MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ NĂNG
SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ
SỞ
1.1. Các khái niệm công cụ của đề tài
1.2. Nội dung quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các
trường trung học cơ sở
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh các trường trung học cơ sở
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ
SỞ HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát chung về đặc điểm kinh tế, xã hội và giáo dục
trung học cơ sở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
2.2. Thực trạng giáo dục kỹ năng sống, quản lý giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh các trung học cơ sở huyện Chương
Mỹ, thành phố Hà Nội
Chương 3. YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Yêu cầu quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các trường
trung học cơ sở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
3.2. Biện pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các trường
trung học cơ sở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
3.3. Tổ chức khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Trang
3
17
17
37
42
45
45
49
76
76
78
97
103
106
110
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật bên cạnh các
lĩnh vực kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế đã và đang tạo ra những tác động
đa chiều, phức tạp ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách
khiến cho con người phải thay đổi cách thích nghi cho phù hợp. Thực tiễn đó
khiến các nhà quản lý giáo dục và những người tâm huyết với sự nghiệp giáo dục
đặc biệt quan tâm đến vấn đề GDKNS cho thế hệ trẻ, trong đó có học sinh các
trường THCS. Thế hệ các em ngày nay sống trong môi trường đan xen những cái
tốt và cả những cái chưa tốt, thường phải đương đầu với những rủi ro, đe dọa sức
khỏe và hạn chế cơ hội học tập. GDKNS có thể cung cấp cho các em các kỹ năng
để tự giải quyết được các vấn đề nảy sinh từ các tình huống thách thức.
Kỹ năng sống vừa mang tính xã hội vừa mang tính cá nhân. GDKNS
trở thành mục tiêu và là một nhiệm vụ trong giáo dục nhân cách toàn diện.
Mặt khác, kỹ năng sống là một thành phần quan trọng trong nhân cách con
người trong xã hội hiện đại. Muốn tồn tại và phát triển trong xã hội hiện đại,
con người phải có kỹ năng sống.
Nội dung GDKNS đã được nhiều quốc gia trên thế giới đưa vào giáo
dục cho học sinh trong các trường phổ thông, dưới nhiều hình thức khác nhau.
Chương trình hành động Dakar về Giáo dục cho mọi người (Senegal-2000) đã
đặt ra trách nhiệm cho mỗi quốc gia phải đảm bảo cho người học tiếp cận với
chương trình GDKNS phù hợp và kỹ năng sống cần được coi như một nội
dung của chất lượng giáo dục. Giáo dục tốt kỹ năng sống giúp con người
nhanh chóng thích nghi với tự nhiên và xã hội, vượt lên những khó khăn thậm
chí cả thảm họa. Trong năm 2011, tại Nhật Bản qua cách ứng xử của người
dân (trong đó có cả học sinh bậc học THCS) sau cơn sóng thần tàn phá đã
thấy được sự ưu việt qua cách giáo dục và rèn luyện GDKNS cho tất cả mọi
người ở đất nước này.
3
Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp
ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất
nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học.
Giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của
giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kỹ năng sống. Đó là: Học
để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống.
Mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị
kiến thức hình thành những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Phương
pháp giáo dục phổ thông cũng đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh. Nội dung GDKNS đã được tích hợp trong một số môn
học và hoạt động giáo dục có tiềm năng trong trường phổ thông. Việc
GDKNS cho học sinh phổ thông còn được thực hiện thông qua nhiều chương
trình, dự án như: Giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục phòng chống
HIV/AIDS, giáo dục phòng chống ma túy, giáo dục phòng tránh tai nạn
thương tích,... Đặc biệt, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được xác định là
một trong những nội dung cơ bản của Phong trào thi đua “Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông, giai đoạn
2008-2013. Tuy nhiên, việc tích hợp GDKNS vào nội dung môn học, thông
qua hoạt động giáo dục nào, bằng phương pháp nào, thời lượng, cơ cấu
chương trình và cách tổ chức thực hiện ra sao là những câu hỏi đặt ra đòi hỏi
phải giải đáp.
Giáo dục và đào tạo con người phát triển toàn diện là mục tiêu của tất
cả các nhà trường. Trong Điều 2 của Luật giáo dục (2005) có nêu như sau:
“Mục tiêu của giáo dục là Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, có tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
4
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
và xây dựng Tổ quốc".[21, tr.1]
Sau gần 30 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam liên tục phát triển; an ninh
quốc phòng được giữ vững. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã trở thành
một xu hướng tất yếu. Điều đó đã mang lại những ảnh hưởng tích cực và tiêu
cực đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Nghị
quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 Hội nghị TW 9 khoá XI về xây dựng
văn hoá đã đánh giá: “So với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hoá chưa tương
xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn
hoá lành mạnh..” Nghị quyết cũng đã xác định mục tiêu và nhiệm vụ của đất
nước trong thời gian tới “xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát
triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học”
Để có thể thực hiện mục tiêu trên thì nhà trường, gia đình, xã hội cần đẩy
mạnh GDKNS cho học sinh. Chỉ thị 3008/CT-BGD&ĐT ngày 18/4/2014 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ một trong các nhiệm vụ của giáo
dục phổ thông là “Giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh”.
Nhưng có một thực trạng rất đáng báo động, gây ra nhiều hậu quả
nghiêm trọng cho gia đình và xã hội, đó là tình trạng xuống cấp, suy thoái về
đạo đức của một bộ phận thanh thiếu niên, đặc biệt là tuổi vị thành niên. Hiện
tượng đánh nhau tập thể ngày càng gia tăng bất chấp sự can thiệp của người
lớn, gây thương tích cả về tinh thần và sức khoẻ. Hiện tượng hóc sinh hút
thuốc lá, uống rượu, tiêm chích ma tuý, quan hệ tình dục sớm, thậm chí là tự
sát khi gặp vấn đề vướng mắc trong cuộc sống, nhiều em học sinh có hoàn
cảnh bố mẹ ly hôn, không được quan tâm dạy dỗ, gia đình phá sản, người
thân mất, học tập kém.... Theo số liệu thống kê hàng năm, số đối tượng vi
phạm pháp luật trong lứa tuổi thanh thiếu niên luôn chiếm tỉ lệ trên 70%,
5
trong số này không ít đã từng là học sinh, sinh viên. Nhưng nguyên nhân từ
đâu đã đưa đẩy các em vào vòng lao lý này? Qua tìm hiểu chúng tôi được
biết, ngoài những nguyên nhân chủ yếu là do lối sống thực dụng, đua đòi,
buông thả, sớm thỏa mãn những gì đang có và bắt đầu thích hưởng thụ. Bên
cạnh đó, sự buông lỏng trong việc kết hợp quản lý giữa gia đình, nhà trường
và xã hội, nhiều ban ngành, đoàn thể chưa thực sự vào cuộc, cùng với ý thức
rèn luyện kém của một bộ phận thanh thiếu niên chính là một trong nguyên
nhân dẫn đến hậu quả này. Cũng không ít trường hợp, xuất phát từ hoàn cảnh
gia đình cha mẹ lo làm ăn, cha mẹ ly hôn, bỏ mặc con em lêu lổng, chán đời
“quậy phá” và vi phạm pháp luật là điều khó tránh khỏi. Điển hình trong
tháng 4/2016 vừa qua, chị em của Nguyễn Thị Kim Chi (SN 1992) và Nguyễn
Xuân Sang (SN 1995) cùng trú tại 02 Urê, P. Quang Trung. Tp. Kon Tum lần
lượt sa vào vòng lao lý. Được biết cả 02 đều là đối tượng nghiện ma tuý.
Trước đó, vào lúc 8h sáng ngày 09/4/2013 lực lượng trinh sát Công an Thành
phố Kon Tum đang trên đường tuần tra khu vực phường Trường Chinh thì
phát hiện Chi cùng chồng tên Bùi Nghĩa Đức (SN 1992) trú tại thôn 5, xã
Diên Bình, huyện Đăk Tô có nhiều biểu hiện nghi vấn. Qua kiểm tra hành
chính và khám xét trên người, lực lượng chức năng thu giữ gói bột màu trắng
mà Chi khai nhận đó là chất ma tuý mua về để sử dụng. Với hành vi của
mình, cơ quan chức năng đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can bắt
tạm giam Chi và Đức về tội Tàng trữ và mua bán trái phép chất ma tuý.
Chính từ sự quản lý lỏng lẻo của gia đình và quan trọng là lối sống sai
lầm của một bộ phận thanh thiếu niên nên tình trạng tụ tập thành băng nhóm,
uống rượu bia, gây rối trật tự công cộng, đánh nhau gây thương tích, tổ chức
đánh bạc, đua xe, trộm cắp, cướp giật.v.v. đã bắt đầu len lỏi, xâm nhập mạnh
vào đối tượng thanh thiếu niên. Do vậy mà tình trạng thanh thiếu niên vi
phạm ngày càng gia tăng là điều không tránh khỏi.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên nhưng có một nguyên
nhân không thể phủ nhận là do cách giáo dục trong các nhà trường. Sự gia
6
tăng của những tội phạm nhỏ tuổi chính là một biểu hiện cho thấy sự thiếu hụt
của nhà trường trong vấn đề GDKNS cho học sinh. Do đó, việc giáo dục kỹ
năng sống và hoạt động quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh hiện nay là vấn đề vô cùng cấp thiết đối với không chỉ các nhà trường mà
còn là nhiệm vụ chung của toàn ngành giáo dục.
Hiện nay, tuổi vị thành niên là lứa tuổi từ 10 - 19 tuổi, là tuổi đang xảy
ra rất nhiều sự thay đổi về mặt tâm sinh lý nhận thức, định hướng cuộc sống
chưa rõ ràng, hay bộc phát về hành vi. Bên cạnh đó, các em đang sống trong
một xã hội hiện đại đầy biến động mà gia đình và nhà trường lại không phải là
chỗ dựa vững chắc cho tâm lý của các em. Nhiều học sinh rất lúng túng trong
việc tìm cách thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và vượt qua stress hay khúc
mắc về tình cảm. Nguyên nhân của việc này chính là vì giới trẻ chưa được
trang bị kỹ năng sống, và đặc biệt là chưa được phụ huynh, nhà trường quan
tâm dạy. Một thực tế cho thấy, mặc dù dư luận đã nói nhiều, ngành giáo dục
cũng đã có những động thái trong việc cố gắng đưa kỹ năng sống vào trường
học, tuy nhiên, dạy cái gì, dạy như thế nào lại là điều cần phải bàn. Hiện nay,
chưa có một bộ chuẩn về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nên các trường
vẫn đang “tự bơi”, mỗi nơi dạy một kiểu. Chính vì thế, việc giáo dục kỹ năng
này hoặc chỉ dừng lại ở các tiết học giáo dục công dân hoặc bị bỏ lửng hoàn
toàn. Những bài giảng trên lớp chỉ có thể giúp các em hình dung về kỹ năng
sống chứ chưa thật sự hiểu hoặc cảm thấy có ích với bản thân mình.
Theo các chuyên gia tâm lý, học kỹ năng sống cũng giống như học bơi,
phải nhảy xuống nước chứ không thể đứng trên bờ nhìn mà biết bơi được. Bồi
đắp kỹ năng sống cho học sinh phải được thực hiện từ cấp tiểu học, thậm chí
mầm non, phải gắn liền với hoạt động hàng ngày của các em như giao tiếp,
rèn luyện bản lĩnh cá nhân, bảo vệ bản thân, có tinh thần đồng đội và biết chia
sẻ…Tuy nhiên, ở các thành phố lớn, học sinh còn có nhiều điều kiện được
tiếp xúc, học hỏi về kỹ năng sống tại các trung tâm, nhưng ở các địa phương,
nông thôn, vùng sâu vùng xa, kỹ năng sống vẫn là một cái gì đó rất xa vời.
7
Nhận thức rõ tầm quan trọng của quản lý GDKNS cho học sinh nên thời
gian qua các trường THCS ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội đã rất quan
tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, đây là vấn đề còn mới mẻ đối với học sinh và cả
đối với các thầy cô giáo, các nhà quản lý giáo dục. Vì vậy, tình trạng học sinh vi
phạm pháp luật, vi phạm nội quy nhà trường vẫn chưa có xu hướng giảm...Một
trong những nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém đó chính là sự
quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các trường THCS chưa được quan
tâm đúng mức, chưa có những nội dung và hình thức tổ chức phù hợp.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Quản lý giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh các trường trung học cơ sở huyện Chương
Mỹ, thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các nghiên cứu trên thế giới
Xã hội ngày nay có sự thay đổi toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội và
lối sống với tốc độ nhanh đã làm nảy sinh những vấn đề mà trước đây con
người chưa gặp, chưa trải nghiệm, chưa phải ứng phó, đương đầu. Hoặc có
những vấn đề đã xuất hiện trước đây, nhưng nó chưa phức tạp, khó khăn và
đầy thách thức như trong xã hội hiện đại, nên con người dễ hành động theo
cảm tính và không tránh khỏi rủi ro. Nói cách khác, để đến bến bờ thành công
và hạnh phúc trong xã hội hiện đại, con người cần phải có kỹ năng sống.
Vì vậy, kế hoạch hành động Dakar về giáo dục cho mọi người mỗi
quốc gia cần đảm bảo cho người học được tiếp cận chương trình GDKNS phù
hợp (mục tiêu 3) và kỹ năng sống của người học là một tiêu chí của chất
lượng giáo dục. Cho nên, trong mục tiêu 6 của chương trình đã coi kỹ năng
sống là một khía cạnh của chất lượng giáo dục. Đánh giá chất lượng giáo dục
cần tính đến những tiêu chí đánh giá kĩ năng sống của người học. Như vậy
tiến hành GDKNS để nâng cao chất lượng giáo dục.
Nhu cầu vận dụng kỹ năng sống một cách trực tiếp, hay gián tiếp được
nhấn mạnh trong nhiều khuyến nghị mang tính quốc tế, bao gồm cả trong
8
Diễn đàn giáo dục cho mọi người (thể hiện trong chương trình hành động
Dakar) trong việc thực hiện Công ước Quyền trẻ em; trong Hội nghị quốc tế
về dân số và phát triển và giáo dục cho mọi người. Gần đây nhất là trong
Tuyên bố về cam kết của Tiểu ban đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về HIV/AIDS
(tháng 6 năm 2001), các nước đó đồng ý rằng “Đến năm 2005 đảm bảo rằng ít
nhất có 90% và vào năm 2010 ít nhất có 95% thanh niên và phụ nữ tuổi từ 15
đến 24 có thể tiếp cận thông tin, giáo dục và dịch vụ cần thiết để phát triển kỹ
năng sống để giảm những tổn thương do sự lây nhiễm HIV” [43, tr.4].
Diễn đàn Giáo dục Thế giới Dakar, tháng 5/2000 trường học thân thiện
với người học được phản ánh trong quan điểm toàn diện về chất lượng được
nêu trong Khuôn khổ Hành động Dakar. UNESCO và UNICEF đó nhận thấy
mô hình “trường học thân thiện” với các yếu tố của nó là một giải pháp nâng
cao chất lượng và đảm bảo công bằng giáo dục. Vì vậy mô hình này đó được
phổ biến, áp dụng ở 40 quốc gia trên thế giới. Trong mô hình trường học thân
thiện tiêu chí giáo dục kỹ năng sống vừa như là một biểu hiện của chất lượng
giáo dục, vừa để giúp Học sinh sống an toàn.
* Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ kỹ năng sống bắt đầu được biết đến từ chương
trình của UNICEF (1996) “Giáo dục kỹ sống để bảo vệ sức khỏe và phòng
chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” thông qua
quá trình thực hiện chương trình này, nội dung của khái niệm kỹ năng sống và
giáo dục kỹ năng sống ngày càng được mở rộng.[47, tr.8]
Một trong những người đầu tiên có những nghiên cứu mang tính hệ
thống về kĩ năng sống và GDKNS ở Việt Nam là tác giả Nguyễn Thanh Bình
[10]. Với một loạt các bài báo, các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ và giáo
trình, tài liệu tham khảo...Tác giả và cộng sự đã triển khai nghiên cứu tổng
quan về quá trình nhận thức về kĩ năng sống và đề xuất yêu cầu tiếp cận kỹ
năng sống trong giáo dục và GDKNS ở nhà trường phổ thông, đồng thời tìm
9
hiểu thực trạng GDKNS cho người học từ trẻ mầm non đến người lớn thông
qua giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên ở Việt Nam. Trên cơ sở đó
xác định thách thức và định hướng trong tương lai để đẩy mạnh GDKNS ở
Việt Nam trên cơ sở thực tiễn ở Việt Nam và đối chiếu với mục tiêu 3 và mục
tiêu 6 của Chương trình hành động Dakar (Trong khuôn khổ hợp tác giữa
Viện chiến lược là chương trình giáo dục với UNESCO tại Hà Nội)[43] .
Trên cơ sở phân tích, so sánh, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tổng hợp,
khái quát hoá qua nghiên cứu hai chu kỳ đề tài cấp Bộ về Giáo dục KNS cho học
sinh THPT...tác giả Nguyễn Thanh Bình đã xây dựng được khung lý luận về
GDKNS từ xác định thuật ngữ, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, nguyên tắc, phương
pháp giáo dục cho đến đánh giá kết quả và tác động của GDKNS.
Một số kết quả nghiên cứu khác có giá trị quan trọng trong việc lập quan
điểm phương pháp luận cũng như định hướng và tiếp cận trong việc nghiên cứu kĩ
năng sống, GDKNS cho học sinh như đề tài “Thực trạng phạm tội của học sinh sinh viên Việt Nam trong mấy năm gần đây và vấn đề giáo dục pháp luật trong
nhà trường” của tác giả Vương Thanh Hương và Nguyễn Minh Đức.[27, tr.5]
Trong đề tài nghiên cứu của tác giả Lê Thị Thanh Xuân (2014) “Quản lý
hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các trường tiểu học trên địa bàn
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội” [18] và tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng
(2015) “Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động dạy
học ở trường THCS thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh” [19] đã nghiên cứu
và mô tả sinh động, đầy đủ, hệ thống về tiếp cận và thực hiện giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh do Ngành giáo dục thực hiện. Ngành giáo dục đã triển khai
chương trình GDKNS vào hệ thống giáo dục chính quy và không chính quy. Nội
dung giáo dục của nhà trường phổ thông được định hướng bởi mục tiêu GDKNS.
Theo đó, các nội dung GDKNS được triển khai theo các cấp học như:
Chương trình cải cách của giáo dục mầm non (1994) đã chú ý đến giáo
dục hành vi, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng giao tiếp ứng xử. Chương trình
10
khung chăm sóc giáo dục trẻ đã chú trọng các nội dung như: phát triển thể
chất, nhận thức, phát triển ngôn ngữ, tình cảm, nghệ thuật của trẻ.
GDKNS ở bậc tiểu học tập trung vào các kỹ năng chính, kỹ năng cơ
bản như đọc, viết, tính toán, nghe, nói; coi trọng đúng mức các kỹ năng sống
trong cộng đồng, thích ứng với những thay đổi diễn ra hàng ngày trong xã hội
hiện đại, hình thành các kỹ năng tư duy sáng tạo, phê phán, giải quyết vấn đề,
ra quyết định, trí tưởng tượng....
Giáo dục trung học cơ sở chú trọng giáo dục các kỹ năng sống cơ
bản cho học sinh như: năng lực thích nghi, năng lực hành động, năng lực ứng
xử, năng lực tự học suốt đời; định hướng để học sinh học để biết, học để làm,
học để chung sống và học để tự khẳng định.
Với các bậc học trên, việc GDKNS được chủ yếu thông qua chương trình
các môn học và các hoạt động GDKNScủa nhà trường cùng với một số chương
trình dự án do nước ngoài tài trợ. Ví dụ: với trung học cơ sở, những môn học
nhằm khai thác, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là các môn: Công nghệ, môn
Giáo dục công dân, bài học về địa phương....
Tuy nhiên, theo tác giả Hà Nhật Thăng: “GDKNS cho học sinh là một
quá trình tổ chức hoạt động bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau
thông qua nhiều lực lượng xã hội nhằm giúp các em có hiểu biết về những việc
cần phải làm, phải tránh, đặc biệt giúp các em rèn luyện để có kĩ năng ứng xử
phù hợp với các tình huống tốt, xấu có thể gặp trong cuộc sống" [38, tr.12].
Hơn nữa, qua tập hợp nghiên cứu, phân tích tổng hợp và tổng quan vấn đề
từ việc khảo sát các đề tài liên quan ở trong nước và có thể đưa ra nhận định:
- Chủ yếu các đề tài phân tích làm rõ tính cấp bách của vấn đề kỹ năng
sống, GDKNS chưa tập trung giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu lý luận một
cách có hệ thống về phương pháp, hình thức GDKNS cho học sinh, sinh viên
nói chung và học sinh THCS nói riêng.
- Các đề tài đã đề cập đến những hình thức GDKNS cụ thể và chưa có
11
kết quả thử nghiệm rõ ràng, cụ thể nên tính thuyết phục chưa cao.
- Trong các trường THCS hoạt động Đội TNTP Hồ Chí Minh vốn có
rất nhiều hoạt động rèn luyện KNS và có ưu thế thực hiện GDKNS theo mục
tiêu giáo dục THCS. Nếu quản lí nhà trường đổi mới kế hoạch hoạt động, tích
hợp những kỹ năng sống cần giáo dục vào hoạt động Đội thiếu niên tiền
phong Hồ Chí Minh để học sinh lựa chọn, trải nghiệm và phát huy vài trò của
mình với tập thể và xã hội, rèn cho các em lối sống biết tôn trọng, yêu quý tập
thể, hình thành tác phong nhanh nhẹn và nề nếp kỉ luật thì hiệu quả chất lượng
GDKNS sẽ được nâng cao.
Những phân tích trên đây cho thấy, GDKNS cho học sinh THCS mặc
dù đã được định hướng bởi mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục, mà qua
những hoạt động thực tiễn giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ
sở còn một số hạn chế. GDKNS là việc đòi hỏi sự tham gia của rất nhiều lực
lượng xã hội bao gồm cả gia đình, nhà trường, và xã hội và bằng nhiều hình
thức khác nhau. Tuy nhiên, việc GDKNS tại các trường học chỉ mới dừng lại
ở trên lớp, trong các tiết học như: HĐNGLL, giáo dục công dân,...hay sự lồng
ghép trong một số hoạt động GDKNS. Mục đích của GDKNS cho học sinh trong
giờ giảng, trong các hoạt động chưa được xác định đúng mức, rõ ràng vì thế hiệu
quả của việc GDKNS cho các em còn nhiều hạn chế. Do vậy, cần thiết phải khai
thác nội lực của chính GDKNS nhằm thực hiện có hiệu quả nội dung GDKNS
cho học sinh ở bậc trung học cơ sở.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn GDKNS và quản lý GDKNS, luận
văn đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động GDKNS cho học sinh trường THCS
nhằm nâng cao chất lượng GDKNS cho học sinh THCS.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận của việc quản lý GDKNS cho học sinh Trung học cơ sở.
12
- Khảo sát, đánh giá thực trạng GDKNS và quản lý GDKNS cho học
sinh các trường THCS ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất những biện pháp quản lý GDKNS cho học sinh các trường
THCS ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
- Khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục phẩm chất nhân cách cho học sinh trong
trường THCS.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý GDKNS trong các trường THCS huyện Chương Mỹ, thành phố Hà
Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Số liệu thống kê được tính từ năm 2010 đến năm 2015.
Các biện pháp và quy trình quản lý của nhà trường về GDKNS trong
các trường THCS huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
Đối tượng điều tra khảo sát: 10 Cán bộ quản lý (CBQL), 70 giáo
viên,1000 học sinh, 20 phụ huynh học sinh các trường THCS huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
5. Giả thuyết khoa học
GDKNS cho học sinh trong các trường THCS có vai trò hết sức quan
trọng, GDKNS được thực hiện tốt góp phần hình thành phát triển nhân cách
con người toàn diện. Hiện nay xã hội đang trong xu thế toàn cầu hóa, có rất
nhiều tác động xấu ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của học sinh, nếu
học sinh biết vận dụng tốt các kỹ năng sống trong cuộc sống sẽ tránh được
nhiều tai nạn, rủi ro đáng tiếc. Vì vậy cần áp dụng đồng bộ các biện pháp
quản lý GDKNS cho học sinh THCS thì việc quản lý GDKNS cho học sinh
các trường trung học cơ sở sẽ đạt chất lượng và hiệu quả cao.
13
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phối hợp các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu như sau:
* Phương pháp luận
Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở quán triệt sâu sắc phép biện
chứng duy vật của triết học Mác - Lênin, quán triệt và vận dụng các quan
điểm, tư tưởng Hồ chí Minh, của Đảng , Nhà nước và ngành GD&ĐT, nhất là
chủ trương đổi mới quản lý giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo trong các
trường THCS về giáo dục, đào tạo và quản lý giáo dục. Đồng thời, trong quá
trình nghiên cứu tác giả quán triệt và vận dụng các quan điểm tiếp cận hệ
thống - cấu trúc, lịch sử - logic và quan điểm thực tiễn để triển khai thực hiện
các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài đã xác định.
* Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn là các phương pháp trực tiếp tác
động vào đối tượng có trong thực tiễn để làm bộc lộ bản chất và quy luật vận
động của đối tượng đó, giúp người nghiên cứu thu thập thông tin hoặc làm
nảy sinh các ý tưởng nghiên cứu và đề xuất sáng tạo.
- Phương pháp điều tra: đã tiến hành đưa ra những câu hỏi yêu cầu
CBQL, giáo viên đưa những ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề GDKNS
trong các trường THCS. Chúng tôi dùng phiếu khảo sát một nhóm đối tượng
trên một diện rộng nhằm phát hiện những quy luật phân bố, trình độ phát
triển, những đặc điểm về mặt định tính và định lượng của các đối tượng cần
nghiên cứu. Các tài liệu điều tra được là những thông tin quan trọng về đối
tượng cần cho quá trình nghiên cứu và là căn cứ quan trọng để đề xuất những
giải pháp khoa học hay giải pháp thực tiễn.
- Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm giáo: dựa trên những
thành quả của hoạt động thực tiễn trong trong các nhà trường chúng tôi rút ra
những kết luận bổ ích cho khoa học và thực tiễn. Tiến hành nghiên cứu, phân
14
tích, phát hiện, tổng kết những kinh nghiệm tiên tiến của bản thân giáo viên,
học sinh hay của một tập thể trường THCS phát hiện các vấn đề cần giải
quyết, nêu lên giả thuyết về những mối liên hệ có tính quy luật giữa các tác
động và kết quả, kiến nghị các biện pháp, giải pháp để bổ khuyết thiếu sót và
hoàn thiện quá trình GDKNS.
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: tiến hành thu nhận thông tin thông
qua hỏi và trả lời miệng giữa nhà nghiên cứu và người được hỏi. Phỏng vấn
gián tiếp bằng phiếu hỏi, phiếu điều tra... theo một hệ thống câu hỏi được
chuẩn bị sẵn sàng. Các câu hỏi được sắp xếp theo trình tự khoa học, thể hiện
mối quan hệ với nhau. Có thể sử dụng 1 - 2 câu hỏi cuối cùng để kiểm tra độ
tin cậy, sự trung thực của người trả lời.
5 - Phương pháp trao đổi toạ đàm: tiến hành thu nhận thông tin nhiều chiều,
giữa nhà nghiên cứu với một hoặc một số cá nhân về vấn đề quan tâm.
Chúng tôi thu nhận thông tin bằng cách đưa ra những tình huống có vấn đề,
nhằm thu hút các đối tượng nghiên cứu vào các cuộc tranh luận bổ ích, để mọi
người tự bộc lộ được quan điểm, tư tưởng, suy nghĩ. Điều quan trọng nhất
trong kỹ thuật tổ chức trao đổi, tọa đàm hay hội thảo biết khéo léo đặt câu
hỏi, tạo hình huống “xung đột” thu hút sự quan tâm chú ý của mọi người và
xây dựng bầu không khí sôi nổi một cách tự nhiên, vì chúng ảnh hưởng lớn
đến chất lượng vấn đề nghiên cứu.
6 - Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: sử dụng trí tuệ, khai thác ý kiến
đánh giá của các chuyên gia có trình độ cao để xem xét, nhận định về
GDKNS để tìm ra giải pháp tối ưu cho vấn đề đó.
7
Phương pháp bổ trợ: thống kê toán học, phần mềm tin học: được sử
dụng để xử lý, phân tích kết quả khảo sát và kết quả khảo nghiệm sư phạm.
7. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa về mặt lý luận: Đề tài góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận trong
hướng nghiên cứu về quản lý GDKNS cho học sinh ở trường THCS.
15
Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Đề tài đã đưa ra các biện pháp quản lý GDKNS
để đạt hiệu quả cao ở các trường THCS huyện Chương Mỹ, thành phố Hà
Nội. Đề tài góp phần khắc phục những vấn đề bất cập trong thực tiễn quản lý
GDKNS cho học sinh các trường THCS huyện Chương Mỹ, thành phố Hà
Nội. Đề tài là tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà quản lý, giáo viên và đọc
giả quan tâm đến vấn đề quản lý GDKNS trong các trường THCS.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận và kiến nghị,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
16
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG THCS TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Các khái niệm công cụ của đề tài
1.1.1. Kỹ năng sống
Kỹ năng sống (life skills) là khái niệm được sử dụng rộng rãi nhằm vào
mọi lứa tuổi trong lĩnh vực hoạt động thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Ngay những năm đầu của thập kỷ 90, các tổ chức Liên Hiệp
Quốc (LHQ) như WHO (Tổ chức Y tế thế giới), UNICEF (Quỹ cứu trợ Nhi
đồng LHQ), UNESCO (Tổ chức văn hóa, khoa học và Giáo dục của LHQ) đã
chung sức xây dựng chương trình Giáo dục Kỹ năng sống cho thanh thiếu
niên. Tuy nhiên, cho đến nay, khái niệm này vẫn nằm trong tình trạng chưa có
một định nghĩa rõ ràng và đầy đủ.
Các quan niệm khác nhau về KNS:
- Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO- 1993): Kỹ năng sống là năng lực
tâm lý xã hội, là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và
thách thức của cuộc sống. Đó là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng
thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực
khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Theo
đó, WHO định nghĩa “KNS là những năng lực giao tiếp đáp ứng và những
hành vi tích cực của cá nhân có thể giải quyết có hiệu quả những yêu cầu và
thách thức của cuộc sống hàng ngày”.
Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF Thái Lan- 1995): Kỹ
năng sống là khả năng phân tích tình huống và ứng xử, khả năng phân tích
cách ứng xử và khả năng tránh được các tình huống. Các Kỹ năng sống
nhằm giúp chúng ta dịch chuyển kiến thức “cái chúng ta đã biết” và thái độ,
giá trị “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng” thành hành động thực tế
“Làm gì và làm như thế nào” là tích cực nhất và mang tính xây dựng.
17
UNICEF đã nêu rõ “KNS là những kỹ năng tâm lý xã hội có liên quan đến
tri thức, những giá trị và thái độ, cuối cùng thể hiện ra bằng những hành vi
làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu
và thách thức của cuộc sống”.
Theo Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc
(UNESCO), KNS gắn với bốn trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết
(Learning to know) gồm các kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy
sáng tạo; Học để làm (Learning to do) gồm các kỹ năng thực hiện công việc
như: kỹ năng tự đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm; Học để sống với người
khác (Learning to live together) gồm các kỹ năng xã hội như: kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng thương lượng, tự khẳng định; Học để tồn tại (Learning to be)
gồm các kỹ năng cá nhân như: ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự
nhận thức, tự tin,…[42, tr.32]. Dựa vào đó, UNESCO định nghĩa “KNS là
năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc
sống hàng ngày”.
- Theo từ điển tiếng Việt: “Kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa
học vào thực tiễn”, “Sống còn là tồn tại và phát triển”[25, tr.342]
Tại Việt Nam hiện nay cũng có khá nhiều quan niệm khác nhau về khái
niệm KNS. Trong bộ sách giáo dục KNS gồm 2 tập do Th.S Nguyễn Thị
Oanh viết, có tên “Kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên” và “10 cách thức rèn
kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên” đã trình bày quan điểm: “KNS với tư
cách là đối tượng của giáo dục KNS là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và
đối phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.
Theo Tiến sĩ tâm lý Huỳnh Văn Sơn, “KNS là những kỹ năng tinh thần
hay những kỹ năng tâm lý, kỹ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân
tồn tại và thích ứng trong cuộc sống. Những kỹ năng này giúp cho cá nhân
thể hiện được chính mình cũng như tạo ra những nội lực cần thiết để thích
nghi và phát triển. Kỹ năng sống còn được xem như một biểu hiện quan trọng
18
của năng lực tâm lý xã hội giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có
nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại..”
Ngoài ra, trong bài viết “Khái niệm kỹ năng sống nhìn từ góc độ tâm lý
học”, PGS. Nguyễn Quang Uẩn đăng trên Tạp chí Tâm lý học số 6 (6-2008),
ĐH Sư phạm Hà Nội đã xem xét khái niệm KNS dưới góc độ tâm lý học, tác giả
đã phân tích: cuộc sống của con người diễn ra bằng hoạt động sống, với sự đan
xen của dòng “hoạt động có đối tượng” và “mối quan hệ giao tiếp - ứng xử” giữa
con người với con người, đó là hai mặt có mối quan hệ tác động lẫn nhau, tạo
nên cuộc sống đích thực của mỗi con người. Trong hệ thống các kỹ năng cơ bản
có tính tổng hợp và phức tạp của hoạt động sống của con người có các KNS. Do
đó, tác giả Nguyễn Quang Uẩn đưa ra khái niệm về KNS như sau: “KNS là một
tổ hợp phức tạp của một hệ thống các kỹ năng nói lên năng lực sống của con
người, giúp con người thực hiện công việc và tham gia và cuộc sống hàng ngày
có kết quả, trong những điều kiện xác định của cuộc sống”.
Như vậy, có thể quan niệm: “Kỹ năng sống là năng lực ứng dụng tri
thức khoa học vào thực tiễn để con người tồn tại và phát triển”.
* Phân loại kỹ năng sống
Gồm 3 nhóm:
- Kỹ năng nhận thức, gồm các kỹ năng: tư duy phê phán, tư duy phân
tích, khả năng sáng tạo, giải quyết vấn đề, tự nhận thức, ra quyết định, đặt
mục tiêu, xác định giá trị…
- Kỹ năng đương đầu với xúc cảm, gồm các kỹ năng: ý thức trách nhiệm, cam
kết, kiềm chế căng thẳng, kiểm soát được cảm xúc, tự quản lý, tự giám sát…
- Kỹ năng xã hội gồm: kỹ năng giao tiếp, tính quyết đoán, thương
thuyết, từ chối, hợp tác, sự cảm thông, sự chia sẻ, khả năng nhận thấy sự thiện
cảm của người khác…
* Ý nghĩa của kỹ năng sống
- KNS giúp biến kiến thức thành những hành động cụ thể, những thói
quen lành mạnh.
19
- Trong lĩnh vực sức khỏe việc nâng cao các kỹ năng cá nhân và các kỹ
năng xã hội của mỗi người là một phần quan trọng của chương trình can thiệp
nâng cao sức khỏe cho chính mình cũng như cho mọi người trong cộng đồng.
- KNS góp phần thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội, ngăn ngừa
các vấn đề xã hội, sức khỏe và bảo vệ quyền con người.
1.1.2. Kỹ năng sống của học sinh các trường trung học cơ sở
Học sinh THCS là học sinh từ lớp 6 đến lớp 9, tuổi từ 11 đến 15. Lứa
tuổi này chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển tâm lý trẻ em.
Sự phát triển của các em được phản ánh bằng các tên gọi khác nhau: thời kì quá
độ, tuổi khó khăn, tuổi khủng hoảng, tuổi bất trị, khủng hoảng tuổi dậy thì…[26].
Đây là thời kỳ quá độ từ trẻ con sang người lớn và giai đoạn này tạo nên sự phát
triển đặc thù về mọi mặt: phát triển thể chất, trí lực, đạo đức, xã hội…
Yếu tố đầu tiên của sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi này là tính tích
cực xã hội nhằm lĩnh hội những chuẩn mực, giá trị nhất định để xây dựng
những mối quan hệ thoả đáng với mọi người xung quanh, với bạn bè và cuối
cùng là hướng vào bản thân mình.
Quá trình hình thành cái mới thường được kéo dài và phụ thuộc vào nhiều
điều kiện do đó, nó diễn ra không đồng đều về mọi mặt. Chính điều này quyết
định sự tồn tại song song vừa tính trẻ con, vừa tính người lớn ở lứa tuổi này.
* Đặc điểm về tâm, sinh lý
Sự phát triển cơ thể diễn ra mạnh mẽ: sự hoạt động tổng hợp của các
tuyến nội tiếp quan trọng như tuyến yên, tuyến giáp trạng, tuyến sinh dục và
tuyến thượng thân đã tạo ra nhiều thay đổi trong cơ thể trẻ, trong đó rõ ràng
nhất là sự nhảy vọt về chiều cao và sự phát dục. Tuy vậy, sự phát triển cơ thể
của thiếu niên diễn ra không cân đối. Vì vậy, thiếu niên thường có những cử
động lúng túng, vụng về.
Đặc biệt, hiện tượng dậy thì khiến thiếu niên cảm thấy mình đã trở thành
người lớn một cách khách quan và sự thay đổi về mặt sinh lý này cũng góp
phần tạo nên nguồn gốc làm nảy sinh ở thiếu niên cảm giác về “tính người
20
lớn” của mình. Sự phát dục đem lại một điều gì đó mới mẻ, bỡ ngỡ trong đời
sống của các em, khiến các em khiến các em có những cảm xúc và ý nghĩ
mới…mà thường chính các em cũng chưa ý thức được. Sự phát dục kích thích
các em quan tâm tới người khác giới, làm xuất hiện những cảm giác, những
rung cảm mới, nhất là những rung cảm giới tính.
* Đặc điểm giao tiếp
Ở lứa tuổi này, hoạt động giao tiếp có một ý nghĩa lớn đối với sự phát
triển nhân cách ở thiếu niên. Bằng hoạt động giao tiếp, các em lĩnh hội được
các chuẩn mực đạo đức, lối sống, đồng thời các em nhận thức được người
khác và bản thân mình. Nhờ vậy mà đời sống tình cảm của học sinh THCS
ngày càng phong phú và tinh tế hơn.
Đặc biệt, ở lứa tuổi học sinh THCS, hoạt động giao tiếp giữa bạn bè
cùng lứa tuổi phát triển mạnh. Bởi qua giao tiếp với bạn bè, thiếu niên tìm
thấy sự bình đẳng, tôn trọng nhau. Đó cũng là cơ sở để hình thành tình bạn. Ở
lứa tuổi này tình bạn là sự trung thực, hồn nhiên, trong sáng. Từ quan hệ rộng
rãi, thiếu bền vững, càng lên lớp trên học sinh THCS càng có ý thức về tình
bạn, có sự lựa chọn bạn bè theo nhận thức và tình cảm riêng của mình, đó
cũng chính là cơ sở của tình bạn lâu dài bền vững.
Một nét tâm lý đáng chú ý ở lứa tuổi này là quan hệ giao tiếp giữa nam
và nữ đã thể hiện màu sắc của giới tính, giữa bạn nam và bạn nữ không còn
hồn nhiên như ở tiểu học mà đã xuất hiện rào cản tâm lý nhất định.
* Đặc điểm nhận thức và hoạt động học tập
Nếu ở tiểu học, nhận thức của học sinh là nhận thức cảm tình, bước đầu
có tư duy khoa học (tư duy lý luận) thì ở THCS, các em hình thành nhận thức
lý tính ( dựa trên tư duy khoa học hay còn gọi là tư duy lý luận) theo logic của
đối tượng từng môn học.
Bên cạnh hoạt động giao lưu bè bạn, hoạt động học tập vẫn giữ vai trò
chủ đạo. Tuy vậy, nội dung học tập ở tuổi này khác xa với độ tuổi trước.
Trong lứa tuổi này việc tiếp thu kiến thức có thể vượt ra khỏi phạm vi nhà
21
trường. Trẻ mở rộng phạm vi hoạt động, tham gia vào nhiều lĩnh vực cũng
như nhóm bạn khác nhau, tiếp xúc với CNTT… chính vì vậy hiểu biết của các
em gia tăng nhanh chóng.
Cách thức dạy học ở THCS cũng khác so với dạy ở tiểu học. Thay vì
một giáo viên dạy hầu hết các môn ở tiểu học, ở THCS mỗi giáo viên chỉ dạy
từ một đến hai môn. Mỗi giáo viên với chuyên môn riêng, trình độ riêng, cách
giao tiếp riêng… đã ảnh hưởng đến môi trường nhận thức ổn định của học sinh.
* Đặc điểm nhân cách
Nhân cách của học sinh THCS là nhân cách đang hình thành trên cơ sở
những nét tâm lý của nhân cách đã hình thành ở giai đoạn trước.
Do sự phát triển mạnh mẽ của cơ thể, của trí tuệ và đặc biệt do sự phát triển
của các mối quan hệ xã hội và sự giao tiếp trong tập thể mà ở học sinh THCS đã
xuất hiện nhu cầu quan tâm đến nội tâm của mình, đến những phẩm chất nhân
cách riêng, xuất hiện nhu cầu tự đánh giá, so sánh mình với người khác.
Sự phát triển tự ý thức của học sinh THCS có ý nghĩa lớn lao ở chỗ, nó
thúc đẩy các em bước vào một giai đoạn mới. Kể từ tuổi thiếu niên trở đi, khả
năng tự giáo dụ của các em được phát triển, các em không chỉ là sự khách thể
của sự giáo dục mà còn đồng thời là chủ thể của sự giáo dục.
Đời sống tình cảm của học sinh THCS phong phú và phức tạp hơn các em
học sinh tiểu học. Đặc điểm nổi bật ở lứa tuổi này là dễ xúc động, tình cảm dễ
chuyển hoá (vui, buồn) dễ thay đổi, đôi khi còn mâu thuẫn. Nhìn chung, tình cảm
của các em còn mang tính chất bồng bột, sôi nổi, hăng say, dễ bị kích động.
Dấu ấn đặc biệt trong đời sống tình cảm của học sinh THCS là ở các em đã
xuất hiện tình bạn khác giới, những rung cảm đầu đời của tình yêu. Điều đáng
chú ý là tình cảm của học sinh THCS đã bắt đầu được hình thành trên cơ sở lý
trí, có lý trí chi phối. Trong đời sống tình cảm của các em thì tình cảm đạo đức,
tình cảm bạn bè phát triển mạnh. KNS của các em tăng lên, tính bột phát trong
tình cảm giảm dần và nhường chỗ cho tình cảm có ý thức phát triển.
22
Từ khái niệm KNS được nêu ở trên, ta thấy KNS bao gồm một loạt các
kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Khi đã có
KNS cơ bản cần thiết, nhất là năng lực hành động, năng lực thực tiễn các em
sẽ bình tĩnh, chủ động, sáng tạo, tích cực hơn khi tham gia các hoạt động
trong học tập, lao động, sinh hoạt hàng ngày của cuộc sống.
Như vậy, kỹ năng sống của học sinh trung học cơ sở là tổng hợp các
năng lực vận dụng tri thức của bậc trung học phổ thông vào cuộc sống thực
tiễn một cách thành thạo phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi.
Từ đặc điểm tâm lý lứa tuổi, có thể thấy kỹ năng sống của học sinh
THCS bao gồm 21 KNS cơ bản, cần thiết sau:
* Kỹ năng tự nhận thức :
Kỹ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân
mình, như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn
nhận đánh giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh,
điểm yếu,… của bản thân mình; quan tâm và luôn có ý thức được mình đang
làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
Kỹ năng xác định giá trị:
Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với
bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống
của bản thân trong cuộc sống. Giá trị có thể là những chuẩn mực đạo đức,
những chính kiến, thái độ, và thậm chí là thành kiến đối với một điều gì đó…
Giá trị phụ thuộc vào giáo dục vào nền văn hoá, vào môi trường sống, học tập
và làm việc cá nhân.
Kỹ năng kiểm soát cảm xúc:
Kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của
mình trong một tình huống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc với
bản thân và đối với người khác như thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và
thể hiện cảm xúc một cách phù hợp.
23
Kỹ năng ứng phó với căng thẳng:
Kỹ năng ứng phó với căng thẳng là khả năng con người bình tĩnh, sẵn
sàng đón nhận những tình huống căng thẳng như là một phần tất yếu của cuộc
sống, là khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả
của căng thẳng, cũng như biết cách suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi
bị căng thẳng.
Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ:
Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ rất cần thiết để giải quyết vấn đề,
giải quyết mâu thuẫn và ứng phó với căng thẳng.
Kỹ năng thể hiện sự tự tin:
Tự tin là có niềm tự tin và bản thân; tự hài lòng với bản thân; tin rằng
mình có thể trở thành một con người có ích và tích cực, có niềm tin về tương
lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thành các nhiệm vụ.
Kỹ năng giao tiếp:
Kỹ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo
hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể phù hợp với hoàn cảnh và
văn hoá, đòng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất
đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu
cầu, mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn cần thiết.
Kỹ năng lắng nghe tích cực:
Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kỹ năng giao tiếp. Người
có kỹ năng lắng nghe tích cực biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự
quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác (bằng các cử
chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười), biết cho ý kiến phản hồi mà không
vội đánh giá, đồng thời có đối đáp hợp lí trong quá trình giao tiếp.
Kỹ năng thể hiện sự cảm thông:
Thể hiện sự cảm thông là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong
hoàn cảnh của người khác, giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác vốn là
24
những người rất khác mình, qua đó chúng ta có thể hiểu rõ cảm xúc và tình
cảm của người khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ.
Kỹ năng thương lượng:
Thương lượng là khả năng trình bày, suy nghĩ, phân tích và giải thích,
đồng thời có thảo luận để đạt được một sự điều chỉnh và thống nhất về cách
suy nghĩ, cách làm hoặc một vấn đề gì đó.
Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn:
Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn là khả năng con người nhận thức được
nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó với thái
độ tích cực, không dùng bạo lực, thoả mãn được nhu cầu và quyền lợi các bên
và giải quyết mối quan hệ giữa các bên một cách hoà bình.
Kỹ năng hợp tác:
Kỹ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiêm, biết cam
kết và cùng làm việc hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm.
Kỹ năng tư duy phê phán:
Kỹ năng tư duy phê phán là khả năng phân tích một cách khách quan và
toàn diện các vấn đề sự vật, hiện tượng… xảy ra.
Kỹ năng tư duy sáng tạo:
Tư duy sáng tạo là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo một
cách mới, với ý tưởng mới, theo phương thức mới, cách sắp xếp và tổ chức
mới; là khả năng khám phá và kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý
tưởng quan niệm, sự việc; độc lập trong suy nghĩ.
Kỹ năng ra quyết định:
Kỹ năng ra quyết định là khả năng của cá nhân biết lựa chọn phương án
tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn đề hoặc tình
huống gặp phải trong cuộc sống.
Kỹ năng giải quyết vấn đề:
Kỹ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa
chọn phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết
vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống.
25
Kỹ năng kiên định:
Kỹ năng kiên định là khả năng con người nhận thức được những gì mình
muốn và lí do dẫn đến sự mong muốn đó. Kiên định còn là khả năng tiến
hành các bước cần thiết để đạt được những gì mình muốn trong những
hoàn cảnh cụ thể, dung hoà được giữa quyền, nhu cầu của mình với quyền,
nhu cầu của người khác.
Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm:
Đảm nhận trách nhiệm là khả năng con người thể hiện sự tự tin, chủ
động và ý thức cùng chia sẻ công việc với các thành viên khác trong nhóm. Khi
đảm nhận trách nhiệm, cần dựa trên những điểm mạnh, tiềm năng của bản thân,
đồng thời tìm kiếm thêm sự giúp đỡ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ.
Kỹ năng đặt mục tiêu:
Kỹ năng đặt mục tiêu là khả năng của con người biết đề ra mục tiêu cho
bản thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện mục tiêu đó.
Kỹ năng quản lý thời gian:
Kỹ năng quản lý thời gian là khả năng con người biết sắp xếp các công
việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm
trong một thời gian nhất định.
Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin:
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, kỹ năng tìm kiếm và xử lí
thông tin là một KNS quan trọng giúp con người có thể có được những thông
tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính xác, kịp thời.
Nhìn chung, nội dung GDKNS cho học sinh trong nhà trường phổ thông
tập trung vào các kỹ năng tâm lý - xã hội là những kỹ năng được vận dụng
trong những tình huống hàng ngày để tương tác và giải hiệu quả những vấn
đề, những tình huống trong cuộc sống. Việc hình thành những kỹ năng này
không loại bỏ mà ngược lại phải gắn kết và song hành với các kỹ năng học
tập như: đọc, viết, tính toán…
26