Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG dạy học môn QUÂN sự CHUNG tại TRUNG tâm GIÁO dục QUỐC PHÒNG AN NINH, đại học QUỐC GIA hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.23 KB, 136 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC MÔN QUÂN SỰ CHUNG Ở TRUNG
TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH
1.1. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.2. Nội dung quản lý hoạt động dạy học môn Quân sự chung ở
Trung tâm Giáo dục quốc phòng- An ninh
1.3. Những yếu tố tác động đến quản lý hoạt động dạy học môn
Quân sự chung ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng- An
ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC MÔN QUÂN SỰ CHUNG Ở TRUNG
TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH, ĐẠI
HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
2.1. Một số nét về Trung tâm Giáo dục quốc phòng- An ninh,
Đại học Quốc gia Hà Nội
2.2. Thực trạng hoạt động dạy học và quản lý hoạt động dạy
học môn Quân sự chung ở Trung tâm Giáo dục quốc
phòng- An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội
Chương 3. YÊU CẦU, BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC MÔN QUÂN SỰ CHUNG Ở TRUNG
TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH, ĐẠI
HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Yêu cầu quản lý hoạt động dạy học môn Quân sự chung ở
Trung tâm Giáo dục quốc phòng- An ninh, Đại học Quốc
gia Hà Nội
3.2. Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Quân sự chung
ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng- An ninh, Đại học Quốc
gia Hà Nội hiện nay
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
3

14
14
25

30

35
35

39

64

64

67
87
94
97
102


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, trước sự biến động phức tạp của tình hình
quốc tế và khu vực, trước yêu cầu đổi mới của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc,
công tác GDQP - AN cho học sinh, sinh viên được Đảng, Nhà nước đặc biệt
quan tâm và đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị định về GDQP - AN. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục Việt Nam tiếp tục khẳng định:“Tăng cường giáo dục
thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp” [22, tr.123] cho
học sinh, sinh viên. Những chủ trương, giải pháp, văn bản quy phạm pháp
luật về quản lý GDQP - AN đã tạo thành cơ sở pháp lý cho công tác GDQP AN ở các Trung tâm giáo dục quốc phòng, cũng như mỗi nhà trường trong hệ
thống giáo dục quốc dân, nhằm góp phần đào tạo con người phát triển toàn
diện, giúp cho học sinh, sinh viên hiểu biết một số nội dung cơ bản về QP AN; truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc, trách nhiệm và
nghĩa vụ của công dân với bảo vệ Tổ quốc; nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội; có ý thức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch; có kiến thức cơ bản về đường lối QP - AN và công tác quản lí nhà nước
về QP - AN; có kĩ năng quốc phòng, quân sự, an ninh cần thiết để tham gia
vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân
sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trung tâm GDQP - AN, Đại học Quốc gia Hà Nội là một trong những
Trung tâm GDQP lớn của cả nước, có nhiệm vụ tổ chức GDQP - AN cho sinh
viên các trường đại học thành viên, đào tạo sĩ quan dự bị từ sinh viên và đào
tạo giáo viên GDQP - AN cho các trường trung học phổ thông và trung cấp
chuyên nghiệp trên địa bàn Thủ đô. Thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện,
trong những năm qua trên cơ sở chương trình, nội dung của Bộ, Trung tâm đã
chủ động nghiên cứu, đổi mới nội dung, chương trình GDQP - AN nói chung,
3


môn QSC nói riêng cho phù hợp với nhiệm vụ QP - AN của địa bàn Thủ đô
và khu vực phía Bắc. Xuất phát từ tính đặc thù của môn QSC, Trung tâm đã

xây dựng được quy trình và môi trường dạy học phù hợp với tính chất, đặc
điểm môn học và tâm lý của sinh viên. Trung tâm luôn coi trọng đổi mới tổ
chức và PPDH, kết hợp chặt chẽ giữa giảng dạy và rèn luyện, giữa học tập
chính khoá với hoạt động ngoại khoá. Qua học tập môn QSC, ý thức quốc
phòng, tri thức, kỹ năng quân sự của sinh viên được nâng lên; sinh viên được
rèn luyện về kỷ luật, lễ tiết tác phong, hình thành phẩm chất tốt đẹp của “Bộ
đội Cụ Hồ”, xác định rõ trách nhiệm của công dân đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, biết vận dụng những kiến thức đã lĩnh hội được vào cuộc
sống học tập, rèn luyện tại trường và công tác sau này.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động dạy học môn QSC ở
Trung tâm còn bộc lộ một số hạn chế như: Đội ngũ giảng viên còn thiếu về số
lượng và chất lượng. Việc đầu tư, khai thác cơ sở vật chất, phương tiện dạy học
của môn QSC chưa ngang tầm nhiệm vụ, đặc biệt việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức. Chưa động viên
khuyến khích được giảng viên tích cực đổi mới, nội dung phương pháp giảng
dạy bộ môn. Bên cạnh đó, thái độ, động cơ học tập môn QSC của một bộ phận
sinh viên chưa tốt, dẫn đến kết quả học tập chưa cao.... Nguyên nhân dẫn đến
thực trạng trên là do công tác quản lý HĐDH môn QSC có mặt còn hạn chế.
Nhận thức về quản lý HĐDH môn QSC ở một bộ phận giảng viên, cán bộ quản
lý giáo dục và sinh viên còn chưa thống nhất. Việc quản lý đổi mới nội dung,
phương pháp giảng dạy của đội ngũ giảng viên còn nhiều bất cập, cơ sở vật
chất đảm bảo cho HĐDH môn QSC còn thiếu và chưa ổn đinh... Do đó, hiệu
quả HĐDH môn QSC ở Trung tâm còn chưa được như mong muốn. Vì vậy, đề
tài “Quản lý hoạt động dạy học môn quân sự chung ở Trung tâm giáo dục
quốc phòng - an ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội” có ý nghĩa lý luận, thực tiễn
cấp thiết, được tác giả lựa chọn làm đề tài nghiên cứu.
4


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Có nhiều công trình nghiên cứu về HĐDH, quản lý HĐDH nói chung
và quản lý hoạt động dạy học GDQP-AN nói riêng, đó là:
Nghiên cứu về hoạt động dạy học và quản lý hoạt động dạy học
Trong hướng nghiên cứu về quản lý HĐDH trong nhà trường hiện nay
một số đề tài đã được nghiên cứu như:
Tác giả Nguyễn Văn Châu [13] với đề tài Luận án Tiến sĩ: “Những giải
pháp tăng cường hiệu quả quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng trường
THPT” đã chỉ ra tương đối toàn diện về quản lý HĐDH của hiệu trưởng ở các
trường THPT. Theo tác giả khi nói đến hiệu quả giáo dục là phải nói đến hiệu
quả HĐDH và phải nói tới hiệu quả quản lý HĐDH của hiệu trưởng, người
thuyền trưởng tài năng đảm nhận trọng trách quản lý nhà trường, thực hiện
các mục tiêu giáo dục. Do đó, để tăng cường hiệu quả quản lý, hiệu trưởng
cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như: tăng cường hiệu lực của chế định
GD&ĐT trong quản lý HĐDH; tạo động lực cho bộ máy tổ chức và nhân lực
dạy học của nhà trường; huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn tài lực
và vật lực dạy học; nâng cao hệ thống thông tin và môi trường. Mặc dù còn
một số hạn chế trong luận giải mối quan hệ giữa vai trò của hiệu trưởng với
quản lý nâng cao chất lượng, hiệu quả HĐDH, các biện pháp đưa ra chưa thực
sự toàn diện và đồng bộ nhưng đề tài đã làm rõ được tính cấp thiết của nội
dung nghiên cứu, làm cơ sở, tiền đề định hướng, thúc đẩy các nghiên cứu tiếp
theo toàn diện và thiết thực hơn.
Tác giả Nguyễn Thế Bình [4] trong đề tài luận văn QLGD: “Các giải
pháp quản lý hoạt động dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục các
trường THPT vùng khó khăn ở huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái” cho rằng: Giáo
dục THPT có nhiệm vụ cung cấp kiến thức, phát triển và hoàn thiện nhân
cách, chuẩn bị một cách tốt nhất cho thế hệ trẻ có đủ bản lĩnh, năng lực và thể
chất sẵn sàng tham gia vào các lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế - xã hội.
5



Đặc biệt với huyện nghèo và còn nhiều khó khăn như huyện Lục Yên, tỉnh
Yên Bái đa phần HS là con em đồng bào các dân tộc thiểu số thì trường
THPT là nơi tạo nguồn cán bộ, chuẩn bị cho các em những kiến thức cơ bản,
bản lĩnh, năng lực, thể chất để các em sẵn sàng tham gia hoạt động xã hội
hoặc học cao hơn để phục vụ dân tộc mình, góp phần xây dựng quê hương đất
nước. Trên cơ sở phân tích thực trạng, tác giả đã chỉ ra các biện pháp: quản lý
hoạt động dạy của giảng viên; quản lý hoạt động học của HS; Công tác kiểm
tra, đánh giá và thi đua khen thưởng; Tạo điều kiện thuận lợi cho HĐDH;
Nâng cao năng lực của chủ thể quản lý.
Tác giả Nguyễn Chí Thanh [45] với đề tài luận văn QLGD: “Biện pháp
quản lý hoạt động dạy học của trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Hữu
Lũng, tỉnh Lạng Sơn” đã nghiên cứu và đề xuất một hệ thống biện pháp quản
lý việc tổ chức HĐDH. Từ việc phân tích thực trạng, tác giả đã chỉ ra những
nguyên nhân cơ bản dẫn đến chất lượng của các trung tâm giáo dục thường
xuyên cấp THPT. Trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, tác giả đã đề xuất các
biện pháp tương đối phù hợp và khả thi như: Chỉ đạo xây dựng nề nếp dạy
học; Chỉ đạo đổi mới cải tiến PPDH; Tăng cường kiểm tra hoạt động chuyên
môn của giảng viên; Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao trình độ;
Tăng cường quản lý phương tiện, kĩ thuật hỗ trợ cho HĐDH; Chú trọng phân loại
HS để có phương pháp giảng dạy sát với đối tượng; Tăng cường tính khách
quan, đổi mới kiểm đánh giá kết quả học tập của HS.
Tác giả Nguyễn Đức Hiền [31] với công trình “Biện pháp quản lý học
tập của sinh viên các lớp liên kết đào tạo hệ không chính quy ở trung tâm đào
tạo bồi dưỡng tại chức tỉnh Nam Định”, đã xác định một số biện pháp quản lý
học tập của sinh viên hệ không chính quy để nâng cao chất lượng đào tạo,
nghĩa là đồng thời vừa để đảm bảo việc thực hiện quy chế đào tạo, vừa tạo
điều kiện thuận lợi cho người học tức là vừa phù hợp với yêu cầu của chương
trình đào tạo và vừa phù hợp với đặc thù của đối tượng người học;
6



Ngoài ra, còn có các công trình của các tác giả: Lại Thanh Tú “Quản
lý QTDH lý luận chính trị tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội”, luận văn QLGD năm 2013; Nguyễn Phong Tân
“Quản lý quá trình dạy học ở Trường Trung cấp Công thương Hà Nội hiện
nay”, luận văn QLGD năm 2014; Phùng Ngọc Thưởng “Quản lí quá trình
dạy học ở các trường trung học phổ thông huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh
Phúc”, luận văn QLGD năm 2014. Các đề tài trên đã làm rõ hơn cơ sở lý luận
về quản lý HĐDH nói chung và quản lý HĐDH các môn học nói riêng, đặc
biệt các công trình chỉ ra được đặc điểm HĐDH phù hợp với điều kiện thực tế
ở từng cơ sở đào tạo, đồng thời đánh giá thực trạng quản lý HĐDH, làm rõ
nguyên nhân của thực trạng và đề xuất các biện pháp quản lý quan trọng
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý HĐDH, các giải pháp mà các tác giả quan
tâm thực hiện như: Xây dựng kế hoạch; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
cho đội ngũ giảng viên, tổ chức chỉ đạo chặt chẽ các khâu các bước của
QTDH và đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả dạy học...
Nghiên cứu về hoạt động dạy học GDQP-AN và quản lý hoạt động
dạy học GDQP-AN
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài biết về công tác giáo dục, quản
lý hoạt động giáo dục quốc phòng - an ninh cho các đối tượng, dưới các góc
độ, khía cạnh khác nhau:
Bàn về vai trò của hoạt động giáo dục quốc phòng - an ninh trong hệ
thống giáo dục quốc dân nói chung, giáo dục ý thức quốc phòng, an ninh cho
cán bộ, học sinh, sinh viên các trường Đảng, trường đại học, cao đẳng và
trung học nói riêng. Tiêu biểu là các công trình của các tác giả: Nguyễn Thị
Doan, “Trường đại học với nhiệm vụ giáo dục quốc phòng”, Tạp chí Quốc
phòng toàn dân, 12/1998. Nguyễn Nghĩa, “Một số vấn đề nâng cao chất lượng
giáo dục quốc phòng cho cán bộ, học sinh, sinh viên”, Tạp chí Khoa học quân
sự, số 11/2000. Vương Đình Huệ, “Trường Đại học Tài chính - Kế toán Hà
Nội nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng toàn dân trong thời kỳ mới”,

7


Tạp chí giáo dục quốc phòng toàn dân 4/2000. Phan Ngọc Liên, “Giáo dục
quốc phòng cho thế hệ trẻ trong các nhà trường - những vấn đề cần lưu tâm”.
Lê Doãn Thuật, “Giáo dục quốc phòng trong các trường Đại học và cao đẳng
- bốn vấn đề bức xúc cần tháo gỡ từ cơ sở, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
12/2002. Nguyễn Trường Vỹ “Trung tâm giáo dục quốc phòng, Đại học Quốc
gia thành phố Hồ Chí Minh - 5 năm xây dựng và phát triển”, Tạp chí Quốc
phòng toàn dân, số 4/2002. Hội đồng Giáo dục Trung ương, Kỷ yếu Hội nghị
sơ kết 5 năm thực hiện Nghị định 15/2001/NĐ-CP về giáo dục quốc phòng
(2000-2005), tháng 12/2005.
Nghiên cứu về vấn đề việc đổi mới nội dung, hình thức tổ chức, phương
pháp dạy học giáo dục quốc phòng - an ninh có các công trình tiêu biểu như:
Công trình “Đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia”,
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2007 và công trình “Đổi mới nâng
cao chất lượng giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia hiện
nay” của Lê Minh Vụ. Tác giả Vũ Quang Lộc với công trình “Tư duy mới về
bảo vệ Tổ quốc và yêu cầu đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo
dục quốc gia hiện nay”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2006. Bàn
về tính tất yếu của đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc
gia hiện nay của Nguyễn Bá Dương. “Vị trí, vai trò và ý nghĩa của đổi mới
giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia đối với sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc hiện nay” của Vũ Quang Đạo. “Đổi mới chương trình, nội dung
và phương pháp giáo dục quốc phòng hiện nay” của Trần Đình Đích. “Thực
trạng và giải pháp đổi mới giáo dục quốc phòng trong các trường đại học, cao
đẳng” của Hà Văn Công. “Giải pháp đổi mới giáo dục quốc phòng cho sinh
viên hiện nay” của Lê Ngọc Cường. “Đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục
quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia” của Phạm Xuân Hảo. “Giáo
dục quốc phòng cho các lớp cử nhân chính trị trong hệ thống Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh” của Nguyễn Văn Cần. “Xây dựng đội ngũ giáo
viên giảng dạy giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia - một
8


vấn đề cấp thiết hiện nay” của Nguyễn Văn Thế. “Những yêu cầu cơ bản về
đổi mới mục tiêu giáo dục quốc phòng cho cán bộ, học sinh, sinh viên trong
hệ thống giáo dục quốc gia” của Vũ Đức Huấn. “Quán triệt quan điểm đồng
bộ, hệ thống trong đổi mới giáo dục quốc phòng cho cán bộ, học sinh, sinh
viên ở nước ta hiện nay” của Đỗ Minh Châu. “Trung tâm giáo dục quốc
phòng - an ninh với việc đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục
quốc phòng cho học sinh, sinh viên” của Lê Văn Nghệ. “Nhóm giải pháp đổi
mới, nâng cao chất lượng công tác tổ chức giáo dục quốc phòng cho cán bộ,
học sinh, sinh viên hiện nay” của Nguyễn Trọng Xuân.
Nghiên cứu về đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả môn giáo dục quốc
phòng, an ninh có các công trình tiêu biểu như: Công trình “Những căn cứ để
đánh giá chất lượng, hiệu quả đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ thống
giáo dục quốc gia thời gian qua” của Phạm Văn Việt. “Giải pháp đổi mới nội
dung, phương pháp giảng dạy và đánh giá kết quả giáo dục quốc phòng cho
cán bộ, học sinh, sinh viên hiện nay” của Bùi Ngọc Quỵnh; Công trình:
“Đánh giá kết quả giáo dục quốc phòng - an ninh ở các trung tâm giáo dục
quốc phòng - an ninh hiện nay” của Nguyễn Đức Duy; “Thực trạng chất
lượng giáo dục quốc phòng - an ninh ở các trường cao đẳng, đại học hiện
nay” của Ngô Thùy Trang ..; Tác giả Vũ Đức Huấn với công trình: “Tiêu chí
đánh giá chất lượng giáo dục quốc phòng ở các nhà trường hiện nay”, Tạp chí
Khoa học Quân sự, số 354/2009...
Nghiên cứu công tác quản lý giáo dục quốc phòng - an ninh có các
công trình tiêu biểu như: “ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước đối với công tác giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục
quốc gia” của Nguyễn Minh Khải; Tư duy mới của Đảng ta về giáo dục quốc

phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia của Nguyễn Mạnh Hưởng; Tư duy lí
luận về quốc phòng, giáo dục quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt
Nam và của Đảng ta - giá trị và ý nghĩa, của Nguyễn Bá Dương. Tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, vai trò của các tổ chức xã
hội, nghề nghiệp trong giáo dục quốc phòng cho cán bộ, học sinh, sinh viên
9


hiện nay của Nguyễn Phương Đông. Xây dựng chương trình khung giáo dục
quốc phòng cho các đối tượng và phương pháp tiếp cận của Trần Đăng
Thanh. Xây dựng chương trình khung phải phù hợp với đối tượng giáo dục,
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng của Nguyễn Đức Hạnh. Đặc biệt, một số
công trình luận văn, luận án cũng đề cập đến công tác quản lý GDQP - AN,
tiêu biểu là “Quản lý hoạt động đào tạo giáo dục quốc phòng - an ninh ở trung
tâm giáo dục quốc phòng Hà nội 2”, Luận văn Thạc sĩ, Hà Nội 2014, của
Phạm Văn Sơn; “Quản lý giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên các
trường đại học Việt Nam trong bối cảnh mới”, Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo
dục, Hà Nội 2013, của tác giả Hoàng Văn Tòng...
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau
của giáo dục quốc phòng - an ninh cho cán bộ, học sinh, sinh viên trong các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, trung học phổ
thông hiện nay. Nhìn chung, các tác giả đã đề cập tới tầm quan trọng của giáo
dục quốc phòng - an ninh cho cán bộ, học sinh, sinh viên trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời đã đề xuất các
giải pháp khác nhau nhằm nâng cao chất lượng quản lý giáo dục quốc phòng an ninh ở các nhà trường. Kết quả của các công trình trên tác giả tiếp thu làm
tiền đề nghiên cứu.
Tóm lại, Nhìn chung đây là những công trình nghiên cứu góp phần
làm giàu tri thức chuyên ngành QLGD. Đồng thời những nghiên cứu này đã
và đang góp phần vận dụng những hiểu biết về quản lý, QLGD vào công tác
quản lý dạy học GDQP-AN đối với cán bộ, giảng viên và sinh viên nhằm

góp phần nâng cao chất lượng quản lý và dạy học GDQP-AN đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các công trình nghiên cứu trên đã góp
phần nêu bật được những tồn tại, khó khăn và bất cập về nội dung chương
trình, PPDH và cả quản lý dạy học hiện nay, đề xuất được nhiều biện pháp
quản lý dạy học hiệu quả và thiết thực ở các nhà trường khác nhau với các
đối tượng sinh viên và ở các bậc học khác nhau. Đây chính là các căn cứ
khoa học cho tác giả xây dựng hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
10


nghiên cứu. Mặc dù vậy, vẫn chưa có đề tài nào tập trung đi sâu nghiên cứu
quản lý HĐDH môn QSC ở TTGDQP-AN, Đại học Quốc gia Hà Nội. Cho
nên, chúng tôi đã chọn đề tài này với mong muốn đề xuất được một số biện
pháp quản lý dạy học môn QSC, hướng tới nâng cao chất lượng dạy học
GDQP-AN trong giai đoạn hiện nay
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về quản lý HĐDH môn
QSC, đề tài đề xuất một số biện pháp quản lý HĐDH môn QSC đáp ứng yêu
cầu nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo ở Trung tâm GDQP-AN, Đại học
Quốc gia Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về quản lý HĐDH môn QSC ở Trung tâm
GDQP-AN, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng quản lý HĐDH môn QSC ở Trung tâm GDQPAN, Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý HĐDH môn QSC ở Trung tâm
GDQP-AN, Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Hoạt động dạy học các môn GDQP-AN ở Trung tâm GDQP-AN, Đại

học Quốc gia Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý HĐDH môn QSC ở Trung tâm GDQP-AN, Đại học Quốc gia Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu quản lý HĐDH môn QSC cho sinh viên hệ
chính quy ở Trung tâm GDQP-AN, Đại học Quốc gia Hà Nội. Số liệu nghiên
cứu điều tra khảo sát từ 2010 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học

11


Quản lý HĐDH môn QSC ở Trung tâm GDQP-AN, Đại học Quốc gia
Hà Nội phụ thuộc vào những nhân tố chủ quan và khách quan xác định. Trong
quá trình đó nếu: Xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch dạy học môn QSC của
giảng viên; quản lý thực hiện đầy đủ chương trình, nội dung dạy học môn
QSC; tổ chức có hiệu quả HĐDH môn QSC; phát huy vai trò, trách nhiệm các
chủ thể trong quản lý HĐDH; tăng cường quản lý HĐHT của sinh viên theo
môi trường quân đội và đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học...chất lượng
quản lý HĐDH môn QSC ở Trung tâm GDQP-AN, Đại học Quốc gia Hà Nội
sẽ được nâng lên, đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện sinh viên hệ chính quy
Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác GDQP-AN và quản lý dạy học GDQP-AN. Trong quá
trình nghiên cứu, tác giả tiếp cận vấn đề theo quan điểm hệ thống - cấu trúc;
quan điểm phức hợp: hoạt động - giá trị - nhân cách; quan điểm lịch sử - lô
gíc; quan điểm thực tiễn để xem xét, phân tích những vấn đề liên quan.

* Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Thu thập các tài liệu khoa học, tạp
chí, sách báo, trang tin điện tử... có liên quan để phân tích, khái quát
hóa các lý thuyết, quan điểm khoa học để xây dựng cơ sở lý luận về quản lý
HĐDH môn QSC ở Trung tâm giáo dục quốc phòng - an ninh, Đại học Quốc
gia Hà Nội hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra, phỏng vấn, khảo sát thực tế: Dùng kỹ thuật
nghiên cứu xã hội học như phỏng vấn bằng phiếu hỏi, phỏng vấn trực tiếp, tọa
đàm, khảo sát để thu thập thông tin, đánh giá thực trạng công tác quản lý
HĐDH môn QSC ở Trung tâm giáo dục quốc phòng - an ninh, Đại học Quốc
gia Hà Nội hiện nay.
12


Dự kiến tiến hành khảo sát bằng phiếu hỏi 40 giảng viên tại Trung tâm
giáo dục quốc phòng - an ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội. Phỏng vấn và điều
tra 200 sinh viên bằng trả lời phiếu hỏi trực tiếp.
+ Phương pháp quan sát: Thăm và dự giờ một số buổi học môn QSC tại
Trung tâm giáo dục quốc phòng - an ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý HĐDH môn QSC ở Trung
tâm giáo dục quốc phòng - an ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội.
+ Phương pháp chuyên gia: Tham khảo các ý kiến tư vấn của các chuyên gia
làm công tác quản lý đào tạo, quản lý giáo dục, các chuyên gia về nghiên cứu về
giáo dục quốc phòng - an ninh và quản lý giáo dục quốc phòng - an ninh để đúc
rút kinh nghiệm về biện pháp quản lý HĐDH môn QSC ở Trung tâm giáo dục
quốc phòng - an ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp phân tích thống kê có sử dụng phần mềm SPSS: Thông
qua các số liệu thu thập được qua quá trình khảo sát, điều tra, xử lý bằng
thống kê nhằm đảm bảo độ chính xác, tin cậy của các kết luận.

7. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu cung cấp những luận cứ, cơ sở khoa học góp phần phục
vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao chất lượng quản lý HĐDH môn QSC ở
Trung tâm giáo dục quốc phòng - an ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội, đồng thời đề
tài có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, ba chương (8 tiết), kết luận, kiến nghị danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1

13


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN
QUÂN SỰ CHUNG Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN
NINH, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Hoạt động dạy học môn Quân sự chung
* Hoạt động dạy học
Dạy học là hoạt động chủ yếu trong nhà trường giúp học sinh tiếp thu
những kiến thức phổ thông cơ bản, hiện đại của nhân loại, hình thành những
kỹ năng, kỹ xảo và những năng lực, phẩm chất trí tuệ cần thiết của người
công dân, dạy học cũng là con đường cơ bản để hình thành thế giới quan khoa
học, phẩm chất đạo đức và phát triển nhân cách học sinh.
Nhiều nhà khoa học đã tiếp cận khái niệm dạy học từ cơ sở của lý luận
của quá trình giáo dục tổng thể. Mặt khác, xét quan hệ giữa các thành tố cấu
trúc của hoạt động, một số tác giả đã luận giải về nội hàm của khái niệm dạy
học từ những góc độ khoa học khác nhau như: giáo dục học, tâm lý học, điều
khiển học,...dưới đây:

Tiếp cận dạy học từ góc độ tâm lý học: Dạy học được hiểu là sự biến
đổi hợp lý hoạt động và hành vi của người học trên cơ sở cộng tác hoạt động
và hành vi của người dạy và người học.
Tiếp cận dạy học từ góc độ điều khiển học: “Dạy học là quá trình cộng
tác giữa thầy và trò nhằm điều khiển- truyền đạt và tự điều khiển- lĩnh hội tri
thức nhân loại nhằm thực hiện mục đích giáo dục”. [24, tr.519].
Tiếp cận dạy học từ góc độ giáo dục học “ Dạy học - một trong các bộ
phận của quá trình tổng thể giáo dục nhân cách toàn vẹn- là quá trình tác
động qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội tri thức
khoa học, những kỹ năng và kỹ xảo hoạt động nhận thức và thực tiễn, để
trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, phát triển năng lực sáng tạo và xây

14


dựng phát triển các phẩm chất của nhân cách người học theo mục đích giáo
dục” [38, tr.22].
Theo tác giả Hà thế Truyền: “Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ
các thao tác có tổ chức và có định hướng giúp người học từng bước có năng
lực tư duy và năng lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh
thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được
để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các bài toán thực tế đặt ra trong
toàn bộ cuộc sống của mỗi người học” [48, tr.21].
Theo tác giả Trần Thị Tuyết Oanh “Quá trình DH là sự thống nhất biện
chứng của hai thành tố cơ bản trong quá trình dạy học - hoạt động dạy và hoạt
động học” [39, tr.134].
Như vậy, tùy vào cách tiếp cận khác nhau, các tác giả luận giải khái
niệm dạy học theo các hướng khác nhau, tuy nhiên, nhìn chung, các tác giả
đều khẳng định: HĐDH là hoạt động kép bao gồm hoạt động dạy của giáo
viên và hoạt động học của học sinh. Hoạt động dạy và hoạt động học thống

nhất biện chứng với nhau trong HĐDH. Nếu thiếu một trong hai hoạt động thì
không có HĐDH. Nếu không có hoạt động dạy thì chỉ còn hoạt động tự học
của học sinh, nếu không có hoạt động học thì hoạt động dạy cũng không diễn
ra. Quá trình dạy học thực chất là thể hiện toàn bộ hoạt động có chủ định, có
kế hoạch của thầy và trò, làm cho học sinh nắm vững hệ thống kiến thức về tự
nhiên và xã hội, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thói quen hành động.
Hoạt động dạy: Là điều khiển quá trình trò chiếm lĩnh khái niệm khoa
học, bằng cách đó phát triển, hình thành nhân cách trò. Dạy của thầy có chức
năng thường xuyên tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra
nhau, đó là truyền đạt thông tin cho người học và điều khiển HĐDH.
Hoạt động học: Học là quá trình hoạt động dưới sự định hướng của
người dạy, người học tự giác, tích cực, độc lập, tiếp thu tri thức, kinh nghiệm,
từ môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình
15


thành cấu trúc tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày
càng hoàn thiện.
Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và học: Hoạt động dạy và học mang
tính chất hai chiều, gồm HĐDH và hoạt động học, đó là hai mặt của một quá
trình luôn tác động qua lại và bổ xung cho nhau, phối hợp chặt chẽ thống nhất
biện chứng với nhau giữa người dạy và người học. Hoạt động dạy và học diễn ra
trong những điều kiện xác định, trong đó hoạt động dạy đóng vai trò chủ đạo,
điều khiển, hướng dẫn, hoạt động học đóng vai trò chủ động, tích cực, tự giác và
sáng tạo, nhằm đạt hiệu quả theo mục tiêu giáo dục đã xác định; đó là phát triển
nhân cách người học đáp ứng yêu cầu của xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định. Có thể khái quát HĐDH luôn thể hiện mối quan hệ biện chứng của hai
hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh; giữa truyền đạt và
điều khiển trong dạy; giữa lĩnh hội và tự điều khiển trong học.
HĐDH là hoạt động trung tâm chi phối tất cả các hoạt động khác trong

nhà trường. Hoạt động dạy, học làm cho học sinh nắm vững tri thức khoa học
một cách có hệ thống cơ bản, có những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong học
tập, lao động và đời sống. Hoạt động này làm phát triển tư duy độc lập sáng
tạo, hình thành những năng lực cơ bản về nhận thức và hành động của HS,
hình thành ở thế giới quan khoa học, lòng yêu tổ quốc, yêu CNXH, đó chính
là động cơ học tập trong nhà trường và định hướng hoạt động của HS.
HĐDH diễn ra theo từng quá trình, sau mỗi quá trình, học sinh đạt
được những tiến bộ mới về kiến thức, kỹ năng và thái độ, nhân cách học sinh
được hoàn thiện dần. Theo tiếp cận hệ thống thì quá trình dạy học là một hệ
thống gồm các thành tố cơ bản là: Mục tiêu dạy học; Nội dung; Phương pháp;
phương tiện; Hình thức tổ chức dạy học; Giáo viên với hoạt động dạy; Học
sinh với hoạt động học; Kết quả dạy học. Các thành tố trên của quá trình dạy
học tác động qua lại, quan hệ biện chứng với nhau và đặt trong sự tương tác
với môi trường tạo nên tính trồi của hệ thống.
16


* Dạy học môn Quân Sự chung
Môn học (học phần) Quân sự chung là một trong những nội dung cơ bản
và đặc trưng của chương trình GDQP-AN được thực hiện trong nội dung
chương trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng nói chung, Trung tâm
GDQP-AN, ĐHQGHN nói riêng nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo
toàn diện của nhà trường và đáp ứng yêu cầu trong thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng nước ta hiện nay, đó là xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Môn học Quân sự chung bao gồm cả nội dung lý thuyết kết hợp với
thực hành nhằm trang bị cho người học những kiến thức cơ bản về bản đồ, địa
hình QS, các phương tiện chỉ huy để phục vụ cho nhiệm vụ học tập chiến
thuật và chỉ huy chiến đấu; tính năng, tác dụng, cấu tạo, sử dụng, bảo quản
các loại vũ khí bộ binh AK, CKC, RPĐ, RPK, B40, B41; đặc điểm, tính năng,

kỹ thuật sử dụng thuốc nổ, phòng chống vũ khí hạt nhân, hoá học, sinh học,
vũ khí lửa; vết thương chiến tranh và phương pháp xử lý; luyện tập đội hình
lớp, khối; kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK, chiến thuật từng người. Ngoài ra,
môn học còn giành thời gian giới thiệu 3 môn quân sự phối hợp để sinh viên
tham gia hội thao điền kinh, thể thao QP.
Môn học QSC đề cập vấn đề phạm vi rộng; trang bị cho người học một
số nội dung cơ bản vừa mang tính lý luận, lý thuyết, vừa mang tính thực hành,
kỹ năng, kỹ xảo nhằm đáp ứng yêu cầu GDQP-AN trong thời kỳ mới, đặc biệt
môn học chú trọng giáo dục ý thức, tri thức và kỹ năng quân sự cần thiết cho
sinh viên, kết hợp giáo dục lý thuyết với thực hành và vận dụng vào thực tiễn
công tác sau khi sinh viên tốt nghiệp ra trường
Dạy học môn QSC là quá trình có mục đích rõ ràng, có tổ chức chặt chẽ,
có chương trình, nội dung xác định, có cơ sở vật chất, vũ khí thiết bị kỹ thuật
đảm bảo kết quả dạy học theo mục tiêu xác định. Dấu hiệu nổi bật của dạy
học môn QSC là sự phối hợp thống nhất giữa hoạt động dạy và hoạt động
17


học. Đây là mối liên hệ sinh thành trong dạy học, qui định sự vận động, phát
triển của HĐDH.
Từ những vấn đề trên, chúng tôi quan niệm: Dạy học môn Quân sự chung là
một quá trình có mục đích, có tổ chức, phối hợp thống nhất giữa hoạt động của
giảng viên và sinh viên nhằm trang bị tri thức, bồi dưỡng kinh nghiệm, kỹ năng,
kỹ xảo quân sự và hình thành phẩm chất, nhân cách cần thiết để họ sẵn sàng làm
tốt nghĩa vụ quốc phòng -an ninh bảo vệ Tổ quốc theo chức trách.
Mục đích của dạy môn QSC là hình thành hệ thống tri thức khoa học
quân sự, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng thực hành các hoạt đông quân sự, qua đó
bồi dưỡng năng lực tư duy và năng lực hành động, đồng thời phát triển năng
lực tư duy, năng lực hành động và bản lĩnh quân sự, phẩm chất nhân cách cần
thiết khác cho sinh viên

Chủ thể và đối tượng của dạy học môn QSC là đội ngũ giảng viên môn
QSC và sinh viên ở ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng- An ninh, Đại học Quốc
gia Hà Nội, trong đó đội ngũ giáo viên là chủ thể tổ chức, điều khiển, chỉ đạo
quá trình dạy học QSC; sinh viên vừa là đối tượng chịu sự tác động, chỉ đạo vừa
là chủ thể tiếp nhận, tự tổ chức, tự điều khiển quá trình dạy học môn QSC.
Nhiệm vụ dạy học môn QSC cho sinh viên là giúp họ có bản lĩnh chính
trị vững vàng, hình thành thái độ, hành vi đúng đắn trong các hoạt động quân
sự, nâng cao thể lực, trí lực, kỹ năng quân sự, biết gắn kết nhiệm vụ QP, AN
với nghề nghiệp chuyên môn được đào tạo. Bên cạnh đó, dạy học môn QSC
còn xây dựng cho sinh viên những phẩm chất cơ bản của hoạt động quân sự
về trí tuệ, tình cảm và ý chí. Phẩm chất trí tuệ, đó là khả năng linh hoạt trong
tư duy quân sự, khả năng tiếp nhận nhanh những tri thức quân sự, tính sáng
tạo, quyết đoán trong xử lý các tình huống. Phẩm chất trí tuệ phải chuyển hóa
thành cảm xúc, tình cảm và ý chí trong hoạt động quân sự, giúp sinh viên hình
thành thái độ, biểu tượng đúng về hoạt động quân sự, tạo động lực mạnh mẽ
trong hoạt động quân sự.
18


Ngoài ra, thông qua dạy học môn QSC còn phải hướng tới rèn luyện
cho sinh viên phẩm chất đặc thù quân sự, lòng trung thành vô hạn với Đảng,
Tổ quốc và nhân dân; tinh thần, ý chí chiến đấu; tinh thần dũng cảm, đức dám
hy sinh vì sự nghiệp cách mạng; khả năng tổ chức khoa học các hoạt động
quân sự; tính kỷ luật cao, trình độ kỹ, chiến thuật và nghệ thuật quân sự; sự
tinh nhạy, quan sát, phán đoán...
Nội dung dạy học môn QSC: bao gồm đội ngũ đơn vị; sử dụng bản đồ,
địa hình QS, một số loại vũ khí bộ binh; thuốc nổ; phòng chống vũ khí huỷ
diệt lớn; cấp cứu ban đầu các vết thương; kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK;
từng người trong chiến đấu tấn công; từng người trong chiến đấu phòng ngự
và giới thiệu 3 môn quân sự phối hợp để sinh viên tham gia hội thao điền

kinh, thể thao QP.
Phương pháp dạy học môn QSC
Phương pháp dạy: Phương pháp giảng dạy môn QSC kết hợp dùng
được nhiều phương pháp như: phương pháp thuyết trình, phương pháp thuyết
trình kết hợp với phương pháp thực hành, phương pháp trực quan. Với quan
điểm và nguyên tác “lấy thực hành làm chính” và do đó chủ yếu dùng phương
pháp trực quan, phương pháp giảng giải lý thuyết với thực hành làm mẫu
động tác, hướng dẫn cho sinh viên luyện tập. Phương pháp giảng dạy môn
QSC không giống như môn học khác, nó đòi hỏi chặt chẽ hơn, khắt khe hơn,
kết quả cụ thể hơn. Thông qua kinh nghiệm thực hành trong các cuộc chiến
tranh, thực tế giảng dạy, giáo viên có thể lồng ghép nhiều phương pháp,
truyền thụ nhiều kinh nghiệm học tập cho sinh viên.
Phương pháp học tập, ôn luyện: Do đặc thù của môn QSC nên Phương
pháp học tập, ôn luyện của sinh viên có sự kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và
thực hành, giữa nói và làm. Trong ôn luyện lý thuyết về các loại súng bộ binh,
ngoài việc nắm được nội dung bài giảng, hiểu tính năng, tác dụng các bộ phận
còn phải nhớ đến từng chi tiết, từng vị trí của các bộ phận đó. Trong ôn luyện
19


các kỹ năng thực hành động tác bắn súng, băng bó vết thương phải thấy được
mục đích, ý nghĩa của từng cử động, động tác. Quá trình ôn luyện phải tuân
theo thứ tự các bước: Tự nghiên cứu, tự luyện tập các cử động, tự biết phân
tích các cử động và biết làm tổng hợp các cử động. Ôn luyện động tác phải
theo tuần tự từng động tác một, không làm lẫn lộn giữa động tác này với động
tác khác, cử động, động tác trước, sau phải rõ ràng, cụ thể.
Hình thức dạy học môn QSC: Dạy học môn QSC cho sinh viên ở
Trung tâm GDQP-AN, Đại học quốc gia Hà Nội hiện nay được tổ chức thực
hiện chủ yếu theo hình thức dạy học tập trung được giảng dạy trong 1 hoặc 2
tuần. Tại Trung tâm GDQP-AN tổ chức học tập, huấn luyện, ăn, ở tập trung,

quản lý toàn diện theo nếp sống QS. Kết hợp chặt chẽ việc học tập với rèn
luyện kỷ luật, lễ tiết tác phong, nếp sống khoa học, thông qua việc duy trì các
chế độ trong ngày, trong tuần theo Điều lệnh Quản lý bộ đội.
Phương tiện, cơ sở vật chất dạy học môn QSC: Phương tiện chủ yếu
của HĐDH là giấy, bút, sách, giáo trình, máy tính, thao trường, bãi tập, vũ khí
trang bị, dụng cụ thực hành; các giáo cụ trực quan cần thiết đòi hỏi của môn
học, bài học như mô hình, sơ đồ, các biểu bảng…, có các máy móc hỗ trợ cho
các thao tác sư phạm của thầy: máy đèn chiếu, máy chiếu hình, sơ đồ, video,
máy vi tính…Điều kiện dạy học có sự hướng dẫn của đội ngũ giảng viên, cán
bộ quản lý các cấp, phương tiện học tập và sự tích cực, tự giác của chính bản
thân người học.
Kết quả dạy học môn QSC : Là hệ thống kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng,
quân sự, kỹ chiến thuật, về sử dụng vũ khí, điều lệnh, thuốc nổ, băng bó vết
thương… góp phần nâng cao trình độ quân sự, an ninh cho sinh viên.
1.1.2. Quản lý hoạt động dạy học môn Quân sự chung
* Quản lý hoạt động dạy học
Quản lý là một thuật ngữ được tiếp cận dưới nhiều bình diện khác nhau.
Theo F.F. Aunpu: “Quản lý là một khoa học và nghệ thuật tác động vào một
20


hệ thống nhằm mục tiêu biến đổi hệ thống đó” [1, tr.16]. Từ điển Giáo dục học
Việt Nam: “Quản lý là hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ đích của
chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong
một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”
[56, tr.326]. Trong tác phẩm: “Khoa học tổ chức và quản lý” của Trung tâm
nghiên cứu khoa học tổ chức, quản lý, chủ biên Đặng Quốc Bảo: “Quản lý là
một nghệ thuật đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, phối hợp,
hướng dẫn, chỉ huy hoạt động của những người khác” [3, tr.176].
Về quản lý giáo dục, tác giả Trần Kiểm cho rằng được hiểu theo nhiều

cấp độ khác nhau: Xét theo cấp độ vĩ mô được hiểu: “Là những tác động tự
giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ
thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ
sở giáo dục là Nhà trường) để thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu
phát triển GD&ĐT thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục” [35, tr.36].
Xét theo cấp độ vi mô: “Là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập
thể giảng viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực
lượng xã hội trong và ngoài Nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu
quả mục tiêu giáo dục của Nhà trường” [30, tr.37].
Tuy cách diễn đạt khác nhau, song các khái niệm đều có điểm chung
quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và
các hoạt động của con người để đạt được mục đích đề ra; trong đó, quản lý
Nhà trường là một bộ phận của quản lý giáo dục, bản chất của quản lý trong
Nhà trường là quản lý HĐDH và học tập, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ
trạng thái này sang trạng thái khác để dần tiến tới mục tiêu GD&ĐT.
HĐDH là hoạt động trung tâm của nhà trường. Mọi hoạt động đa dạng
và phức tạp của nhà trường đều hướng vào hoạt động trung tâm đó. Vì vậy
trọng tâm của việc quản lý nhà trường là quản lý HĐDH. Đó chính là quản lý
21


hoạt động lao động sư phạm của người thầy và HĐHT, rèn luyện của trò được
diễn ra chủ yếu trong HĐDH.
Quản lý nhà trường khác với quản lý xã hội, được qui định với các đặc
trưng riêng về lao động sư phạm của giáo viên và quá trình tiếp thu của học
sinh là cả quá trình dậy và học, trong đó các thành viên của nhà trường vừa là
chủ thể vừa là đối tượng quản lý. Sản phẩm của các hoạt động trong nhà
trường là nhân cách, là kiến thức của người học, được hình thành trong cả quá
trình học tập tu dưỡng và phát triển.

Tác giả Phạm Viết Vượng, đã nhấn mạnh quản lý nhà trường với trọng
tâm là quản lý HĐDH và cho rằng đây là “hoạt động của cơ quan quản lý nhằm
tập trung và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và cac tổ chức giáo
dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường” [57, tr. 55].
Theo tác giả Đỗ Bích Ngọc “Quản lý quá trình dạy học là một bộ phận
cấu thành chủ yếu của toàn bộ hệ thống quản lý quá trình giáo dục và đào tạo
trong trường học. Quá trình thực hiện các chức năng tổng hợp, phát triển nhân
cách, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài’’[37, tr.41].
Như vậy, trong trường học mọi hoạt động đều hướng vào phục vụ HĐDH
và quản lý trường học trọng tâm là quản lý HĐDH. Quản lý HĐDH là một hoạt
động quản lý với tư cách là một hệ thống toàn vẹn, bao gồm quản lý các thành tố
cơ bản: mục đích, nhiệm vụ, nội dung dạy học, thầy với hoạt động dạy, trò với
hoạt động học, các phương pháp và các phương tiện dạy học, các hình thức tổ
chức dạy học, phương thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Đây là quá trình là
quá trình quản lý hoạt động sư phạm của người thầy và HĐHT rèn luyện của trò,
để hình thành và phát triển nhân cách học sinh.
Quản lý HĐDH là quản lý một quá trình sư phạm đặc thù, nó tồn tại
như là một hệ thống, bao gồm nhiều thành tố cấu trúc như: mục đích, nhiệm
vụ dạy học, nội dung dạy học, PPDH và phương tiện dạy học, thầy với hoạt
22


động dạy, trò với HĐHT và kiểm tra, đánh giá kết quả dạy - học để điều chỉnh
cho hiệu quả ngày càng tốt hơn HĐDH.
Quản lý HĐDH trong nhà trường là phải tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ cơ bản sau đây: cụ thể hóa mục tiêu chương trình dạy học qua các nhiệm
vụ dạy học nhằm nâng cao tri thức, kỹ năng, bồi dưỡng thái độ và hình thành
phát triển những năng lực, phẩm chất tốt đẹp cho người học; quản lý việc xây
dựng kế hoạch và thực hiện nội dung chương trình dạy học; nội dung chương

trình dạy học phải bao gồm hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà
người học cần phải nắm vững trong quá trình học; quản lý chương trình giảng
dạy của giảng viên (xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình, giáo án,
chuẩn bị đồ dùng dạy học, lên lớp, kiểm tra sinh viên học tập); quản lý HĐHT
của sinh viên (nề nếp, thái độ, kết quả học tập) và quản lý cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ cho HĐDH.
* Quản lý hoạt động dạy học môn quân sự chung
Ở Trung tâm GDQP-AN, ĐHQGHN, HĐDH môn QSC cho sinh viên
hệ chính quy được tiến hành trong quá trình đào tạo với quy trình tổ chức chặt
chẽ. Phương tiện chủ yếu của HĐDH là giấy, bút, sách, giáo trình, máy tính,
thao trường, bãi tập, vũ khí trang bị, dụng cụ thực hành…Điều kiện dạy học
có sự hướng dẫn của đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cấp, phương tiện
học tập và sự tích cực, tự giác của chính bản thân người học. Kết quả dạy học
là hệ thống kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng, quân sự về chiến thuật, điều lệnh, bắn
súng, thuốc nổ, góp phần nâng cao trình độ quân sự, an ninh cho sinh viên
Quản lý HĐDH môn QSC nằm trong chương trình quản lý HĐDH môn
GDQP-AN. Đây là hoạt động quản lý trọng tâm của Trung tâm GDQP-AN
với tư cách là một trường đại học.
Quản lý HĐDH môn QSC là toàn bộ điều khiển, chỉ đạo của các chủ thể
giáo dục theo một chương trình, nội dung, kế hoạch cụ thể nhắm làm cho người
học tự giác cao lĩnh hội tri thức, củng cố và vận dụng các kiến thức kỹ xảo, kỹ
23


năng quân sự quốc phòng - an ninh, phát triển bản lĩnh quân sự cần thiết để họ
sẵn sàng làm tốt nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ những luận giải về dạy học môn QSC, quản lý, quản lý HĐDH
chúng tôi cho rằng: Quản lý hoạt động dạy học môn quân sự chung ở Trung
tâm Giáo dục quốc phòng - an ninh là sự tác động có mục đích, có kế hoạch
của các chủ thể quản lý đến quá trình tổ chức thực hiện hoạt động giảng dạy

của giảng viên, học tập của sinh viên nhằm đảm bảo cho hoạt động dạy học
môn quân sự chung đạt được mục đích đã xác định.
Quan niệm trên cho thấy, tính hướng đích của quản lý HĐDH môn
QSC là tập trung nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể quản lý,
nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy của giảng viên, học tập của sinh viên,
từ đó đạt được mục tiêu quản lý HĐDH môn QSC đã xác định. Quản lý
HĐDH môn QSC là một bộ phận hữu cơ trong hệ thống quản lý HĐDH môn
GDQP-AN của Trung tâm, gắn bó chặt chẽ với quá trình quản lý GD&ĐT.
Một là, mục đích quản lý HĐDH môn QSC, nhằm đảm bảo, giữ vững
và nâng cao chất lượng giảng dạy môn QSC của giảng viên, chất lượng học
tập môn QSC của sinh viên, tối ưu hóa các điều kiện đảm bảo thuận lợi cho
hoạt động dạy học môn QSC, qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học
GQP-AN của Trung tâm GDQP-AN
Hai là, chủ thể quản lý HĐDH môn QSC là Cấp uỷ, BGĐ Trung tâm
GDQP-AN, ĐHQGHN, Phòng Đào tạo & Quản lý sinh viên, Phòng Hành
chính tổ chức, Ban thanh tra, trực tiếp quan trọng nhất là Khoa Quân sự, tổ bộ
môn QSC và chính bản thân đội ngũ giảng viên, sinh viên.
Ba là, đối tượng quản lý HĐDH môn QSC là toàn bộ các thành tố của quá
trình dạy học môn QSC, trong đó giảng viên tổ bộ môn QSC và sinh viên là đối
tượng cơ bản, chịu sự tác động, điều khiển của chủ thể quản lý. Như vậy, giảng
viên và sinh viên vừa là chủ thể vừa là khách thể trong hệ thống quản lý.
Bốn là, nội dung quản lý HĐDH môn QSC thực chất là quản lý việc thực
hiện tốt các thành tố của quá trình dạy học. Đó là quản lý thực hiện tốt mục tiêu
chương trình, nội dung, kế hoạch dạy học; quản lý HĐDH của giảng viên; quản lý
24


HĐHT của sinh viên; quản lý tốt các điều kiện bảo đảm cho HĐDH môn QSC.
Đồng thời quản lý tốt việc kiểm tra, đánh kết quả dạy học, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học môn QSC, đạt được mục đích quản lý của Trung tâm đã xác định.

Năm là, phương pháp quản lý HĐDH môn QSC rất phong phú, đa
dạng, bao gồm toàn bộ những cách thức, biện pháp tác động, điều khiển của
chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng hệ thống công cụ, phương tiện
nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã xác định. Việc xác định phương pháp
quản lý HĐDH môn QSC phải đảm bảo tính khoa học, thống nhất, khả thi,
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của giảng viên, đặc điểm HĐHT của sinh
viên, tăng cường hiệu quả quản lý nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, trong đó
phương pháp quản lý hành chính quân sự, phương pháp giáo dục - tâm lý,
phương pháp kích thích là những phương pháp chủ đạo, được sử dụng phổ
biến. HĐDH môn QSC là hoạt động trí tuệ, hết sức căng thẳng, do đó cần lựa
chọn và sử dụng các phương pháp quản lý phù hợp với đối tượng quản lý là
con người mới mang lại tác dụng, hiệu quả cao.
Sáu là, công cụ quản lý HĐDH môn QSC đã và đang sử dụng các công
cụ chủ yếu như: Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Đại học; Luật GDQP-AN; Quy
chế GDĐT của Trung tâm GDQP-AN, ĐHQGHN; Nghị quyết Đại hội đảng
bộ Trung tâm GDQP-AN, ĐHQGHN, nhiệm kỳ 2015- 2020; Kế hoạch điều
hành huấn luyện của Trung tâm, thông qua chỉ đạo, hướng dẫn của các phòng,
ban chức năng; kết luận của BGĐ Trung tâm GDQP-AN về thực hiện nhiệm
vụ giảng dạy, học tập môn QSC trong chương trình tổng thể về dạy học
GDQP-AN; các quy định về quản lý hành chính...
1.2. Nội dung quản lý hoạt động dạy học môn Quân sự chung ở
trung tâm giáo dục quốc phòng - an ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội
1.2.1. Quản lý xây dựng kế hoạch dạy học môn Quân sự chung
Việc xây dựng kế hoạch dạy học môn QSC là quan trọng, cần thiết
trong quá trình quản lý HĐDH. Đây là một quá trình xác định những mục tiêu
và các biện pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu đó. Việc xây dựng kế

25



hoạch dạy học giúp người quản lý tư duy một cách có hệ thống để tiên liệu
các tình huống có thể xảy ra, phối hợp mọi nguồn lực trong và ngoài Trung
tâm để tổ chức dạy học môn QSC có hiệu quả hơn.
Khi lập kế hoạch dạy học môn QSC, người CBQL cần lưu ý: Đảm bảo
tính thống nhất giữa mục tiêu dạy học môn QSC với mục tiêu dạy học GDQPAN, đồng thời thống nhất với mục tiêu giáo dục nói chung ở Trung tâm GDQPAN; nắm vững thực trạng dạy học môn QSC; phối hợp chặt chẽ, hữu cơ với kế
hoạch huấn luyện trên lớp và kế hoạch hoạt động ngoại khóa sau bài giảng; lựa
chọn nội dung, hình thức dạy học môn QSC đa dạng, thiết thực và phù hợp với
hoạt động tâm, sinh lý sinh viên để đạt hiệu quả cao trong dạy học.
1.2.2. Quản lý mục tiêu, kế hoạch, chương trình nội dung dạy học
môn Quân sự chung
Quản lí mục tiêu là là quá trình quản lí những kết quả dự kiến sẽ đạt
được trong dạy học môn QSC, đó là nhằm giáo dục cho sinh viên kiến thức
cơ bản về đường lối QP- AN của Đảng và công tác quản lý nhà nước về QPAN; về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc, về nghệ
thuật QS Việt Nam; về chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của
các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Trang bị kỹ năng QP - AN
cần thiết đáp ứng yêu cầu xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Quản lí nội dung chương trình là quản lí việc dạy học môn QSC có
đúng, đủ nội dung chương trình đã được ban hành theo Quyết định số
81/2007/QĐ-BGDĐT ngày 24/12/2007 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT hay
không; quản lí học tập, rèn luyện, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh
viên. Trong quản lý quá trình đào tạo, quản lý thực hiện nội dung chương
trình đúng, đủ về thời lượng là quan trọng nhất; tránh tình trạng cắn xén trong
giảng dạy, từ đó dẫn tới không bảo đảm chất lượng môn học.

26


×