Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý PHÁT TRIỂN đội NGŨ GIÁO VIÊN ở các TRƯỜNG mầm NON, QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ hà nội, đáp ỨNG yêu cầu đổi mới GIÁO dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.58 KB, 109 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN ĐỘI
NGŨ GIÁO VIÊN MẦM NON
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2. Nội dung quản lý phát triển đội ngũ giáo viên ở các
trường mầm non
1.3. Những yếu tố tác động đến quản lý phát triển đội ngũ
giáo viên mầm non, quận ba Đình, thành phố Hà Nội
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG MẦM
NON, QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát về quận Ba Đình và giáo dục mầm non quận
Ba Đình, thành phố Hà Nội
2.2. Thực trạng phát triển đội ngũ giáo viên mầm non quận
Ba Đình
2.3. Thực trạng quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm
non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
Chương 3. YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ PHÁT
TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG
MẦM NON, QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
3.1. Yêu cầu quản lý phát triển đội ngũ giáo viên ở các
trường mầm non đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
3.2. Biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên ở các
trường mầm non, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

3
12
12
24

28
36
36
38
49

64
64

66
86
92
94
98


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế

quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là
khâu then chốt. Cụ thể hóa quan điểm trên, tại Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp
hành Trung ương (khóa XI), Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TƯ,
trong đó, đã xác định nhiệm vụ và giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo
như sau: “Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội
ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo” [13, tr.137].
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, GDMN được coi là nền tảng, là nền
móng của ngôi nhà giáo dục, nhằm hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên của
con người mới trong xã hội mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nền móng không
vững chắc thì ngôi nhà khó có thể xây dựng lên cao được. Điều 22 Luật Giáo
dục 2005 của nước ta đã ghi rõ: “Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát
triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên
của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một” [43, tr.29]. GVMN khác
với giáo viên các cấp học khác là phải tổ chức cho trẻ làm quen đủ các môn
học thông qua việc tổ chức các hoạt động CSGD trẻ ở trường mầm non.
Trong trường mầm non, giáo viên vừa dạy, vừa dỗ học sinh cho nên mỗi giáo
viên không chỉ đóng vai cô giáo mà còn ẩn chứa trong mình vai trò là người
mẹ thứ hai của trẻ. Vì vậy đòi hỏi người GVMN phải am hiểu sâu, rộng về
các lĩnh vực tự nhiên, xã hội cũng như tâm lý giáo dục.
Quận Ba Đình được Chính phủ xác định là Trung tâm hành chính chính trị quốc gia, nơi tập trung các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà
3


nước, Quốc hội, Chính phủ. Đây còn là trung tâm ngoại giao, đối ngoại. Ba
Đình có trụ sở nhiều tổ chức quốc tế, sứ quán các nước, nơi thường xuyên
diễn ra các hội quan trọng của Nhà nước, quốc tế và khu vực. Nhắc đến Ba
Đình lịch sử là nghĩ ngay đến một vùng đất địa linh nhân kiệt với nhiều làng
nghề cổ truyền đậm dấu ấn lịch sử, có gần một nghìn năm gắn bó với sự phát

triển thăng trầm của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, có truyền thống hiếu
học, có nhiều học sinh giỏi đạt giải Quốc gia và Quốc tế.
Song thực tế đội ngũ giáo viên của Quận vẫn còn nhiều bất cập, nhất là
đội ngũ giáo viên các trường MN. Hiện nay, vẫn còn nhiều giáo viên có năng
lực, nghiệp vụ kỹ năng sư phạm hạn chế, khả năng tiếp cận với đổi mới còn
chậm, một số giáo viên có tuổi đời cao, một số giáo viên khó thay đổi trong
nếp nghĩ, cách làm nên hiệu quả công việc chưa cao. Công tác quản lý và xây
dựng đội ngũ GVMN theo chuẩn nghề nghiệp còn mang tính hình thức, chưa
có chiến lược cụ thể và chưa xác định đầy đủ nội dung của công việc này...
Các biện pháp xây dựng đội ngũ GVMN theo chuẩn nghề nghiệp thiếu tính hệ
thống, đồng bộ... Vì vậy, biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên trong
các nhà trường đóng vai trò rất quan trọng, là nhân tố quyết định cho sự phát
triển của mỗi nhà trường.
Với mong muốn nghiên cứu để chỉ ra các biện pháp thích hợp cho việc
quản lý phát triển đội ngũ giáo viên, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao mà
xã hội đặt ra, cũng như được góp phần xây dựng ngành Giáo dục và Đào tạo
trong quận Ba Đình, thành phố Hà Nội ngày càng phát triển vững mạnh,
chúng tôi đã chọn nghiên cứu vấn đề: “Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên ở
các trường mầm non, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục”.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đã
được nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong nước với nhiều công trình
4


nghiên cứu ở các góc độ tiếp cận khác nhau. Trong phạm vi đề tài này có thể
tổng quan các công trình đề tài nghiên cứu trên các hướng như sau:
* Những công trình, đề tài nghiên cứu cơ bản về giáo viên và quản lý
phát triển đội ngũ giáo viên.

Trong thư gửi các cán bộ, các thầy giáo, cô giáo, công nhân viên, học
sinh, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới ngày 16 tháng 10 năm 1968,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Giáo dục nhằm đào tạo những người
kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân, do đó các ngành
các cấp Đảng, chính quyền địa phương phải thực sự quan tâm đến sự
nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục
của ta những bước phát triển mới” [35], “Cán bộ và giáo viên cũng phải
tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiệm vụ, chớ tự túc tự mãn cho
là giỏi rồi thì dừng lại” [36].
Vấn đề nghiên cứu xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên đến nay đã
được một số nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong nước quan tâm. Nhiều
tác giả đã tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng, qui hoạch, phát triển đội ngũ
giáo viên nhằm tìm ra những giải pháp, biện pháp thiết thực để làm tốt công
tác phát triển đội ngũ giáo viên. Đã có một số công trình khoa học mang tính
đề tài cấp nhà nước hoặc dưới các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí giáo
dục và một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề này như:
Nguyễn Thị Phương Hoa (2010), Con đường nâng cao chất lượng cải
cách các cơ sở đào tạo giáo viên;
Đinh Quang Báo (2005), Giải pháp đổi mới phương thức đào tạo nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên;
Đặng Quốc Bảo, Đỗ Quốc Anh, Đinh Thị Kim Thoa (2007), Cẩm nang
nâng cao năng lực và phẩm chất đội ngũ giáo viên;
Trần Đình Tuấn (2006), Chất lượng đội ngũ nhà giáo – nhân tố quyết định
chất lượng giáo dục đại học;
5


Trần Đình Tuấn (2005), Chuẩn hóa quy trình đào tạo nhà giáo quân đội;
Trần Đình Tuấn (2005), Chuẩn hóa chất lượng đội ngũ nhà giáo quân đội;
Trần Đình Tuấn (2012), Tư tưởng Hồ Chí Minh về người giáo viên;

Phạm Trịnh (2009), Biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên các
trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Đắc Lắc;
Hà Thị Quyến (2010), Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn
của hiệu trưởng các trường mầm non quận cầu Giấy - Hà Nội;
Doãn Thanh Phương (2006), Hoàn thiện biện pháp quản lý chuyên
môn của hiệu trưởng các trường mầm non quận cầu Giấy - Hà Nội;
Nguyễn Thị Thuỷ (2007), Biện pháp quản lý việc sử dụng phương tiện
dạy học của hiệu trưởng các trường mẫu giáo quận Hai Bà Trưng - Hà Nội;
Nguyễn Thị Thanh Thuý (2007), Các biện pháp đổi mới quản lý hoạt
động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên của hiệu trưởng trường mầm non
quận cầu Giấy, Hà Nội;
Đào Ngọc Oanh (2007), Biện pháp quản lý công tác chăm sóc nuôi
dưỡng của hiệu trưởng các trường mầm non quận Hai Bà Trưng - Hà Nội,
Triệu Thị Bích Liên (2007).
Ngoài ra còn có một số công trình được đăng tải dưới các bài báo khoa
học trên các tạp chí giáo dục, các trang Web ...
Bên cạnh những công trình nghiên cứu trên, hiện nay, ở nước ta còn có rất
nhiều các công trình nghiên cứu khác đề cập xung quanh đến vấn đề quản lý phát
triển ĐNGV. Những công trình này là những cuốn sách, các đề tài nghiên cứu khoa học
các cấp, các luận án tiến sĩ, các bài báo khoa học được đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành,
các bài hội thảo khoa học… Tiêu biểu như:

Cuốn sách “Vấn đề giáo viên - Những nghiên cứu lý luận và thực tiễn” của
tác giả Trần Bá Hoành;
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng đội ngũ giảng viên
đại học hiện nay” của tác giả Ngô Văn Hà;
6


Luận án tiến sĩ “Xây dựng đội ngũ giảng viên các trường đại học thuộc

ngành giao thông vận tải đáp ứng yêu cầu của thời kì mới” của tác giả Phạm
Văn Toàn;
Luận án tiến sĩ “Nghiên cứu mô hình quản lý đội ngũ giảng viên các
trường đại học, cao đẳng ngoài công lập”của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào;
Bài hội thảo “Một số vấn đề phát triển đội ngũ giảng viên trong các
trường/khoa sư phạm kỹ thuật”của tác giả Trần Khánh Đức;
“Biện pháp bồi dưỡng giảng viên trẻ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
giai đoạn 2010-2015” của tác giả Cao Tuấn Anh;
“Đổi mới rèn luyện nghiệp vụ sư phạm- giải pháp nâng cao chất lượng
đào tạo giáo viên” của tác giả Phạm Thị Kim Anh;
“Phát triển chương trình đào tạo, bồi dưỡng giảng viên đại học tiếp
cận khung năng lực” của tác giả Phạm Xuân Hùng...
Các tác giả đã đưa ra các giải pháp thiết thực nhằm thực hiện tốt hơn
công tác phát triển đội ngũ giáo viên ở địa phương mình, đơn vị mình. Tuy
nhiên, các vấn đề đề cập đến ở nhiều góc độ khác nhau, các bậc học khác
nhau, điều kiện kinh tế chính trị khác nhau. Trong thực tiễn, mỗi bậc học khác
nhau, ở mỗi địa phương, mỗi đơn vị có những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội khác nhau nên công tác quản lý xây dựng phát triển đội ngũ trong giáo
dục cũng khác nhau.
* Các công trình nghiên cứu về phát triển và quản lý phát triển đội ngũ
giáo viên mầm non.
Sau nhiều năm đổi mới, nhiều giải pháp nhằm xây dựng và phát triển
đội ngũ giáo viên ở các cấp học, bậc học đã được nghiên cứu và áp dụng rộng
rãi. Đặc biệt từ khi có chủ trương của Đảng và Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng và Nghị quyết số 29/NQTW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo thì một số dự án, công trình nghiên cứu khoa học lớn liên quan đến
đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học đã và đang được thực hiện.
7



Trong đó nhiều tác giả đã quan tâm nghiên cứu về đội ngũ giáo viên mầm
non. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu sau đây:
Luận văn của tác giả Vũ Thị Minh Hà với đề tài "Biện pháp quản lý
công tác bồi dưỡng giáo viên mầm non Hà Nội" (2004);
- Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Lý với đề tài “Một số giải pháp
phát triển đội ngũ giáo viên mầm non tỉnh Bắc Giang đến 2010” (2006);
- Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Lê Hữu Huyên với đề tài “Thực
trạng công tác quản lý việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên ở một số
trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh” (2011).
- Luận văn Thạc sĩ của tác giả Lê Thị Diệu Thủy với đề tài “Biện pháp
quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên các trường mầm non thành phố Đà
Nẵng đáp ứng chuẩn nghề nghiệp” (2012).
Các đề tài này chủ yếu tập trung nghiên cứu về phát triển đội ngũ
GVMN dưới góc độ phát triển nguồn nhân lực; trên cơ sở phân tích thực trạng
với những thế mạnh của từng địa phương, mỗi tác giả đề xuất những giải
pháp tích cực khác nhau đảm bảo tính phù hợp và khả thi. Nhưng các tác giả
đều có chung mục đích là muốn quản lý quá trình phát triển đội ngũ GVMN
để nâng cao chất lượng đội ngũ nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển đội ngũ
giáo viên mầm non, đề xuất những biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo
viên ở các trường mầm non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận quản lý phát triển đội ngũ giáo viên cấp học
mầm non.

8



- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ giáo viên và thực trạng
quản lý phát triển đội ngũ giáo viên ở các trường mầm non, quận Ba Đình,
thành phố Hà Nội.
- Đề xuất các biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên ở các
trường mầm non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu: Quản lý đội ngũ giáo viên ở trường mầm
non, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu: Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên các
trường mầm non, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
* Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu quản lý phát triển đội ngũ
giáo viên ở các trường mầm non dưới góc độ của khoa học quản lý giáo dục.
- Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề quản
lý phát triển đội ngũ giáo viên của các trường mầm non (22 trường) trên địa
bàn quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
- Giới hạn về khách thể khảo sát, thời gian khảo sát và số liệu thu thập:
Khảo sát 10 cán bộ quản lý (05 hiệu trưởng, 05 phó hiệu trưởng), 90 giáo viên
trong 22 trường mầm non trên địa bàn quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Số liệu được thu thập trong các năm học 2013 - 2014, năm học 2014 2015 và năm học 2015 - 2016.
5. Giả thuyết khoa học
Đội ngũ giáo viên ở các trường mầm non trên địa bàn quận Ba Đình,
thành phố Hà Nội đã có nhiều phát triển mới cả về số lượng, chất lượng, cơ
cấu, tuy nhiên trong quá trình phát triển đó đang bộc lộ những mâu thuẫn mới
còn hạn chế, bất cập so với yêu cầu đổi mới hiện nay. Nếu xây dựng được hệ
thống biện pháp quản lý phát triển đội ngũ GVMN như: Tổ chức giáo dục
9



chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của người giáo
viên mầm non trong tình hình mới; Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển
đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay; Phân công, sử
dụng giáo viên mầm non phù hợp với năng lực, sở trường riêng, tạo điều kiện
phát triển năng lực cá nhân giáo viên; Đào tạo và bồi dưỡng, khuyến khích tự
đào tạo và bồi dưỡng nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên mầm non
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; Đổi mới đánh giá chất lượng và kết quả
hoạt động chuyên môn của giáo viên mầm non theo tiếp cận phát triển; Xây
dựng môi trường sư phạm thuận lợi, tạo động lực cho sự phát triển của cá
nhân và tập thể thì đội ngũ giáo viên của các trường mầm non quận Ba Đình,
thành phố Hà Nội sẽ được phát triển hoàn thiện cả về số lượng, chất lượng, cơ
cấu đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Để hoàn thành công trình nghiên cứu, tác giả đã dựa trên nền tảng các
quan điểm, tư tưởng về phát triển đội ngũ giáo viên và quản lý phát triển đội
ngũ giáo viên của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đồng thời quán triệt và vận dụng sâu sắc quan điểm hệ thống, cấu
trúc, lôgíc, lịch sử và quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học giáo dục.
* Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập, phân tích, tổng hợp các tài liệu lý luận về quản lý phát triển
đội ngũ giáo viên; các văn kiện Đại hội Đảng các cấp; các văn bản pháp quy
về giáo dục và các tài liệu khác có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Từ đó rút
ra cơ sở lý luận để đề xuất các giải pháp quản lý
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra xã hội học: Điều tra về thực trạng đội ngũ giáo
viên và biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên ở các trường mầm non
10



trên địa bàn quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Khách thể điều tra gồm 100
người là Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng và giáo viên thuộc 03 trường: Mẫu
giáo Số 10, Mẫu giáo Chim Non và Mầm non Tuổi Thơ.
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn hiệu trưởng, phó hiệu trưởng,
giáo viên ở một số trường mầm non trên địa bàn quận Ba Đình, thành phố Hà
Nội, để làm rõ hơn thực trạng và lý giải nguyên nhân thực trạng.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm của các
cán bộ quản lý và bản thân về vấn đề quản lý phát triển đội ngũ giáo viên.
- Phương pháp khảo nghiệm: Tiến hành khảo nghiệm các biện pháp đã
đề xuất để khẳng định tính cần thiết và khả thi của các biện pháp đó.
Nhóm phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng các phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu
thu được.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài này đã xây dựng các khái niệm công cụ, xác định nội dung và
những nhân tố tác động đến quản lý phát triển đội ngũ giáo viên ở các trường
mầm non và làm sáng tỏ thực trạng vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở đó, đề xuất
những biện pháp mang tính khả thi cao nhằm áp dụng cho quản lý phát triển
đội ngũ giáo viên ở các trường mầm non trên địa bàn quận Ba Đình, thành
phố Hà Nội trong thời gian tới đạt kết quả và hiệu quả cao nhất. Kết quả
nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp quản lý giáo dục và
GVMN trong toàn thành phố .
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu; kết luận và kiến nghị; tài liệu tham khảo; phụ lục;
nội dung chính của luận văn được trình bày trong ba chương.

11



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN MẦM NON
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Giáo viên mầm non và đội ngũ giáo viên mầm non
* Giáo viên mầm non
Theo Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999, định
nghĩa: Giáo viên (danh từ) là người dạy học ở bậc học phổ thông hoặc tương
đương. Điều 70 Luật giáo dục năm 2005, qui định đối với nhà giáo: “Nhà
giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo
dục khác… Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ
thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên”[43].
Theo điều 34, Điều lệ Trường mầm non (Ban hành kèm theo Quyết
định số: 14/2008/QĐ-BGDĐT ngày 07/4 /2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo): Giáo viên mầm non là người làm nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục trẻ em trong nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc
lập. GVMN là những người được đào tạo qua nghiệp vụ sư phạm mầm non,
có bằng tốt nghiệp trung cấp sư phạm mầm non trở lên, có đủ các tiêu chuẩn
về đạo đức, nhân cách và năng lực chuyên môn để thực hiện mục tiêu giáo
dục mầm non.
* Đội ngũ giáo viên mầm non
Đội ngũ giáo viên là tập hợp những người làm nghề dạy học - giáo dục,
được tổ chức thành một lực lượng (có tổ chức) cùng chung một nhiệm vụ là
thực hiện các mục tiêu giáo dục đã đề ra cho tập thể đó, tổ chức đó. Họ làm
việc có kế hoạch và gắn bó với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần
trong khuôn khổ qui định của pháp luật, thể chế xã hội.
Từ những quan niệm chung về đội ngũ giáo viên, chúng ta có thể hiểu
đội ngũ giáo viên mầm non như sau:
12



Đội ngũ GVMN là tập hợp những người làm công tác chăm sóc, giáo
dục trẻ em tại các cơ sở giáo dục mầm non, được tổ chức thành một tập thể
sư phạm, đảm bảo về số lượng, chất lượng và cơ cấu đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ phát triển GDMN trong tình hình mới.
Đặc trưng nổi trội của đội ngũ GVMN là ở tính tổ chức của đội ngũ về
số lượng, chất lượng và cơ cấu. Đội ngũ GVMN mạnh hay yếu, một phần phụ
thuộc vào phẩm chất, năng lực cá nhân của mỗi giáo viên, phần quan trọng
hơn phụ thuộc vào tổ chức biên chế đội ngũ đó. Thực tiễn sư phạm cho thấy,
đôi khi một cơ sở giáo dục mầm non không thực hiện được các mục tiêu,
nhiệm vụ giáo dục đã đề ra, không phải vì thiếu các giáo viên có phẩm chất và
năng lực tốt mà do khâu tổ chức biên chế không hợp lý về số lượng và cơ cấu,
không khai thác, phối hợp được năng lực của các cá nhân trong đội ngũ.
Vì vậy, xây dựng, phát triển đội ngũ GVMN phải kết hợp thống nhất
biện chứng giữa hoạt động xây dựng phát triển phẩm chất, năng lực cá nhân
với hoạt động xây dựng, phát triển đội ngũ về tổ chức. Hai mặt hoạt động này
luôn tác động qua lại lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển. Trong đó, tổ
chức đội ngũ GVMN hợp lý về số lượng, chất lượng, cơ cấu là cở sở để xây
dựng, phát triển phẩm chất, năng lực của mỗi cá nhân GVMN. Ngược lại, bồi
dưỡng, phát triển phẩm chất, năng lực cá nhân của mỗi GVMN là điều kiện
để xây dựng, phát triển đội ngũ.
* Vai trò, nhiệm vụ của giáo viên mầm non
GVMN là nhà giáo đang tham gia các hoạt động giáo dục ở một bậc
học cụ thể trọng hệ thống giáo dục quốc dân. Trước hết, GVMN có vai trò,
nhiệm vụ và những yêu cầu chung của nhà giáo. Đảng ta chỉ rõ: “Nhà giáo
giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Nhà giáo
phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học. Nhà
nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách đảm bảo các điều
kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo dục thực hiện nhiệm vụ

13


của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn vinh
nghề dạy học”.
Mỗi bậc học khác nhau, có đặc điểm cụ thể không giống nhau, do đó
vai trò của nhà giáo trong các nhiệm vụ cụ thể cũng khác nhau. Người
GVMN là người thầy đầu tiên đặt nến móng cho việc đào tạo nhân cách con
người trong tương lai. Nhân cách của con người trong xã hội tương lai như
thế nào phụ thuộc rất nhiều vào nền móng ban đầu này. Trong trường mầm
non, giáo viên giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức các hoạt động chăm sóc,
giáo dục trẻ. Người giáo viên không chỉ là người thầy mà còn là người mẹ,
người bạn lớn tuổi đáng tin cậy và gần gũi với trẻ nhiều nhất. GVMN có các
nhiệm vụ cơ bản như sau:
1. Bảo vệ an toàn sức khoẻ, tính mạng của trẻ em trong thời gian trẻ em
ở nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập.
2. Thực hiện công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em theo
chương trình GDMN: lập kế hoạch chăm sóc, giáo dục; xây dựng môi trường
giáo dục, tổ chức các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em; đánh
giá và quản lý trẻ em; chịu trách nhiệm về chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ em; tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn, của nhà trường,
nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập.
3. Trau dồi đạo đức, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo;
gương mẫu, thương yêu trẻ em, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của
trẻ em; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em; đoàn kết, giúp đỡ
đồng nghiệp.
4. Tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ em cho cha
mẹ trẻ. Chủ động phối hợp với gia đình trẻ để thực hiện mục tiêu giáo dục
trẻ em.
5. Rèn luyện sức khỏe; học tập văn hoá; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp

vụ để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
14


6. Thực hiện các nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và của
ngành, các quy định của nhà trường, quyết định của Hiệu trưởng.
Quyền của GVMN được đảm bảo các điều kiện để thực hiện nhiệm vụ
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, được hưởng lương, phụ cấp và các chế độ
khác theo quy định của pháp luật khi được cử đi học để nâng cao trình độ,
chuyên môn, nghiệp vụ. Được hưởng mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần và
được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe theo chế độ, chính sách quy định đối với nhà
giáo. Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự. Được thực hiện các quyền khác theo
quy định của pháp luật.
* Đặc điểm lao động của giáo viên mầm non
GDMN là cấp học đầu tiên rất quan trọng trong hệ thống giáo dục
quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm
mỹ của trẻ em, có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của các cấp học sau. Trong
đó, yếu tố quan trọng quyết định chất lượng GDMN là đội ngũ GVMN vì họ
là người trực tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ, là người đặt nền móng cho sự phát
triển toàn diện của trẻ và là người mẹ thứ hai của trẻ. Lao động của GVMN
là lao động mang tính khoa học và nghệ thuật đòi hỏi công phu vì cô giáo là
tấm gương cho trẻ học và bắt chước. Chính vì vậy mà cô giáo mầm non phải
hội tụ đầy đủ những yêu cầu về phẩm chất và năng lực chuyên môn để thực
hiện mục tiêu chương trình GDMN mới nhằm phát triển nhân cách toàn diện
cho trẻ.
Lao động của GVMN là một loại hoạt động sư phạm đặc biệt. Trẻ em
vừa là đối tượng tác động, vừa là chủ thể của lao động sư phạm. Đây là yếu tố
quan trọng để biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Quá trình
lao động này sẽ mang lại hiệu quả cao khi cô giáo biết cách hướng dẫn trẻ

khám phá để trẻ hiểu biết nhưng phải phù hợp với tuổi của trẻ. Có thể nói lao
động của cô giáo mầm non là loại hình lao động vừa mang tính khoa học vừa
15


mang tính nghệ thuật cao. Cô giáo mầm non vừa là mẹ, vừa là bác sĩ và là
nghệ sĩ.
Đặc điểm trên đây đặt ra những yêu cầu riêng cho đội ngũ GVMN.
Ngoài các tiêu chí của các yêu cầu được quy định trong Chuẩn nghề nghiệp
GVMN, người GVMN cần phải có một số năng lực và phẩm chất sau:
Người GVMN phải có xu hướng nghề nghiệp sư phạm phát triển cao.
Xu hướng đó được thể hiện ở tình yêu thiết tha, hứng thú với nghề nghiệp,
phải yêu nghề và mến trẻ, tôn trọng trẻ, là tấm gương hằng ngày đối với
chúng. Người GVMN cần có ý chí cao, tính tình cởi mở, cứng rắn nhưng lại
kiên nhẫn và biết tự kiềm chế.
Người GVMN phải có năng lực sư phạm để thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ chăm sóc của GDMN. Người GVMN cần có năng lực tổ chức cuộc
sống và các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, sáng tạo và
phải có khả năng khéo léo trong xử lý sư phạm. Người GVMN phải có một số
năng lực sư phạm riêng biệt như múa, hát, đọc và kể diễn cảm, ứng dụng công
nghệ thông tin trong soạn bài và tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp với
khả năng của trẻ…
Người GVMN phải lấy đạo đức làm gốc cho mọi hoạt động chuyên
môn. Đạo đức là phẩm chất tối cần thiết của bất kỳ người lao động chân
chính nào trong công việc, nhưng riêng đối với những người làm công tác
giáo dục thì yếu tố đạo đức luôn là tiêu chí quan trọng hàng đầu trong việc
đánh giá năng lực toàn diện của một nhà giáo. Nhà giáo phải là người có đạo
đức tốt thì mới có đầy đủ vị thế truyền đạt những kiến thức, những kỹ năng,
những kinh nghiệm sống đến học sinh, giúp học sinh hình thành và phát
triển nhân cách.

Đặc trưng của giáo dục là nơi truyền đạt những tinh hoa của văn hóa
nhân loại, là “lò rèn đạo đức, nhân cách” cho thế hệ trẻ, do đó yếu tố đạo đức
phải là chuẩn đầu tiên của bất kỳ ai nếu muốn đứng trong hàng ngũ những
16


người làm công tác giáo dục, đồng thời phải luôn duy trì, phát huy, rèn luyện
phẩm chất tốt đẹp này để mãi là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
GDMN là một bậc học đòi hỏi khắc nghiệt phẩm chất đạo đức ở các
thầy, cô giáo. Khi chấp nhận vào ngành mầm non, các tố chất cần thiết nhất
cho người công tác ở bậc học này là lòng yêu nghề, yêu người, là sự kiên trì
nhẫn nại, giàu đức hy sinh, sẵn sàng bỏ thời gian, công sức, thậm chí cả tiền
bạc cho sự nghiệp giáo dục trẻ như lời Bác Hồ đã từng nói với lớp đào tạo cán
bộ mẫu giáo năm 1955: “…Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm
được thế thì trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ, chịu
khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây
non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu
thành người tốt… Điều trước tiên là dạy các cháu về đạo đức. Anh chị em
giáo viên và mẫu giáo cần luôn luôn gương mẫu về đạo đức để các cháu noi
theo” [36, tr.263].
Người GVMN phải tự học, tự rèn luyện thường xuyên. Hoạt động của
GVMN đòi hỏi phải có kiến thức văn hóa cơ bản và một hệ thống tri thức
khoa học nuôi dạy trẻ, phải nhiệt tình, chu đáo và dễ hòa nhập cùng với trẻ.
Những năng lực sư phạm này là kết quả của một quá trình học tập, rèn luyện
tại trường và tự học tập một cách nghiêm túc, thường xuyên.
1.1.2. Phát triển đội ngũ giáo viên mầm non
Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999, định nghĩa
“Phát triển (động từ) là biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp
đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp”[23]. Theo quan niệm này thì
tất cả các sự vật, hiện tượng, con người và xã hội tự thân biến đổi hoặc bên

ngoài làm cho biến đổi tăng lên cả về số lượng hoặc chất lượng thì đó chính là
sự phát triển.
Như vậy “phát triển” là một khái niệm rất rộng. Nói đến phát triển là
người ta nghĩ ngay đến sự đi lên của sự vật, hiện tượng, con người trong xã
17


hội. Sự đi lên đó thể hiện ở việc tăng lên về số lượng và chất lượng, thay đổi
về nội dung và hình thức.
Theo David C.Korten: khi xét ở khía cạnh xã hội “Phát triển là một tiến
trình qua đó các thành viên của xã hội tăng được những khả năng của cá nhân
và định chế của mình để huy động và quản lý các nguồn lực, tạo ra những
thành quả bền vững… nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống phù hợp với
nguyện vọng của họ”. Theo quan điểm này thì phát triển là sự tăng trưởng,
hoàn thiện khả năng, tạo ra sự phù hợp của bản thân bằng cách sử dụng mọi
nguồn lực có thể được. Tiến trình đó không phải của riêng ai mà của các
thành viên một tổ chức, một xã hội. Khái niệm này phù hợp với quan điểm
phát triển đội ngũ giáo viên, phát triển giáo dục.
Làm cho sự vật, hiện tượng biến đổi lại thuộc khái niệm “phát triển”.
Do vậy khái niệm “xây dựng, phát triển” tự bản thân nó đã bao hàm nhau,
không tách rời nhau, có mối quan hệ biện chứng với nhau. Thực tiễn chứng
minh rằng, trong xây dựng có phát triển, trong phát triển có xây dựng.
Như vậy, mọi sự vật, hiện tượng, con người, xã hội hoặc là biến đổi để
tăng tiến số lượng, thay đổi chất lượng hoặc dưới tác động của bên ngoài làm
cho biến đổi tăng lên đều được coi là phát triển.
Phát triển đội ngũ giáo viên mầm non trong giáo dục là quá trình tổ
chức, điều khiển, tác động của nhà quản lý vào đội ngũ giáo viên, làm cho
đội ngũ giáo viên tăng trưởng về số lượng, chất lượng và cơ cấu phù hợp với
yêu cầu nhiệm vụ giáo dục của nhà trường mầm non, phát huy được thế mạnh
của cá nhân và tập thể giáo viên.

Phát triển đội ngũ giáo viên mầm non thực chất là thực hiện các chức
năng quản lý như lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra nhằm xây dựng
đội ngũ giáo viên ổn định có đủ về số lượng; mạnh về chất lượng và đồng bộ
về cơ cấu, có tính kế thừa góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục
trong nhà trường mầm non.
18


Phát triển về số lượng đội ngũ giáo viên mầm non
Số lượng đội ngũ giáo viên trường mầm non được xác định bởi số lớp
học và định mức biên chế giáo viên theo thông tư liên tịch số 06/2015/TTLTBGD&ĐT-BNV ngày 16/3/2015, và Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT/
BGD&ĐT-BNV-BTC hướng dẫn một số chính sách phát triển giáo dục mầm
non công lập, ngoài công lập, thực hiện xã hội hóa đối với giáo dục mầm non,
định mức biên chế đối với cấp học mầm non là không quá 2,2 giáo viên/lớp,
số lượng lớp trong trường được tính theo số trẻ/lớp (mỗi lớp không quá 35
trẻ) [8]. Căn cứ vào kế hoạch phát triển số lớp học, chúng ta dễ dàng xác định
được số lượng giáo viên cần có cho một trường theo định mức sau:
Số giáo viên cần có = Số lớp x 2,2 giáo viên/lớp
Từ việc xác định số giáo viên hiện có và số giáo viên sẽ thôi hợp đồng,
nghỉ ốm, thai sản, bỏ việc, chuyển đi hoặc chuyển đến để lập kế hoạch bổ
sung giáo viên. Trong thực tế, có nhiều biến động, liên quan chi phối đến việc
tính toán số lượng giáo viên như việc bố trí, sắp xếp lại đội ngũ, tình trạng bố
trí số học sinh/lớp cũng như định mức lao động của giáo viên, chương trình
môn học đều có ảnh hưởng đến số lượng đội ngũ giáo viên.
Như vậy, phát triển số lượng đội ngũ giáo viên mầm non là sự quy
hoạch, điều chỉnh số lượng giáo viên theo sự vận động phát triển của thực tiễn
đáp ứng yêu cầu phát triển về chất lượng giáo dục của nhà trường. Nghĩa là
phát triển số lượng nằm trong mối quan hệ biện chứng với sự phát triển về
chất lượng. Khi xem xét số lượng giáo viên, cần chú ý đến một yếu tố đó là:
giáo viên trong trường thường chấp nhận một định mức cao hơn qui định để

tăng thu nhập nâng cao đời sống, vì vậy sẽ làm sai lệch chuẩn tính toán lý
thuyết. Do đó, Hiệu trưởng cần phải luôn rà soát số lượng giáo viên đã đủ
theo yêu cầu của qui mô đào tạo hay chưa. Nếu thiếu tìm sự bổ sung; nếu thừa
phải tạo thêm việc làm, cân đối lao động để tránh lãng phí và nảy sinh các vấn
đề liên quan.
19


Phát triển về chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non
Chất lượng đội ngũ giáo viên trong nhà trường bao gồm nhiều yếu tố
cấu thành, tựu chung lại chất lượng giáo viên hiện nay thể hiện ở ba khía cạnh
như sau:
Chuẩn về trình độ chuyên môn: đạt chuẩn hay vượt chuẩn, đào tạo
chính qui hay không chính qui…
Chuẩn về trình độ nghiệp vụ sư phạm: được thể hiện ở hiệu quả hoạt
động chăm sóc giáo dục học sinh, khả năng thích ứng với thay đổi trong thực
tiễn, khả năng giao tiếp, xử lý tình huống sư phạm…
Chuẩn về đạo đức tư cách người giáo viên: được thể hiện ở đạo đức, tư
tưởng tốt, có nhân cách xã hội chủ nghĩa, có tâm hồn cao thượng, yêu nghề,
mến trẻ, có lý tưởng nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa,
trung thực, giản dị.
Phát triển về cơ cấu đội ngũ giáo viên mầm non.
Cơ cấu đội ngũ giáo viên mầm non được xem xét trên các yếu tố sau:
Cơ cấu về trình độ nghiệp vụ sư phạm: Là sự phân chia giáo viên theo
tỉ lệ của trình độ đào tạo như trung cấp, đại học, thạc sĩ. Việc xác định một cơ
cấu trình độ hợp lý cũng là một biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên, số giáo viên chưa đạt chuẩn cần phải chuẩn hóa, nhưng để có tỉ lệ vượt
chuẩn cần xem xét thực trạng của nhà trường để vừa đảm bảo hiệu quả kinh
tế, vừa nâng cao chất lượng đội ngũ. Trong khi ngân sách còn hạn chế như
hiện nay thì một đội ngũ có phẩm chất tốt và đủ năng lực đáp ứng việc giảng

dạy và giáo dục có lẽ tốt hơn một đội ngũ trên chuẩn mà không phát huy được
hết khả năng của họ trong công việc.
Cơ cấu về tuổi đời: Việc phân tích đội ngũ giáo viên theo độ tuổi nhằm
xác định cơ cấu đội ngũ theo từng nhóm tuổi, là cơ sở để phân tích thực trạng,
chiều hướng của tổ chức và khoảng cách chuyên môn để từ đó có cơ sở khoa
học cho việc xây dựng kế hoạch tuyển dụng, bồi dưỡng, sử dụng.
20


Cơ cấu về giới tính: Xem xét cơ cấu giới tính của đội ngũ giáo viên để
có kế hoạch phân công sử dụng, đào tạo bồi dưỡng, thời gian học tập của từng
cá nhân, thời gian nghỉ dạy do sinh đẻ, con ốm, sức khỏe yếu … tất cả các yếu
tố đó đều có tác động đến chất lượng đội ngũ giáo viên và là yếu tố quan
trọng liên quan đến chất lượng giáo dục và đào tạo.
Tóm lại, phát triển đội ngũ giáo viên không chỉ đơn thuần là duy trì đội
ngũ giáo viên, là những giải pháp tình thế mà phải được thực hiện trong một
kế hoạch tổng thể có tính chiến lược lâu dài, vừa mang tính ổn định vừa phát
triển dựa trên những cái đã có làm cho đội ngũ ngày càng mạnh lên về số
lượng, nâng cao chất lượng và cơ cấu hợp lý theo sự phát triển của nhà trường
và của xã hội.
1.1.3. Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non
Trong thời đại ngày nay, quản lý đã trở thành một nhân tố của sự phát
triển xã hội. Quản lý trở thành một hoạt động phổ biến, diễn ra trong mọi lĩnh
vực ở mọi cấp độ và có liên quan đến tất cả mọi người. Khái niệm quản lý là
một khái niệm rất chung và rộng. Nó được dùng cho cả quá trình quản lý xã
hội, quản lý giới vô sinh cũng như quản lý giới sinh vật. Có nhiều cách tiếp
cận và quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý. Qua phân tích các tài liệu
khác nhau, chúng ta có thể rút ra khái niệm quản lý như sau:
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
(người quản lý) theo kế hoạch chủ động và phù hợp với qui luật khách quan

tới khách thể quản lý (người bị quản lý) nhằm tạo ra hiệu quả cần thiết vì sự
tồn tại, ổn định và phát triển của tổ chức.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, một quá trình, một hoạt động của xã
hội, vì thế nó cần và phải được quản lý. Từ đó, hình thành một dạng quản lý
trong hệ thống quản lý xã hội. Dạng quản lý này có tên gọi là “Quản lý giáo
dục”. Quản lý giáo dục cũng được biểu đạt một cách rất đa dạng tùy theo
phương tiện nghiên cứu và cách tiếp cận của nhà nghiên cứu về quản lý giáo
21


dục. Dựa trên sự phân tích các khái niệm về quản lý giáo dục, quản lý nhà
trường của các tác giả trong nước và trên thế giới, chúng ta rút ra khái niệm
quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non như sau:
Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch hợp qui luật của chủ thể quản lý đến quá trình
vận động, biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu của đội ngũ giáo viên ở
các trường mầm non, đảm bảo cho quá trình vận động, biến đổi đó diễn ra
đồng bộ, đạt được kết quả tốt nhất, nhằm thúc đẩy đội ngũ giáo viên phát
triển tiến lên một trạng thái mới, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
mầm non đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
Bản chất của quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non là tổ chức,
điều khiển quá trình vận động, biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu của
đội ngũ giáo viên ở các trường mầm non đảm bảo cho quá trình vận động,
biến đổi đó diễn ra đồng bộ trong một hệ thống giáo dục nhất quán nhằm đạt
được các mục đích, mục tiêu giáo dục đã xác định. Theo quan điểm triết học,
phát triển là sự tự vận động bên trong của mọi sự vật hiện tượng, mọi sự vật,
hiện tượng sinh ra đều vận động theo xu hướng phát triển. Theo quan điểm
đó, đội ngũ giáo viên mầm non cũng tự nó luôn vận động theo xu hướng phát
triển. Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non là tổ chức, điều khiển quá
trình vận động, phát triển đó diễn ra đúng quy luật, đạt được mục đích theo

chủ định với hiệu quả cao nhất.
Mục đích quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non nhằm đảm bảo
cho quá trình vận động, biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu của đội ngũ
giáo viên mầm non diễn ra đồng bộ, thống nhất với nhau, thúc đẩy lẫn nhau,
đạt được kết quả tốt nhất, làm cho đội ngũ giáo viên phát triển toàn diện lên
một trạng thái mới, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.

22


Chủ thể quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non ở các nhà trường
là Ban Giám hiệu, Phòng Giáo dục và Đào tạo quận và tổ chức đảng, chính
quyền quận. Trong đó, Ban Giám hiệu nhà trường mầm non là chủ thể quản lý
trực tiếp về số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên trong nhà trường.
Phòng Giáo dục và Đào tạo quận là chủ thể quản lý về số lượng, chất lượng
cơ cấu của đội ngũ giáo viên mầm non trên địa bàn quận. Mọi hoạt động quy
hoạch, phát triển về số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên mầm non
trong từng nhà trường do Ban Giám hiệu nhà trường mà đứng đầu là Hiệu
trưởng phải chịu trách nhiệm và đặt dưới sự chỉ đạo của Phòng Giáo dục –
Đào tạo quận. Phòng Giáo dục – Đào tạo quận có chức năng tổ chức quy
hoạch phát triển đội ngũ giáo viên mầm non của quận theo yêu cầu phát triển
giáo dục mầm non của quận, đồng thời tham mưu cho tổ chức Đảng và chính
quyền quận ban hành những quyết định về phát triển giáo dục mầm non. Tổ
chức Đảng, chính quyền quận có chức năng lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành các
quyết định phát triển đội ngũ giáo viên mầm non trong quận.
Đối tượng quản lý là quá trình phát triển đội ngũ giáo viên mầm non
về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Đối tượng quản lý chịu sự tác động và
thay đổi dưới những tác động hướng đích có chủ định của chủ thể quản lý.
Đối tượng quản lý là con người (cá nhân và tập thể) trong tổ chức và các

yếu tố được sử dụng là nguồn lực của tổ chức (thông qua việc khai thác, tổ
chức thực hiện).
Mỗi cấp quản lý khác nhau, có cương vị quản lý khác nhau thì có
đối tượng quản lý cũng khác nhau. Hiệu trưởng, Ban Giám hiệu nhà
trường có đối tượng quản lý là quá trình phát triển về số lượng, chất
lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên trong một nhà trường mầm non. Phòng
Giáo dục và Đào tạo quận có đối tượng quản lý là quá trình phát triển về
số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên trong tất cả các nhà trường
mầm non trên địa bàn quận.
23


1.2. Nội dung quản lý phát triển đội ngũ giáo viên ở các trường
mầm non
1.2.1. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên
Quy hoạch phát triển giáo dục là quy hoạch ngành và là một bộ phận
của quy hoạch phát triển kinh tế xã hội nói chung. Trên cơ sở lý luận chung,
thì quy hoạch phát triển Giáo dục và Đào tạo là một bản luận chứng khoa học
dựa trên cơ sở đánh giá phân tích thực trạng giáo dục hiện tại, dự đoán nắm
bắt những cơ hội, tiên đoán xu thế phát triển giáo dục của đất nước để xác
định quan điểm, phương pháp, mục tiêu giáo dục của đơn vị từ đó đưa ra
những giải pháp phát triển và phân bố hệ thống Giáo dục và Đào tạo của các
trường mầm non, chỉ rõ yêu cầu về chất lượng Giáo dục và Đào tạo, phát triển
đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý.
Xây dựng kế hoạch là sự sắp đặt, hoạch định đường lối có hệ thống của
những công việc dự định làm. Kế hoạch là chương trình dự định làm, là sự cụ
thể hóa một việc hoặc nhằm mục tiêu trong phạm vi không gian, thời gian và
nguồn lực nhất định. Kế hoạch là sự tiên đoán những sự kiện cụ thể, chi tiết
của tương lai bằng việc xác định các mục tiêu cụ thể, chính xác; nêu rõ nhiệm
vụ, con đường và phương tiện thực hiện. Có sự cân đối giữa các mục tiêu và

nguồn lực để đạt được kết quả, có thể đánh giá và định hướng được với nguồn
lực để sử dụng một cách tối ưu. Ngoài việc sử dụng tối ưu các nguồn lực, kế
hoạch phải đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, hợp lý giữa các lực lượng tham gia
thực hiện kế hoạch.
1.2.2. Tuyển dụng giáo viên mầm non
Tuyển dụng là quá trình sử dụng các phương pháp nhằm xem xét, đánh
giá, lựa chọn, quyết định trong số những người được tuyển dụng ai là người
đủ tiêu chuẩn làm việc trong nhà trường. Tuyển dụng thực chất là sự lựa chọn
người theo tiêu chuẩn cụ thể rõ ràng do tổ chức đặt ra, để đạt được mục đích:
đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu về chất lượng và trình độ,
24


thái độ với công việc được giao. Quá trình tuyển dụng phải đáp ứng được các
yêu cầu sau: Tuyển dụng phải xuất phát từ quy hoạch của nhà trường. Tuyển
dụng được những người có chuyên môn cần thiết cho công việc để đạt hiệu
quả công tác tốt. Tuyển dụng được những người có phẩm chất tốt, yêu nghề,
gắn bó với công việc và am hiểu đặc thù của nhà trường. Tuyển dụng giáo
viên có trình độ đào tạo đạt chuẩn để bổ sung vào đội ngũ giáo viên các
trường mầm non là một công việc quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình phát
triển đội ngũ giáo viên theo hướng đảm bảo cho tăng nhanh về số lượng với
cơ cấu hợp lý và có chất lượng đáp ứng theo yêu cầu. Điều này còn giúp cho
nhà trường giảm được các chi phí phải bồi dưỡng lại, đào tạo lại trong quá
trình thực hiện công việc.
1.2.3. Bồi dưỡng giáo viên mầm non
Bồi dưỡng là các hoạt động làm tăng thêm trình độ hiện có về kiến
thức, kỹ năng, thái độ nhằm giúp cho cán bộ, giáo viên, nhân viên thực hiện
công việc đạt kết quả tốt hơn. Chủ thể bồi dưỡng là người lao động đã được
đào tạo và đã có một trình độ chuyên môn nhất định. Bồi dưỡng thực chất là
quá trình bổ sung kiến thức, kĩ năng để nâng cao trình độ trong một lĩnh vực

hoạt động chuyên môn nhất định. Bồi dưỡng giúp cho giáo viên được bồi
dưỡng có cơ hội củng cố, mở mang hoặc nâng cao hệ thống tri thức, kĩ năng,
kĩ xảo chuyên môn nghiệp vụ có sẵn nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công
việc đang làm.
Nội dung bồi dưỡng: Bồi dưỡng về tư tưởng chính trị, đường lối, quan
điểm giáo dục của Đảng, đạo đức, lối sống; Bồi dưỡng những kiến thức pháp
luật, kiến thức về quản lý, về văn hóa, ngoại ngữ, tin học, sức khỏe, thể dục
thể thao, văn nghệ; Bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ: bồi dưỡng theo chu
kỳ thường xuyên, bồi dưỡng chuẩn hóa, trên chuẩn, bồi dưỡng thay sách, bồi
dưỡng chuyên đề nâng cao, đổi mới phương pháp dạy học, những kiến thức
tâm lý học, giáo dục học…
25


Hình thức bồi dưỡng: Bồi dưỡng thường xuyên là hình thức được áp
dụng rộng rãi và phổ biến nhất vì nó phù hợp với đặc điểm công việc của giáo
viên và điều kiện các nhà trường, nhất là việc bố trí thời gian để giáo viên tự
bồi dưỡng, nghiên cứu các nội dung học tập và liên hệ thực tế vào bài học cụ
thể. Việc bồi dưỡng thường thông qua các hội nghị khoa học, báo cáo chuyên
đề, hội thảo, seminar, các đợt tập huấn, thao giảng, dự giờ, kèm cặp...
Bồi dưỡng định kỳ: Giúp giáo viên vượt qua sự lạc hậu về tri thức do
không được cập nhật tri thức thường xuyên.
Bồi dưỡng nâng cao: Là hình thức bồi dưỡng các giáo viên nòng cốt
trong nhà trường để làm hạt nhân cho sự phát triển của đơn vị cũng như tạo
nguồn cán bộ quản lý trong tương lai.
1.2.4. Sử dụng giáo viên mầm non
Theo từ điển Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội,
1999: Sử dụng là đem dùng vào một công việc; Sử dụng là việc bố trí, sắp xếp
giáo viên thực hiện các nhiệm vụ giáo dục và đào tạo theo chuyên môn được
đào tạo, trong quá trình sử dụng còn bao hàm cả đào tạo, đào tạo lại, bồi

dưỡng và luân chuyển để đạt hiệu quả sử dụng cao nhất; Trong sử dụng phải
biết trọng dụng người tài, đồng thời cũng phải thường xuyên kiểm tra, sàng
lọc, chuyển những người không đủ khả năng giảng dạy sang làm công tác
khác; Khuyến khích đội ngũ giáo viên say mê học tập và tu dưỡng để phát
triển nghề nghiệp của bản thân cũng như sự nghiệp giáo dục của nhà trường,
của đất nước.
Sử dụng giáo viên phải gắn với mục tiêu phát triển phẩm chất, năng
lực của giáo viên. Nghĩa là phải căn cứ vào quy hoạch phát triển giáo viên
và căn cứ vào năng lực cụ thể của từng giáo viên mà sử dụng. Thông qua sử
dụng để rèn luyện giáo viên, đưa giáo viên vào các loại hình hoạt động, tạo
cơ hội cho giáo viên phát triển phẩm chất, năng lực của bản thân trong thực
tiễn công việc.
26


×