Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Gián án Tiểu luận cuối khóa - Lớp QLNN hệ chuyên viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.89 KB, 21 trang )

Chúng tơi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo trường,
Phòng ào tĐ ạo, q thầy cơ giáo của trường Chính trị
Bình Dương đã giúp đỡ chúng tơi trong q trình học tập
tại trường, đồng thời đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện
thuận lợi cho chúng tơi thực hiện đề tài này.
Đặc biệt, chúng tơi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc tới q Thầy, Cơ chủ nhiệm lớp, q thầy
cô giáo trong nhà trường đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn,
chuyển tải những kiến thức, kinh nghiệm q báu và
động viên chúng tơi thực hiện và hồn thành đề tài này.
Trong khoảng thời gian hạn hẹp, đề tài khơng tránh
khỏi những thiếu sót, những hạn chế về cả nội dung lẫn
hình thức. Chúng tơi rất mong nhận được những góp ý của
q thầy cơ giáo, các bạn đồng nghiệp đối với đề tài.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thủ Dầu Một, ngày 8 tháng 3 n mă
2009.
Người thực hiện đề tài

Hồ Thị Kim Nhung
MỤC LỤC
Tiểu luận cuối khóa
Đề tài: "Xử lý tình huống vi phạm hành chính trong lĩnh vực hành nghề
mê tín dị đoan có ảnh hưởng, liên quan đến môi trường văn hoá, y tế trên địa bàn
Huyện Thuận An Tỉnh Bình Dương”.
A. MỞ ĐẦU:
Trong cuộc sống, khi gặp những khó khăn, phiền muộn nhưng chưa tìm ra
một lối thoát. Niềm hy vọng lúc này của nhiều người chính là sự tin tưởng vào một
thế lực siêu phàm nào đó để an ủi bản thân. Người ta gọi là sự tín ngưỡng. Vì vậy
có thể nói tín ngưỡng chính là niềm tin, sự tin tưỡng vào một đấng siêu nhiên nhất
định nào đó.


Còn tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn
năm nay. Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến
đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập
quán của nhiều dân tộc, quốc gia.
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí địa
lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong
mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập
các luồng văn hoá, các tôn giáo trên thế giới.
Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Mỗi
dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo
riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân gian như thờ cúng
ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có công với cộng đồng, dân tộc,
thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đồng
bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng nguyên thuỷ ( còn gọi là tín
ngưỡng sơ khai ) như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo.
Tín ngưỡng dân gian: Với quan niệm cho rằng bất cứ vật gì cũng có linh
hồn, nên người xưa đã thờ rất nhiều thần linh, đặc biệt là những sự vật có liên quan
đến nông nghiệp như trời, trăng, đất, rừng, sông, núi… để được phù hộ. Đối với
các dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc có hình thái tín ngưỡng riêng của mình. Tuy
nhiên, đặc trưng nhất là các hình thái tín ngưỡng nguyên thủy và tín ngưỡng dân
gian ngày nay còn lưu giữ được trong các nhóm dân tộc như nhóm Tày - Thái,
nhóm Hmông - Dao; nhóm Hoa - Sán Dìu - Ngái; nhóm Chăm - Ê đê - Gia Rai;
nhóm Môn - Khơ me.
Bên cạnh đó, một phong tục, tập quán lâu đời phổ biến nhất của người Việt
và một số dân tộc thiểu số khác là việc thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ những người
đã mất. Ở các gia đình người Việt, nhà nào cũng có bàn thờ tổ tiên và việc cúng
giỗ, ghi nhớ công ơn của các bậc tiền nhân rất được coi trọng. Bên cạnh việc cúng
giỗ tổ tiên ở từng gia đình, dòng họ, nhiều làng ở Việt Nam có đình thờ Thành
hoàng. Tục thờ Thành hoàng và ngôi đình làng là đặc điểm độc đáo của làng quê
Việt Nam. Thần Thành hoàng được thờ trong các đình làng có thể là các vị thần

linh hoặc là những nhân vật kiệt xuất có nhiều công lao to lớn như những ông tổ
làng nghề hoặc anh hùng dân tộc có công "khai công lập quốc", chống giặc ngoại
xâm. Ngoài ra, người Việt còn thờ các dạng thần như thần bếp, thần thổ công…
Ở Việt Nam có mặt hầu hết các tôn giáo lớn với đông đảo tín đồ, chức sắc,
nhà tu hành của Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo hay một số tôn giáo bản
địa như Cao Đài, Hòa Hảo.
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân
cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự, được bảo vệ bằng pháp luật và được cụ thể
hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ cao hơn, hoàn
thiện hơn. Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19/4/1999 về
các hoạt động tôn giáo đã được thay thế bằng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo do
Ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá XI thông qua ngày 18/6/2004 và Chủ tịch nước
ký Lệnh công bố ngày 29/6/2004.
Quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của công dân Việt Nam
cũng được quy định trong Hiến pháp và được bảo đảm trên thực tế. Hiến pháp năm
1992 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 70 ghi rõ: " Công dân
có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; các
tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn
giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo
hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước".
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân được cụ thể hóa trong nhiều
văn bản pháp quy khác. Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo có hiệu lực từ
15/11/2004, đã thể chế hóa đường lối, chủ trương chính sách về tín ngưỡng, tôn
giáo của Nhà nước Việt Nam, bảo đảm cho công dân thực hiện quyền về tự do tín
ngưỡng, tôn giáo. Mọi công dân - không phân biệt có hoặc không có tín ngưỡng,
tôn giáo - đều bình đẳng trước pháp luật; có quyền theo hoặc không theo một tôn
giáo nào; được bày tỏ đức tin tôn giáo của mình; được thực hành các nghi thức thờ
cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt phục vụ lễ nghi tôn giáo,
học tập giáo lý, đạo đức tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo đều bình đẳng trước pháp

luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; bảo hộ cơ sở vật chất,
tài sản của cơ sở tín ngưỡng tôn giáo như chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất,
điện, đền, trụ sở của tổ chức tôn giáo, trường lớp tôn giáo, kinh bổn và các đồ dùng
thờ cúng của tín ngưỡng, tôn giáo. Ngày 01/3/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị
định 22/2005/NĐ.CP hướng dẫn một số điều trong Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn
giáo. Đối với đạo Tin lành, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị 01/2005/CT-TTg
ngày 4/2/2005 về một số công tác đối với đạo Tin lành nhằm tạo điều kiện cho
hoạt động của các tín đồ, chức sắc đạo Tin lành.
Tham gia vào các sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam có khoảng 20 triệu người,
gần 62.500 chức sắc, nhà tu hành và 22.354 cơ sở thờ tự tôn giáo; các cơ sở đào
tạo tôn giáo được mở rộng. Hiện nay, tại Việt Nam có 10 trường Đại học Tôn giáo,
3 Học viện Phật giáo, 6 Đại Chủng viện Thiên chúa giáo, 1 Viện Thánh kinh thần
học của Tổng liên hội Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, 40 trường đào tạo các giáo
chức tôn giáo ở các cấp độ khác nhau, các ấn phẩm tôn giáo, nhất là kinh sách
được xuất bản theo yêu cầu của các tôn giáo.
Tín đồ tôn giáo hoàn toàn tự do trong việc thực hiện các nghi lễ tôn giáo,
bày tỏ và thực hành đức tin tôn giáo của mình. Chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo
được tự do trong việc thực hành các hoạt động tôn giáo theo giáo luật. Việc phong
chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc được thực hiện theo quy định của giáo
hội. Các tổ chức tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân trong những năm
qua đều có sự phát triển về số lượng cơ sở giáo hội, về tín đồ, chức sắc nhà tu
hành, về việc xây dựng mới hoặc tu bổ các cơ sở thờ tự, bảo đảm kinh sách, các
hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ và giáo lý, giáo luật. Các chức sắc,
nhà tu hành được tham gia học tập, đào tạo ở trong nước và nước ngoài hoặc tham
gia các sinh hoạt tôn giáo ở nước ngoài. Nhiều tổ chức tôn giáo nước ngoài đã vào
giao lưu với các tổ chức tôn giáo Việt Nam.
Những sinh hoạt tôn giáo tập trung, các nghi lễ tập thể có tính bắt buộc của
giáo luật các tôn giáo được tôn trọng. Một số lễ hội của các tôn giáo được tổ chức
rầm rộ với quy mô lớn như Lễ hội Nô - en, Lễ Phật Đản, Lễ hội Chùa Bà…trở
thành sự kiện quan trọng không chỉ của riêng đồng bào tôn giáo mà còn là ngày

hội chung của toàn dân, lôi cuốn hàng vạn người tham gia.
Đồng thời chúng ta biết rằng ngày nay, khoa học ngày càng phát triển hướng
con người đến lối sống tiện nghi, văn minh, hiện đại. Bên cạnh những tư tưởng
tiến bộ về tôn giáo, tín ngưỡng, thì một bộ phận nhân dân vẫn còn mang tư tưởng
lạc hậu, mê tín dị đoan. Do nhận thức kém, nhiều bệnh nhân vẫn tin vào phép màu
của trò chữa bệnh đồng bóng, bằng bùa chú, lấy “vong” hay lên đồng.
Lợi dụng sự thiếu hiểu biết khoa học của một bộ phận người dân, một số
người đã thực hiện hành vi dụ dỗ trị bệnh bằng mê tín nhằm trục lợi bất chính.
Thời gian gần đây, nhiều người trên địa bàn một số phường, xã thuộc thị xã
Thủ Dầu Một đã trở thành nạn nhân của “thầy” cốt H. (tức bà Phạm Thị B.) thuộc
ấp Bình Phước A, xã Bình Chuẩn, huyện Thuận An. Hậu quả là “tiền mất tật
mang” và kèm theo nhiều hệ lụy khác!
Trước sự “báo động” các thực trạng hoạt động dịch vụ tín ngưỡng và mê tín
dị đoan luôn diễn biến phức tạp. Là một người làm công tác có liên quan đến nền
văn hóa, tôn giáo và tự do tín ngưỡng tôi quan tâm và chọn đề tài: “Xử lý tình
huống vi phạm hành chính trong lĩnh vực hành nghề mê tín dị đoan có ảnh
hưởng, liên quan đến môi trường văn hoá, y tế trên địa bàn Huyện Thuận An
Tỉnh Bình Dương” để làm đề tài cuối khóa “Lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước ngạch chuyên viên khoá 32 năm 2009.
B. NỘI DUNG
I/- MÔ TẢ TÌNH HUỐNG:
Theo địa chỉ được cung cấp, chúng tôi tìm đến “tư dinh” thầy cốt H. Đó là
một ngôi nhà lớn được xây dựng khang trang trong một diện tích đất tương đối
rộng. Xung quanh, phía trước nhà có rất nhiều chum chậu trồng bonsai, hoa cảnh...
Một khoảng sân rộng dành để xe cho bệnh nhân. 16 giờ 30 phút một ngày cuối
tháng 12 năm 2008, chúng tôi tìm đến địa chỉ theo phản ánh của người dân. Bà B.
tiếp chúng tôi bằng ánh mắt đề phòng. Khi được biết qua giới thiệu từ một số bệnh
nhân “ruột”, chúng tôi tìm đến đây chữa bệnh, “thầy” bớt vẻ hoài nghi và bảo
chúng tôi ngồi chờ đến giờ làm việc. “Thầy” cho biết cô H. chỉ chữa bệnh vào ban
đêm, sau 19 giờ vì giờ này cô H. mới chịu “nhập”.

19 giờ 5 phút, chúng tôi được mời vào một không gian có ánh sáng mờ ảo.
Phòng khám, chữa bệnh của thầy được bố trí tại phòng khách với rất nhiều trang
thờ. Tại đây, nhiều bệnh nhân bị cuốn vào thế giới tâm linh trong bầu không khí
nghi ngút khói nhang. Trên trang thờ chủ nhân trưng bày hình, tượng các vị quan
âm bồ tát, thánh thần, các bà trợ mạng... Bên dưới là một bàn thờ nhỏ với các lư
đồng, bát nhang khói tỏa nghi ngút. Tại đây, thầy sắp xếp trái cây, đường sữa hay
quà biếu của bệnh nhân. Các bệnh nhân và thầy đều ngồi chung một tấm phản gỗ
mát rượi, trao đổi với nhau một cách hòa nhã trước giờ cô H. “nhập”. Khi mọi
người đã ổn định chỗ ngồi, “thầy” đến bên bàn thờ thắp hương cúng vái, châm mồi
và hít vài hơi thuốc rồi đặt ngược điếu thuốc lên đĩa. Thầy vừa lẩm bẩm vừa xốc
những đồng xu kim loại sau đó trở về phản ngồi đồng thời đưa ánh mắt đề phòng
nhìn các bệnh nhân mới. Tiếp đó, thầy nấc lên một vài tiếng... thế là cô H. đã về,
giọng của thầy cũng đổi thành tiếng trẻ con trong trẻo. Ánh đèn trong phòng không
sáng nhưng cũng đủ cho mọi người quan sát gương mặt “mơ màng” của “cô H.”.
Cô hỏi tuổi tác và tình trạng bệnh tật của một bệnh nhân nữ mới khám lần đầu tiên.
Người này khai đau nhức trong người, khó thở... Cô H. lấy thẻ bài cạo gió, phun
nước vào người nữ rồi phán “có một “vong” theo ám hại cô rồi. Vong này là của
một người bạn. Cô có người bạn nào ghét mình không? Khai thật đi?”. Cô gái sợ
hãi thưa “hình như có”. Cô H. bèn phun nước khắp người bệnh nhân rồi đi lấy một
ly nước kỳ lạ (không biết là nước gì) cho bệnh nhân uống. Cô đọc tên và địa chỉ
nơi bán một loại thuốc. Tại sao lại mua đúng tiệm thầy chỉ mới có?
Sau 15 phút nhập nhằng giọng giả và thật, cô H. đi mất, trước khi đi cô còn
chào bệnh nhân “Thôi! H. đi nhé”. Cô H. đã đi rồi, thầy lại trở về giọng thật của
một phụ nữ tuổi gần sáu mươi. Trước đó, nhiều trường hợp được cô H. làm phù
phép rất rợn người. Có nạn nhân được cô cột chỉ vào chân, có người được cô lấy
các cây đinh, móc câu, chất bầy nhầy... từ chỗ đau ra khỏi cơ thể. Cô bảo đây là
vật mà người ta yếm vào cơ thể của bệnh nhân. Nếu không lấy ra thì bệnh không
khỏi được. Những bệnh nhân mê muội ngoan ngoãn gật đầu và làm theo chỉ dẫn
của thầy.
Được biết, cô H. chính là con gái của bà B. Cô mất khi mới được vài tháng

tuổi. Hàng ngày cô nhập vào mẹ và thực hiện nghĩa vụ khám, chữa bệnh cho mọi
người mà không đòi hỏi gì. Thực tế là nhiều bệnh nhân tự nguyện biếu tiền và
dâng lễ cúng... Chi phí cho mỗi lần cúng bái như vậy từ vài trăm ngàn đến một
triệu đồng. Thầy bảo đây là chi phí xăng xe vì phải đi xa.
Một thực tế dễ nhận thấy là phương pháp chữa bệnh của bà B. không chỉ
không có căn cứ khoa học mà còn rất nguy hiểm cho bệnh nhân. Mỗi bệnh nhân
đến đều được chữa trị bằng cách thức kỳ lạ (phun nước, uống nước bùa, lấy móc
câu, đinh...) từ chỗ đau của bệnh nhân. Đáng ngại nhất là bà B. thường dùng một
vật nhọn (không rõ là thứ gì) chích lấy máu tại chỗ đau của bệnh nhân cho vào một
mớ giấy nhàu nát (bà gọi là bùa). Ai bảo đảm rằng vật nhọn này đã được bà xử lý
tiệt trùng hay thay mới đối với từng bệnh nhân? Sẽ ra sao nếu những bệnh nhân
mắc phải những căn bệnh truyền nhiễm? Bà B. tự nhận mình không biết chữ vậy
hiểu biết của bà về việc lây truyền các căn bệnh truyền nhiễm tới đâu? Hầu hết các
bệnh nhân đã không chú ý tới điều này. Thêm vào đó, các thứ nước, thuốc mà bà
B. chỉ định cho bệnh nhân uống có được kiểm nghiệm và được phép lưu hành.
Trong quá trình hoạt động mê tín dị đoan của bà B thường xãy ra tình trạng
mất an ninh trật tự, gây nhiều bức xúc cho người dân xung quanh. Ngày
15/5/2008.. thuộc ấp Bình Phước A, xã Bình Chuẩn, huyện Thuận An có đơn
khiếu nại phản ảnh về những biểu hiện thiếu lành mạnh tại cơ sở này như: hoạt
động mê tín dị đoan, bói toán đồng cốt; tụ tập đông người, làm mất an ninh trật tự

×