2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ
NĂNG SỐNG TRONG PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN
XÃ HỘI CHO SINH VIÊN
1.1
Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2
Nội dung quản lý giáo dục kỹ năng sống trong
phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên
1.3
Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý giáo dục kỹ năng
sống trong phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên
Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ
NĂNG SỐNG TRONG PHÒNG CHỐNG TỆ
NẠN XÃ HỘI CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO
ĐẲNG SƯ PHẠM LÀO CAI
2.1.
Tổ chức, nhiệm vụ của nhà trường và thực trạng hoạt
động phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên ở
Trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai
2.2.
Thực trạng quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống
trong phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên Trường
Cao đẳng Sư phạm Lào Cai
Chương 3 BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ NĂNG
SỐNG TRONG PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ HÔI
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ
PHẠM LÀO CAI HIỆN NAY
3.1.
Cơ sở pháp lý và yêu cầu xây dựng các biện pháp
3.2.
Hệ thống biện pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống
trong phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên
Trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai hiện nay
3.3.
Khảo nghiệm sự cần thiết, tính khả thi của hệ thống
biện pháp đã đề xuất
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trang
3
15
15
22
31
38
38
44
57
57
63
75
83
86
90
3
Hiện nay, cuộc đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với sự ổn định chính trị, giữ gìn nền tảng đạo đức, bản sắc văn
hóa dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Hoạt động đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội được tiến hành bằng nhiều
hình thức và hướng tới nhiều nhóm xã hội khác nhau, nhưng trong đó phải
đặc biệt chú trọng đến giáo dục thanh, thiếu niên. Vì vậy, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI đã xác định: “Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo
dục cộng đồng, đề cao vai trò giáo dục của gia đình đối với thanh, thiếu niên
về tác hại của ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác” [16, tr.232].
Trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai đào tạo giáo viên bậc trung học cơ
sở, tiểu học và mầm non cho tỉnh Lào Cai. Sinh viên của Nhà trường hầu hết
là thanh niên các dân tộc trong tỉnh, họ có nhiều hoài bão, ước mơ, nhưng
bồng bột, dễ bị cám dỗ bởi những tệ nạn xã hội. Để giúp cho sinh viên tránh
được những thái độ và hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, thời gian qua
Trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai đã tích cực triển khai nhiều biện pháp
phòng chống tệ nạn xã hội và đã thu được những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, vẫn còn một bộ phận sinh viên chưa biết ứng xử hợp lý trước những
tình huống bị lôi kéo, bị cám dỗ bởi những tiêu cực xã hội, dẫn đến xa vào
chơi bời, hút trích, trộm cắp, bạo lực học đường… Sở dĩ có tình trạng đó là do
họ chưa được giáo dục đầy đủ về kỹ năng sống để phòng chống có hiệu quả tệ
nạn xã hội.
Thực tế, trên thế giới để giúp cho thanh, thiếu niên phòng chống có
hiệu quả tệ nạn xã hội (nhất là nghiện hút ma túy, mãi dâm) người ta đã sử
dụng tổng hợp các biện pháp hành chính, tuyên truyền, giáo dục…, trong
đó giáo dục kỹ năng sống rất được chú trọng. Nhưng ở Việt Nam hoạt động
giáo dục kỹ năng sống mới bước đầu được triển khai trong trường phổ
thông, do đó còn rất thiếu kinh nghiệm. Ở các trường cao đẳng và đại học
4
việc giáo dục kỹ năng sống được lồng ghép với dạy học theo chương trình
đào tạo hoặc trong hoạt động của các đoàn thể xã hội, nhưng chưa được tổ
chức, chỉ đạo chặt chẽ thống nhất.
Để góp phần quản lý tốt quá trình giáo dục sinh viên trong phòng
chống tệ nạn xã hội, nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục pháp
luật; giáo dục đạo đức; giáo dục chính trị, tư tưởng …đã được tiến hành,
nhưng những công trình đề cập đến quản lý giáo dục kỹ năng sống thì còn
thiếu vắng.
Xuất phát từ tình hình đó, tôi lựa chọn vấn đề “Quản lý giáo dục kỹ
năng sống trong phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên Trường Cao đẳng
sư phạm Lào Cai” làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong khoa học, thuật ngữ “kỹ năng sống” xuất hiện khá muộn, đó là
vào cuối những năm 1960, các nhà tâm lý học thực hành đã cho rằng trong số
các kỹ năng xã hội của con người có một loại kỹ năng giúp cho cá nhân chủ
động và tích cực thích ứng với những thách thức của cuộc sống. Người ta gọi
đó là “kỹ năng sống”. Đến năm 1979, Gilbert J.Botvin, GS, TS tâm lý học
người Mỹ, đã công bố một chương trình giáo dục kỹ năng sống nhằm giúp
cho thanh thiếu niên có được những khả năng từ chối những lời mời, rủ rê sử
dụng chất gây nghiện bằng cách nâng cao sự tự khẳng định bản thân và ra
quyết định với óc phê phán cao. Chương trình này đã được triển khai rộng rãi
trong các trường học, cũng như các trung tâm tạm giam thanh thiếu niên có
hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội ở nước Mỹ. Do tác dụng thiết thực của
chương trình giáo dục kỹ năng sống trong hình thành lối sống lành mạnh ở
thế hệ trẻ nên giới khoa học và xã hội đã đánh giá cao những đề xuất của
Gilbert J.Botvin .
5
Vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, nhiều vấn đề xã hội lớn như:
chiến tranh, sự suy thoái của môi trường, đại dịch HIV, nạn ma túy, thất
nghiệp, nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em... tác động sâu sắc đến đời sông của
con người, đặc biệt là trẻ em. Trong bối cảnh đó các tổ chức của Liên Hiệp
Quốc (LHQ) như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Quỹ cứu trợ Nhi đồng
Liên hợp quốc (UNICEF), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên
hợp quốc (UNESCO) đã chung sức xây dựng chương trình giáo dục kỹ
năng sống cho thanh thiếu niên để giúp các quốc gia chuẩn bị cho thế hệ trẻ
vượt qua những thách thức của cuộc sống trong xã hội hiện đại.
Để giáo dục kỹ năng sống có kết quả năm 1994 tổ chức TACADE
của Anh đã công bố “Mô hình tác động giáo dục kỹ năng sống” của Birell
Weisen và Orley. Mô hình này đã nhanh chóng được ứng dụng ở nhiều
nước trên thế giới. Mô hình tác động giáo dục kỹ năng sống đã được sử
dụng theo những mục tiêu giáo dục khác nhau như giáo dục sức khỏe,
phòng chống tệ nạn xã hội trong học sinh, sinh viên. Chẳng hạn, năm 1996,
một hội thảo về kỹ năng sống được tổ chức tại Costa Rica đã đề cập tới
những tác động giáo dục kỹ năng sống để giáo dục thể chất, giữ gìn sức
khỏe cho học sinh. Tại Botswana, từ năm 1996, chương trình “Growing
Up” (trưởng thành) ra đời nhằm thực hiện giáo dục KNS trong trường tiểu
học và đã đạt được nhiều thành công trong phòng chống những nguy cơ lây
nhiễm HIV/AIDS. Tại Thái Lan năm 1996, giáo dục kỹ năng sống qua các
hoạt động ngoại khóa được đưa ra cùng với chương trình ngăn chặn
HIV/AIDS. Đến nay, chương trình giáo dục kỹ năng sống còn được mở
rộng vào các lĩnh vực giáo dục học sinh, sinh viên về sức khỏe sinh sản,
phòng chống nghiện thuốc lá và ma túy, vấn đề về giới…
Các công trình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam từ năm 1996, thuật ngữ kỹ năng sống đã được nhắc đến
trong khi thực hiện chương trình của UNICEF về “giáo dục kỹ năng sống để
6
bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho Thanh Thiếu niên trong và
ngoài nhà trường”. Theo đó nội dung giáo dục KNS bao gồm các kỹ năng
cốt lõi như: kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xác định giá
trị, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng đặt mục tiêu…
Khái niệm kỹ năng sống đã được nhiều nhà khoa học Việt Nam đề cập
trong hội thảo “Chất lượng giáo dục và kỹ năng sống” do UNESCO tài trợ tổ
chức từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 10 năm 2003 tại Hà Nội. Ở đây, kỹ năng
sống được tiếp cận trên bốn trụ cột của giáo dục bao gồm: Học để biết
(Learning to know), Học để làm (Learning to do), Học để tự khẳng định
(Learning to be) và Học để cùng chung sống (Learning to live together) .
Sau đó, UNICEF đã hỗ trợ đưa việc giáo dục kỹ năng sống vào
chương trình giảng dạy ở các trường phổ thông của Việt Nam trong khuôn
khổ của dự án “Sống lành mạnh và kỹ năng sống” (2006 - 2010). Để tiếp
tục làm rõ những vấn đề giáo dục kỹ năng sống, nhiều hội thảo khoa học về
vấn đề này đã được tổ chức, chẳng hạn như: Ngày 22/11/2008, Viện
Nghiên cứu Giáo dục - Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
đã tổ chức hội thảo “Nhận thức và thái độ của học sinh, sinh viên về định
hướng tương lai” tại thành phố Hồ Chí Minh; Hội thảo “Giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh phổ thông” được Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tại Hà
Nội ngày 20/5/2009, với sự tham dự của đông đảo các nhà quản lý, các
chuyên gia giáo dục và thầy cô giáo. Tại hội thảo này, nhiều tham luận đã
chỉ rõ: Chương trình giáo dục kỹ năng sống đã được triển khai khá lâu, theo
phương pháp lồng ghép trong những môn học như đạo đức, giáo dục công
dân, văn học… nhưng còn rất nhiều khó khăn, bất cập và hiệu quả còn
thấp. Trong số những tham luận được trình bày tại các hội thảo về giáo dục
kỹ năng sống trong thời gian gần đây có bài viết của GS, TSKH Thái Duy
Tuyên với nội dung “Một số suy nghĩ về giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh thời kỳ đổi mới và hội nhập” và bài viết của ThS. Phan Tấn Chí với
7
nội dung “Những rào cản trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
phổ thông hiện nay”…
Trong các tham luận được trình bày tại những hội thảo về giáo dục
kỹ năng sống ở Việt Nam nổi lên hai cách hiểu khác nhau về “giá trị
sống” (living values) và “kỹ năng sống” (life skills): một số người cho đây
là những vấn đề hoàn toàn mới trong giáo dục, cần được nghiên cứu và đưa
vào chương trình giáo dục với tư cách một môn học độc lập, một số khác
lại cho rằng đó chỉ là cách gọi khác của việc giáo dục đạo đức (thái độ và
hành vi) theo một quy trình tác động chặt chẽ nhằm hình thành có kết quả
nhân cách trong môi trường xã hội có nhiều biến động phức tạp. Cách hiểu
thứ hai ở đây được nhiều người đồng tình hơn.
Ở Việt Nam, vấn đề giáo dục kỹ năng sống và quản lý quá trình giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh đã sớm được đề cập trong các nghiên cứu lý
luận nhằm chỉ đạo thực tiễn hoạt động giáo dục. Từ cuối những năm 80 thế
kỷ XX, những nghiên cứu đầu tiên về yêu cầu giáo dục kỹ năng cho học
sinh, tiêu biểu như các công trình: “Người thầy giáo trong sự nghiệp phát
triển giáo dục” của nhóm tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Ngô Công Hoàn,
Nguyễn Cương và Dương Xuân Trinh. Nghiên cứu về lý luận dạy học của
nhóm tác giả: Đỗ Long, Lê Thanh Hương, Vũ Tùng Hoa, Mai Thanh Thế
(1999). Năm 2003, PGS,TS Nguyễn Thanh Bình và các cộng sự đã triển
khai nghiên cứu tổng quan về quá trình nhận thức về kỹ năng sống và các
chủ trương, chính sách, điều luật phản ánh yêu cầu tiếp cận kỹ năng sống
trong giáo dục và giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam, đồng thời tìm hiểu
thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho người học từ trẻ mầm non đến người
lớn thông qua giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên ở Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng sống cho
thanh thiếu niên trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang bước vào thời
8
kỳ hội nhập và phát triển nên đã có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên
cứu khoa học về vấn đề này của các tác giả: PGS, TS Nguyễn Thị Hường,
Bác sỹ Lê Công Phượng, PGS, TS Nguyễn Thanh Bình, ThS Cao Thị
Xuân, TS Tâm lý học: Huỳnh Văn Sơn, PGS, TS Nguyễn Dục Quang, TS
Lưu Thu Thuỷ, GS, TS Nguyễn Quang Uẩn, ThS Giáp Bình Nga.....
Một trong những vấn đề được các tác giả nêu trên quan tâm là giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên để tăng “sức đề kháng” của họ trước
những tiêu cực và tệ nạn xã hội.
Những năm qua các cơ quan nhà nước, các nhà nghiên cứu của Bộ
công an, bộ lao động - thương binh xã hội, Trung tâm khoa học xã hội và
nhân văn quốc gia… đã nghiên cứu về tệ nạn xã hội, tội phạm dưới nhiều
góc độ, khía cạnh khác nhau. Trong số này phải kể đến các công trình
nghiên cứu như: Đề tài: Thực trạng và các giải pháp phòng ngừa các tệ
nạn xã hội trong sinh viên hiện nay của PGS, TS Trần Quốc Thành, 2000.
Luận án tiến sĩ luật học “Tăng cường đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội
bằng pháp luật trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Phan Đình Khánh
-2001- Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. “Hiểm họa ma túy và
cuộc chiến mới” của GS, TS Nguyễn Xuân Yêm, TS Trần Văn Luyện (Nxb
Công an nhân dân. H.2002). “Mại dâm, ma túy, cờ bạc, tội phạm thời hiện
đại” của GS, TS Nguyễn xuân Yêm, TS Phan văn Khánh, Nguyễn Thị Kim
Liên (Nhà xuất bản công an nhân dân. Hà Nội. 2003). Đề tài: “ Thử nghiệm
các giải pháp phòng ngừa tệ nạn xã hội trong sinh viên hiện nay” của
PGS, TS Trần Quốc Thành (2003-2004). Đề tài KX.04.14 của Tổng cục
Cảnh sát, Bộ Công an: “Nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân và giải pháp
phòng chống tệ nạn xã hội và tội phạm”,v.v… Các công trình này đã tập
trung phân tích những biểu hiện, tác hại và nguyên nhân, đồng thời đưa ra
các giải pháp tuyên truyền, giáo dục, kinh tế - xã hội, hành chính, hình sự
9
và các biện pháp khác để phòng chống của tệ nạn xã hội. Trong số những
giải pháp đó, nhiều tác giả cho rằng. tăng cường giáo dục kỹ năng sống cho
thanh thiếu niên nhằm trang bị cho họ khả năng thực hiện những hành vi
đúng chuẩn mực, tránh nhũng thói quen xấu và không bị lôi kéo vào tệ nạn
xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Nhận xét chung
Vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho thanh, thiếu niên đã thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia giáo dục trên thế giới.
Ban đầu những nghiên cứu về giáo dục kỹ năng sống được các nhà tâm lý
học, giáo dục học tiến hành với mục đích giúp cho nhóm đối tượng thanh,
thiếu niên có nguy cơ cao đối với việc lạm dụng các chất kích thích tránh
khỏi nghiện ngâp hoặc vi phạm pháp luật. Nhưng khi những mô hình tác
động giáo dục kỹ năng sống tỏ ra có hiệu quả tốt đối với việc chuẩn bị cho
thanh, thiếu niên nhận thức, thái độ, hành vi tích cực, thích ứng nhanh với
cuộc sống có nhiều thách thức, biến động thì những nghiên cứu khoa học
đã hướng mạnh vào vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong các
trường học.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về giáo dục kỹ năng sống chủ yếu
hướng tới ứng dụng các thành tựu khoa học của thế giới trong lĩnh vực này
vào giáo dục học sinh phổ thông. Những nghiên cứu đó đã luận giải được
tính cần thiết triển khai giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở Việt Nam.
Bên cạnh đó đã có những công trình đề cập đến nội dung, phương pháp
giáo dục các kỹ năng sống như: kỹ năng làm chủ bản thân, kỹ năng tự phục
vụ, kỹ năng vượt qua những thách thức, kỹ năng giao tiếp và sinh hoạt
cộng đồng, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thương thuyết… túc là các kỹ
năng sống cơ bản để con người hoạt động và giao tiếp thuận lợi trong xã
hội hiện đại.
10
Cùng với những nghiên cứu về giáo dục kỹ năng sống, đã có những
nghiên cứu về phòng chống tệ nạn xã hội. Những nghiên cứu này tập trung
làm rõ thực trạng, nguyên nhân, tác hại, hậu quả của tệ nạn xã hội và
phương hướng, giải pháp phòng chống tệ nạn xã hội ở cả tầm vĩ mô (nhà
nước) và tầm vi mô (từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở). Trong số
những giải pháp đó, giải pháp tuyên truyền, giáo dục thường rất được chú
trọng. Nhưng những công trình bàn sâu về giáo dục kỹ năng sống trong
phòng chống tệ nạn xã hội thì còn thiếu vắng. Do đó, vấn đề quản lý giáo
dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên cần phải
được nghiên cứu kỹ thêm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, đề xuất các biện pháp quản lý giáo
dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên Trường
Cao đẳng sư phạm Lào Cai hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống
trong phòng phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên.
- Đá nh giá thực trạngquả n lý giáo dục kỹ năng sống trong phò n g
chống tệ nạn xã hội cho sinh viên Trường Cao đẳng sư phạm Lào Cai.
- Đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống trong
phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên Trường Cao đẳ ng sư phạ m Lào
Cai hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý quá trình giáo dục sinh viên tại Trường Cao đẳng sư phạm Lào
cai
11
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn xã hội cho
sinh viên Trường Cao đẳng sư phạm Lào Cai
* Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học quản lý giáo dục, luận văn tập trung nghiên
cứu quản lý giáo dục kỹ năng sống với tư cách là một trong những giải
pháp phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên Trường Cao đẳng sư phạm
Lào Cai.
Các số liệu điều tra, khảo sát về quản lý giáo dục kỹ năng sống
trong phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên được thu thập tại Trường
Cao đẳ n g sư phạ m Lào Cai trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến
năm 2014.
5. Giả thuyết khoa học
Giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên là một bộ phận của quá trình
giáo dục nhân cách trong nhà trường. Nếu các chủ thể quản lý giáo dục của
Trường Cao đẳng sư phạm Lào Cai nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối
với giáo dục nhân cách; xác định đúng mục tiêu, kế hoạch, đồng thời tổ
chức, chỉ đạo cụ thể việc lồng ghép giữa giáo dục kỹ năng sống với dạy
học các bộ môn và hoạt động giáo dục cộng đồng; quan tâm xây dựng môi
trường văn hóa sư phạm, rèn luyện đạo đức, nếp sống có kỷ luật trong toàn
trường; thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục và rèn luyện của
sinh viên thì sẽ quản lý được giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ
nạn xã hội cho họ.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng giáo dục và quản lý giáo dục của
12
Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương về công tác giáo dục của Đảng. Vận
dụng các quan điểm lôgic - lịch sử và thực tiễn để phân tích, đánh giá, xem
xét các vấn đề liên quan đến luận văn.
*Phương pháp nghiên cứu
Phối hợp sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá một số tác phẩm kinh điển
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Nhà
nước về giáo dục nhân cách, giáo dục đạo đức và kỷ luật; giữ gìn kỷ cương xã hội.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi:
Khách thể được điều tra bao gồm: Cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà trường
và các phòng, khoa; cán bộ các đoàn thể xã hội; giảng viên, sinh viên Trường
Cao đẳng sư phạm Lào Cai. Số lượng gồm 120 người.
Nội dung điều tra tập trung vào các vấn đề: Tình hình vi phạm tệ nạn
xã hội trong nhà trường, thực trang thực hiện các nội dung quản lý giáo dục
kỹ năng sống cho sinh viên; mức độ và chiều hướng tác động của các yếu tố
ảnh hưởng tới quản lý giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn xã
hội; tính cấp thiết và khả thi của các biện pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống
trong phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên.
- Phỏng vấn trực tiếp: Cán bộ quản lý giáo dục, cán bộ các đoàn thể xã
hội; giảng viên một số bộ môn: Giáo dục pháp luật, Giáo dục quốc phòng và
an ninh, Tâm lý học, Giáo dục học và sinh viên.
Chủ đề phỏng vấn tập trung vào các vấn đề: Nhận thức về tệ nạn xã
hội và tác động của chúng đối với sinh viên; Những thiếu hụt về kỹ năng
sống của sinh viên Trường Cao đẳng sư phạm Lào Cai hiện nay; Nguyên
nhân chính của những vụ việc sinh viên của Nhà trường vướng vào tệ nạn
13
xã hội; Thuận lợi, khó khăn của việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống với
dạy học và giáo dục cộng đồng,
- Phương pháp quan sát: tập trung quan sát các hoạt động như: xây
dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống; cách thức phát hiện và xử lý các
trường hợp sinh viên có thái độ và hành vi sai lệch chuẩn mực; việc sử dụng
các loại hình hoạt động văn hóa - tinh thần trong cảnh báo những thiếu hụt về
kỹ năng sống và phê phán hành vi sai trái của sinh viên…
- Phương pháp phân tích các nhận định độc lập: Chủ yếu phân tích các
nhận định của các cơ quan quản lý giáo dục, của Ban giám hiệu Nhà trường
thể hiện trong các báo cáo tổng kết và các số liệu thống kê kèm theo.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia, khảo nghiệm sư phạm.
Xin ý kiến chuyên gia kết hợp tổ chức khảo nghiệm 120 cán bộ, giảng
viên, sinh viên về những biện pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống trong
phòng chống tệ nạn xã hội mà tác giả luận văn đề xuất
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng các phương pháp tính độ
tập trung ý kiến; tính điểm trung bình và sắp xếp thứ bậc; xây dựng các biểu
đồ…để xử lý các số liệu điều tra.
7. Ý nghĩa của đề tài
Những kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ
sở khoa học giúp cấp ủy, ban giám hiệu Trường Cao đẳng sư phạm Lào Cai
nói riêng, các trường sư phạm nói chung nghiên cứu, vận dụng vào quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo đội ngũ giáo
viên theo mục tiêu, yêu cầu đã định
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, nghiên
cứu, nâng cao chất lượng xây dựng môi trường sư phạm ở các nhà trường
trong ngành sư phạm.
8. Kết cấu của luận văn
14
Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận và kiến nghị, tài liệu
tham khảo, phụ lục.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
TRONG PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI CHO SINH VIÊN
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Kỹ năng sống
15
Trong cuộc sống thường ngày con người luôn phải vừa phải thích
nghi, vừa phải cải tạo môi trường sống của mình. Việc lựa chọn thái độ và
hành vi sống phù hợp với các quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội,
dồng thời biết tận dụng những quy luật khách quan đó phục vụ cho đời
sống của mình đưa tới khả năng thích ứng của con người. Sự thích ứng và
khả năng chủ động cải tạo hoàn cảnh thể hiện kỹ năng sống của con người.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống, trong đó cần
phải kể đến những quan niệm có tính phổ quát và được sử dụng ở nhiều
quốc gia như: Theo Tổ chức Y tế thế giới, kỹ năng sống là khả năng để con
người có những hành vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive) trong
ứng xử trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hằng ngày. Theo
UNICEF, kỹ năng sống là tổng hòa kiến thức, thái độ và kinh nghiệm sống
giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới ở cá nhân nhằm đáp ứng tốt các
đòi hỏi, thách thức của đời sống.
Từ những quan niệm phổ biến nêu trên ta có thể hiẻu, kỹ năng sống
là tổng hòa thái độ và hành vi ứng phó một cách chủ động, tích cực và phù
hợp của con người với những tác động của môi trường tự nhiên và xã hội,
nhờ đó họ thích ứng được trước những đòi hỏi và thách thức của cuộc
sống hằng ngày. Kỹ năng sống được hình thành trên cơ sở con người biết
vận dụng những kiến thức và kinh nghiệm hoạt động theo những phương
thức khái quát, tình huống điển hình vào xử lý, giải quyết các nhiệm vụ
thực tiễn và các quan hệ giao tiếp cụ thể.
Như vậy, kỹ năng sống của con ngươi thể hiện khả năng định hướng
đúng, thích ứng nhanh, chính xác với các biến đổi của hoàn cảnh, tinh tế
trong giao tiếp xã hội, tự bảo vệ được mình trước những tác động bất lợi,
đồng thời cải tạo được hoàn cảnh phục vụ nhu cầu của mình và giữ dược
mối quan hệ tích cực với các thành viên khác trong cộng đồng. Trong cuộc
16
sống, con người cần nhiều kỹ năng sống khác nhau như: kỹ năng làm chủ
bản thân, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng vượt qua những thách thức, kỹ năng
giao tiếp và sinh hoạt cộng đồng, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thương
thuyết… Để có được các kỹ năng sống đó con người phải có các khả năng
cụ thể như: tự nhân thức bản thân, có tư duy sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
chấp nhận thử thách, biết giao tiếp, ứng xử và thông cảm với người … Nói
cách khác, kỹ năng sống là tổng hòa nhiều phẩm chất khác nhau của con
người tạo nên khả năng định hướng và giải quyết tốt các quan hệ sông của
họ trong cuộc sống hàng ngày.
1.1.2. Giáo dục kỹ năng sống
Kỹ năng sống có thể hình thành theo hai con đường khác nhau: thứ
nhât là con đường tích lũy các kinh nghiệm ứng xử, giải quyết các tình
huống khác nhau trong cuộc sống của cá nhân; thứ hai là con đường giáo
dục kiến thức, thái độ và phương thức hành động khái quát trong những
tình huống điển hình, trên cơ sở đó con người vận dụng cho phù hợp với
những đòi hỏi, thách thức mới của hoàn cảnh sống. Con đường giáo dục
sẽ giúp cho kỹ năng sống hình thành hiệu quả hơn, nâng cao được khả
năng thích ứng và tính chủ động của con người trước những biến động
phức tạp của đời sống. Vì vậy, trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong
những năm gần đây kỹ năng sống đã được chú trọng giáo dục trong nhà
trường và các hoạt động giáo dục cộng đồng.
Giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường là những tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể giáo dục đến đối tượng giáo dục nhằm nâng
cao hiểu biết và khả năng vận dụng những kiến thức, thái độ và phương
thức hành động vào những tình huống nhất định của đời sống, giúp họ
thích ứng nhanh, xử lý, giải quyết đúng những đòi hỏi, thách thức nảy sinh
trong hoạt động và quan hệ xã hội.
17
Mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống là nâng cao nhận thức, định
hướng thái độ và rèn luyện hành vi ứng xử đúng đắn trước những đòi hỏi,
thách thức của hoạt động và giao tiếp của con người. Tùy từng lứa tuổi,
từng lĩnh vực ngành nghề cụ thể mục tiêu giáo dục kỹ năng sống được cụ
thể hóa theo các tình huống điển hình, những khó khăn, xung đột mà con
người phải trải qua trong đời sống.
Chủ thể giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường là những nhà giáo
và các tập thể với tư cách là nhà giáo dục. Đối tượng giáo dục kỹ năng
sống là học sinh, sinh viên. Tác động qua lại giữa chủ thể và đối tượng giáo
dục được thực hiện thông qua quá trình giáo dục và dạy học, trọng tâm là
tổ chức hoạt động và quan hệ giao tiếp cho học sinh, sinh viên.
Đặc trưng nổi bật của nội dung, phương pháp giáo dục kỹ năng sống
là rèn luyện phương thức xử lý, giải quyết các tình huống thực tế bằng việc
vận dụng các kiến thức, kinh nghiệm và thói quen hành vi một cách độc
lập, chủ động, sáng tạo và có nguyên tắc.
1.1.3 Phòng chống tệ nạn xã hội và giáo dục kỹ năng sống trong
phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên
Tệ nạn xã hội là các hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi sai
lệch với chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức và pháp luật, gây hậu quả xấu
về mọi mặt đối với đời sống xã hội. Hiện nay trên đất nước ta còn tồn tại
nhiều tệ nạn xã hội như: mại dâm, nghiện ma túy, cờ bạc, mê tín, tham
nhũng, quan liêu... Tệ nạn xã hội ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tinh thần và
đạo đức con người, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, rối loạn trật tự xã hội,
suy thoái giống nòi, dân tộc, văn hóa suy đồi. Nếu xã hội không tích cực
đấu tranh phòng chống những tệ nạn này thì chúng sẽ có thể trở thành
những nguyên nhân chính phát sinh tội phạm.
Để xác định tệ nạn xã hội người ta dựa vào những biểu hiện sai lệch
18
chuẩn mực xã hội. Trong đạo đức học, chuẩn mực xã hội được hiểu là quy
tắc tường minh hoặc hàm ẩn về hành vi được chấp nhận và chờ đợi trong
các tình huống cụ thể bởi toàn xã hội hay bởi một nhóm người nhất định.
Sự tôn trọng của cá nhân với các chuẩn mực xã hội là một trong những
điều kiện bảo đảm tính đồng thuận và cố kết của cộng đồng. Do đó cộng
đồng xã hội bằng nhiều phương thức khác nhau như sử dụng các chế tài
buộc các thành viên xã hội tuân thủ chuẩn mực hoặc bằng sức mạnh của dư
luận, của văn hóa, tập tục để phán xét, đánh giá, tỏ thái độ đồng tình hay
phản đối của cộng đồng nhằm khuyến khích những hành vi phù hợp và
ngăn chặn hành vi sai lệch chuẩn mực.
Sai lệch chuẩn mực xã hội được hiểu là hành vi của các cá nhân hoặc
của một nhóm người nào đó không phù hợp đời sống của cộng đồng, có tác
động tiêu cực đến tiến bộ của xã hội, bị xã hội lên án. Khi những hành vi
sai lệch chuẩn mực xã hội này lây lan trong một số thành viên của cộng
đồng và bị tái phạm thì trở thành tệ nạn xã hôi. Nói cách khác, tệ nạn xã
hội (Social evils) là hiện tượng xã hội tạo nên bởi những hành vi sai lệch
chuẩn mực xã hội có tính phổ biến trong một bộ phận thành viên của cộng
đồng, gây ảnh hưởng xấu về đạo đức, truyền thống văn hóa và đời sống
bình thường của xã hội. Trong các trường cao đẳng, đại học hiện nay có thể
gặp những tệ nạn xã hội như: nghiện ma túy, mại dâm, cờ bạc, số đề,
nghiện trò chơi điện tử ăn tiền, trộm cắp... Những tệ nạn này ảnh hưởng
không tốt đến chất lượng giáo dục, đào tạo của nhà trường, vì vậy các chủ
thể quản lý giáo dục không thể xem nhẹ phòng chống tệ nạn xã hội trong
sinh viên.
Phòng chống tệ nạn xã hội là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền, của mọi gia đình và cá nhân trong thực hiện các biện pháp
tuyên truyền, giáo dục, kinh tế - xã hội, hành chính, hình sự và các biện
19
pháp khác để ngăn chặn những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, giúp đỡ
những người đã sa ngã thoát khỏi các tệ nạn xã hội và loại bỏ những
nguyên nhân gây nên tệ nạn đó.
Ở đây, phòng và chống tệ nạn xã hội luôn quan hệ mật thiết với
nhau,chi phối lẫn nhau trên cả các phương diện chính như: phát hiện, tố
giác, đấu tranh để những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội không thể
diễn ra; giáo dục, cải tạo những người đã mắc tệ nạn xã hội trở lại cuộc
sống bình thường; các tổ chức, các cá nhân cùng với toàn xã hội thực hiện
các giải pháp khắc phục nguyên nhân dẫn đến việc nảy sinh và tồn tại tệ
nạn xã hội.
Hiện nạy, các giải pháp phòng, chống tệ nạn xã hội được sử dụng
khá đa dạng, bao gồm: giải pháp phát triển kinh tế, văn hóa; bảo đảm an
sinh xã hội; giữ gìn trật tự, kỷ cương; tuyên truyền, giáo dục…, trong đó
tuyên truyền, giáo dục được coi là giải pháp hết sức quan trọng. Giáo dục
kỹ năng sống là một phương diện thực hiện giải pháp tuyên truyền, giáo
dục nhằm phòng chống tệ nạn xã hội. Với quan niệm như vậy, ta có thể
phát biểu về khái niệm “Giáo dục kỹ năng sông trong phòng chống tệ nạn
xã hội cho sinh viên” như sau:
Giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh
viên là quá trình các chủ thể giáo dục tác động tới sinh viên nhằm nâng
cao ở họ hiểu biết về chuẩn mực xã hội và những phương thức khái quát
của hành động đúng chuẩn mực trong những tình huống chịu sự tác động,
thách thức bởi tiêu cực và tệ nạn xã hội, hình thành các kỹ năng sống cơ
bản của người trưởng thành, từ đó rèn luyện khả năng thích ứng nhanh, xử
lý đúng yêu cầu của phòng chống tệ nạn xã hội trong nhà trường.
20
Như vậy có thể hiểu rằng, trách nhiệm giáo dục kỹ năng sống trong
phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên, trước hết thuộc về cán bộ, giảng
viên và các đoàn thể - với tư cách là nhà giáo dục ở trường đại học, cao đẳng.
Mục tiêu chủ yếu của giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn
xã hội cho sinh viên chính là tạo ra ỏ sinh viên khả năng thực hiện đúng
chuẩn mực xã hội, tránh được những cám dỗ có thể dẫn tới hành vi sai chuẩn
mực và mắc phải tệ nạn xã hội. Theo đó, nội dung chủ yếu của giáo dục kỹ
năng sống trong phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên bao gồm:
- Nâng cao hiểu biết về chuẩn mực xã hội và những phương thức
khái quát của hành động đúng chuẩn mực trong những tình huống điển
hình của sự tác động, thách thức bởi tiêu cực và tệ nạn xã hội.
- Hình thành các kỹ năng sống cơ bản của một nhân cách đã và đang
trưởng thành như: kỹ năng tự khẳng định; kỹ năng thể hiện lòng tự trọng và
thái độ kiên quyết; kỹ năng đương đầu với cảm xúc; kỹ năng ứng phó với
stress; kỹ năng giải quyết xung đột không dùng bạo lực ; kỹ năng giao tiếp;
kỹ năng thiết lập tình bạn; kỹ năng ra quyết định…
- Rèn luyện vận dụng các hiểu biết và kỹ năng sống cơ bản nêu trên
vào xử lý các tình huống cụ thể của cuộc đấu tranh với tệ nạn xã hội.
1.1.4. Quản lý giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn xã
hội cho sinh viên trường cao đẳng
Bản chất của quá trình quản lý giáo dục là sự tác động qua lại giữa
chủ thể quản lý và đối tượng quản lý nhằm trao đổi thông tin, kiểm soát và
điều khiển hoạt động của các cá nhân và các bộ phận, bảo đảm cho bộ máy
tổ chức vận hành thông suốt, hoạt động giáo dục đạt tới mục đích đã đề ra.
Do đó, để giáo dục kỹ năng sông trong phòng chống tệ nạn cho sinh viên
đạt kết quả, nhất thiết trường đại học, cao đẳng phải quan tâm quản lý quá
21
trình giáo dục đó. Căn cứ vào các khái niệm đã được trình bày ở trên ta có
thể suy ra rằng:
Quản lý giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn xã hội cho
sinh viên là những tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý
giáo dục ở trường đại học, cao đẳng đến toàn bộ quá trình giáo dục kỹ
năng sống nhằm nắm vững và điều khiển, điều chỉnh các hoạt động nâng
cao hiểu biết, rèn luyện hành động đúng chuẩn mực xã hội, hình thành các
kỹ năng sống cơ bản của người trưởng thành, từ đó tạo nên ở sinh viên khả
năng thích ứng nhanh, xử lý đúng yêu cầu của phòng chống tệ nạn xã hội.
Mục tiêu quản lý giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn xã
hội cho sinh viên là thống nhất mọi nỗ lực sư phạm của nhà trường vào
chuẩn bị cho sinh viên khả năng “miễn dịch” trước những tác động của tệ
nạn xã hội.
Một là, chủ thể quản lý giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ
nạn xã hội cho sinh viên ở trường cao đẳng bao gồm: Ban giám hiệu nhà
trường, tổ chức đảng, các đoàn thể xã hội, các cơ quan quản lý giáo dục,
quản lý sinh viên, đội ngũ cán bộ quản lý các khoa, bộ môn.
Hai là, đối tượng quản lý giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống
tệ nạn xã hội cho sinh viên ở trường cao đẳng là các cá nhân và tập thể giảng
viên và sinh viên. giảng viên và sinh viên chịu sự tác động, điều khiển của
chủ thể quản lý. Như vậy, sinh viên vừa là chủ thể vừa là khách thể trong hệ
thống quản lý.
Ba là, mục đích quản lý giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ
nạn xã hội cho sinh viên ở trường cao đẳng, nhằm bảo đảm cho hoạt động
giảng dạy của giảng viên, hoạt động học tập của sinh viên đạt kết quả ngày
càng cao, góp phần thực hiện tốt mục tiêu quản lý và nhiệm vụ giáo dục đào tạo.
22
Bốn là, nội dung quản lý giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ
nạn xã hội cho sinh viên ở trường cao đẳng thực chất là quản lý việc thực
hiện tốt các thành tố của quá trình dạy học - giáo dục, các nhiệm vụ quyết
định đến chất lượng giảng dạy của giảng viên và chất lượng học tập, tu
dưỡng, rèn luyện của sinh viên ở nhà trường, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học - giáo dục, đạt được mục đích quản lý của nhà trường.
Năm là, phương pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống trong phòng
chống tệ nạn xã hội cho sinh viên ở trường cao đẳng rất phong phú, đa dạng,
bao gồm toàn bộ những cách thức, biện pháp tác động, điều khiển của chủ
thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng hệ thống công cụ, phương tiện
nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã xác định. Việc xác định phương pháp
quản lý giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh
viên ở trường cao đẳng phải bảo đảm tính khoa học, thống nhất, khả thi,
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của giảng viên và sinh viên, tăng cường
hiệu quả quản lý nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, trong đó phương pháp
quản lý hành chính, phương pháp giáo dục - tâm lý, phương pháp kích
thích là những phương pháp chủ đạo, được sử dụng phổ biến.
1.2. Nội dung quản lý giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống
tệ nạn xã hội cho sinh viên
1.2.1. Quản lý mục tiêu và kế hoạch giáo dục kỹ năng sống trong
phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên
Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn xã hội cho
sinh viên có tác dụng chi phối việc xác định nội dung, phương thức giáo
dục và thúc đẩy, định hướng các lực lượng giáo dục của trường đại học,
cao đẳng đóng góp tích cực vào việc chuẩn bị cho sinh viên khả năng hành
động đúng chuẩn mực và tránh mắc phải các tệ nạn xã hội. Trên cơ sở mục
tiêu đã đề ra, các chủ thể quản lý giáo dục trường đại học, cao đẳng phải
23
quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống bằng kế hoạch giáo duc. Kế hoạch
giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên trong phòng chống tệ nạn xã hội thực
chất là sự cụ thể hoá mục tiêu giáo dục thành những công việc và sắp xếp
chúng theo một trật tự nhất định. Vì vậy, quản lý mục tiêu luôn gắn liền với
quản lý kế hoạch giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn xã hội
cho sinh viên. Để thực hiện được diều đó các chủ thể quản lý ở trường đại
học, cao đẳng phải làm tốt một số khâu sau:
Một là, khảo sát rõ tình hình tệ nạn xã hội trên địa bàn và những
nguyên nhân khách quan, chủ quan làm cho một bộ phận sinh viên mắc
phải tệ nạn xã hôi. Kết quả của công việc này có ý nghĩa cung cấp những
căn cứ thực tiễn cho việc xác định những vấn đề mà nhà trường cần tập
trung giải quyết trong nâng cao nhận thức, điều chỉnh thái độ và định
hướng hành vi nhằm giúp sinh viên tránh xa được các tệ nạn xã hội.
Hai là, nắm vững mục tiêu, biện pháp phòng chống tệ nạn xã hội
được nêu ra trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, trước hết
là luật, pháp lệnh về phòng, chống ma túy, mại dâm, đánh bạc…, trên cơ sở
đó xác định mục tiêu giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên phù hợp với đòi
hỏi của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội ở nước ta
hiện nay. Đây chính là việc xác lập căn cứ pháp lý cho việc xây dựng mục
tiêu giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên.
Ba là, xác lập các yêu cầu cụ thể về nâng cao nhận thức, điều chỉnh
thái độ, rèn luyện hành vi cho sinh viên trong quá trình giáo dục kỹ năng
sống trong phòng chống tệ nạn xã hội. Mục tiêu chung nhất của giáo dục
kỹ năng sống là chuẩn bị cho sinh viên khả năng thích ứng với những tình
huống khác nhau của đời sống, đảm bảo cho họ có thể hành động độc lập,
sáng tạo và phù hợp với chuẩn mực xã hội. Mục tiêu chung đó phải được
cụ thể hóa thành những yêu cầu giáo dục cho từng loại đối tượng, từng môi
24
trường giáo dục. Vì vây, chủ thể quản lý giáo dục trường đại hoc, cao đẳng
phải chỉ rõ những yêu cầu giáo dục kỹ năng sống cho phù hợp với những
đòi hỏi khách quan của việc phòng chống tệ nạn xã hội cũng như chức
trách, nhiệm vụ giáo dục của các tổ chức và tính chất, nội dung dạy học của
các bộ môn khác nhau trong chương trình đào tao.
Bốn là, chỉ đao chặt việc lồng ghép kế hoạch hoạt động của các đoàn
thể, nhất là Đoàn thanh niên Cộng sản, Hội Sinh viên với kế hoạch giáo
dục kỹ năng sống và tuyên truyền, giáo dục về phòng chống tệ nạn xã hội.
Ở đây có ba loại kế hoạch phải phối hợp, lồng ghép với nhau đó là: Kế
hoạch hoạt động chính trị xã hội của các đoàn thế, kế hoạch giáo dục kỹ
năng sống và kế hoạch tuyên truyền về phòng chống tệ nạn xã hội của nhà
trường, Để sự lồng ghép này diễn ra một cách chủ động, cấp ủy đảng và
ban giám hiệu trường đại học, cao đẳng phải chỉ đạo các cơ quan chức
năng đề xuất các chủ đề giáo dục kỹ năng sống phù hợp với nội dung tuyên
truyền pháp luật (các luật, nghị định) về phòng chống tệ nạn xã hội. Trên
cơ sở những chủ đề giáo dục đó phân công cho từng tổ chức, đoàn thể xây
dựng và triển khai kế hoạch tiến hành giáo dục kỹ năng sống, tập trung vào
trang bị cho sinh viên những hiểu biết pháp luật (chuẩn mực xã hội), những
phương thức hành động khái quát trong những tình huống điển hình trong
cuộc đấu tranh chống lại những hành vi sai lệch chuẩn mực và sự lôi kéo
của các phần tử xấu trong xã hội.
Năm là, giao nhiệm vụ rõ ràng cụ thể cho các khoa, bộ môn trong
việc nâng cao nhận thức, điều chỉnh thái độ và rèn luyện phương thức hành
động của sinh viên nhằm tránh những hành vi sai lệch chuẩn mực và sa ngã
trước những cám dỗ của tệ nạn xã hội. Trong chương trình đào tạo đại học,
cao đẳng có khá nhiều môn có tác dụng giáo dục nhân cách cho sinh viên,
trong đó những các môn thuộc lĩnh vực giáo dục đạo đức, giáo dục pháp
25
luật và giáo dục quốc phòng - an ninh có quan hệ trực tiếp đến giáo dục kỹ
năng sống. Muốn quản lý được kế hoạch giáo dục kỹ năng sống, các chủ
thể quản lý nhà trường phải đòi hỏi các khoa, các bộ môn phải xác định rõ
nhiệm vụ định hướng cho sinh viên trong việc vận dụng những kiến thức
của từng bài học, từng môn học vào xử lý các tình huống trong đấu tranh
chống những hành vi lệch chuẩn và ngăn chặn, khắc phục những nguyên
nhân gây nên tệ nạn xã hội trong nhà trường.
1.2.2. Quản lý nội dung, phương thức giáo dục kỹ năng sống trong
phòng chống tệ nạn xã hội cho sinh viên
Trên cơ sở mục tiêu, kế hoạch đã xác định, chủ thể quản lý giáo dục
trường đại học, cao đẳng phải chỉ đạo chặt chẽ nội dung và phương thức
giáo dục kỹ năng sống, cụ thể như sau:
Một là, quản lý việc xây dựng và thực hiện nội dung giáo dục pháp
luật, giáo dục đạo đức, trọng tâm là giáo dục hành vi đúng chuẩn mực xã
hội cho sinh viên. Đây là một khâu rất quan trọng trong quản lý giáo dục
kỹ năng sống trong phòng chống tệ nạn xã hội, bởi vì xét cho cùng giáo
dục kỹ năng sống là rèn luyện hành vi đúng chuẩn mực và khả năng “đề
kháng” không bị “lây nhiễm” những thói hư, tật xấu của những người xa
ngã vào tệ nạn xã hội. Xác định đúng nội dung giáo dục pháp luật, giáo dục
đạo đức sẽ giúp cho sinh viên phân biệt được hành vi đúng chuẩn mực và
hành vi sai lệch chuẩn mực, bị xã hội ngăn cấm, đồng thời nhận rõ những
chiêu thức dụ dỗ, lôi kéo người khác đến với các tệ nạn xã hôi của kẻ xấu.
Trong tình hình hiện nay quản lý nội dung giáo dục pháp luật và giáo dục
kỹ năng sống cho sinh viên trong phòng chống tệ nạn xã hội cần tập trung
vào các vấn đề như: đấu tranh chống ma túy, mại dâm; cờ bạc, trộm cắp;
giữ kỷ luật trong trường học…
26
Hai là, quản lý nội dung tuyên truyền, giáo dục lối sống lành mạnh,
có kỷ luật cho sinh viên. Đây là con đường giáo dục kỹ năng sống thông
qua điều chỉnh hành vi của sinh viên trong đời sống thường ngày, nó có tác
dụng hỗ trợ rất quan trọng cho nội dung giáo dục pháp luật, giáo dục đạo
đức. Để quản lý được việc giáo dục lối sống và tính kỷ luật của sinh viên,
các chủ thể quản lý giáo dục của trường đại học, cao đẳng phải bám sát
việc xây dựng môi trường văn hóa sư phạm của nhà trường. Điều đó có
nghĩa là, chủ thể quản lý giáo dục phải quan tâm hướng các thiết chế văn
hóa, các quan hệ giao tiếp và hoạt động văn hóa của sinh viên vào tuyên
truyền, giáo dục cách sống tốt đẹp và ý thức tôn trọng kỷ luật, pháp luật
của sinh viên.
Ba là, chỉ đạo đổi mới hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục
nhằm lên án các hành vi lệch chuẩn, những thói quen xấu trong đời sống sinh
viên. Trong việc này, các chủ thể quản lý giáo dục của trường đại học, cao
đẳng cần tăng cường sự phối hợp với các cơ quan chức năng khác làm tốt một
số công việc như: Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; ý thức tôn trọng
pháp luật, trách nhiệm công dân trong phòng chống tệ nạn xã hội; thông qua
các loại hình văn hóa nghệ thuật để phổ biến rộng rãi những gương người tốt,
việc tốt; phản ảnh kịp thời và lên án những hiện tượng tiêu cực, hành vi sai
lệch chuẩn mực; đẩy mạnh phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh,
tấn công trấn áp tội phạm và ngăn chặn tệ nạn xã hội…
1.2.3. Quản lý lực lượng giáo dục kỹ năng sống trong phòng chống
tệ nạn xã hội cho sinh viên
Giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên trong phòng chống tệ nạn xã
hội là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, của bộ máy quản lý giáo dục, của
các đoàn thể, cũng như của các lực lượng sư phạm trong trường đại học,
cao đẳng. Vì vây, để quản lý giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên, các chủ