Tải bản đầy đủ (.docx) (137 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý QUÁ TRÌNH dạy học ở TRƯỜNG đại học CÔNG đoàn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.68 KB, 137 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC

11

1.1.

Những khái niệm cơ bản của đề tài

11

1.2.

Nội dung của quản lý quá trình dạy học ở trường đại học Công
đoàn

16

1.3.

Các yếu tố tác động tới quản lý quá trình dạy học ở trường đại
học Công Đoàn

19

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC Ở


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG ĐOÀN

30

2.1.

Một số nét khái quát về trường Đại học Công đoàn

30

2.2.

Thực trạng và nguyên nhân quản lý quá trình dạy học ở trường
Đại học Công đoàn hiện nay

34

Chương 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU QUẢN LÝ QUÁ
TRÌNH DẠY HỌC Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG ĐOÀN
HIỆN NAY

65

3.1.

Nguyên tắc đề xuất các biện pháp

65

3.2.


Các biện pháp quản lý quá trình dạy học ở Trường Đại học
Công đoàn

67

3.3.

Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
quản lý quá trình dạy học ở trường Đại học Công đoàn

87

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

96

PHỤ LỤC

99


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Quản lý giáo dục là khâu then chốt đảm bảo sự thắng lợi của mọi hoạt
động giáo dục. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, chỉ rõ "Đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lí giáo
dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí là khâu then chốt. Tập
trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối
sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp..."
Giáo dục ngày nay được coi là nền móng của sự phát triển, lịch sử đã
cho thấy mỗi quốc gia muốn phát triển và hưng thịnh đều phải coi trọng công
tác giáo dục. Đối với nước ta giáo dục luôn được coi là quốc sách – nhất là
trong thời kỳ đổi mới hiện nay, điều đó được thể hiện trong các kỳ đại hội đại
biểu của Đảng cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và phấn đấu đến năm 2020 cơ bản nước ta trở thành một nước công
nghiệp và chỉ ra: “Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi
phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố
cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”. Như vậy có thể thấy Đảng và
Nhà nước ta hết sức coi trọng và đầu tư cho giáo dục, đào tạo nói chung, giáo
dục đại học nói riêng trong giai đoạn hiện nay khi mà trình độ khoa học kỹ
thuật, công nghệ phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng đòi hỏi công tác giáo
dục đào tạo của chúng ta không chỉ mở rộng về quy mô mà còn phải được
nâng cao về chất lượng như văn kiện đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ rõ: “Thực
hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp
thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc
biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo
đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý
thức trách nhiệm xã hội. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng



3

yêu cầu về chất lượng…”. Sau hơn 25 năm đổi mới cùng với sự phát triển đi
lên của đất nước, ngành giáo dục đã đạt được nhiều thành tích hết sức to lớn
và đã có bước phát triển mới, góp phần chuẩn bị tiền đề cho những bước phát
triển mạnh mẽ và vững chắc hơn của sự nghiệp giáo dục trong thế kỷ 21 vì
mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Dạy học là một hoạt động trung tâm, một nhiệm vụ chính trị của mỗi
nhà trường. Tiếp cận dạy học là một quá trình, trong đó dưới sự lãnh đạo, tổ
chức, điều khiển của GV, người học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ chức, tự
điều khiển hoạt động nhận thức, học tập của mình nhằm thực hiện những
nhiệm vụ dạy học đặt ra. QLGD nhà trường là sự điều khiển, chỉ đạo của các
chủ thể quản lý tới toàn bộ quá trình giáo dục, trong đó có đối tượng quản lý.
Trong QLGD nhà trường thì quản lý dạy học là một nhiệm vụ dung quản lý
cơ bản, tồn tại cùng với quá trình đào tạo của mỗi trường.
Trong đề án xây dựng Nghị quyết về xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới của Tổng Liên đoàn Lao động trình lên Ban chấp
hành trung ương Đảng, Đoàn Chủ tịch giao cho trường Đại học Công đoàn
nhiệm vụ đặc biệt sau: “Nhà trường cần chú trọng nâng cao chất lượng giảng
dạy, trình độ chuyên môn của cán bộ giảng viên; xây dựng cơ sở vật chất;
thay đổi cách đào tạo đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội”.
GD&ĐT nói chung, dạy học nói riêng ở Trường Đại học Công đoàn đã cơ bản
đáp ứng yêu cầu đặt ra. Tuy nhiên trong thời gian qua, tổ chức quá trình dạy
học của Nhà trường còn nhiều hạn chế như: trình độ và tay nghề sư phạm đội
ngũ GV chưa cao, chương trình nội dung dạy học còn hàn lâm, chưa thật gắn
với nhu cầu xã hội, phương pháp, phương tiện dạy học còn lạc hậu... quản lý
dạy học chưa khoa, thiếu chặt chẽ, còn can thiệp theo lối quản lý hành chính,
đang làm hạn chế chất lượng dạy học cần sớm được khắc phục.
Đã có một số công trình nghiên cứu về dạy học với cách tiếp cận dạy

học là quá trình, dạy học là hoạt động, ở những phương diện lý luận dạy học,
QLGD ở một trường nhất định, nhưng chưa có công trình nghiên cứu về quá
trình dạy học ở trường Đại học Công đoàn.


4

Hiện nay chất lượng SV tại trường Đại học Công đoàn được nâng lên
đáng kể. Trường Đại học Công đoàn đào tạo nhiều ngành nghề trình độ đại
học và sau đại học. Bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ chủ chốt công
đoàn các cấp và các cá nhân có yêu cầu. Nghiên cứu những vấn đề công nhân
và hoạt động công đoàn để từ đó biên soạn giáo trình và tài liệu huấn luyện
cán bộ công đoàn. Nghiên cứu, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng một số ngành,
nghề, cung ứng lực lượng lao động chất lượng cao cho xã hội. Thực hiện đào
tạo theo chỉ tiêu Bộ GD&ĐT.
Việc nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo cho SV nói chung là điều
trăn trở của các cấp quản lý của trường Đai học Công đoàn và đang đặt ra
những yêu cầu mới trong quản lý quá trình dạy học ở Trường Đại học Công
đoàn. Chính vì lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “Quản lý quá
trình dạy học ở Trường Đại học Công đoàn hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề QLGD nói chung và quản lý quá trình dạy học đã được các
nhà nghiên cứu, các học giả trên thế giới và trong nước hết sức quan tâm.
Trong cuốn “Effective Literacy Instruction” (2005) của Leu, DJ & Kinzer bàn
luận tương đối cụ thể đến vấn đề QLGD. Đó là các tiềm năng để học tập,
nghiên cứu [academic capacities] (dựa trên việc đào tạo chuyên môn, nhưng
còn bao gồm tư duy phê phán, giải quyết vấn đề, có năng lực đổi mới tư duy
[un-learn] và học lại [re-learn] trong suốt cuộc đời ), các kỹ năng phát triển cá
nhân gắn kết với xã hội (tự tin, quyết tâm cao, tôn trọng các giá trị đạo đức,
hiểu biết rộng về xã hội và thế giới), các kỹ năng sáng nghiệp [entrepreneurial

skill] (các tiềm năng đáp ứng cả việc lãnh đạo và làm việc đồng đội, làm chủ
công nghệ thông tin truyền thông và các công nghệ khác..v.v..). Trong số
những công trình nghiên cứu về QLGD của các tác giả trên thế giới, đáng chú
ý là cuốn “Teaching for Quality Learning at University: What Student Does”
(2004) của tác giả Biggs, J.B, 2nd ed. Buckingham, Society for Research into
High er Education. Nội dung cuốn sách đã nêu được những đặc điểm cơ bản
và phân tích bản chất đặc trưng của quá trình quản lý dạy học trong các


5

trường Đại học, đồng thời đưa ra những gợi ý, chỉ dẫn về quá trình quản lý
dạy học đối với SV.
Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam có tầm quan trọng đặc biệt nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo những người lao động có trình độ
cao phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội chung và đáp ứng nhu
cầu phát triển cho chính hệ thống giáo dục.Việc đổi mới có đạt được kết quả
như mong muốn hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực dạy học của đội
ngũ giảng viên trong các trường đại học. Để giúp các giảng viên tự nghiên
cứu nâng cao năng lực dạy học ở bậc đại học, cuốn sách“ Hướng dẫn Dạy và
Học trong Giáo dục đại học” từ nguyên bản tiếng Anh có tiêu đề “ Guide to
Teaching and Learning in Higher Education” tại Website có địa chỉ
do các tác giả: Pai Obanya, Juma Shabani,
Peter Okebukola với sự giúp đỡ của Văn phòng UNESCO vùng của Châu Phi
bao trùm hầu hết các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của giảng viên đại học
và những kinh nghiệm giảng dạy của các chuyên gia giáo dục đại học của thế
giới. TS. Hoàng Ngọc Vinh - Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm biên tập và hiệu
đính chung năm 2007.
Gần đây nhiều tác giả đã lựa chọn vấn đề quản lý quá trình dạy học
làm đề tài, luận văn, luận án, tiêu biểu như đề tài Quản lý phương pháp dạy

và học bậc Đại học, Cao đẳng ở nước ta hiện nay của Nguyễn Thu Hà trường
Đại học KT- CN Long An” (2005); “Quản lý quá trình dạy học ở trường Đại
học Quốc gia Hà Nội” của Trần Văn Hải (2007); Luận văn thạc sỹ Giải pháp
quản lý chất lượng dạy học ở trường sỹ quan pháo binh của tác giả Kim Văn
Thanh (2008).Nội dung của đề tài này tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận
dạy học trong nhà trường quân sự, đánh giá những ưu, khuyết điểm trong giáo
dục – đào tạo, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học ở
trường sỹ quan Pháo Binh. Quản lý dạy học trong quá trình đào tạo nghề ở
trường trung cấp nghề cơ khí số 1 Hà Nội (2009) của Nguyễn Văn Hoàng.
Tác giả Vũ Thị Quỳnh Hoa, luận văn thạc sĩ QLGD Biện pháp quản lý hoạt
động dạy học của hiệu trưởng các trường tiểu học huyện Kim Động – tỉnh
Hưng Yên năm 2012. Tác giả Nguyễn Đức Lợi, luận văn thạc sĩ QLGD Quản


6

lý hoạt động dạy học ở trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong
thành phố Hồ Chí Minh, năm 2014. …nội dung của hai luận văn trên đã vạch
ra các nội dung quản lý và đề xuất được một số biện pháp về quản lý kế
hoạch, về quản lý tổ chức thực hiện, về quản lý kết quả và kiểm tra đánh giá
kết quả dạy học.
Bên cạnh đó có nhiều bài viết đăng tải trên các tạp chí, kỷ yếu khoa
học, như bài viết “Người dạy là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học”
của tác giả Lê Hoàng Giang ,Viện NCGD - ĐHSP Tp. HCM, Bài viết được
đăng lại từ Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số 3-2011. Nói "người dạy là "nhân
vật" trung tâm của quá trình dạy học" là đề cập đến vai trò người thầy của
giảng viên khi đứng trên bục giảng, bởi quá trình dạy học cũng giống như một
tác phẩm điện ảnh, được xây dựng bởi những nhân tố như: nhà biên kịch, đạo
diễn, diễn viên... Trong đó, giảng viên kiêm rất nhiều nhiệm vụ, vừa là nhà
biên kịch, vừa là đạo diễn, và là diễn viên thể hiện tốt vai trò nhân vật trung

tâm mà mình phải đảm nhiệm. Thực tế dạy học đại học hiện nay yêu cầu rất
cao về trình độ của giảng viên, đó là người dạy phải biết tổ chức dạy học, biết
dạy cho học trò cách nghiên cứu, giúp sinh viên nhận thức được tầm quan
trọng của việc tự học, tự nghiên cứu của mình. Trong quản lý dạy - học, đặc
biệt là dạy – học đại học, vai trò của người thầy có một vị trí quan trọngđặc
biệt.
Chuyên đề Quản lý hoạt động dạy học của TS. Trần Thị Hương,
trường ĐHSP TP. HCM. Quản lý HĐDH là những tác động của chủ thể quản
lý vào HĐDH được tiến hành bởi GV, HS và sự hỗ trợ của các lực lượng giáo
dục khác nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ dạy học. Chủ thể quản lý
HĐDH là Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, TTCM, đối tượng QL là hoạt động
dạy của GV và hoạt động học của HS. Mục tiêu, nhiệm vụ dạy học: HS nắm
vững hệ thống tri thức khoa học; Rèn luyện KN, KX; Phát triển toàn diện
nhân cách. Nhiệm vụ quản lý hoạt động dạy học là gắn HĐDH với việc nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, tạo động lực, môi trường, điều kiện thuận
lợi, kích thích tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ CB, GV, kết hợp phát
huy cao độ tính chủ động sáng tạo của mỗi thành viên với sự QL thống nhất


7

của đội ngũ CBQL nhà trường, đảm bảo chất lựơng dạy học một cách bền
vững, xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp phát huy tối đa nội lực đi đôi với
sự tranh thủ tiềm lực các LLGD ngoài nhà trường. Bài báo ‘Đổi mới quản lý
giáo dục đại học - Khó khăn do chưa làm đúng quy luật’ của ThS. Nguyễn Thị
Quỳnh Nga, ThS. Ngô Trung Học đã đặt ra nhiều câu hỏi cho QLGD đại học
cần phải tháo gỡ.
Gần đây, bài giảng quản lý hoạt động dạy học của PGS.TS Nguyễn
Phúc Châu (2014) đã nêu vấn đề quản lý dạy học tiếp cận theo quá trình
dạy học. Trong đó nêu rõ các vấn đề về quản lý mục tiêu dạy học, quản lý

quá trình và nội dung dạy học, quản lý phương pháp dạy học, quản llys
hình thức tổ chức dạy học, quản lý phương tiện và điều kiện dạy học,
quản lý đánh giá kết quả dạy học, quản lý môi trường dạy học, quản lý
công tác tài chính giáo dục.
Tóm lại, các công trình đã tổng quan trên tập trung nghiên cứu trên
nhiều khía cạnh khác nhau về dạy học; từ phương diện nghiên cứu các nhân
tố của quá trình dạy học, trong đó đi sâu nghiên cứu về hoạt động dạy học
GV; trong đó có một số công trình tập trung nghiên cứu về quản lý QTDH
dưới góc độ QLGD nhà trường như là một nhiệm vụ, nội dung quản lý nhà
trường. Các đề tài trên cơ bản đi sâu nghiên cứu vấn đề biện pháp quản lý quá
trình dạy học ở các trường Đại học, Cao đẳng, TCCN hoặc ở một trường cụ
thể, cấp học cụ thể với những cách tiếp cận khác nhau.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý quá
trình dạy học, đề xuất các biện pháp nhằm quản lý hiệu quả và nâng cao chất
lượng quá trình dạy học của Trường Đại học Công đoàn, đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục đào tạo hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát, hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc quản lý quá trình dạy
học đại học nói chung, quản lý quá trình dạy học của Trường Đại học Công
đoàn hiện nay.


8

- Khảo sát, đánh giá thực trạng việc dạy học và công tác quản lý quá
trình dạy học hệ chính quy của Trường Đại học Công đoàn.
- Đề xuất một số biện pháp chủ yếu quản lý quá trình dạy học, nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo tại Trường Đại học Công đoàn trong giai đoạn

hiện nay.
Các số liệu khảo sát, thống kê, minh chứng từ 2009 đến nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu:
Quá trình dạy học ở trường Đại học Công đoàn.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý quá trình dạy học ở trường Đại học Công đoàn.
* Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu việc dạy học và việc quản lý quá trình
dạy học hệ chính quy tại trường Đại học Công Đoàn.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý quá trình dạy học tốt, có hiệu quả là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu trong hoạt động giáo dục của trường Đại học. Chất lượng, hiệu quả
của quản lý quá trình dạy học ở trường Đại học Công đoàn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố. Trong đó yếu tố liên quan trực tiếp đến người dạy và người học
giữ vai trò trọng yếu. Nếu thực hiện tốt quy trình quản lý hoạt động dạy của
GV, quản lý tốt, chặt chẽ hoạt động học và rèn luyện của sinh viên đồng thời
tổ chức quản lý chặt chẽ nề nếp dạy và học trong trường...thì hiệu quả quá
trình dạy học được nâng cao, góp phần to lớn cho sự phát triển sự nghiệp
GD&ĐT của Nhà trường.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, quán triệt quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về giáo dục, quản lý giáo dục. Đồng thời, tác giả vận dụng quan
điểm hệ thống – cấu trúc, lôgic – lịch sử và quan điểm thực tiễn để phân tích,
đánh giá, xem xét các vấn đề nghiên cứu.


9


* Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Bao gồm phương pháp phân tích,
tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa những vấn đề lý luận Mác – Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; văn kiện, nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam về
GD&ĐT, quản lý GD&ĐT; các chủ trương chính sách của nhà nước, các chỉ
thị hướng dẫn của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; các quy chế, quy định
trong công tác quản lý dạy học của Bộ GD&ĐT, các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng ủy, Hiệu trưởng Trường Đại học Công đoàn về GD&ĐT v.v.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Điều tra bằng phiếu hỏi đối với Cán bộ quản lý, giảng viên các khoa,
phòng, bộ môn trong Nhà trường về vấn đề nghiên cứu.
Thống kê và xử lý số liệu, tổng kết kinh nghiệm dạy học của Nhà
trường trong thời gian qua.
Phương pháp chuyên gia. Xin ý kiến một số nhà khoa học, cán bộ
quản lý của trường Đại học Công đoàn về những nội dung nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn quản lý hoạt động dạy học của trường Đại học Công đoàn, cung cấp
các luận cứ khoa học, giúp cho Đảng ủy, Ban giám hiệu nhà trường cùng các
cấp chuyên môn chỉ đạo, quản lý hoạt động dạy và học của GV, SV từ đó góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học ở Nhà trường.
Sản phẩm của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ quản
lý giáo dục đại học nói chung, cán bộ quản lý, giảng viên trường Đại học
Công đoàn nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Đề tài gồm phần mở đầu, nội dung của luận văn được trình bày trong
3 chương, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục.



10

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
1.1. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Quá trình dạy học
DH là một quá trình, trong đó dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển
của người giáo viên, người học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ chức, tự điều
khiển hoạt động nhận thức, học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ
dạy học đặt ra. QTDH gồm hoạt động dạy và hoạt động học liên hệ mật thiết
với nhau, diễn ra đồng thời và phối hợp chặt chẽ, tạo nên sự cộng hưởng của
hoạt động dạy và hoạt động học, sự tác động hai chiều từ phía người dạy
(giảng viên) và người học (sinh viên), từ đó tạo nên hiệu quả cho QTDH.
Khi xem xét QTDH ở một thời điểm nhất định, nó bao gồm những
thành tố như: Mục đích DH, nội dung DH, PP, PT DH, giáo viên, học sinh…
Các thành tố này có quan hệ mật thiết với nhau: MĐ dạy học định hướng cho
các thành tố khác trong QTDH, mục đích này được hiện thực hóa bằng nội
dung DH. Người GV với hoạt động dạy của mình, với những PP, PT HTTC
DH tác động đến động cơ của người học để thúc đẩy người học học tập. Sự
tác động lẫn nhau giữa GV và HS sẽ tạo nên kết quả dạy – học. Mặt khác hoạt
động dạy và học còn chịu sự tác động của môi trường bên ngoài xã hội (kinh
tế, văn hóa, KHCN…). Môi trường tạo nên sự thuận lợi hay không thuận lợi
cho QTDH.
Bản chất của QTDH là quá trình nhận thức độc đáo của người học, ở
môi trường đại học đó là sinh viên. Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách
quan vào não người – đó là sự phản ánh tâm lý của con người bắt đầu từ cảm
giác đến tư duy, tưởng tượng. Sự học tập của sinh viên cũng là quá trình như
vậy. Đó là sự phản ánh đi trước, có tính chất cải tạo mà mức độ cao nhất là sự
sáng tạo. Sự phản ánh đó bị khúc xạ qua lăng kính chủ quan của mỗi người
(như qua kinh nghiệm, nhu cầu, hứng thú…), và đó là sự phản ánh tích cực

của mỗi chủ thể.


11

Dạy học thực hiện các nhiệm vụ sau: Điều khiển, tổ chức người học
nắm vững hệ thống tri thức phổ thông cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn
của đất nước về tự nhiên, xã hội – nhân văn, đồng thời rèn luyện cho họ hệ
thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng; Tổ chức, điều khiển người học hình thành,
phát triển năng lực và phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy độc lập,
sáng tạo: Tổ chức, điều khiển người học hình thành cơ sở thế giới quan khoa
học, những phẩm chất đạo đức nói riêng và phát triển nhân cách nói chung.
QTDH tồn tại như một hệ thống toàn vẹn, nó luôn phát triển để đạt
đến chất lượng mới. Có điều đó là do trong lòng nó luôn chứa đựng các mâu
thuẫn và các mâu thuẫn này luôn được giải quyết. Logic của QTDH là trình tự
vận động hợp quy luật của quá trình đó, nhằm đảm bảo cho người họcđi từ
trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phát triển năng lực hoạt động trí tuệ
tương ứng từ lúc bắt đầu nghiên cứu môn học (hay một đề mục nào đó), đến
trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và trình độ nhận thức, đặc biệt là năng lực
trí tuệ, tương ứng với lúc kết thúc môn học.
Có thể khái niện QTDH như sau: Quá trình dạy học là quá trình tác
động có mục đích, có tổ chức của GV đến SV nhằm hình thành kiến thức, rèn
luyện kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp, góp phần phát triển các phẩm chất cần
thiết của người cán bộ công đoàn đáp ứng yêu cầu hoạt động thực tiễn.
Xét theo quan điểm hệ thống, QTDH ở trường Đại học Công đoàn là
một chỉnh thế có cấu trúc gồm nhiều thành tố với vị trí, chức năng, quan hệ
biện chứng với nhau tạo nên QTDH toàn vẹn.
Mục đích dạy học nhằm cung cấp tri thức lý luận, nâng cao nhận thức
chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Chủ thể dạy học là đội ngũ GV chuyên trách và GV thỉnh giảng của Trường.

Đối tượng dạy học là SV và tập thể SV các loại hình đào tạo của Nhà trường.
Nội dung dạy học ở trường Đại học Công đoàn tập trung vào những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng
tư tưởng của Đảng; quan điểm, đường lối của Đảng qua Cương lĩnh, các nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và trọng tâm là các môn
học chuyên ngành.


12

Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học ở trường Đại học Công đoàn:
Trong giảng dạy ở Nhà trường hiện nay GV sử dụng đa dạng các phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học như: thuyết giảng, nêu vấn đề, dạy học cùng
tham gia, xêmina, thảo luận nhóm và tham quan, thực tế...
Kết quả của dạy học ở là kết quả hình thành, phát triển thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan cộng sản, phương pháp luận duy vật biện chứng,
bản lĩnh chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn nghề nghiệp chuyên môn
đang được đào tạo của SV công đoàn.
QTDH ở trường Đại học Công đoàn diễn ra dưới sự tác động thường
xuyên, trực tiếp của môi trường kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa và khoa
học - công nghệ... Dạy học gắn liền với toàn bộ thực tiễn của hệ thống chính
trị và các hoạt động của các tổ chức công đoàn, các đoàn thể, các tổ chức xã
hội và thực tiễn sinh động ở cơ sở.
1.1.2. Quản lý quá trình dạy học ở trường Đại học Công Đoàn
Quản lý QTDH tức là quản lí quá trình thực hiện các nhiệm vụ, nội
dung dạy học thông qua các hoạt động dạy học của thầy và trò trong môi
trường và với các điều kiện bảo đảm nhất định. Sự vận động và tác động qua
lại của các thành tố của QTDH (mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức
tổ chức, đánh giá, hoạt động dạy học của thầy và trò..) là đối tượng của quản
lý quá trình dạy học.

Quản lý theo quan niệm chung nhất là hoạt động hay tác động có định
hướng, có chủ định của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý
(người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt
được mục đích của tổ chức.
Cũng như quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục là hoạt động có ý
thức của con người nhằm theo đuổi những mục đích của mình. Quản lý giáo
dục bao gồm hai cấp độ chủ yếu, đó là vĩ mô và vi mô. Quản lý vĩ mô tương
ứng với khái niệm quản lý một nền giáo dục (hệ thống giáo dục) và quản lý vi
mô tương ứng với khái niệm về quản lý một nhà trường. Tác giả Trần Kiểm
quan niệm: QLGD là những tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và
định hướng của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích


13

của hệ thống nhằm đạt mục đích quản lý nhất định. Ở cấp độ vi mô, QLGD
được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể
quản lý vào quá trình GD&ĐTcủa cơ sở đào tạo nhằm hình thành, phát triển
các phẩm chất nhân cách của người học theo mô hình, mục tiêu GD&ĐT.
Hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của
chủ thể quản lý nhằm cho QTDH vận hành theo dường lối của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, thực hiện những yêu cầu của nền giáo dục xã hội trong
việc đào tạo con người theo mẫu người của thời đại, phát triển đồng đều các
yếu tố của QTDH, tập trung chú ý vào hoạt động dạy học, vào giáo dục, đưa
hệ thống vận động từ trạng thái ban đầu đến mục tiêu xác định.
Bao gồm hoạt động của GV, SV và các tổ chức sư phạm của nhà trường
trong việc thực hiện các kế hoạch và chương trình dạy học đại học nhằm đạt
MTDH đã qui định với chất lượng cao.
Như vậy có thể hiểu bản chất của quản lý QTDH đại học là các hoạt
động dạy học đại học hay các QTDH đại học trong trường bao gồm nhiều

thành tố hợp thành.
Từ những vấn đề trên có thể hiểu: Quản lý QTDH là những tác động có
mục đích, kế hoạch của chủ thể quản lý đến toàn bộ QTDH, nhằm đảm bảo
chất lượng cho quá trình đó diễn ra theo đúng mục tiêu, chương trình đào
tạo, kế hoạch giảng dạy do Nhà trường đề ra.
Hoạt động quản lý QTDH ở Trường Đại học Công đoàn là quá trình
diễn ra hệ thống những tác động nối tiếp nhau của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý, bao gồm các nhân tố cơ bản sau:
Mục tiêu quản lý là những kết quả mà chủ thể quản lý dự kiến sẽ đạt
được do quá trình vận động của đối tượng quản lý dưới sự điều khiển của chủ
thể quản lý, là trạng thái được xác định trong tương lai của đối tượng quản lý.
Như trên đã xác định , bản chất của quản lý QTDH đại học là hoạt động dạy
của thầy, hoạt động học của trò, … QTDH đại học là một hệ thống bao gồm
nhiều yếu tố cùng vận động trong mối quan hệ mật thiết với nhau. Để đảm


14

bảo thực hiện một cách đày đủ các kế hoạch đào tạo và các nội dung chương
trình giảng dạy đúng tiến độ qui định với chất lượng cao.Mục tiêu quản lý là
đảm bảo cho toàn bộ QTDH ở trường Đại học Công đoàn được thực hiện theo
kế hoạch, đạt chất lượng, hiệu quả tốt nhất, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ đào
tạo, bồi dưỡng của trung tâm.
Chủ thể quản lý: Ban Giám hiệu, các cơ quan đào tạo, khoa học, quản
lý SV, các khoa và bộ môn và trực tiếp là các GV. Chủ thể hướng dẫn, chỉ đạo
hoạt động quản lý là Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam; Ban Giám hiệu Nhà
trường, cơ quan đào tạo, các khoa GV trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn và điều
hành QTDH, quản lý QTDH cho SV. Chủ thể trực tiếp quản lý QTDH là đội
ngũ cán bộ, GV chuyên trách và GV của Nhà trường. Các chủ thể quản lý có
sự phối hợp và quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành hệ thống tổ chức bộ máy

lãnh đạo để thực hiện việc quản lý QTDH có chất lượng.
Đối tượng quản lý: Quản lý con người (giảng viên, sinh viên), quản lý
quá trình (việc dạy, việc học) hay quản lý vật chất (phòng học, …) là quản lý
nội dung của các hoạt động tương ứng với từng nhiệm vụ quản lý ở các đối
tượng quản lý. SV chịu sự tác động, điều khiển của các chủ thể quản lý trong
QTDH. Nói cách khác, nói đến quản lý quá trình dạy học đại học, suy cho
cùng là quản lý hoạt động của con người hay tập thể con người, hoạt động
dạy của người giảng viên và hoạt động học của sinh viên liên quan tới việc
thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, dạy học được giao nhất định. Do giới hạn về
qui mô nghiên cứu, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu quản lý con người và quản
lý việc dạy và việc học ở trường Đại học Công đoàn hiện nay. SV vừa là
khách thể quản lý, vừa là chủ thể tự quản lý, tự tổ chức thực hiện việc học tập
lý luận chính trị theo mục tiêu bồi dưỡng cán bộ.
Phương thức và phương pháp quản lý: Phương thức quản lý bao gồm
những cách thức, biện pháp quản lý nhằm đảm bảo chất lượng dạy học đạt
được mục đích đề ra và đáp ứng yêu cầu xây dựng đào tạo SV trong tình hình
mới. Để nâng cao chất lượng dạy học, cần sử dụng các phương thức quản lý
trực tiếp, gián tiếp và phương thức quản lý kết hợp. Để thực hiện mục tiêu


15

quản lý đã xác định, chủ thể quản lý sử dụng các phương pháp tác động đến
đối tượng quản lý. Căn cứ đặc điểm tính chất dạy học, đặc điểm quản lý, đặc
điểm đối tượng học ở trường Đại học Công đoàn, có thể sử dụng các phương
pháp quản lý cụ thể khác như: phương pháp kiểm tra; phương pháp rút kinh
nghiệm, phương pháp phát huy vai trò của đội ngũ GV và cán bộ quản lý SV
và phương pháp quản lý theo mục tiêu.
Biện pháp quản lý: là tổng hợp những cách thức, con đường, phương
tiện của cơ quan quản lý, cán bộ khoa, mộ môn, cán bộ QLGD để tổ chức,

điều khiển, theo dõi, kiểm tra hoạt động dạy của GV và hoạt động học của SV
theo mục tiêu, nhiệm vụ dạy học đã xác định.
1.2. Nội dung của quản lý quá trình dạy học ở trường Đại học Công Đoàn
* Quản lý việc thực hiện mục tiêu, chương trình đào tạo và kế hoạch
giảng dạy
Mục tiêu của đào tạo đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính
trị, đạo đức, có kiến thức và kỹ năng (kỹ năng tư duy, kỹ năng vận dụng, kỹ
năng giao tiếp…) tương xứng với trình độ được đào tạo, có khả năng phát
hiện, giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào
tạo, có khả năng tìm việc làm và tạo việc làm cho người khác.
Từ mục tiêu đào tạo đó, hiển nhiên dạy học ở đại học phải rất coi trọng
mục tiêu năng lực (năng lực tư duy, năng lực hành động) cho người học. Theo
khuyến cáo của các nhà tâm lý học sư phạm, năng lực người học hình thành
tốt nhất trong quá trình hoạt động nhận thức của mình, nếu dạy học quan tâm
thích đáng đến hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của người học thì người
học sẽ có cơ hội hình thành năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề.
Nội dung đào tạo ở đại học phải có tính hiện đại và phát triển, đảm bảo
cơ bản và chuyên sâu. Đảm bảo cho SV có những kiến thức khoa học cơ bản
và chuyên ngành cần thiết; chú trọng rèn luyện kỹ năng cơ bản và năng lực
thực hiện công tác chuyên môn, chính vì vậy tính cập nhật của nội dung đào
tạo ở đại học cần được quan tâm đúng mức.
Quản lý việc thực hiện mục tiêu, nội dung đào tạo được tiến hành trong
suốt quá trình đào tạo, thông qua việc quản lý hoạt động dạy và hoạt động


16

học, sao cho các kế hoạch đào tạo, nội dung chương trình giảng dạy được
thực hiện một cách đầy đủ, đúng về nội dung và tiến độ thời gian, cùng với
phương pháp phù hợp, nhằm đạt được các yêu cầu của mục tiêu đào tạo. Công

cụ chủ yếu của công tác quản lý việc thực hiện mục tiêu, nội dung đào tạo
chính là các chương trình khung, chương trình đào tạo cụ thể, đề cương học
phần, giáo trình, sách giáo khoa…. và hệ thống các văn bản pháp quy hiện
hành khác.
*Quản lý quá trình giảng dạy của GV
Quản lý hoạt động dạy của GV thực chất là quản lý việc thực hiện các
nhiệm vụ giảng dạy của đội ngũ GV và của từng GV, gồm các nội dung chủ
yếu sau:
Đánh giá được các mặt biểu hiện chính trị - tư tưởng, phẩm chất đạo
đức, trình độ nghề nghiệp của từng GV.
Theo dõi, đôn đốc thực hiện, đánh giá được kết quả thực hiện các
nhiệm vụ giảng dạy của toàn thể đội ngũ GV và của từng GV.
Theo dõi, chỉ đạo thực hiện và đánh giá được kết quả thực hiện việc tự
học tập, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và trình độ sư phạm của
đội ngũ GV và của từng GV.
*Quản lý quá trình học tập và kết quả học tập của SV
Quản lý hoạt động học của SV là quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ
học tập, nghiên cứu, rèn luyện của SV trong quá trình đào tạo, gồm các nội
dung chủ yếu sau:
Tìm hiểu để nắm được những biểu hiện tích cực và tiêu cực trong việc
thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện, những biến đổi nhân cách của tập thể
SV và của từng SV.
Khuyến khích SV phát huy các yếu tố tích cực, khắc phục các yếu tố
tiêu cực, phấn đấu vươn lên đạt kết quả học tập ngày càng cao.


17

Tổ chức hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của
SV theo mục tiêu yêu cầu dạy học của mỗi môn học, với những tiêu chuẩn,

tiêu chí đã xác định.
*Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả dạy, kết quả học
Trong quá trình đào tạo, việc kiểm tra đánh giá là một khâu cơ bản, là
một nhiệm vụ thường xuyên của nhà trường, là một yếu tố thúc đẩy việc điều
chỉnh quá trình dạy học trong môi trường nhà trường.
Mục đích của việc kiểm tra, đánh giá là xác định mức độ kết quả giảng
dạy và học tập của GV và SV sau khi kết thúc một bài, một phần, một chương
hay cả một khoá học, làm cơ sở cho việc điều chỉnh quá trình dạy học theo
hướng tích cực đảm bảo chất lượng.
Trong giáo dục đại học, tổ chức và quản lý việc xây dựng mục tiêu đào
tạo chuẩn nói chung, mục tiêu dạy học – giáo dục chuẩn cụ thể ở từng môn
học nói riêng là công việc đầu tiên. Gắn với việc xây dựng mục tiêu dạy học –
giáo dục chuẩn, các khoa, bộ môn và GV cần lựa chọn các hình thức, phương
pháp, công cụ kiểm tra, đánh giá phù hợp nhằm đo đạc, xác định mục tiêu dạy
học – giáo dục đã đạt đến mức độ nào.
- Các nguyên tắc của quản lý quá trình dạy học
Việc quản lý quá trình dạy học đại học phải tuân thủ những nguyên tắc
QLGD nói chung và áp dụng những nguyên tắc đó vào quản lý QTDH đại
học ở phạm vi một nhà trường.
Thống nhất giữa quản lý và chính trị: Đây là nguyên tắc cơ bản của
quản lý giáo dục nói chung và quản lý QTDH đại học nói riêng. QLGD là
trung tâm của hoạt động có ý nghĩa chính trị được tiến hành trong giáo dục.
Chính trị tồn tại và được thực hiện trong các mối quan hệ QLGD. Nguyên tắc
này đòi hỏi mọi chủ trương, chính sách giáo dục, những quy định đề ra phải
phục vụ đường lối và nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn.
Tập trung dân chủ: Nguyên tắc này thể hiện mối quan hệ biện chứng
giữa sự quản lý của Nhà nước về giáo dục và việc phát huy tối đa sáng kiến
đóng góp của đông đảo quần chúng nhân dân vào công tác tổ chức và QLGD.



18

Nguyên tắc này đòi hỏi thực hiện một cách nghiêm túc “tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách” trong quản lý quá trình đào tạo.
Kết hợp nhà trường và xã hội: Thực hiện nguyên tắc này có vai trò
quan trọng trong quản lý giáo dục, nó đòi hỏi phải kết hợp QLGD mang tính
chất nhà trường với quản lý giáo dục mang tính xã hội. Quần chúng nhân dân,
các tổ chức đoàn thể, xã hội cần tham gia tích cực vào quản lý sự nghiệp giáo
dục nói chung và quản lý QTDH đại học nói riêng, trên cơ sở của cơ chế phối
hợp giáo dục.
Đảm bảo tính khoa học. Quản lý QTDH đại học cần phải được xây
dựng trên những cơ sở khoa học, đặc biệt là khoa học quản lý, vận dụng
những thành tựu của nhiều khoa học khác như tâm lý học, giáo dục học,
điều khiển học, tổ chức lao động khoa học, …Nguyên tắc này đòi hỏi phải
đảm bảo tính hệ thống và tính tổng hợp trong quản lý QTDH đại học. Ví dụ
như tính tiên quyết, liên quan kiến thức giữa các môn học. Môn học trước
làm cơ sở cho môn học sau, môn học sau kế thừa và phát triển kiến thức
môn học trước.
Đảm bảo tính kế hoạch: Bất cứ hoạt động nào cũng đều cần đến kế
hoạch, hoạt động quản lý nói chung, quản lý QTDH đại học nói riêng luôn đòi
hỏi phải đảm bảo tính kế hoạch. Bởi vì kế hoạch là cơ sở của quản lý QTDH
đại học. Nguyên tắc này đòi hỏi quản lý QTDH đại học phải có kế hoạch
chính xác, phù hợp với trình độ yêu cầu quản lý thực tế, đồng thời cũng phải
có dự kiến việc kiểm tra giám sát thực hiện các kế hoạch đó.
1.3. Các yếu tố tác động tới quản lý quá trình dạy học ở trường đại
học Công Đoàn
1.3.1. Đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội đối với nhiệm vụ
GD&ĐT ở trường đại học
Đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay đã tác
động ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm vụ GD&ĐT của các trường đại học, trong

đó có trường Đại học Công đoàn.
Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo đại học là một yêu cầu bức
xúc của xã hội trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Việc Nhà nước quy định


19

các trường đại học phải thực hiện sự kiểm định chất lượng thông qua biện
pháp tự đánh giá và đánh giá ngoài để xác định vị trí và khả năng đào tạo của
mình trong hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
càng khẳng định quyết tâm của Nhà nước ta trong việc không ngừng đổi mới
và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
Cần phải có một sự đánh giá thật nghiêm túc, một cái nhìn toàn diện,
một sự điều chỉnh đồng bộ ở tất cả các khâu trong quản lý quá trình dạy học
của trường đại học. Sự thật hiện nay là sinh viên thường xuyên tìm cách vắng
mặt, hoặc nếu có đến lớp thì thường có thái độ học đối phó, thi cử chưa
nghiêm túc, không cầu thị kiến thức, chất lượng nhận thức yếu v.v… trách
nhiệm này không phải chỉ ở khâu quản lý sinh viên - thuộc các đơn vị làm
công tác quản lý học viên mà còn có một nguyên nhân trực tiếp rất sâu xa tác
động rất lớn vào quá trình quản lý sinh viên đó là nội dung chương trình học,
phương pháp giảng dạy, năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên đã ảnh
hưởng không nhỏ đến quá trình yêu thích, say mê học tập của sinh viên.
Hiện nay khi đất nước ngày càng hội nhập sâu vào tất cả các lĩnh vực
khác nhau của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ
thuật…của khu vực ASEAN và thế giới thì những thách thức đặt ra cho sự
phát triển KT-XH của đất nước, những đòi hỏi khắc nghiệt của cải cách, đổi
mới nền giáo ducjn]ơcs nhà trong đó có đổi mới quản lý quá trình dạy học ở
trường đại học ngày càng gay gắt hơn trước.
1.3.2. Yêu cầu cao về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
khoa học, kỹ thuật và công nghệ cao trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện

đại hoá và hội nhập quốc tế
Chưa khi nào GD&ĐT được các cấp, các ngành, toàn xã hội quan tâm
sâu sắc như hiện nay, khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức thương mại Thế giới (WTO). Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng tại các Đại hội đại biểu toàn quốc và gần đây, tại Đại
hội Đảng lần thứ XI đã nhấn mạnh, phát triển GD&ĐT là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế


20

và bền vững. Các hội nghị của Ban chấp hành trung ương Đảng sau đó cũng
nhấn mạnh phương hướng phát triển GD&ĐT trong giai đoạn hiện nay:
Nâng cao chất lượng toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và
học, hệ thống trường lớp và hệ thống QLGD; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa”. Thực hiện phương châm “học đi đôi với hành, giáo dục kết
hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội”. Mở rộng hợp lý quy
mô GD ĐH, làm chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả đào tạo. Sửa
đổi chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực của sự nghiệp
CNH, HĐH.
Mục tiêu của giáo dục thể hiện bằng phương châm chung là: nâng cao
dân trí, phát huy dân khí, đào tạo nhân lực, trọng dụng nhân tài. Nhân tài
không xuất hiện trong quá trình đào tạo ở nhà trường, mà chỉ thể hiện trong
quá trình sử dụng đúng người có trình độ kiến thức sâu rộng trong môi trường
kinh tế - xã hội thích hợp. Biết trọng dụng nhân tài, biết tạo điều kiện để nhân
tài phát huy tác dụng, thì nhiều nhân tài sẽ xuất hiện và khi nhân tài xuất hiện
thì phải được tiến cử đúng lúc, đúng chỗ.
Hiện nay, hầu như tất cả các nước đều đề ra và thực hiện chương trình
cải cách giáo dục, đặc biệt là đối với hệ thống đại học. Tất nhiên, chúng ta cần

nghiên cứu kinh nghiệm của các nước. Nhưng ở mọi quốc gia, nền giáo dục
đều có lịch sử phát triển, truyền thống và kinh nghiệm riêng. Do đó, trên thế
giới không thể tìm thấy hai quốc gia nào có hệ thống giáo dục hoàn toàn đồng
nhất. Chính vì thế mới có chuyện phải tiến hành các thủ tục công nhận bằng
cấp và học vị của nhau, như chúng ta đều biết, mặc dù xu thế hoà nhập về nội
dung đào tạo và cấu trúc đại học đang được quan tâm ở nhiều nước.
Đối với nước ta các nhân tố khách quan bên ngoài hệ thống giáo dục
hiện hữu tác động vào hệ thống giáo dục bao gồm: Sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hóa với mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Do vậy, đòi hỏi hệ thống giáo dục và
đào tạo phải cung cấp đủ nhân lực có trình độ cao chậm nhất cũng trước năm


21

2010. Chính vì thế, cuộc cách mạng giáo dục mới phải bắt đầu từ bậc đại học
- cao đẳng.
Nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu và rộng vào thị trường và
nền kinh tế thế giới. Cơ chế kinh tế đã thay đổi đòi hỏi phải thay đổi cơ chế
quản lý và tổ chức hệ thống giáo dục, đặc biệt là cơ chế quản lý bậc đại học
và cao đẳng, bậc học có mục tiêu cung cấp lực lượng lao động có trình độ cao
cho thị trường nhân lực. Hệ quả đương nhiên là thị trường nhân lực có trình
độ cao đòi hỏi phải hình thành thị trường đại học - cao đẳng.
Các trường đại học và cao đẳng phải cạnh tranh để thu hút SV. Do đó
các trường phải có quyền tự chủ cao trong việc tuyển sinh, thành lập và giải
thể các Khoa, các Bộ môn, tuyển giáo sư, giảng viên tuỳ theo nhu cầu của
trường. Các trường đại học và cao đẳng dần dần không còn có chủ quản như
hiện nay, mà hoạt động theo Luật giáo dục mới và các quy định của pháp luật.
Điều này sẽ có tác dụng rất lớn trong việc phân luồng học sinh tốt nghiệp
trung học, nếu chúng ta có thể đánh giá xếp hạng (accreditation) các trường

như nhiều nước đã làm đặc biệt là ở Hoa Kỳ. Với một cơ chế thích hợp, các
Hội khoa học - kỹ thuật quốc gia kết hợp với các Hội doanh nghiệp và các
Hội nghề nghiệp khác hoàn toàn có thể đánh giá khách quan và xếp hạng các
trường đại học và cao đẳng. Khi đó vai trò và trách nhiệm xã hội của các Hội
nghề nghiệp sẽ được nâng cao.
Xu hướng phát triển các hệ thống đại học - cao đẳng trên thế giới có tác
động rất lớn đến quá trình đổi mới hệ thống đại học - cao đẳng ở nước ta. Các
xu hướng dễ dàng nhận thấy bao gồm: đào tạo đại trà, tuyển sinh dễ dàng và
sàng lọc chặt chẽ trong quá trình đào tạo học suốt đời, thường xuyên bằng các
hình thức đào tạo khác nhau, đào tạo liên ngành, kết hợp chức năng đào tạo
với chức năng nghiên cứu khoa học và chuyển giao tri thức công nghệ.
Chính vì vậy, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
khoa học, kỹ thuật và công nghệ cao trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hội nhập quốc tế là một yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Muốn thực hiện được điều này thì chúng ta phải có những phương hướng cụ
thể như:


22

- Tập trung mọi nguồn lực tạo sự chuyển biến đột phá cho bậc đại học cao đẳng. Khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức và cá nhân thành
lập nhiều trường đại học và cao đẳng ở các vùng kinh tế - văn hoá - xã hội. Có
các chính sách và giải pháp ưu tiên để huy động mọi nguồn lực trong xã hội
cho sự phát triển về số lượng và chất lượng bậc đại học và cao đẳng với hai
hình thức tổ chức công lập và tư thục. Sẽ có người đặt câu hỏi: Đội ngũ giảng
dạy đại học và cao đẳng hiện nay vừa yếu lại vừa thiếu, thì làm sao bảo đảm
chất lượng đào tạo? Chúng ta có thể đặt câu hỏi ngược lại: Đã có bao nhiêu
phần trăm đội ngũ khoa học và công nghệ có trình độ cao được tham gia đào
tạo? Đó là chưa kể một lực lượng khá đông đảo các nhà khoa học và kỹ sư về
hưu theo luật lao động có thể tham gia đào tạo ở các trường đại học và cao

đẳng. Về mặt chất lượng đào tạo chúng ta cũng cần có cách đánh giá mới.
Chính người sử dụng nhân lực mới đánh giá đúng chất lượng đào tạo của nhà
trường. Một tổ chức chỉ bao gồm các giáo sư cũng không thể làm điều đó. Nói
khác đi, thị trường nhân lực khoa học - công nghệ sẽ điều chỉnh chất lượng
đào tạo, cũng như quy mô đào tạo. Vả lại, để tồn tại và phát triển trong môi
trường cạnh tranh bản thân nhà trường phải nâng cao chất lượng đào tạo để
thu hút sinh viên và đứng vững trên thị trường đại học - cao đẳng.
- Gắn đào tạo với sử dụng lực lượng lao động được đào tạo. Có chính
sách tuyển chọn và sử dụng lao động hợp lý dựa theo năng lực và hiệu quả,
thì vấn đề mâu thuẫn giữa đào tạo và sử dụng, hiện tượng tiêu cực trong bằng
cấp hoặc kiếm bằng theo các cách phi đạo đức sẽ được giải quyết. Trong môi
trường cạnh tranh lành mạnh, lấy hiệu quả làm thước đo, không tổ chức kinh
tế, tổ chức quản lý, tổ chức xã hội nào lại chỉ dựa vào mảnh bằng để tuyển
chọn, sắp xếp và đề bạt cán bộ, nhân viên. Bằng cấp chỉ có giá trị thông tin
cho biết người có bằng trải qua một quá trình đào tạo nhất định. Do đó, cần
phải xây dựng và thực hiện chính sách sử dụng nhân lực được đào tạo theo
quan điểm mới. Thực ra vài chục năm trước đây chúng ta đã từng thực hiện
điều này.
- Trong giai đoạn cách mạng khoa học và công nghệ sôi động như hiện
nay, nhất là khi nền kinh tế nhiều nước lần lượt phát triển lên bậc thang kinh


23

tế tri thức, một vấn đề lớn được đặt ra đối với hệ thống đào tạo đại học và cao
đẳng là đào tạo chuyên sâu (specialized training) hay đào tạo rộng
(generalized training). Ngày nay hiện tượng: "đổi nghề" nhiều lần trong đời
làm việc đã trở nên phổ biến. Ngoài ra, những vấn đề phải giải quyết trong
thực tiễn đều có tính liên ngành. Do đó, hệ thống đại học và cao đẳng nước ta
nên chọn cách đào tạo rộng là chủ yếu, thời gian đào tạo có thể rút ngắn bớt.

Nhà nước chỉ nên tập trung phát triển một số trường, một số khoa đào tạo
chuyên sâu để tạo ra đội ngũ có tài năng cung cấp cho hoạt động nghiên cứu
khoa học, phát triển văn hóa - nghệ thuật, tạo ra và phát triển công nghệ mới.
- Để đổi mới bản thân hệ thống GD&ĐT đại học và cao đẳng, nhiều
nhà giáo và nhà khoa học có tâm huyết đó đưa ra nhiều biện pháp rất thiết
thực và khá cụ thể. Về lĩnh vực này, để hoàn thiện hơn cần tổ chức thi tuyển
đối với một số trường đào tạo chuyên sâu, trường năng khiếu. Việc tuyển sinh
nên để cho các trường chủ động thực hiện. Việc xây dựng chương trình và nội
dung kiến thức phải do một tập thể các nhà giáo, các nhà khoa học và kỹ sư ở
các viện nghiên cứu và trong các doanh nghiệp thực hiện để gắn đào tạo với
nhu cầu thực tiễn.
Gần 20 năm đổi mới và phát triển, kinh tế Việt Nam đã có những bước
phát triển vượt bậc và không ngừng khẳng định vị thế trên trường quốc tế và
trong khu vực. Những lợi thế của nền kinh tế trong những ngày đầu đổi mới
giờ đây không còn nhiều và những khó khăn thách thức đang xuất hiện.
Hội nhập kinh tế quốc tế bao hàm nhiều nội dung phức tạp, quan hệ
chặt chẽ với nhau. Các hoạt động cơ bản là thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và
tạo môi trường thu hút đầu tư nước ngoài và tựu chung lại là tham gia vào quá
trình phân công lao động quốc tế. Trong quá trình cạnh tranh lao động quốc
tế, ở các quốc gia đang phát triển có nguồn nhân lực nhiều về số lượng nhng
nghèo về chất lượng sẽ bị thua thiệt nhiều và dần dần sẽ bị dồn vào những
lĩnh vực sản xuất đòi hỏi nhiều lao động và thấp về công nghệ, kỹ thuật và
vốn. Xu hướng sử dụng lao động rẻ và thị trường nội địa của các nhà đầu tư
đang dần tác động vào lực lượng lao động của Việt Nam.


24

Về chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá trình hội nhập,
bên cạnh những tiến bộ đạt được, theo một nghiên cứu gần đây đánh giá chất

lượng lao động của lao động Việt Nam đạt 32 điểm (32/100) và theo nhận
định chung nếu dưới 35 điểm lực lượng lao động đang có nguy cơ mất thế
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nếu chất lượng đội ngũ lao động không
tốt, không ứng dụng và sản xuất trên nền công nghệ tiên tiến, sẽ dẫn đến sản
xuất ra những hàng hóa chất lượng không cao, không giảm được chi phí sản
xuất khó khăn trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
Trong một thị trường lao động cạnh tranh trực tiếp, nếu lực lượng lao
động Việt Nam không đảm nhiệm được các công nghệ sản xuất hiện đại, kỹ
thuật cao, buộc nhà nước phải cho phép thuê nhân công nước ngoài (kỹ thuật
cao, quản lý) vào làm việc ngay trên thị trường lao động trong nước. Trong
trường hợp ngược lại, chất lượng lao động chúng ta cao, dồi dào lao động kỹ
thuật cao, chúng ta sẽ xuất khẩu những lao động này ra thị trường lao động
quốc tế.
Những thành công hay thất bại trong cạnh tranh dành giật được việc
làm trên thị trường lao động trong nước và quốc tế phụ thuộc chính vào lực
lượng lao động của chúng ta. Như vậy, việc nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ cao trong giai
đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế là một yêu cầu cấp
thiết hiện nay đối với giáo dục.
1.3.3. Đặc điểm của quá trình dạy học ở trường đại học và những đòi
hỏi cao về chất lượng người dạy (GV) và chất lượng người học (SV)
Trước đây, giáo dục được coi là phúc lợi xã hội, có đến đâu làm đến đó,
giáo dục là một trong các nhân tố thúc đẩy phát triển KT – XH nhưng chưa
được xem trọng. Từ sau khi đất nước ta mở cửa hội nhập, Đảng và Nhà nước
đã nhận thức sâu sắc rằng muốn cho đất nước phát triển thì phải làm công
nghiệp, muốn phát triển công nghiệp thì phải có trang thiết bị, có người điều
khiển trang thiết bị đó. Muốn tiếp cận với công nghệ cao thì phải cần một đội
ngũ cán bộ, công nhân trình độ cao. Mà đội ngũ này chỉ có được từ GD&ĐT
mà đặc biệt là từ GDĐH. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã đặt giáo dục lên



25

hàng đầu, coi giáo dục là động lực phát triển KT - XH. Điều này được thể
hiện rõ nhất trong phương hướng phát triển GD&ĐT được đưa ra tại các Đại
hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, với các tinh thần coi GD&ĐT là quốc sách
hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Đổi mới hệ thống GDĐH,
kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công
nghệ tiên tiến. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp
hiện đại vào quá trình đào tạo; phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo
thường xuyên và rộng khắp.
Giáo dục với vị trí hàng đầu, nó không còn là phúc lợi xã hội nữa mà là
một bộ phận quan trọng thúc đẩy phát triển KT-XH. Chính vì điều này mà
mục tiêu, nội dung, phương pháp, đối tượng của quá trình đào tạo phải được
thay đổi. Mục tiêu đào tạo phải đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH. Các
trường Đại học có sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng
nhu cầu của thị trường lao động trong mỗi thời kỳ phát triển KT-XH của đất
nước về cả số lượng và chất lượng. Nội dung, phương pháp, phương tiện dạy
học phải cập nhật được những thành tựu mới về khoa học, kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến trên thế giới. Phải có đội ngũ giảng viên có trình độ khoa học
cao, có phẩm chất tốt, hết lòng cống hiến cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ
thành những người lao động giỏi, người công dân tốt. Đó là đội ngũ những
người trí thức ham học hỏi để không ngừng trau đồi kiến thức, năng lực đào
tạo và nghiên cứu khoa học. Phải có đội ngũ sinh viên năng động, chủ động,
sáng tạo, hăng say học tập, nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, công nghệ; có ý
thức lập thân, lập nghiệp và cống hiến tài năng cho sự nghiệp xây dựng đất
nước, phát triển KT-XH.
QTDH ở đại học có trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao, có sứ
mạng đào tạo đội ngũ lao động có trình độ cao, đáp ứng nhu cầu của thị

trường lao động cả về số lượng và chất lượng, phục vụ đắc lực cho công cuộc
CNH, HĐH đất nước. QTDH bao gồm nhiều thành tố, các thành tố có quan
hệ tương hỗ với nhau, tạo ra một quá trình toàn vẹn. Tuy nhiên, người dạy và
người học là những thành tố quan trọng nhất. Người học là trung tâm của quá


×