Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.59 KB, 15 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
–˜&™—

TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA
Tình huống: “Giải quyết khiếu nại đông người đòi lại đất của các hộ đồng bào
dân tộc thiểu số tại xã N, thành phố K, tỉnh KT”
Họ và tên: ………………..
Chức vụ: …………………
Đơn vị công tác: ……………………………………………..
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức QLNN ngạch chuyên viên chính.

Kon Tum, Năm 2014

1


LỜI NÓI ĐẦU
Trong hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai thì việc tranh chấp đất
đai, khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết các vấn đề về đất đai là một trong
những lĩnh vực hết sức phức tạp, nhạy cảm. Khiếu kiện đất đai là một hiện
tượng xảy ra phổ biến trong xã hội, chiếm tỉ lệ cao trong tổng số vụ việc
khiếu nại, tố cáo ở các cấp hiện nay. Đặc biệt khi nước ta chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường, Nhà nước thực hiện cơ chế quản lý mới bằng việc
trả lại đất đai những giá trị vốn có thì tranh chấp đất đai phát sinh có xu
hướng ngày càng tăng cả về số lượng, cũng như tính chất phức tạp về mặt
nội dung.
Khiếu kiện đất đai kéo dài với số lượng ngày càng đông người dân
tham gia thì lại là vấn đề rất đáng quan tâm. Tìm hiểu nguyên nhân nảy
sinh để đề ra các biện pháp giải quyết phù hợp, nhằm “tháo gỡ ngòi nổ”
xung đột không để phát sinh trở thành “điểm nóng” gây mất ổn định chính


trị, trật tự an toàn xã hội. Tính phức tạp của tranh chấp đất đai, khiếu kiện
kéo dài không chỉ bắt nguồn từ những xung đột gay gắt về lợi ích kinh tế,
từ hệ quả quản lý thiếu hiệu quả của cơ quan công quyền, sự bất hợp lý và
thiếu tính đồng bộ của hệ thống chính sách, pháp luật đất đai… mà còn do
những nguyên nhân có tính lịch sử trong quản lý, sử dụng đất đai qua các
thời kỳ.
Trong thực tế, nhiều tình huống quản lý Nhà nước về tranh chấp đất
đai, khiếu nại đòi trả lại đất cũ, đặc biệt là người đồng bào dân tộc thiểu số
ở cơ sở đã và đang diễn ra rất phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu là do sự
quản lý Nhà nước về đất đai của cấp cơ sở còn nhiều yếu kém, có biểu hiện
vi phạm các quy định của pháp luật về đất đai; việc giải quyết của chính
quyền cơ sở thiếu trách nhiệm, không thực hiện đúng chức năng, thẩm
quyền được giao. Trong cùng một vụ việc, ở mỗi địa phương có cách giải
quyết khác nhau, hoặc là quá cứng nhắc, thậm chí không đúng pháp luật
hoặc có nơi giải quyết đúng quy định của pháp luật nhưng chưa có phương
án giải quyết đồng bộ, thống nhất dẫn tới khiếu kiện kéo dài, vượt cấp gây
bức xúc trong một bộ phận nhân dân; có trường hợp giải quyết theo cảm
tính, không công bằng nên có sự so sánh giữa nơi này với nơi khác…
Tất cả các trường hợp trên đều là nguyên nhân dẫn đến tình trạng giải
quyết không dứt điểm, làm cho khiếu kiện kéo dài, phức tạp và khiếu kiện
vượt cấp… là tiền đề cho việc phát sinh “điểm nóng”. Đây chính là vấn đề
nhạy cảm nhất trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai trong cả nước
nói chung, thành phố K nói riêng trong giai đoạn hiện nay, gây khó khăn,
tốn thời gian và công sức cho cơ quan Nhà nước trong quá trình xem xét,
giải quyết. Thực trạng đó nếu không được xử lý kịp thời sẽ rất phức tạp,

2


gây tâm lý hoang mang, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối

với Đảng và Nhà nước.
Nhận thức được vấn đề trên và qua thời gian tham gia tiếp thu những
kiến thức về quản lý Nhà nước do các thầy giáo, cô giáo truyền đạt. Để
nâng cao hiểu biết trong việc nghiên cứu, vận dụng những kiến thức đã
được truyền đạt vào trong thực tế cuộc sống. Đồng thời, xuất phát từ thực
tiễn tình hình tranh chấp, khiếu nại liên quan đến việc đòi lại đất trên địa
bàn thành phố KT. Tôi xin đưa ra tình huống “Giải quyết khiếu nại đông
người đòi lại đất của các hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại xã N, thành
phố K, tỉnh KT”.
Thông qua tình huống, để cùng phân tích và lựa chọn một phương án
giải quyết tối ưu nhất dưới góc độ nghiên cứu lý luận về quản lý Nhà nước,
nhằm giải quyết vụ việc nêu trên một cách chặt chẽ, giải quyết vụ việc
khiếu kiện có lý có tình trên cơ sở các quy định của pháp luật nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích của các bên liên quan.

3


I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG.
1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống:
Xã N nằm ở phía Tây thành phố K có tổng số 06 thôn, làng với 5.252
nhân khẩu, trong đó có 05 thôn, làng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) với
3.724 nhân khẩu, chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp. Điều kiện kinh tế khó
khăn, trình độ dân trí thấp so với mặt bằng chung của thành phố K; sản
xuất tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề truyền thống hầu như chưa phát
triển; việc tiếp cận và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào trong sản
xuất còn chậm... do đó, đời sống của bà con đồng bào DTTS nơi đây gặp
rất nhiều khó khăn.
Trong những năm qua, được quan tâm đầu tư, hỗ trợ từ các chương
trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình 132, 168, 135, các dự án: đào

tạo nghề, vay vốn giải quyết việc làm... và các chính sách hỗ trợ của Nhà
nước đã làm thay đổi căn bản đời sống kinh tế - xã hội vùng đồng bào
DTTS; kết cấu hạ tầng từng bước được hoàn thiện; đời sống vật chất và
tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện.
Tuy nhiên, do tồn tại của lịch sử, cùng với sự tác động của quá trình
đô thị hóa đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của đồng bào DTTS,
trong đó diện tích đất sản xuất ngày càng bị thu hẹp. Mặt khác, hầu hết các
hộ đồng bào DTTS đều đông con, ít quan tâm đến việc học hành của con
cái, không có công ăn việc làm hoặc có nhưng không ổn định do tay nghề
qua đào tạo không cơ bản. Một số hộ trước đây đã được Nhà nước quan
tâm giải quyết đất sản xuất theo Chương trình 132 của Chính phủ, nên có
thái độ trông chờ, ỷ lại vào sự quan tâm của Nhà nước; không lo làm ăn lao
động, nghe lời kẻ xấu kích động, xúi giục hoặc vì những lợi ích trước mắt
như: sửa nhà, mua phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt gia đình... nên đã
chuyển nhượng diện tích đất được Nhà nước giao trước đây.
Hiện nay do hoàn cảnh gia đình đông con, đã lập gia đình có nhu cầu
tách hộ ở riêng nhưng không có đất để sản xuất, cuộc sống khó khăn nên đã
xảy ra khiếu nại đòi lại phần diện tích đất khai hoang trước đây tại thôn Đ,
xã N, thành phố K. Diện tích đất này, UBND xã N đang cho các hộ gia
đình khác thuê để trồng cây công nghiệp dài ngày (Cây cà phê).
2. Mô tả tình huống:
- Tháng 8/1995, 37 hộ dân ở thôn Đ, xã N làm đơn khiếu nại tập thể
việc UBND thành phố K quy hoạch đất trồng dâu, đồng thời lấy đất của các
hộ giao cho các hộ gia đình khác (Chủ yếu là người người Kinh) để trồng
4


cây công nghiệp nhưng chưa thực hiện các thủ tục thu hồi đất, đền bù theo
quy định của pháp luật (Diện tích các hộ khiếu nại đòi lại đất khoảng
232.000m 2 ).

- Sau khi các hộ có đơn khiếu nại, UBND xã N đã tiến hành làm việc
và giải quyết khiếu nại của các hộ thể hiện tại các Biên bản ngày 29/8/1995
đối với 13 hộ và Biên bản ngày 20/9/1995 đối với 24 hộ khiếu nại. Tuy
nhiên, vụ việc khiếu nại của các hộ đồng bào DTTS không được UBND xã
N giải quyết dứt điểm (Không bố trí được đất sản xuất, không chi trả tiền
công khai hoang cho các hộ theo Biên bản giải quyết khiếu nại) .
- Đến năm 2010, số hộ này dân tiếp tục làm đơn khiếu nại gửi đến
UBND thành phố K yêu cầu giải quyết với lý do: “Năm 1995, xã N có giải
quyết đất sản xuất cho 05 hộ, nhưng diện tích đất xã cấp cho chúng tôi đã
có người khác sử dụng nên chúng tôi không sử dụng được từ đó cho đến
nay. Nguyện vọng của chúng tôi là đề nghị UBND thành phố K xem xét, trả
lại đất cũ tại thôn Đ, xã N để sản xuất và ổn định đời sống ”. Đồng thời,
thường xuyên đến Trụ sở tiếp dân của UBND thành phố K và tỉnh KT để
phản ánh, yêu cầu giải quyết đối với những nội dung đã khiếu nại và gửi
đơn đến Trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước để yêu
cầu giải quyết.
UBND thành phố K đã chỉ đạo cơ quan chức năng, phối hợp với
UBND xã N tổ chức đối thoại nhiều lần, làm việc trực tiếp và đưa ra nhiều
phương án giải quyết, nhưng các hộ vẫn không thống nhất và tiếp tục khiếu
nại yêu cầu giải quyết trả lại đất cho các hộ.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG, NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ.
1. Phân tích diễn biến tình huống:
Đây là vụ việc khiếu kiện có tình tiết hết sức phức tạp, xảy ra từ rất
lâu và kéo dài, các cấp các ngành đã xem xét, giải quyết nhưng chưa thỏa
đáng và triệt để. Để xác định chính xác bản chất vụ việc, trước hết phải xác
đây là vụ việc khiếu nại Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất
đai. Trong vụ việc khiếu nại nêu trên có các chủ thể chính sau đây:
1.1. UBND thành phố K: Vào khoảng năm 1992-1993, tiến hành quy
hoạch toàn bộ diện tích đất do các hộ đồng bào DTTS khai hoang để trồng
dâu, nhưng sau đó không thực hiện. UBND thành phố K thu hồi đất của các

hộ đồng bào DTTS, giao đất cho các hộ gia đình khác để trồng công nghiệp
dài ngày vào tháng 01/1995 là phù hợp với quy định tại Điều 4 và Điều 5
Luật Đất đai năm 1993. Tuy nhiên, việc thu hồi đất nhưng không có Quyết
định thu hồi, không thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ công khai hoang cho
các hộ có đất bị thu hồi là không đúng quy định của pháp luật về đất đai.
1.2. UBND xã N:
5


- Tự ý lập Biên bản phân hạng đất và tiến hành Hợp đồng cho 17 hộ
gia đình thuê đất để trồng cây cà phê với thời gian 30 năm (Tính từ năm
1995 với tổng diện tích khoảng 275.000m 2 ); hợp đồng cho thuê đất với
những người không có hộ khẩu thường trú tại xã, mặc dù những người này
đều có nhu cầu sản xuất nông nghiệp là không đúng quy định tại Điều 1,
Điều 7, Điều 15 Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ.
- Ngày 19/9/1995, UBND thành phố K đã ban hành Quyết định số
233/QĐ-UB hủy bỏ 13 Quyết định giao đất trái pháp luật ngày 27/01/1995.
Nhưng đến khi thực hiện Chỉ thị số 18 của Thủ tướng Chính phủ, UBND xã
N lại lập Tờ trình đề nghị UBND thành phố K cấp Giấy chứng nhận Quyền
sử dụng đất cho các hộ nói trên là trái với quy định tại Thông tư số
346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/1998 của Tổng cục Địa chính.
1.3. Các hộ hiện đang hợp đồng trồng cà phê trên đất đang có
khiếu nại:
Sau khi được UBND xã N thống nhất, đại diện các hộ trồng cà phê đã
ký kết phân hạng đất và Hợp đồng trồng cà phê với thời hạn là 30 năm thể
hiện tại Biên bản ngày 01/09/1995. Các hộ đã thực hiện nghĩa vụ đúng theo
Biên bản và sử dụng đất đúng mục đích, thực hiện nộp tiền thuê đất cho xã.
Đồng thời, đã trực tiếp quản lý, sử dụng từ năm 1995 đến nay, tài sản có
trên đất là cây cà phê và được Nhà nước cấp Giấy Giấy chứng nhận Quyền
sử dụng đất vào năm 1999.

1.4. Các hộ đồng bào DTTS khiếu nại đòi lại đất:
Nguồn gốc đất là do các hộ khai hoang trước đây, nhưng UBND
thành phố K thu hồi và giao đất cho người khác quản lý, sử dụng. Sau khi
các hộ có đơn khiếu nại, UBND xã N đã giải quyết nhưng không dứt điểm.
Trong một thời gian dài từ năm 1995 đến năm 2010 (kể cả khi Nhà nước
cấp Giấy Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cho các Hợp đồng thuê đất
vào năm 1999), các hộ vẫn không có ý kiến hoặc khiếu nại. Đến cuối năm
2010, các hộ mới tiếp tục làm đơn khiếu nại yêu cầu giải quyết trả lại đất
sản xuất là thiếu hiểu biết các quy định của pháp luật nói chung và pháp
luật về khiếu nại nói riêng.
2. Nguyên nhân và hậu quả:
Vụ việc các hộ đồng bào DTTS ở xã N khiếu nại đông người đòi lại
đất kéo dài, phức tạp xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Đối tượng khiếu nại là người đồng bào DTTS có trình độ dân trí
thấp, nhận thức của người dân về chính sách, pháp luật đất đai và pháp luật
về khiếu nại nhìn chung còn nhiều hạn chế, trong khi việc tuyên truyền,
phổ biến pháp luật của các cơ quan có trách nhiệm chưa tốt. Những năm
gần đây được sự quan tâm của Nhà nước về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
6


nên diện tích đất nông nghiệp đã bị thu hẹp, bên cạnh đó đất đai ngày
càng có giá trị , đã dẫn đến việc khiếu nại để đòi lại đất của gia đình trước
đây khai hoang, sản xuất.
- Đội ngũ cán bộ, công chức (đặc biệt là cấp xã) năng lực còn hạn
chế, chưa thực sự am hiểu chính sách, pháp luật về đất đai dẫn đến áp dụng
các quy định của pháp luật chưa chính xác, không phù hợp với điều kiện
thực tế. Năng lực tham mưu trong tác tác quản lý đất đai còn nhiều yếu
kém (thu hồi đất, giao đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không
đúng quy định của pháp luật), thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết

khiếu kiện của công dân.
- Sự yếu kém, bất cập trong công tác quản lý đất đai cùng với một bộ
phận cán bộ, công chức có những hành vi vụ lợi trong quản lý, sử dụng đất
đai, sử dụng những khoản tiền thu được từ đất công không công khai, tự ý
chiếm dụng trái phép… là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh những khiếu
nại, tranh chấp về đất đai trên địa bàn.
Từ những nguyên nhân nêu trên sẽ dẫn đến hậu quả các hộ đồng bào
DTTS không có đất sản xuất, nên phải đi xâm canh hoặc lấn chiếm đất tại
địa bàn khác. Tình trạng khiếu kiện kéo dài nhưng chưa được xem xét, giải
quyết dứt điểm là yếu tố để các thế lực phản động kích động, xúi dục chia
rẽ đoàn kết, tạo thành các “điểm nóng” về an ninh, trật tự trên địa bàn, làm
giảm sút niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.
III. MỤC TIÊU GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG.
Trên cơ sở phân tích hồ sơ tài liệu có liên quan, Luật Đất đai năm
1993 (sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001), Luật Đất đai năm 2003 và
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, chúng ta thấy: Việc UBND
thành phố K trước đây quy hoạch trồng dâu, nhưng sau đó không thực hiện
và tiến hành thu hồi đất do các hộ đồng bào DTTS khai hoang, giao cho
các hộ gia đình khác trồng cà phê, nhưng không thực hiện đền bù, hỗ trợ
cho các hộ dân là không đúng quy định của pháp luật. Mặc dù, UBND
thành phố K sau đó đã ban hành Quyết định hủy bỏ việc giao đất trái pháp
luật nêu trên. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc các hộ dân
khiếu nại. Mặt khác, xã N là một trong các xã nghèo của thành phố K, với
dân số ít và chủ yếu là người đồng bào DTTS có trình độ dân trí thấp so
với mặt bằng chung của thành phố K. Thường xuyên chịu ảnh hưởng của lũ
lụt, sạt lở đất khi mùa mưa lũ đến. Năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là
cán bộ cấp xã, thôn làng còn nhiều hạn chế, chưa thật sự am hiểu chủ
trương; chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nên dẫn đến việc
vận dụng trong thực tiễn có nhiều bất cập và chưa đúng quy định của pháp
luật.


7


Từ những vấn đề đã phân tích ở trên, mục tiêu của việc xử lý là phải
giải quyết dứt điểm việc khiếu nại đông người của các hộ dân đồng bào
DTTS thôn Đ, xã N là có giải pháp giải quyết đất sản xuất, tạo công ăn
việc làm để các hộ đồng bào DTTS sớm ổn định cuộc sống. Đồng thời, tạo
điều kiện để các hộ đã hợp đồng thuê đất trồng cây cà phê, tiếp tục được
khai thác sản phẩm cho đến hết chu kỳ kinh doanh cây cà phê (chu kỳ kinh
doanh của cây cà phê là 20 năm).
IV. XÂY DỰNG VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT.
Quá trình nghiên cứu, xem xét, phân tích tài liệu có liên quan và kết
quả xác minh có trong hồ sơ, có thể khẳng định rằng việc khiếu nại của các
hộ đồng bào DTTS dòi lại đất tại thôn Đ, xã N, thành phố KT là không có
cơ sở để xem xét trả lại đất theo quy định tại Khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai
năm 2003. Cụ thể tại Khoản 2 Điều 10 Luật đất đai quy định: “ 2. Nhà nước
không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước
cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.”.
Tuy nhiên, để giải quyết nội dung khiếu nại các cấp các ngành của
thành phố K đã đề xuất nhiều phương án giải quyết, trong đó có tính đến
việc hỗ trợ tiền công khai hoang, hỗ trợ ổn định cuộc sống cho các hộ
khiếu nại nhưng các bên liên quan không đồng ý với hướng giải quyết. Các
hộ khiếu nại kiên quyết đòi lại đất với lý do thiếu đất sản xuất, không có
nơi ở để ổn định cuộc sống.
Từ những cơ sở nêu trên, để giải vụ việc khiếu nại có lý có tình trên
cơ sở các quy định của pháp luật, đề xuất các phương án giải quyết như

sau:
1. Phương án 1:
- Không xem xét trả lại đất cho các hộ khiếu nại, công nhận đất % do
UBND xã N quản lý, cho phép các hộ tiếp tục được thuê đất đến hết chu kỳ
kinh doanh cây cà phê (20 năm, tính từ năm 1995). Giao UBND xã N đưa
phần diện tích đất này vào quỹ đất % và quản lý, bố trí sử dụng theo đúng
theo quy định hiện hành (Tổng diện tích 275.000 m 2 ).
- Thu hồi các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho các hộ
thuê đất do cấp không đúng quy định của Luật Đất đai (17 Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp năm 1999).
- Bố trí một phần quỹ đất tại thôn M, xã N (Đất trồng cây công
nghiệp, hết thời gian cho thuê, đã bàn giao về cho địa phương quản lý) ,
giao cho các hộ theo định mức quy định và điều kiện thực tế của địa
8


phương để các hộ canh tác, sản xuất, xây dựng nhà ở, sớm ổn định cuộc
sống (Tổng diện tích tối thiểu 1.000m 2 /hộ, trong đó đất ở 200m 2 , đất sản
xuất 800m 2 ).
2. Phương án 2:
- Không xem xét trả lại đất cho các hộ khiếu nại, công nhận đất % do
UBND xã N quản lý, cho phép các hộ tiếp tục được thuê đất đến hết chu kỳ
kinh doanh cây cà phê (20 năm, tính từ năm 1995). Sau năm 2015, giao
một phần diện tích đất này cho các hộ đồng bào DTTS thiếu đất sản xuất
trên địa bàn, trong đó ưu tiên giải quyết cho các hộ khiếu nại, diện tích còn
lại giao UBND xã N quản lý và đưa vào quỹ đất % của xã theo quy định
(Tổng diện tích 275.000 m 2 ).
- Thu hồi các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho các hộ
thuê đất năm 1999 do cấp không đúng quy định của Luật Đất đai (17 Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 1999).

- Xem xét, tính toán hỗ trợ tiền công khai hoang cho các hộ khiếu
nại, có xét đến việc hưởng lợi do đất mang lại trong 20 năm (chu kỳ kinh
doanh cây cà phê). Việc tính toán vận dụng quy định tại khoản 1, điều 4
Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/1994 của Thủ tướng Chính phủ
và căn cứ vào Hợp đồng thuê đất để tính toán giá trị hưởng lợi do đất mang
lại. Đồng thời, vận dụng điểm b, khoản 1, Điều 20 Nghị định 69/2009/NĐCP ngày 13/8/2009 của Chính phủ để tính toán hỗ trợ ổn định đời sống cho
các hộ (Nguồn kinh phí: Sử dụng một phần Ngân sách nhà nước chi trả
tiền công khai hoang và một phần kinh phí vận động các hộ thuê đất đóng
góp để chi trả tiền hỗ trợ ổn định đời sống).
3. Lựa chọn phương án giải quyết:
Trên cơ sở các quy định của pháp luật về đất đai, với các phương án
giải quyết nêu trên về cơ bản đều đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên có liên quan (Cơ quan quản lý Nhà nước, các hộ khiếu nại, các hộ
nhận hợp đồng thuê đất trồng cây cà phê). Tuy nhiên xét trên phương diện
lý luận cũng như về mặt thực tiễn, tính khả thi của từng phương án, chúng
ta có thể nhận thấy Phương án 1 là tối ưu nhất, có tính khả thi cao hơn.
Nhất là sau khi Chủ tịch UBND thành phố K ban hành và tổ chức thực hiện
các Quyết định giải quyết khiếu nại, bởi các lý do sau đây:
Một là, các hộ khiếu nại được xem xét bố trí ngay đất để sản xuất,
xây dựng nhà ở, ổn định cuộc sống đúng theo nguyện vọng của các hộ đề
nghị. Phương án này giải quyết ngay được vấn đề thiếu đất cho các hộ
khiếu nại, không đợi đến khi hết chu kỳ kinh doanh cây cà phê mới xem
xét bố trí đất như Phương án 2.

9


Hai là, giải quyết căn bản vụ việc khiếu nại, không để thời gian kéo
dài, không phát sinh, tạo nên “điểm nóng” góp phần ổn định tình hình
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Ba là, không sử dụng kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và nguồn
vận động hỗ trợ. Do đó, không phải mất nhiều thời gian tính toán, cân đối
nguồn kinh phí, tổ chức đối thoại vận động các hộ thuê đất trồng cà phê để
có nguồn kinh phí hỗ trợ cho người khiếu nại...
Bốn là, đảm bảo quyền và lợi ích tốt nhất của các bên liên quan. Vụ
việc khiếu nại đông người, phức tạp được giải quyết triệt để có lý có tình
trên cơ sở các quy định của pháp luật.
V. LẬP KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
1. Bước 1: Tổ chức làm việc, soạn thảo, ban hành các Quyết định
giải quyết khại nại (Cơ quan thanh tra chủ trì, tham mưu).
1.1. Tổ chức gặp gỡ đối thoại với người khiếu nại và làm việc với
các hộ hợp đồng thuê đất:
- Nội dung: Chuẩn bị hồ sơ, tài liệu, các quy định của pháp luật có
liên quan đến khiếu nại, phương án giải quyết được lựa chọn (Phương án
1); Các Biên bản gặp gỡ đối thoại, Biên bản làm việc... Trong quá trình
làm việc, cần tuyên truyền, vận động và giải thích rõ các quy định của
pháp luật về cơ sở không xem xét, trả lại; việc thu hồi, hủy bỏ các Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp không đúng pháp luật để các hộ được
biết, tự giác chấp hành.
- Thời gian: 02 ngày (Không tổ chức đối thoại với người khiếu nại
và làm việc với các hộ thuê đất chung trong cùng một cuộc họp).
1.2. Soạn thảo, ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại:
- Nội dung: Dự thảo Quyết định, trình ký, ban hành Quyết định giải
quyết khiếu nại. Đồng thời gửi Quyết định giải quyết khiếu nại cho người
khiếu nại (Có Biên bản giao nhận), gửi các tổ chức cá nhân có liên quan,
công khai trên Trang thông tin điện tử thành phố K và niên yết công khai
tại trụ sở UBND xã N.
- Thời gian thực hiện: 3 ngày.
2. Bước 2: Tổ chức thực hiện Quyết định.
2.1. Phòng Tài nguyên và Môi trường:

- Lập thủ tục trình UBND thành phố K thu hồi, hủy bỏ các Giấy
chứng nhận Quyền sử dụng đất đã cấp cho các hộ thuê đất không đúng quy
định năm 1999.

10


- Chủ trì phối hợp với UBND xã N lập thủ tục trình UBND thành phố
K quyết định giao đất và tổ chức giao đất ngoài thực địa cho các hộ khiếu
nại tại thôn M, xã N, thành phố K theo quy định hiện hành.
Thời gian: 20 ngày
Tổng thời gian thực hiện Phương án giải quyết là 42 ngày.
2.2. UBND xã N:
- Lập hồ sơ, sổ sách về đất đai để đưa toàn bộ phần diện tích các hộ
thuê đất năm 1995 vào quỹ đất công ích (%) của xã theo đúng trình tự, thủ
tục và tổ chức quản lý, sử dụng theo đúng theo quy định của pháp luật.
Trước mắt cho các hộ thuê đất trồng cây cà phê đến hết chu kỳ (Năm
2015).
- Tổ chức kiểm tra, đôn đốc người khiếu nại, các hộ hợp đồng thuê
đất thực hiện nghiêm túc Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch
UBND thành phố K.
- Thời gian: 15 ngày
3. Bước 3: Báo cáo kết quả thực hiện Quyết định.
Thanh tra thành phố có trách nhiệm tổ chức theo dõi việc thực hiện
Quyết định giải quyết khiếu nại, báo cáo Chủ tịch UBND thành phố K.
Thời gian: 02 ngày.
Tổng thời gian tổ chức thực hiện Phương án giải quyết: 42 ngày
VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Hiện nay, khiếu kiện về đất đai đang là vấn đề nổi cộm, bức xúc
trong xã hội, chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số đơn thư khiếu nại, tố cáo. Đó là

một thách thức lớn đối với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc giải
quyết dứt điểm, có hiệu quả vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc duy trì sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong cả nước và ở
từng địa phương. Trong thực tế, các khiếu kiện ngày càng tăng chứng tỏ
việc giải quyết những khiếu nại - tố cáo về đất đai, đặc biệt là vấn đề áp
dụng pháp luật, làm thế nào để tăng thêm niềm tin của nhân dân vào cơ
quan công quyền, giảm sự phiền hà cho họ khi gặp phải những vướng mắc
trong lĩnh vực đất đai.
Từ tình huống cụ thể nêu trên và thực tế việc tranh chấp, khiếu kiện
về đất đai đã và đang diễn ra trên nhiều địa phương nói chung và trên địa
bàn thành phố K, tỉnh KT nói riêng. Trong khuôn khổ của bài Tiểu luận,
tình huống đề cập tới chỉ là một trong những bất cập trong công tác quản lý
Nhà nước về đất đai của chính quyền các cấp. Thông qua việc phân tích
11


tình huống, đề xuất những phương án giải quyết, xin kiến nghị một số nội
dung sau:
1. Đối với cơ quan Trung ương (Quốc hội, Chính Phủ):
Cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về đất đai, trong đó
cần quy định cụ thể trong Luật Đất đai, hạn chế việc ban hành Nghị định,
Thông tư, Quyết định… để điều chỉnh, hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.
Chính việc ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh,
hướng dẫn đã gây không ít khó khăn trong quá trình thực hiện. Nhiều quy
định còn mang tính chung chung, do đó khi áp dụng, vận dụng vào trong
thực tế để xử lý vụ việc còn gặp nhiều lúng túng.
2. Đối với UBND các cấp:
- Tập trung giải quyết số đơn thư khiếu nại, tranh chấp về đất đai,
hạn chế phát sinh đơn mới. Muốn vậy, phải phát huy hiệu quả của công tác
hòa giải ngay tại cơ sở.

- Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, thanh
tra về quản lý, sử dụng đất đai, phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những yếu
kém, sai phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm . Nâng cao chất
lượng, hiệu quả giải quyết tranh chấp, khiếu kiện của nhân dân liên quan
đến đất đai. Đồng thời đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
trách nhiệm giải quyết tranh chấp, khiếu kiện của các cơ quan có thẩm
quyền.
- Thực hiện tốt công tác tiếp dân, đối thoại với công dân để khi giải
quyết đảm bảo chính xác, khách quan có tình, có lý và có tính thuyết phục
cao. Nắm chắc tình hình tranh chấp, khiếu kiện trong phạm vi quản lý của
ngành, địa phương mình để kịp thời giải quyết, nhất là những vụ khiếu kiện
đông người; việc giải quyết phải được thực hiện ngay từ cơ sở, hạn chế
khiếu nại vượt cấp; không để vụ việc diễn biến phức tạp trở thành khiếu
kiện đông người.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao
nhận thức, hiểu biết về pháp luật cho công dân để họ thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo đúng quy định của pháp luật nhằm góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
xã hội ở địa phương.
- Thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp, đồng thời chú trọng hơn đến công tác rèn luyện
phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất
đai và giải quyết tranh chấp, khiếu kiện về đất đai./.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Đất đai năm 1993;
2. Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ, ban hành Bản

quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn
định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
3. Thông tư số 346/TT-TCĐC ngày 16/3/1998 của Tổng cục Địa
chính, hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
4. Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; các Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004 và năm 2005;

13


5. Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ, về
việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng;
6. Nghị định số 136/2004/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ,
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố
cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.
7. Luật Đất đai năm 2003;
8. Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ, về
thi hành Luật Đất đai năm 2003.
9. Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
10. Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ, quy
định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất,
thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;
11. Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ, quy
định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư.
12. Giáo trình Quản lý hành chính Nhà nước phần I, II và III.

13. Hồ sơ, tài liệu vụ việc khiếu nại.

MỤC LỤC

Lời nói đầu

Trang 1

I. Mô tả tình huống

Trang 3

II. Phân tích tình huống, nguyên nhân và hậu quả

Trang 4

III. Mục tiêu xử lý tình huống

Trang 6
14


IV. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án

Trang 6

V. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án giải quyết

Trang 8


VI. Kết luận và kiến nghị

Trang 10

Danh mục tài liệu tham khảo

Trang 12

15



×