cứu về đói nghèo và xóa đói giảm nghèo
phạm vi quốc gia:
Lê Xuân Bá (Chủ biên 2001), Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Công trình đã phân tích những nét rất
cơ bản về vấn đề nghèo đói và XĐGN ở Việt Nam. Khái quát về vấn đề
nghèo đói trên thế giới và nêu lên thực trạng nghèo đói ở Việt Nam qua
nghiên cứu thực tiễn về nghèo đói ở một số tỉnh thành và đưa ra định hướng
XĐ, GN ở Việt Nam
Phạm Gia Khiêm: “Xóa đói giảm nghèo ở nước ta - thành tựu, thách
thức và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản, số 3 - 2006. Trên cơ sở khái quát
những thành tựu, hạn chế trong hoạt động xoá đói giảm nghèo ở nước ta giai
đoạn 2001 - 2005, tác giả bài viết đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
tính hiệu quả và đẩy nhanh quá trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam giai
đoạn (2006 - 2010).
Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (2007), Tăng
trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam - Thành tựu, thách thức và giải
pháp. Công trình đã đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội và công tác
XĐ, GN ở Việt Nam trong những năm qua, đồng thời xác định mục tiêu và
chỉ ra các giải pháp để xoá đói giảm nghèo trong thời gian tới.
Bộ lao động - Thương binh và xã hội, Cơ quan Liên hiệp quốc tại Việt
Nam (2009) Đánh giá giữa kỳ chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo,
giai đoạn 2006 - 2008, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Công trình nhận định bối
cảnh nghèo đói trên thế giới và ở Việt Nam đang thay đổi nhanh chóng; khái

quát chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN giai đoạn 2006 - 2010. Trên cơ
sở đó đưa ra đánh giá về chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN giai đoạn
5


|
2006 - 2010 trên các nội dung như tính Hiệu quả của chương trình thông qua
các chỉ tiêu đề ra; Tính kinh tế và hiệu suất quản lý và thực hiện Chương
trình; Nhận thức của người hưởng lợi và chất lượng cung cấp dịch vụ. Từ đó,
đưa ra các khuyến nghị ngắn hạn (2009 - 2010), khuyến nghị trung và dài hạn
để xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN trong tương lai.
Nguyễn Thị Hoa (2009), Hoàn thiện các chính sách xóa đói giảm nghèo
chủ yếu của Việt Nam đến năm 2015, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Dựa vào khung lý thuyết về tấn công đói nghèo của Ngân hàng thế
giới (WB) và phương pháp đánh giá chính sách đói, nghèo, luận án đã tiến hành
đánh giá chính sách XĐGN nhằm chỉ ra những tác động tích cực và tiêu cực của
mỗi chính sách đến công cuộc XĐGN của Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận án sẽ đề
xuất định hướng cũng như giải pháp hoàn thiện chính sách XĐGN của Việt Nam
đến năm 2015.
Vũ Thị Vinh (2009), Tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo trong quá
trình đổi mới ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện khoa học xã hội
Việt Nam. Luận án đã phân tích thực trạng của tăng trưởng kinh tế và GN ở
Việt Nam, đánh giá sự tác động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế với GN và
mối quan hệ giữa chúng, đi sâu phân tích các chính sách vĩ mô đã áp dụng ở
Việt Nam trong những năm qua và tác động của các chính sách này đối với
tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở Việt Nam.
Đặng Thị Hoài: (2009)“Giảm nghèo theo hướng bền vững ở Việt
Nam” Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Tác giả luận văn
đã đề cập và luận giải ở mức độ nhất định về nghèo, giảm nghèo, giảm nghèo
theo hướng bền vững và đề xuất phương hướng, giải pháp tập trung các nguồn

lực cho phát triển kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề về an sinh xã hội nhằm
đảm bảo giảm nghèo một cách bền vững.
Lê Quốc Lý, chủ nhiệm đề tài (2010), Tổng kết và đánh giá thực tiễn
thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta giai đoạn 2001 - 2010; xây
6


|
dựng cơ chế, chính sách và giải pháp xóa đói giảm nghèo phục vụ công tác
quản lý điều hành của Đảng trong giai đoạn 2011- 2020, Đề tài khoa học, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Công trình đã đi
sâu phân tích những thành tựu, hạn chế và những nhân tố tác động, nguyên
nhân hạn chế của quá trình thực tiễn thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo
giai đoạn 2001 – 2010; đồng thời đề xuất, kiến nghị với các cấp về các vấn đề
cần đề cập đến trong xây dựng cơ chế, chính sách và giải pháp XĐGN cho giai
đoạn 10 năm tới.
* Các công trình nghiên cứu về đói - nghèo và xoá đói, giảm nghèo có
liên quan đến một số chủ thể, lĩnh vực hoặc ở một số địa phương:
Lê Du Phong (Chủ biên 1999), Kinh tế thị trường và sự phân hoá giàu
nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Công trình đã phân tích nền kinh tế thị trường và sự phân
tầng kinh tế xã hội nói chung và ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng. Khái
quát quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường và sự phân hoá giàu nghèo ở
nước ta; đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, thực trạng phân hoá giàu nghèo ở
vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải
pháp giảm sự phân hóa giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường ở các tỉnh miền
núi phía Bắc nước ta.
Nguyễn Thị Cảnh (2001), “Diễn biến mức sống dân cư phân hóa giàu
nghèo và các giải pháp xóa đói giảm nghèo trong quá trình chuyển đổi nền
kinh tế Việt nam nhìn từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Lao động –

Xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả cuốn sách đã đề cập và luận giải
nguyên nhân của đói nghèo trong nền kinh tế thị trường và đề xuất các giải
pháp xóa đói giảm nghèo trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam
nhìn từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh - một thành phố năng động, phát
triển nhất nước ta lúc đó cũng như hiện nay

7


|
Ngô Quang Minh (2009), Tác động kinh tế của Nhà nước góp phần xoá
đói giảm nghèo trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Công trình đã phân tích và đánh giá mối quan hệ giữa CNH,
HĐH theo cơ chế thị trường với tình trạng đói nghèo và sự phân hóa giàu
nghèo cũng như nêu khái quát được thực trạng đói nghèo ở Việt Nam để đưa ra
một số giải pháp tác động của nhà nước nhằm XĐGN trong quá trình CNH,
HĐH đất nước.
Nguyễn Thị Nhung (2012), Giải pháp xóa đói giảm nghèo nhằm phát
triển kinh tế - xã hội ở Tây Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học kinh
tế quốc dân, Hà Nội. Luận án làm rõ mối quan hệ giữa XĐGN và phát triển
kinh tế - xã hội, thực trạng XĐGN và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế xã hội ở Tây Bắc Việt Nam để đưa ra phương hướng và những giải pháp cơ bản
để thực hiện XĐ, GN nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh này.
Nguyễn Đại Văn Phú (2013), Bộ đội địa phương tỉnh Lạng Sơn tham
gia xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, Học
viện Chính trị. Luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận về bộ đội địa
phương tỉnh Lạng Sơn tham gia XĐGN. Đánh giá đúng thực trạng, luận giải
sự cần thiết và phương thức tham gia XĐGN của bộ đội địa phương tỉnh Lạng
Sơn. Đề xuất yêu cầu và một số giải pháp thực hiện tốt hơn tham gia XĐGN
của bộ đội địa phương tỉnh Lạng Sơn trong thời gian tới.
Nguyễn Như Triển, Trần Thị Hằng (2014) "Đánh thức niềm hi vọng từ

chính người nghèo: một trong những yếu tố cần thiết giúp giảm nghèo bền vững
trong đồng bào dân tộc các tỉnh, thành phía Nam", Kỷ yếu Hội thảo khoa học
“Xóa đói, giảm nghèo bền vững trong đồng bào dân tộc các tỉnh, thành phía Nam”
đã chỉ ra cần giúp người nghèo lòng tự tin, tự trọng vào cuộc sống, vào bản thân
mình và biến nó thành ý chí, động lực tự vươn lên thoát nghèo gắn với sự hỗ trợ của
nhà nước, cộng đồng xã hội. Đó là vấn đề cần thấy được trong nhận thức và trong
hoạt động cụ thể với xóa đói giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc ở các
tỉnh phía Nam nước ta.
8


|
Đại học Thái Nguyên - Ngân hàng thế giới (WB), 2014: “Phát triển bền
vững và xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi”
Hội thảo khoa học. Đã chỉ ra quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội bền vững
với xóa đói giảm nghèo và những giải pháp kết hợp trong thực hiện.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía
cạnh của vấn đề nghèo đói và những tác động đến xóa đói, giảm nghèo và
giảm nghèo bền vững. Song hiện chưa có công trình nào nghiên cứu về giảm
nghèo bền vững ở tỉnh Lào Cai. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của các công
trình trên sẽ là những tư liệu quí giúp học viên tiếp thu có chon lọc trong quá
trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Từ nghiên cứu giảm nghèo bền vững ở tỉnh Lào Cai trong thời gian
qua, chỉ ra những mâu thuẫn nảy sinh cần giải quyết gắn với các giải pháp cụ
thể nhằm thực hiện giảm nghèo bền vững ở tỉnh Lào Cai hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận và nhận thức về
đói nghèo, giảm nghèo và giảm nghèo bền vững ở nước ta, trong đó có tỉnh

Lào Cai.
- Phân tích, đánh giá, làm rõ thành tựu và hạn chế về giảm nghèo bền
vững của tỉnh Lào Cai thời gian qua và những vấn đề đặt ra với giảm nghèo bền
vững ở địa phương.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện giảm
nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Lào Cai trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Giảm nghèo bền vững ở tỉnh Lào Cai.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về địa bàn nghiên cứu : Tỉnh Lào Cai với trọng tâm là các vùng nông
thôn, các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa.
9


|
- Thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2015 và phương hướng giảm nghèo
bền vững ở tỉnh Lào Cai trong thời gian tới.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận: Luận văn thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các lý thuyết của
kinh tế học phát triển và kinh tế học hiện đại để nghiên cứu về vấn đề giảm
nghèo bền vững.
- Cơ sở thực tiễn: Hiện trạng đói nghèo và tình hình giảm nghèo bền
vững ở tỉnh Lào cai đã và đang diễn ra.
Trong nghiên cứu hoạt động giảm nghèo ở tỉnh Lào Cai có sự gắn kết
với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, với việc thực hiện các
chương trình, dự án giảm nghèo có sự phối hợp giữa chính quyền địa phương,
các sở, ban, ngành và cộng đồng xã hội, trong đó đặc biệt là sự vươn lên của

những người nghèo.
* Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp trừu
tượng khoa học mang tính đặc thù kinh tế chính trị và kết hợp các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như điều tra, thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp
v.v... để đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu của đề tài.
- Trong nghiên cứu, tác giả đã kế thừa có chọn lọc những kết quả
nghiên cứu về xóa đói giảm nghèo, về giảm nghèo bền vững ở nước ta và các
địa phương. Trong thực thi nghiên cứu các số liệu thứ cấp được thu thập
thông qua các báo cáo của Đảng bộ, Ủy ban nhân dân, Hội nông dân tỉnh, sở
Lao động Thương binh Xã hội tỉnh Lào Cai; tham khảo các tài liệu liên quan
trên Internet, tạp chí… Các số liệu sơ sơ cấp cũng được thu thập qua khảo sát
10


|
thực tế và trao đổi với các cơ quan nghiệp vụ của tỉnh Lào Cai.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy.
- Luận văn cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cấp lãnh
đạo tỉnh trong thực hiện và cụ thể hóa các chính sách của Đảng và Nhà nước
góp phần thực hiện giảm nghèo bền vững ở tỉnh Lào Cai một cách hiệu quả.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu, Phần nội dung (3 chương – 6 tiết), Phần
kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo; Phụ lục.

11



|
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở TỈNH LÀO CAI
1.1 Một số vấn đề chung về nghèo, giảm nghèo và giảm nghèo
bền vững
1.1.1.

Quan niệm nghèo

Từ xa xưa cho đến nay, nghèo và đói đã, đang diễn ra trên quy mô lớn
và hậu quả của nó tác động đến mọi mặt đời sống xã hội: từ kinh tế đến chính
trị và xã hội; từ an ninh, trật tự an toàn xã hội đến môi trường sinh thái...
Nghèo, đói không chỉ có ảnh hưởng tiêu cực đối với các đối tượng nghèo,
quốc gia nghèo mà còn có nguy cơ lan rộng và tác động đến phạm vi toàn cầu
như tàn phá môi trường sinh thái, vấn đề di dân quốc tế ồ ạt, tiêu cực xã hội,
tội phạm hình sự lan rộng. Vì vậy, công cuộc chống nghèo, đói không chỉ là
vấn đề cấp thiết đối với các nước chậm phát triển, đang phát triển mà cả đối
với các nước phát triển. Để giải quyết vấn đề nghèo và đói trước hết và cần
thiết phải có nhận thức đúng về đói, nghèo.
Quan niệm về đói, nghèo.
Hiện tại, xã hội loài người đang ở thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, kinh
tế tri thức và nền văn minh hậu công nghiệp đang hiện hữu trước mặt loài
người. Song đói nghèo vẫn tồn tại, vẫn là mối quan tâm của chính phủ và
người dân của tất cả các quốc gia, dân tộc. Nhiều hội nghị, hội thảo cấp quốc
gia, quốc tế đã được tiến hành với chủ đề: đói, nghèo và những hệ lụy về kinh
tế xã hộ của nó; xóa đói giảm nghèo trong mục tiêu thiên niên kỷ. Trong các
hội nghị hội thảo về đói, nghèo, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về đói, về nghèo, về đói nghèo và hiện tại chưa có một quan niệm
chung về nghèo được sự đồng thuận cao và sử dụng như một quan niệm
chuẩn cho các quốc gia, các tổ chức quôc tế.

Đói là thuật ngữ chỉ hiện trạng những người (sinh vật) không đủ dinh
dưỡng để duy trì sự sống bình thường. Thông thường trong đời sống của con
12


|
người, đói là tính từ chỉ những người không đủ vật phẩm cần thiết để duy trì
sự sống. Trong thực tế, người ta thường dùng thuật ngữ đói ăn, đói mặc (bao
gồm cả những người chủ động ăn đói mặc rách để làm giàu)...Như vậy, đói
dùng chỉ những người không có đủ lương thực để ăn hàng ngày. Những người
rơi vào tình trạng đói thường không có điều kiện để phát triển về thể lực do
đó khả năng làm việc thấp, nếu tình trạng đói kéo dài có thể nguy hiểm đến
tính mạng (chết đói).
Nghèo là thuật ngữ dùng để chỉ người thiếu thốn những điều kiện vật
chất, tinh thần để duy trì cuộc sống, lao động một cách bình thường (nghèo
tiền bạc, nghèo tri thức, nghèo tình cảm...) thông thường nghèo dùng để chỉ cá
nhân, một nhóm hoặc một cộng đồng dân cư có thu nhập bình quân thấp theo
những tiêu chí nhất định.
* Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do Ủy ban
Kinh tế xã hội khu vực Châu Á- Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tháng vào
09/1993 tại Thái Lan đã định nghĩa: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư
không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu
cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và
phong tục tập quán của địa phương”. Đây chính là một khái niệm chung nhất về
nghèo, một khái niệm mở, có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá,
nhận diện nét chính yếu, phổ biến về nghèo. Các tiêu chí và chuẩn mực về mặt
lượng hóa (định lượng) được bỏ ngỏ bởi vì còn phải tính đến sự khác biệt chênh
lệch giữa điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội và trình độ phát triển của mỗi
vùng, miền khác nhau. Vấn đề quan trọng nhất khái niệm này đã đưa ra được đó
chính là những nhu cầu cơ bản của con người nếu không được thỏa mãn thì họ

chính là những người nghèo. Một khái niệm mở như vậy sẽ dễ dàng được các tổ
chức và các quốc gia chấp nhận. Khái niệm sẽ được bổ sung, hoàn thiện hơn
theo sự phát triển của xã hội, nhất là khi nhu cầu cơ bản của con người ngày
càng được nâng cao theo thời gian
13


|
Đói, nghèo thường được sử dụng như là thuật ngữ kép chỉ hiện trạng
cuộc sống khó khăn thiếu thốn của một bộ phận dân cư trong xã hội. Xét về
ngữ nghĩa, đói và nghèo là hai tính từ phản ánh tính chất, cấp độ cuộc sống
khác nhau của con người. Xét tổng thể đói - nghèo có mối quan hệ biện
chứng nhân - quả với nhau. Tuy nhiên, xem xét những con người cụ thể
trong những không gian, thời gian nhất định, không phải ai nghèo thì cũng
phải đói và bị đói là vì nghèo. Đặt vấn đề như vậy để có cơ sở luận giải
một số vấn đề có liên quan đến nghèo và giảm nghèo ở nước ta trước đây
cũng như hiện nay.
Từ khái niệm chung này, khi nghiên cứu thực trạng nghèo đói, người ta
đã đưa ra hai khái niệm khác nhau, đó là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối:
Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không thể thỏa mãn
nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống bình thường. Nhu cầu cơ bản,
tối thiểu đó là mức bảo đảm về ăn, mặc, nhà ở, nước sinh hoạt, y tế, giáo dục
và vệ sinh môi trường. Nhu cầu này cũng có sự thay đổi, khác biệt từng vùng
lãnh thổ, từng quốc gia.
Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng ở một thời kỳ nhất định. Nghèo tương đối gắn
liền với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân cư so với mức sống
trung bình của địa phương ở một thời kỳ nhất định. Vì vậy, nhiều nhà nghiên
cứu cho rằng việc xóa dần nghèo tuyệt đối là việc có thể làm, còn nghèo
tương đối là hiện tượng thường có trong xã hội và vấn đề cần quan tâm là rút

ngắn khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo.
Trong những năm gần đây, để đánh giá mức nghèo của một quốc gia
hay một vùng lãnh thổ, người ta còn sử dụng chỉ số nghèo của con người HPI (human poverty index) và hệ số bất bình đẳng về thu nhập và mức sống
của giữa các tầng lớp dân cư – Hệ số GINI (Gini Index, do nhà Thống kê học
người Ý Corrodo Gini công bố 1912) Chỉ số HPI bao gồm: tỉ lệ người sống
14


|
dưới 40 tuổi; tỉ lệ người lớn mù chữ; tỉ lệ người không được tiếp cận dịch vụ
y tế, nguồn nước sạch và tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng; mức
chênh lệch về thu nhập và mức chi tiêu giữa 20% người giàu nhất với 20%
người nghèo nhất.
Hệ số Gini dùng để biểu thị độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Nó có giá trị từ 0 đến 1 và bằng tỷ số giữa phần diện tích nằm giữa đường
cong Lorenz và đường bình đẳng tuyệt đối với phần diện tích nằm dưới
đường bình đẳng tuyệt đối. Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc hàng năm
công bố bản báo cáo về khoảng cách thu nhập của thế giới. Công cụ thông
thường để tính toán về sự bất bình đẳng là hệ số Gini. Hệ số này càng cao, xã
hội càng thiếu công bằng. Kết quả năm 2015 cho thấy, Đan Mạch là một
trong những nền kinh tế phát triển nhất thế giới và đồng thời cũng có khoảng
cách chênh lệch về thu nhập thấp nhất thế giới. Hệ số Gini của quốc gia Bắc
Âu này chỉ là 24,7%. Tại châu Á, quốc gia có khoảng cách giàu - nghèo thấp
nhất là Nhật Bản với hệ số Gini là 24,9% [46, tr.9].
* Ở Việt Nam, đối tượng nghèo thường được chia làm 3 loại: hộ nghèo,
xã nghèo và huyện nghèo. Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai
đoạn 1998-2000 của Việt Nam đã căn cứ vào các cách phân chia trên để đưa
ra các khái niệm: người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, huyện nghèo.
Người nghèo: là tình trạng người dân chỉ có điều kiện thoả mãn một phần
những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức

sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện như: ăn, mặc, ở, vệ
sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền được tham gia vào các quyết định của cộng
đồng. Đa số người nghèo có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ có mức thu
nhập thấp do tính chất công việc của họ đem lại. Người nghèo thường làm
những công việc đơn giản, lao động chân tay nhiều, công việc cực nhọc
nhưng thu nhập chẳng được là bao.
Hộ nghèo: Là những gia đình đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không
đủ lành, không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất.
15


|
Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ
sở hạ tầng thiết yếu như: điện, đường, trường, trạm, nước sạch v.v... trình độ
dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
Huyện nghèo: Là địa phương nằm ở những khu vực khó khăn hiểm trở,
giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo.
Từ những quan niệm trên về đói nghèo, học viên cho rằng, đói nghèo là
hiện tượng xã hội và cũng là vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp. Nghèo là, khái
niệm nghèo đói có nội hàm rất rộng liên quan đến chất lượng đời sống con
người và sự phát triển của con người. Do vậy, quan niệm về đói nghèo đều
phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của người nghèo đó là: Có mức sống thấp hơn
mức sống trung bình của cộng đồng dân cư; Không được thụ hưởng những
nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người; Thiếu cơ hội lựa chọn và
tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Thực tế ở Việt Nam, qua nhiều thập niên, cách đo lường và đánh giá
nghèo chủ yếu thông qua thu nhập. Chuẩn nghèo được xác định dựa trên mức
chi tiêu đáp ứng những nhu cầu tối thiểu và được quy thành tiền. Nếu người
có thu nhập thấp dưới mức chuẩn nghèo thì được đánh giá thuộc diện hộ
nghèo. Đây chính là chuẩn nghèo đơn chiều do Chính phủ quy định. Tuy

nhiên, chuẩn nghèo hiện nay của Việt Nam được đánh giá là thấp so với thế
giới. Trên thực tế, nhiều hộ dân thoát nghèo nhưng mức thu nhập vẫn nằm cận
chuẩn nghèo, do đó số lượng hộ cận nghèo vẫn rất lớn, tỷ lệ tái nghèo còn cao,
hàng năm cứ 3 hộ thoát nghèo thì lại có 1 hộ trong số đó tái nghèo.
Kinh nghiệm, cho thấy sử dụng tiêu chí thu nhập để đo lường nghèo đói
là không đầy đủ. Về bản chất, đói nghèo đồng nghĩa với việc bị khước từ các
quyền cơ bản của con người, bị đẩy sang lề xã hội chứ không chỉ là thu nhập
thấp. Có nhiều nhu cầu tối thiểu không thể đáp ứng bằng tiền. Nhiều trường
hợp không nghèo về thu nhập nhưng lại khó tiếp cận được các dịch vụ cơ bản

16


|
về y tế, giáo dục, thông tin. Mặc dù một số hộ không có tên trong danh sách
hộ nghèo nhưng lại thiếu thốn các dịch vụ y tế, nước sạch, ở vùng sâu vùng
xa học sinh phải học trong những căn nhà lá đơn sơ, bốn bề gió lùa… Do đó,
nếu chỉ dùng thước đo duy nhất dựa trên thu nhập hay chi tiêu sẽ dẫn đến tình
trạng bỏ sót đối tượng nghèo, dẫn đến sự thiếu công bằng, hiệu quả và bền
vững trong thực thi các chính sách giảm nghèo. Vì trong cùng một thời điểm,
người nghèo có thể phải đối mặt với nhiều bất lợi khác nhau, có thể là những
khó khăn trong khám chữa bệnh, học hành, nhà ở, đất đai, nước sạch hoặc
điện thắp sáng. Sử dụng một tiêu chí thu nhập (hay chi tiêu) không đủ để nắm
bắt được tình trạng nghèo thực tế của người dân. Đánh giá nghèo cần được
tiếp cận rộng hơn từ chiều cạnh phát triển toàn diện con người. Sau 30 năm
đổi mới, phát triển và hội nhập, Việt Nam đã chuyển từ một quốc gia thu nhập
thấp sang nhóm nước có thu nhập trung bình nên cách tiếp cận đánh giá
nghèo đơn chiều theo thu nhập đã bộc lộ những hạn chế. Đã đến lúc xem xét,
đánh giá nghèo từ góc độ đa chiều từ góc độ nghèo vật chất, nghèo về con
người và nghèo về xã hội.

Từ những quan niệm trên có thể hiểu khái niệm nghèo đa chiều: Có
thể là một chỉ số không liên quan đến mức thu nhập mà bao gồm các khía
cạnh khác liên quan đến sự thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản (Oxfam và
ActionAid, 2010: 11). Chỉ số nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty
Index) của quốc tế, với ba chiều cạnh chính là: y-tế, giáo dục và điều kiện
sống, hiện là một thước đo quan trọng nhằm bổ sung cho phương pháp đo
lường nghèo truyền thống dựa trên thu nhập. Cụ thể: là sự thiếu hụt hoặc
không được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người. Nghèo đa chiều là
tình trạng con người không được đáp ứng ở mức tối thiểu các nhu cầu cơ bản
trong cuộc sống.
Khái niệm nghèo đa chiều được đề cập ở Việt Nam từ năm 2013. Đo
lường nghèo đa chiều cần được áp dụng để dựng nên một bức tranh đầy đủ và
17


|
toàn diện hơn về thực trạng nghèo ở nước ta. Hiện nay, Bộ LĐ-TB&XH đang
đề xuất xây dựng bộ tiêu chí nghèo đa chiều, đồng thời rà soát cơ chế, chính
sách nhằm thực hiện giảm nghèo theo hướng đa chiều ở Việt Nam.
1.1.2.

Tiêu chí phân loại nghèo:

* Phương pháp xác định chuẩn đói, nghèo:
Phương pháp tiếp cận xác định chuẩn nghèo đói: Có 3 căn cứ quan trọng
để xác định chuẩn nghèo đói:
Căn cứ vào nhu cầu tối thiểu, nhu cầu này được lượng hoá bằng mức chi
tiêu về lương thực, thực phẩm thiết yếu để duy trì cuộc sống với nhiệt lượng
tiêu dùng là 2.100 - 2.300 kcal/ngày/người.
Căn cứ vào mức thu nhập bình quân đầu người/tháng trong đó đặc biệt

quan tâm đến mức thu nhập bình quân đầu người/tháng của nhóm có thu
nhập thấp nhất.
Căn cứ vào nguồn lực thực tế của quốc gia, của từng địa phương đã
được cụ thể hoá bằng mục tiêu trong chương trình quốc gia xóa đói giảm
nghèo và chương trình của từng địa phương để thực hiện công tác xóa đói
giảm nghèo.
Khi bàn về nghèo và giảm nghèo, không thể không đề cập đến “chuẩn
nghèo” - ranh giới để phân biệt người nghèo với bộ phận dân cư còn lại.
Chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến động theo không gian và thời
gian. Theo Ngân hàng thế giới (WB), vào thời điểm những năm 80 của thế kỷ
XX, tiêu chí xem xét một người bị coi là nghèo đói cho các nhóm nước:
Đối với nước chậm phát triển có thu nhập dưới 0,5 USD/ ngày.
Đối với nước đang phát triển là 1 USD/ ngày.
Các nước thuộc Châu Mỹ la tinh và Caribe là 2USD/ ngày
Các nước Đông Âu là 4 USD/ngày; các nước công nghiệp phát triển là
14,4 USD/ ngày. Tuy vậy, các quốc gia đều tự đưa ra chuẩn riêng của mình,
thông thường nó thấp hơn thang nghèo đói mà WB đưa ra.
18


|
Ví dụ: năm 2000, Trung Quốc đưa ra chuẩn nghèo là 5190 nhân dân tệ
/người/năm, tương đương 1,3USD/ngày/người. Năm 2010 tiêu chí xác định
chuẩn nghèo là 7800 tệ /người/năm, tương đương 2USD/ngày/người. Năm
2015 tiêu chí đó là 13.600 tệ/người/năm, khoảng 3,5USD/ngày/người.
* Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo của Việt Nam (Chương trình
xóa đói giảm nghèo quốc gia).
Để đánh giá một cách chính xác kết quả hoạt động giảm nghèo của cả
nước cũng như trên địa bàn mỗi tỉnh, thành phố, cần dựa vào chuẩn nghèo (ở
từng thời điểm, với từng địa phương cụ thể) do Nhà nước quy định.

- Về tiêu chí hộ nghèo, trước hết ở phạm vi cả nước, ngày 30 tháng 01
năm 2011 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định số
09/2011/QĐ-TTg Về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo mới áp
dụng cho giai đoạn 2011 - 2015. Theo đó, hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức
thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng (từ 4,8 triệu đồng/người/năm)
trở xuống. Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6 triệu đồng/người/năm) trở xuống. Hộ cận nghèo ở
nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401 nghìn đồng đến 520.000
đồng/người/tháng. Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân
từ 501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng. Mức chuẩn nghèo quy định
nêu trên là căn cứ để thực hiện các chính sách an sinh xã hội và chính sách
kinh tế, xã hội khác.
Theo tiêu chuẩn xác định thoát nghèo (ra khỏi diện nghèo) tính từ
01/01/2011, ở nông thôn là trên 400.000 đồng/người/tháng; thành thị là trên
500.000 đồng/người tháng. Vì vậy, người dân thoát nghèo cũng không quá
khó khăn trong điều kiện CNH,HĐH, xây dựng phát triển nền kinh tế thị
trường, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, Việt Nam đang đặt ra chuẩn nghèo thấp, phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội, đời sống của người dân Việt Nam. Chủ trương chung
19


|
của Đảng và Nhà nước ta là tùy theo điều kiện kinh tế-xã hội, Việt Nam sẽ
từng bước nâng tiêu chí chuẩn nghèo cao hơn, bám sát với chuẩn nghèo trên
thế giới, có như vậy chúng ta mới giảm được khoảng cách giữa chỉ tiêu giảm
nghèo với chất lượng giảm nghèo - giảm nghèo bền vững.
- Về tiêu chí xác định xã nghèo.
Năm 1998, ủy ban Dân tộc và Miền núi đã ban hành quy định xã đặc
biệt khó khăn (thuộc chương trình 135) là xã có đủ 5 tiêu chí sau:

Các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới cách thành phố, thị xã, khu
công nghiệp, trung tâm thương mại, quốc lộ, tỉnh lộ trên 10 Km.
Không có đường ôtô vào xã; các công trình điện, thủy lợi, nước sạch,
trường học, bệnh xá, các dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có.
Môi trường xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí quá thấp, tỷ lệ mù chữ
và thất học trên 50%, bệnh tật nhiều, hủ tục lạc hậu, không có thông tin.
Điều kiện sản xuất rất khó khăn, thiếu thốn; số hộ không có đất và thiếu
đất sản xuất trên 20%, số hộ có người làm thuê trên 20%.
Số hộ nghèo đói trên 30%. Đời sống còn nhiều khó khăn, còn tình trạng đói.
Năm 2002, Bộ LĐ-TB&XH có Quyết định số: 587/2002/QĐ-BLĐTBXH
quy định xã nghèo (ngoài chương trình 135) là xã có đủ 2 tiêu chí sau:
Có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên.
Chưa có đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu, cụ thể như sau:
Dưới 30% số hộ được sử dụng nước sạch; dưới 50% số hộ được sử
dụng điện sinh hoạt; chưa có đường ô tô tới trung tâm xã, ô tô không đi lại
được cả năm; số phòng học mới đáp ứng dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc
phòng tạm bằng tranh, tre, nứa, lá; chưa có trạm y tế hoặc có nhưng nhà tạm;
chưa có chợ hoặc chợ tạm thời.
* Các tiêu chí phân loại theo tiêu chuẩn tiếp cận phương pháp đa chiều:
Ngày 15 – 9 - 2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1614/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng thể “ Chuyển đổi phương pháp tiếp cận
đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 20


|
2020”. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội đã phối hợp với Tổng cục
Thống kê và các bộ, ngành liên quan tính toán các tiêu chí cụ thể như sau:
Các tiêu chí về thu nhập:
Chuẩn mức sống tối thiểu: 1.000.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông
thôn và 1.300.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.

Chuẩn nghèo chính sách: 700.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông
thôn và 900.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
Chuẩn mức sống trung bình: 1.500.000 đồng/người/tháng ở khu vực
nông thôn và 1.950.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị. [34, tr.2]
Tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản:
Tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và
vệ sinh, tiếp cận thông tin.
Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt: trình độ giáo dục của người lớn;
tình trạng đi học của trẻ em; tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; chất lượng
nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; nhà tiêu hợp
vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
- Mỗi chỉ số tương ứng với 10 điểm. Tổng số điểm thiếu hụt 10 chỉ số
là 100 điểm.
Ngưỡng thiếu hụt đa chiều đối với một hộ gia đình là 1/3 tổng số điểm
thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên (từ 30 điểm thiếu hụt trở
lên). [42, tr.216]
Các chuẩn tiếp cận đa chiều:
Hộ nghèo: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 700.000
đồng trở xuống ở khu vực nông thôn và từ 900.000 đồng trở xuống ở khu vực
thành thị hoặc có thu nhập bình quân đầu người/tháng cao hơn 700.000 đồng
nhưng thấp hơn 1.000.000 đồng ở khu vực nông thôn; cao hơn 900.000 đồng
nhưng thấp hơn 1.300.000 đồng ở khu vực thành thị và thiếu hụt từ 30/100
điểm thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
21


|
Hộ cận nghèo: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng cao hơn
700.000 đồng nhưng thấp hơn 1.000.000 đồng ở khu vực nông thôn; cao hơn
900.000 đồng nhưng thấp hơn 1.300.000 đồng ở khu vực thành thị và thiếu

hụt dưới 30/100 điểm thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Hộ chưa tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản: là hộ có thu nhập
bình quân đầu người/tháng cao hơn 1.000.000 đồng ở khu vực nông thôn,
1.300.000 đồng ở khu vực thành thị và thiếu hụt từ 30/100 điểm thiếu hụt tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Hộ có mức sống dưới trung bình: là hộ có thu nhập bình quân đầu
người/tháng dưới 1.500.000 đồng và cao hơn 1.000.000 đồng ở khu vực nông
thôn; dưới 1.950.000 đồng và cao hơn 1.300.000 đồng ở khu vực thành thị.
[42, tr.217]
Nhìn chung đến nay, chưa có một quan niệm chuẩn mực về nghèo được
chấp nhận chung có thể áp dụng trên toàn thế giới. Tuy nhiên, có một sự đồng
thuận về quan niệm nghèo, đó là nghèo là một hiện tượng biểu hiện đa chiều.
Ngân hàng thế giới (2012) cho rằng nghèo là sự thiếu thốn không thể chấp
nhận được trong đời sống. Những sự thiếu thốn này là những thiếu hụt mang
tính thiết yếu và có tương quan đến nhau, bao gồm thiếu ăn hoặc đói; thiếu
thu nhập, học hành, chăm sóc sức khỏe, điều kiện vệ sinh; không có cơ hội
tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị... Ở Việt Nam, nghèo đa
chiều được xây dựng theo hướng kết hợp chuẩn nghèo về thu nhập và mức độ
thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nhà ở, nước
sạch và vệ sinh, nhu cầu thông tin được áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020
theo quy định của Thủ tướng Chính phủ (2015)
1.1.3. Khái niệm giảm nghèo, giảm nghèo bền vững và phương thức,

công cụ giảm nghèo bền vững
* Giảm nghèo theo nghĩa chung nhất là giảm thiểu số người nghèo, hộ
nghèo, xã nghèo, huyện nghèo của quốc gia trong một thời gian nhất định
22


|

(thường là 1 năm hoặc 5 năm); là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao
mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm
và số lượng người nghèo giảm. Nói một cách cụ thể hơn, giảm nghèo là quá
trình chuyển bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn. Ở khía cạnh
khác, giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình
trạng có nhiều, có thêm, có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời
sống mọi mặt của mỗi người.
Dưới góc độ kinh tế chính trị học, giảm nghèo là những hoạt động
mang tính chủ quan của con người nhằm duy trì, phát triển sản xuất, tạo thêm
nhiều của cải vật chất, tăng thu nhập và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của mọi tầng lớp dân cư; đảm bảo cho người dân, từng đơn vị, địa phương
thuộc diện nghèo, có mức sống trên chuẩn nghèo do từng quốc gia quy định.
Mục đích xét đến cùng của giảm nghèo là hướng vào việc tạo đủ việc
làm, tăng thêm thu nhập cho người lao động, giúp họ vượt ra khỏi diện nghèo
khó; để cho người nghèo có được cơ hội và điều kiện tiếp cận các hoạt động
phát triển sản xuất, tự vươn lên, tự ổn định, cải thiện cuộc sống gia đình và có
đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, của đất nước.
Hiện tại, do nhiều yếu tố cả khách quan và chủ quan tác động nên tình
trạng tái nghèo là khá phổ biến hoặc hoạt động giảm nghèo thường kém hiệu
quả. Vì vậy, giảm nghèo bền vững đang được các cấp, các ngành, các địa
phương trong cả nước quan tâm nghiên cứu và tổ chức thực hiện.
* Giảm nghèo bền vững là tỷ lệ người nghèo, hộ nghèo giảm dần, đều

đặn hàng năm. Không có tình trạng tái nghèo. Các hộ đã thoát nghèo có việc
làm ổn định và có mức thu nhập trên chuẩn nghèo, có tích luỹ và có mức
sống bằng hoặc tương đương mức trung bình hàng năm của xã hội trên mọi
phương diện. Đồng thời, một bộ phận các hộ này có thể vươn lên khá giả,
thậm chí trở nên giàu có.

23



|
Giảm nghèo và giảm nghèo bền vững, xét về ngữ nghĩa là những khái
niệm không đồng nhất về nội hàm nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Giảm nghèo thuần tuý chỉ là sự giảm thiểu số lượng (hoặc tỷ lệ %) các đối
tượng nghèo theo chuẩn cố định trên một địa bàn và trong một thời gian nhất
định. Giảm nghèo bền vững, trước hết cũng là giảm thiểu các đối tượng nghèo
nhưng phương thức thực hiện có tính đồng bộ, cơ bản, thiết thực, ổn định và
hiệu quả hơn.
Giảm nghèo nhanh, bền vững là tiêu chí cơ bản cho sự tăng trưởng kinh
tế và tiến bộ xã hội ở nước ta hiện nay. Kinh phí, lực lượng, phương thức tiến
hành hoạt động giảm nghèo có thể còn hạn chế để có thể đồng thời giải quyết
một lúc tất cả những vấn đề đặt ra nhưng chính sách, mục tiêu, chương trình
giảm nghèo bền vững những năm qua của Nhà nước và từng địa phương đã
đem lại nhiều kết quả tích cực.
Tuy vậy, trên thực tế có địa phương vì muốn giảm nghèo nhanh nên sử
dụng giải pháp mang tính tình thế như dùng ngân sách hoặc vận động các tổ
chức, cá nhân trợ cấp tiền, lương thực, thực phẩm, xây dựng sửa chữa nhà cửa
cho các đối tượng nghèo để thoát nghèo. Phương thức giảm nghèo này chỉ
thực sự hợp lý đối với những người nghèo vì bệnh tật, hoặc gặp rủi ro vì thiên
tai và không có khả năng lao động... Còn các đối tượng nghèo do không có
vốn, không có kinh nghiệm sản xuất thì phương thức giảm nghèo phải giúp họ
biết lao động sản xuất, làm kinh tế, tự vươn lên để thoát nghèo.
Giảm nghèo bền vững ở tầm quốc gia cũng như trong phạm vi một địa
phương là không hề đơn giản. Bời vì những người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo
thường là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất khi có những biến động về
kinh tế, xã hội; những diễn biến bất thường thời tiết, khí hậu...Đối tượng
nghèo thì thường không có ý chí, thiếu lòng tự tin, ít khả năng về vật chất …
Vì vậy, giảm nghèo bền vững là nhiệm vụ không hề đơn giản và cần có thời

gian, phương thức linh hoạt với sự tham gia của nhiều lực lượng xã hội, trong
24


|
đó có vai trò nỗ lực, tích cực của những người nghèo, hộ nghèo, địa phương
nghèo quyết tâm thoát nghèo. Do vậy, cần tạo sự tự tin cho những người ,
nghèo trong đời sống xã hội.
Giảm nghèo bền vững là hạn chế không để tái nghèo, là phải duy trì, tiếp
tục các nguồn đầu tư và các biện pháp chỉ đạo thực hiện triển khai liên tục có
hướng đích để không cho đói nghèo quay lại chính nơi cộng đồng xã hội đang
tích cực xóa đói, nơi đang thực hiện quyết tâm giảm nghèo. Chúng ta có thể
khẳng định giảm nghèo bền vững là một trong những mục tiêu của tăng trưởng
cả trên góc độ xã hội và kinh tế, đồng thời cũng là một điều kiện cho tăng
trưởng bền vững. Về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập
xã hội cho chương trình giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng kinh tế
có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện về dài hạn thì kết quả giảm
nghèo lại tạo điều kiện để cho tăng trưởng nhanh và bền vững.
Giảm nghèo bền vững là phải dựa trên cơ sở các nguồn lực đầu tư
được hỗ trợ, được tăng cường; tạo ra những cơ hội thuận lợi để người nghèo
và cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh
và hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng một cách nhanh nhất và ổn định
một cách lâu dài. Tăng trưởng mức độ cao là để giảm nhanh mức nghèo đói.
Thực tiễn những năm qua đã chứng minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao
Nhà nước có sức mạnh vật chất để hình thành và phát triển hỗ trợ vật chất, tài
chính và cho các địa phương khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội
cơ bản. Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ đó có cơ hội vươn lên thoát
khỏi đói nghèo. Điều kiện quan trọng để giảm nghèo bền vững trên quy mô
rộng là phải đảm bảo một nguồn lực đủ mạnh để thực hiện chương trình, nếu
chỉ thực hiện các chương trình tái phân phối hoặc các biện pháp giảm nghèo

truyền thống thì tác động không lớn.[22, tr.13].
Tốc độ giảm nghèo nhanh được thể hiện nhờ vào việc tập trung chuyển
dịch cơ cấu và đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành nghề, tăng
25


|
thu nhập cho người nghèo, tạo cơ hội nhiều hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa phát triển, nhằm tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp, tạo cho tăng
trưởng trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững. Giảm nghèo bền vững
không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo
ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động vươn lên thoát nghèo. Giảm nghèo
không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các
đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt
bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi
dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn sau tăng trưởng nhanh hơn.
* Về phương thức giảm nghèo bền vững: Có nhiều phương thức hỗ
trợ người nghèo trong giảm nghèo bền vững như hỗ trợ sản xuất kinh doanh;
hỗ trợ cải thiện điều kiện sống, hỗ trợ nâng cao năng lực thoát nghèo; hỗ trợ
khi gặp khó khăn do thiên tai. Thực tế trong phương thức hỗ trợ sản xuất,
kinh doanh, tạo điều kiện để người nghèo có thể tiếp cận và sử dụng nguồn
nhân lực chung và riêng bình đẳng với các thành viên khác trong xã hội có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu. Đồng thời, một phương thức hỗ trợ hữu hiệu sản
xuất kinh doanh là tư vấn cho người nghèo cách thức quản lý, làm ăn. Bên
cạnh đó thì phương thức hỗ trợ thu nhập, hỗ trợ điều kiện sống, hỗ trợ nâng
cao năng lực người nghèo vừa có tính cấp thiết, vừa có tác động tích cực
nhiều mặt đến tình hình giảm nghèo bền vững.
Để thực hiện các phương thức hỗ trợ người nghèo thoát nghèo bền
vững, cần được thực hiện thông qua các công cụ trong thực thi hoạt động này.
* Các công cụ giảm nghèo bền vững:

Chính sách giảm nghèo bền vững được thực hiện gắn với một hệ thống
các công cụ: Tài chính, dịch vụ, tuyên truyền giáo dục, tổ chức hoạt động thúc
đẩy… trong đó, công cụ tài chính, tuyên truyền và cung cấp dịch vụ có vai trò
quan trọng hơn cả.

26


×